Tải bản đầy đủ (.docx) (32 trang)

Tiểu luận cái nghịch dị trong thế giới nghệ thuật của f kafka

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (271.13 KB, 32 trang )

Cái nghịch dị trong thế giới nghệ thuật của Franz Kafka

Franz Kafka( 1883-1924)

1


Cái nghịch dị trong thế giới nghệ thuật của Franz Kafka

A- MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Nghiên cứu về Franz Kafka không còn là một cái gì quá mới mẻ với chúng ta. Có thể liệt kê
ra đây những bài viết lớn nhỏ như:

- Tính chất mê cung trong tác phẩm của Kafka do Ths Lê Tử Hiển, Lê Minh Kha viết đăng trên
-

báo NCVH và Tạp chí của viện nghiên văn học số 2/2009.
Không gian nghệ thuật trong sáng tác của Kafka do Ths Lê Văn Mẫu viết trên tạp chí Viện văn
học Việt Nam số 6/2009.
Kafka với cuộc chiến chống phi lí- Nguyễn Văn Dân, Tạp chí văn học nước ngoài.
Đặc biệt là các tiểu luận, luận văn, luận án, các cuốn sách chuyên luận... Các bài viết, các
công trình nghiên cứu này phần nào đã đi sâu tìm hiểu những vấn đề cơ bản về phong cách và
nghệ thuật trên một số phương diệ như: kết cấu không gian, tính trí tuệ, lối văn bất động,khuynh
hương hiện thực huyễn ảo, mạc văn theo dong ý thức... hầu hết mới chỉ tập trung đi vào những
khía cạnh nhỏ trên phương diện cáu trúc học và thi pháp họ. Qua nghiên cứu khảo sát chúng tôi
nhận thấy cái nghịch dị - một yếu tố có ở hầu khắp các sáng tác của F. Kafka chưa được nghiên
cứu triệt để. Vì lẽ đó mà với công trình này chúng tôi muốn đi sâu vào tìm hiểu yếu tố nghịch dị
trong thế giới nghệ thuật của F. Kafka để chứng minh nó là vấn đề mang tính cốt lõi khi phân
tích bất cứ tác phẩm nào của nhà văn này.


2. Lịch sử vấn đề
F. Kafka là một nhà văn phương Tây ở thế kỉ XX , với một cuộc đời ngắn ngủi và khi qua
đời tên tuổi và tác phẩm còn bị vùi dập nên chúng ta biết về ông quá ít. Ngay ở phương Tây giới
nghiên cứu cũng chưa khảo sát toàn vẹn hết về cuộc đời, sự nghiệp của F. Kafka thì với phương
Đông, cụ thể là ở Việt Nam lại càng ít ỏi.
Từ những năm 60 của thế kỉ XX, F. Kafka đã được biết tới ở Việt Nam qua tác phẩm
dịch: Nữ ca sĩ giô- giê- phin hay chuyện cổ về loài chuột. Cũng trong thời điểm này, ta biết đến
các bài dịch thuật của Trần Thiên Đạo và công trình nghiên cứu của Hoàng Trinh: Phương Tây
văn học và con người.

2


Cái nghịch dị trong thế giới nghệ thuật của Franz Kafka
Đến năm 1990, PGS.TS Đặng Anh Đào phất cờ lệnh đưa F. Kafka vào chương trình giảng dạy
bậc đại học cùng với đó là những bài nghiên cứu của bà về toàn bộ cuộc đời và sự nghiệp của F.
Kafka. Bài viết được phát triển thành tiểu luận khá đầy đủ về tiểu sử của nhà văn này với những
dấu ấn tạo nên phong cách mới lạ của nhà văn này trên cơ sở phân tích những tác phẩm tiêu biểu
như: Biến dạng, Lâu dài, Vụ án.
Tiếp theo đó, là các nhà nghiên cứu và dịch thuật có tên tuổi như Phùng Văn Tửu ( dịch
Vụ án từ tiếng Pháp), Trương Đăng Dung( dịch Lâu đài từ tiếng Hung-ga-ri) và Nguyễn Văn
Dân dịch các truyện ngắn từ tiếng Pháp. Chính bởi thế F. Kafka càng thâm nhập sâu vào đời sống
văn học Việt Nam.
Năm 1999, cuốn giáo trình văn học Phương Tây chính thức dành cho hệ đại học đã được xuất
bản và dành cho F. Kafka một vị trí xứng đáng trong những trang viết về những nhà văn thế kỉ
XX. Tính đến nay đã có 2 luận văn thạc sĩ và hơn mười khóa luận tốt nghiệp của sinh viên các
trường đại học viết về F. Kafka.
Từ những năm 2000 trở lại có nhiều tác phảm bài viết công trình nghiên cứu, chuyên
luận, tiểu luận...về F. Kafka phổ biến trên các tạp chí các báo mạng như:


- Tính chất mê cung trong tiểu thuyết của F. Kafka do Ths Lê Từ Hiển, Lê Minh Kha đăng trên
-

Tạp chí nghiên cứu văn nghệ đồng thời được đăng trên wed của Viện văn học Việt Nam.
Nghệ thuật với cuộc chiến chống phi lí của Nguyễn Văn Dân- tạp chí văn học nước ngoài.
Nghệ thuật Phran- kap-ka, Nxb Giáo dục, H, 2006.
Về sáng tác của Franz Kafka, Nguyễn Văn Thảo dịch.
Năm 2003, Trung tâm văn hóa ngôn ngữ Đông- Tây đã phối hợp cùng các nhà nghiên cứ
dịch thuật để viết nên cuốn sách Franz Kafka tuyển tập tác phẩm. Đây là công trình tổng kết quá
trình nghiên cứu và dịch thuật Franz Kafka ở Việt Nam. Chính vì thế nhà văn Tiệp Khắc này dần
trở nên quen thuộc với đời sống văn học ở Việt Nam nhưng không thể phủ nhận rằng xoay quanh
tác giả này vẫn còn nhiều bí ẩn chửa giải mã hết.
3. Đối tượng nghiên cứu

-

Với công trình này, chúng tôi đi vào tìm hiểu cái nghịch dị trong sáng tác của F. Kafka:
Nghịch dị trong xây dựng hình tượng nhân vật.
Nghịch dị trong không gian nghệ thuật.
Nghịch dị trong thời gian nghệ thuật.
Nghịch dị gắn với đời thường, đời văn, tương lai.

3


Cái nghịch dị trong thế giới nghệ thuật của Franz Kafka
4. Phạm vi nghiên cứu
Đề tài này tập trung nghiên cứu theo phạm vi sau:

- Cái nghịch dị trong tất cả các sáng tác của F. Kafka

- Tập trung cao độ vào cái nghịch dị trong 3 tiểu thuyết: Biến dạng, Lâu đài, Vụ án và một số
-

truyện ngắn như: Một thầy thuốc nông thôn, Trước cửa pháp luật, Hang ổ...
Khảo sát cái nghịch dị trong mối tương quan với cuộc đời nhà văn và cuộc sống đời thường.
5. Phương pháp nghiên cứu

- Phương pháp phân loại và hệ thống hóa: giúp chúng tôi tìm ra cái phổ quát của cái nghịch dị
-

trong các tác phẩm của F. Kafka.
Phương pháp liên nghành: liên ngành lí luận và văn học, liên nghành ngôn ngữ và văn học.
Phương pháp phân tích- tổng hợp: giúp chúng tôi trong việc phân tích tác phẩm của F. Kafka để
thấy rõ được cái nghịch dị và vai trò của nó trong việc khẳng định phong cánh nhà văn.
6. Đóng góp của đề tài
Đây có thể coi là một trong những bài nghiên cứu đầu tiên sâu sắc và toàn diện về cái nghịch dị
trong thế giới nghệ thuật của F. Kafka. Đồng thời cũng tạo ra cái nhìn mới về cách tiếp cận một
tác phẩm của nhà văn này.
7. Kết cấu đề tài
A. MỞ ĐẦU
B. NỘI DUNG
CHƯƠNG 1: NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG
1.1 Tác giả Franz Kafka
1.2 Một vài nét về cái nghịch dị
CHƯƠNG 2: NGHỊCH DỊ TRONG XÂY DỰNG HÌNH TƯỢNG NHÂN VẬT
2.1 Hình tượng nhân vật trung tâm
2.2 Hình tượng nhân vật vắng mặt
CHƯƠNG 3: NGHỊCH DỊ TRONG KHÔNG GIAN VÀ THỜI GIAN NGHỆ
THUẬT
3.1 Nghịch dị trong không gian nghệ thuật

3.1.1 Không gian mê lộ
3.1.2 Không gian tù đọng, khó thở
3.2 Nghịch dị trong thời gian nghệ thuật
CHƯƠNG 4: NGHỊCH DỊ GẮN VỚI ĐỜI VĂN VÀ ĐỜI THƯỜNG
4.1 Nghịch dị gắn với cuộc đời F. Kafka
4.2 Nghịch dị gắn với cái đời thường

4


Cái nghịch dị trong thế giới nghệ thuật của Franz Kafka
4.3 Nghịch dị gắn với hiện thực trong tương lai
C. KẾT LUẬN
TÀI LIỆU THAM KHẢO

B. NỘI DUNG
CHƯƠNG 1
NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG

1.1 Tác giả Franz Kafka
Franz Kafka (1883 – 1924) xuất thân trong một gia đình tư sản tại Praha. Ông là nhà văn
Tiệp Khắc gốc Do Thái và sáng tác bằng tiếng Đức, vì thế ông mang trong mình một nền văn
hóa đa bản sắc.
Kafka lấy bằng tiến sĩ luật năm 23 tuổi. Sau đó ông làm việc tại Hãng bảo hiểm tai nạn công
nhân ở Praha và bắt đầu viết văn lúc rảnh rỗi. Từ đó ta thấy rằng Franz Kafka không sống bằng
nghề cầm bút mà ông viết văn như là cầu nguyện, ông nói với bạn: “Đối với tôi, viết như là hình
thức cầu nguyện”. Nhà văn Kafka cũng đã từng viết “Tôi chỉ là nhà văn, tôi không thể và cũng
không muốn trở thành người khác, tất cả đều làm tôi chán, tôi chán tất cả những gì không phải là
văn học” (Nhật kí, ngày 21 - 8 - 1913).
Mặc dù cuộc đời ngắn ngủi và sáng tác ít ỏi nhưng F. Kafka lại có tầm ảnh hưởng mang

tính thế giới, mang tầm thời đại. Trong giới phê bình văn học thế giới, các nhà phê bình không
thể xếp ông vào một trào lưu nào mà nhiề trường phái đều coi ông là ông tổ của trường phái
mình.Bởi vì chính F.kafka đã tạo cho mình một trường phái riêng-trường phái kiểu kafka với một
phong cách độc đáo không dễ bắt chước.Với các nhà văn,sự xuất hiện của F.kafka khiến họ
không thể cho phép mình viết theo lối cũ đực nữa mà buộc phải xúc tiến nhanh hơn yêu cầu đổi
mới văn học.buộc họ phải làm một cuộc “cách mạng nghệ thuật” để làm phong phú thêm hệ

5


Cái nghịch dị trong thế giới nghệ thuật của Franz Kafka
thông các phương tiện tạo hinh như:dòng ý thức,độc thọa nội tâm,sự lắp ghép các liên tưởng ,sự
tương giao của kí ức…nhằm thể hiện một cách sâu sắc đa dạng hơn mối quan hệ giữa con người
với xã hội và quá trình lịch sử nhưng đó là sự thể hiện mang tính tuần hoàn vô nghĩa của kinh
nghiệm sống,tình trạng tâm thần phân lập phổ biến như một quy luât tồn tại và sự bất lực của cá
nhân trong việc đối lập với số phận của mình.
Với bốn cuốn tiểu thuyết: Châu Mĩ (1912), Vụ án (1914), Biến dạng (1915), Lâu đài (1920),
cùng với một số truyện ngắn, Kafka đã làm một cuộc cách tân to lớn trong nghệ thuật văn xuôi.
“Ông trở thành một trong những cây cột trụ vững chãi làm cơ sở cho nền văn học phương Tây
hiện đại phát triển, và hơn thế nữa, nhiều nhà văn trên thế giới cho đến nay vẫn còn lấy Kafka
làm hình mẫu sáng tác, trong đó có cả nhà văn Việt Nam.” (Nguyễn Văn Dân)

1.2 Một vài nét về cái nghịch dị
“Chủ nghĩa hiện đại là một trào lưu triết học- mĩ học trong triết học văn nghệ thế kỉ XX,phản
ánh sự khủng hoảng của thế giới tư bản và hệ ý thức do nó tạo ra” (Từ điển thuật ngữ văn học,
Lê Bá Hán,Trần Đình Sử, Nguyễn khắc Phi, chủ biên,NXB Giáo dục 2009)
Thuật ngữ này dùng để chỉ chung các trường phái văn nghệ phương Tây hiện đại như
chủ nghĩa vị lai, chủ nghĩa tượng trưng, chủ nghĩa siêu thực, chủ nghĩa hiện sinh, tiểu thuyết
dòng ý thức, tiểu thuyết mới…
Cơ sở tư tưởng của chủ nghĩa hiện đại là triết học của Nit-sơ, Béc-xông, Hút-xen, học

thuyết Phrớt và chủ nghĩa hiện sinh của Hai-dê-gô. Tất cả những chủ nghĩa và học thuyết này
đều lấy những giải thích khác nhau theo lối chủ quan chủ nghĩa để đối lập với chủ nghĩa duy lí
của tư duy tư sản trong việc nhận thức thực tại. Điều này gắn liền với sự phát hiện những bất cập
của chủ nghĩa duy lí truyền thống đối với nhận thức đời sống con người.
Sang đầu thế kỉ XX với những phát minh khoa học hiện đại đã tác động to lớn tới cảm
thức nhà văn. Cho nên,buộc các nhà văn phải nhìn hiện thực bằng con mắt hiện đại.
Nhắc tới chủ nghĩa hiện đại là phải nhắc tới những phát minh mới xét về mặt kĩ thuật viết
. Chính kĩ thuật là niềm đam mê lớn nhất của các nhà văn hiện đại. Đặc biệt là trong việc xây
dựng cấu trúc tác phẩm.
Một trong những nhà văn đặt nền móng cho chủ nghĩa hiện đại trong văn học là Franz
Kafka.

6


Cái nghịch dị trong thế giới nghệ thuật của Franz Kafka
F.kafka là một ngôi sao sáng nhất trên bầu trời văn học thế kỉ XX, ông đã khiến văn đàn
thế giới phải chuyển mình tích cực. Ông có thể được xem như một “cơn động đất” cực mạnh
khiến cho chủ nghĩa hiện đại có khả năng khuyếch tán rộng khắp tới mọi nền văn học.
Trong số tất cả những sáng tạo mang tính nguyên tắc của các nhà hiện đại chủ nghĩa thì
cái nghịch dị được xem là ưu tiên số 1. Và chính F. Kafka là người tiên phong sáng tạo ra “ cái
nghịch di”. Cùng với những phá cách về phương thức tự sự và cấu trúc tự sự, giọng điệu, điểm
nhìn về thế giới và con người, phạm vi chủ đề, cách xây dựng hình tượng và chiếm lĩnh hiện
thực…, yếu tố ngịch dị đi trong tác phẩm của Kafka bằng một hình dạng khác thường, kì lạ,
nhiều màu sắc đã đẩy vết đứt gãy của “ cơn động đất”- Kafka nên sắc nhọn hơn và cũng vọng lại
sâu sắc hơn thanh âm muôn thuở của văn chương phương Tây.
Cái nghịch dị trong sáng tác của Kafka nó nhẹ nhàng chồi lên khỏi câu chữ nhưng nó
không nằm yên tại đó mà nó va đập với thế giới và khủng khiếp hơn nó va đập vào chính nội tâm
nhân vật. Yếu tố ngịch dị trong tác phẩm của F. Kafka vừa cái vỏ bọc để vừa chứa đựng, vừa bộc
lộ một cách cụ thể thế giới tinh thần, thế giới bên trong và đồng thời ngay bản thân nó cũng là

một thế giới trừu tượng mang cơn dư chấn.
Theo Từ điển Văn học, khái niệm “ nghịch dị” ( grotesque) cũng có cách dịch khác là thô
kệch hoặc kỳ quặc. Thuật ngữ chỉ một kiểu hình thức tổ chức nghệ thuật ( hình tượng, phong
cách, thể loại) dựa và huyễn tưởng, vào tính trào phúng, tính ngụ ngôn, ngụ ý, vào sự kết hợp và
tương phản một cách kỳ quặc cái huyền hoặc và cái xấu, cái bi và cái hài, cái giống thực và cái
biếm họa” ( trang 1053, từ điển văn học- bộ mới. Đỗ Đức Hiếu, Nguyễn Huệ Chi, Phùng Văn
Tửu, Trần Hữu Tá chủ biên, NXB Thế giới, 2004).
Yếu tố nghịch dị đã xuất hiện và gắn liền với đời sống văn học từ trong thần thoại, biểu
hiện quan niệm duy vật tự phát của dân gian về tồn tại và phát triển lên đến đỉnh cao với nghệ
thuật thời Phục Hưng và mang tính “ lưỡng trị”. Đến thế kỉ XX, yếu tố nghệ thuật này có những
sự biến đổi để vừa vặn với kích cớ chiếc áo của thời đại. Xu thế của kiểu nghịch dị này là sự biến
hóa đột ngột từ thế giới quen thuộc “ của ta” thành thế giới xa lạ và thù nghịch do “nó” cai quản.
“ Nó” là một thế lực phi nhân và không thể hiểu được, một “tinh thần tất yếu” tuyệt đối biến con
người thành con rối, nghịch dị thấm nhuần “ nỗi sợ sống”, thấm nhuần ý thức về tính phi lý của
tồn tại”( trang 1054, từ điển Văn học (bộ mới), Đỗ Đức Hiếu, Nguyễn Huệ Chi, Phùng Văn Tửu,
Trần Hữu Tá chủ biên, NXB Thế giới, 2004).

7


Cái nghịch dị trong thế giới nghệ thuật của Franz Kafka
Như vậy, cùng với sự biến đổi và phát triển, yếu tố nghịch dị đến thế kỉ XX đã hiện hữu
trong văn học như là sự biểu thị cho cái phi lý, trái ngược với cái thông thường. Đó không phải là
cái huyễn ảo giả tưởng được đặt ra như một sự giả định hiện thực. Nghịch dị dịch chuyển giữa
cái thực và cái phi lý. Nó là cái phi lý của hiện thực có thực. Như vậy, có thể hiểu, yếu tố nghịch
dị là yếu tố tạo nên hình tượng trái với thông thường, ở dạng thức méo mó, lệch lạc so với thông
niệm.
Và trong sáng tác của F. kafka, yếu tố nghịch dị ám khói lên nhân vật, tạo tác cả một màn
sương mù có khi ủ uất, có khi huyễn hoặc, nhẹ nhàng nhưng bủa vây, tĩnh lặng và mờ ảo nhưng
luôn gào thét, cuồng nộ. Đi ra từ cuộc sống đời thường và từ cuộc đời tác giả, những nghịch dị

ấy vừa mang tính thời đại, vừa đi sâu vào bản thể con người, chạm đến những vấn đề muôn thưở
của cuộc sống.

CHƯƠNG 2
NGHỊCH DỊ TRONG XÂY DỰNG HÌNH TƯỢNG NHÂN VẬT

Cái nghịch dị trong các tác phẩm của Kafka để thể hiện rõ nét qua thế giới nghệ thuật- “
Đó là một thế giới riêng được sáng tạo ra theo các nguyên tắc tư tưởng… có không gian riêng,
thời gian riêng, có quy luật tâm lý riêng, có quan hệ xã hội riêng, quan niện đạo đức, thang bậc
giá trị riêng…chỉ xuất hiện một cách ước lệ trong sáng tác nghệ thuật”(trang 302, từ điển thuật
ngữ văn học, NXB Giáo dục- Lê Bá Hán, Trần Đình Sử - Nguyễn khắc Phi chủ biên, 2009).
Thế giới nghệ thuật trong sáng tác của Kafka là một hiện tượng độc đáo nhất trong văn
học thế giới thế kỉ XX. Qua thế giới đó, Kafka đã cảm nhận được sâu sắc về tình trạng tồn tại
của con người và thể hiện bản chất của thời đại mình một cách độc đáo mở ra những khả năng
mới cho tiểu thuyết hiện đại.

8


Cái nghịch dị trong thế giới nghệ thuật của Franz Kafka
Chỉ với 3 tiểu thuyết và hơn 20 truyện ngắn, F.Kafka đã vẽ lên một thế giới nghệ thuật thế giới của những nghịch dị, thế giới của Kafka.
2.1 Hình tượng nhân vật trung tâm
F.kafka xây dựng nên những hình tượng nhân vật chứa đựng những ám ảnh về thân phận
con người cô đơn, lạc loài phải sống kiếp lưu đày ngay trong không gian sống của mình.Số phận
nhân vật chứa đựng những cái phi lý, cái không thể giải quyết bằng lý trí nhưng khi đi sâu vào ta
vẫn thấy le lói cái hợp lý của nó.
Trong tiểu thuyết “ Biến dạng”, Gregor Samsa- nhân vật của truyện - vốn là một nhân
viên chào hàng cần mẫn và nghiêm túc, là nơi nương tựa và niềm tự hào của gia đình... song một
sáng thức dậy, Samsa “ thấy mình đã biến thành một con côn trùng khổng lồ. Lưng anh rắn chắc
thể được bọc một lớp giáp sắt , anh nằm ngửa dợm nhấc đầu lên nhìn thấy bụng mình khum tròn,

nâu bóng phân chia thành nhiều đốt cong cứng đỏ, tấm chăn bông đắp trên bụng đã bị xô lệch,
gần tuột hẳn. Chân anh nhễu ra, mảnh khảnh đến thảm hại so với phần còn lại của thân hình to
đùng, vùng vẫy bất lực trước mắt anh”
Số phận nghịch dị của G.Samsa bắt đầu từ đây. Trong cái hình hài của một con bọ giữa
cuộc sống đời thường, người ta sẽ tự hỏi: làm sao có thể huyền hoặc như vậy? làm sao lại phi lý
như thế? Nhưng có như vậy mới là nghịch dị, mới là Kafka. Hiện tượng biến dạng của Samsa là
một sự biến dạng đặc biệt làm ta gợi nhớ sự biến dạng trong cổ tích thần kì- đó là chu kì trở về
nguồn gốc cũ: ngườivậtngười hoặc vậtngườivật nhưng cái làm cho tác phẩm của Kafka
khác so với truyện cổ tích là ở chỗ chu kỳ số phận con người là mới lạ: ngườivậtchết.
Đến các truyện dựa trên nền tảng cái phi lý vật hóa người của truyện ngụ ngôn như:
Hang ổ, Chó sói và người Ả rập, Nữ ca sĩ Giôđephin, F.Kafka đã tạo ra những sắc thái phi lí mới
trong mê lộ của ông. Nó không ở đâu xa mà ngay trong cuốc sống tự nó chi phối vận mệnh con
người, là đối tượng nhận thức - là không thể nhận thức. Nút mở là nhân vật suy nghĩ, tồn tại
trong phi lý và tính phi lý này dẫn đường cho toàn truyện . Mở đầu Hang ổ, con vật ở hang mà
sống thật bất an. Nó tạo ra một mê lộ tầng hầm mà không có một phút yên tâm. Trong mê lộ ấy
có một sự gắn kết vô hình giữa các con vật và tấn bi kịch kiếp người.
Có thể nói, yếu tố cơ bản làm nên sự khác biệt của cái nghịch dị trong tác phẩm Kafka so
với thần thoại, cổ tích, tôn giáo nằm ở sự phi thần thánh hóa thế giới. Đây là một hiện tượng
mang tính thời đại, Gắn với sự nhìn lại, đánh giá lại lịch sử và các huyền thoại nở rộ vào những

9


Cái nghịch dị trong thế giới nghệ thuật của Franz Kafka
năn đầu thế kỉ XX, đúng như lời miêu tả của Heidegger: “ Và như vậy, cuối cùng thượng đế đã ra
đi. Khoảng trống để lại được lấp đầy bằng sự thăm giò về mặt lịch sử và các tâm lý huyền thoại”
Cái nghịch dị trong thân phận của nhân vật trong tác phẩm của Kafka thường được trải
dài từ bản thể đến tha nhân. Cả Gregor Samsa ( Biến dạng), Joseph K. ( Vụ án) lẫn K. ( Lâu đài)
đến thiếu năng lực phản tư để tự nhận ra mình và hoàn cảnh xung quanh. Chút lóe sáng trong
nhận thức của Joseph K ở đoạn kết của Vụ án chỉ là ánh sao băng qua trời. Nhưng đấy là chớp

sáng cho mỗi người thức tỉnh và trầm tư trước mê lộ của cõi lòng mình.
Để làm nổi bật cái bản thể cô đơn, các nỗi bất an của nhân vật, Kafka thường đặt nhân
vậy của mình vào giữa đám đông. Hình ảnh đám đông trong tác phẩm của ông gắn liền với nguy
cơ tha hóa, gợi ý niệm về cái chết. Có nhứng đám đông cầm cờ, xuất hiện bên nghĩa trang ( Giấc
mơ), có những đám đông hát những lời ca nhạt nhẽo như một nghi lễ cúng tế, c ởi quần áo và đặt
viên thầy thuốc bất lực trên chiếc giường bệnh nhân (Một thầy thuốc nông thôn), có đám đông
chen chúc dọc theo các hành lang và phồng xử án nơi tầng áp mái ( Vụ án)… Trong cách nhìn
của Kafka “ Tha nhân là địa ngục”. Mối quan hệ giữa bản thể và tha nhân luôn trong tình trạng
mất liên lạc, không thấu hiểu, con người đã đánh mất sợi dây dẫn đường, khiến cái tôi không thể
nào kết giao, hòa nhập với cộng đồng, và dần dần họ tự thu mình vào những ốc đảo cô đơn. “
Con người cô đơn đi lang thang thang trong mê cung vắng ngắt của một thế giới nơi diễn ra
những sự mô phỏng lố bịch bang bổ của luật pháp”.
Khi biến thành con bọ, cứ tưởng đó sẽ là lúc G. Samsa cần sự an ủi nhất thì tất cả mọi
người đều chĩa cái nhìn như mũi nhọn về phía anh: Viên quản lý sợ hãi bỏ chạy, người mẹ bối rối
ngã qụy, người cha hung tợn giận dữ, G.Samsa bị ghẻ lạnh ngay chính tại ngôi nhà của mình, anh
phải sống những tháng ngày cô đơn trong bốn bức tường và bị đối xử như một con quái vật.
Mọi sự nỗ lực của Samsa nhằm làm cho mọi người hiểu mình, nhằm bày tỏ tình cảm của
mình vói người thân, chỉ càng đào sâu thêm hố ngăn cách: từ sự kinh hoàng, sợ hãi trước sự biến
dạng của anh, mọi người chuyển sang thái độ ân cần thương hại, rồi nhanh chóng trở nên thờ ơ
và cuối cùng hoàn toàn trở nên xa lạ. Không những thế họ còn xem anh như một vết nhơ, một
nỗi nhục nhã, một sự đe dọa đối với cuộc sống của mình. Cả gia đình tỏ ra nhẹ nhõm sung sướng
như trút được gánh nặng trước cái chết của con bọ- người Gregor Samsa
Chúng ta hãy chú ý đến chi tiết nói về sự nỗ lực của Samsa, vượt lên trên mọi nỗi đau của
thể xác, sự mắc cảm xấu hổ về hình hài của mình để lết đến bên cạnh cô em gái, tìm cách an ủi,
động viên cô khi cô chơi đàn, tâm sự với cô về những dự định tốt đẹp của anh dành cho cô…

10


Cái nghịch dị trong thế giới nghệ thuật của Franz Kafka

Song những tình cảm đẹp đẽ ấy của anh không những không ai cảm nhận được, không ai hiểu
được, mà hành động của anh còn là nguyên cớ làm bùng lên sự giận dữ của cả nhà, dẫn đến kết
cục anh phải chết. Rõ ràng, Samsa và gia đình đồng loạt đã là những con người hoàn toàn xa lạ.
Họ không cùng một “kênh” giao tiếp, họ thuộc về những thế giới khác nhau.
Cảm giác xa lạ của con người về thế giới còn được đẩy lên một mức cao hơn- sự xa lạ với
chính mình. Hình tượng đầy ẩn dụ-G.Samsa bị biến thành bọ, chính là biểu tượng bi đát về sự
tha hóa, lạ hóa con người. Không những không cắt nghĩa được thế giới mà ngay chính bản thân
mình, con người cũng không thể hiểu nổi. Cuộc sống sẽ đi về đâu khi ngay cả mình cũng không
còn là mình, không thể tự lý giải-mình là ai? Cái bản thể con người đặt trong khối hỗn độn giữa
thế giới và chính mình là nguồn gốc của trạng thái lo âu, bất an khiến nhân vật cứ đứng mãi
trước cánh cổng cách ngăn giữa mình và thế giới. Trong truyện ngắn “ Khởi hành” mục đích
chuyến đi của nhân vật “ tôi” chính là “ rời khỏi nơi đây”. Truyện ngắn “ Làng gần nhất” gắn liền
với ý niệm về cuộc đời ngắn ngủi đến lạ, về một cái đích không bao giờ tới, nơi” một kiếp sống
bình thường và trôi chảy cũng còn khó mà đủ cho cuộc lãm du ấy”. người nông dân tìm đến cửa
pháp luật, nhưng đến chết cũng không được vào (Trước cửa pháp luật). Trong toàn bộ truyện
ngắn, người nông dân-người yêu của anh ta chỉ được nghe nhắc tới loáng thoáng. Nhiều nhân vật
khác không có tên, hoặc nếu có tên thì hình ảnh nhân vật cũng mơ hồ chẳng kém. Và hầu như
chẳng nhân vật nào làm cái công việc của mình. Ta không thấy Joseph K. hiện ra với tư cách
nhân viên ngân hàng, các ông chánh phó giám đốc không được miêu tả ở cương vị của họ, luật
sư Hun không bào chữa cho bị cáo, họa sĩ Titoreli không vẽ tranh, hai tên đao phủ thực ra chẳng
phải vốn là đao phủ…Họ là ai? Họ làm gì? Họ hành động vì mục đích gì? Chỉ mãi là những câu
hỏi bỏ ngỏ. Cái nghịch dị trong thân phận con người chính là ở chỗ F. Kafka luôn dán cho nhân
vật những dấu hỏi lớn, mỗi nhân vật một dấu hỏi riêng như là một nhãn hiệu để phân biệt với các
nhân vật khác, nhưng cái độc đáo là không ai có thể trả lời được những câu hỏi ấy, ngay cả chính
tác giả.
Joseph K. chết vì lí do gì? Không ai biết, chỉ biết rằng anh vô tội. Vô tội mà phải chết,
chết mà không biết lí do vì sao mình phải chết đã đưa Joseph K. trở thành một nạn nhân của xã
hội tha hóa, với những mối nguy hiểm rình rập xung quanh, nó đến bất thình lình, giết người
cũng bất thình lình.
Joseph K. là nạn nhân của một xã hội bị tha hóa. Trong xã hội tư sản, không phải ai cũng

ý thức được điều này. Mọi người đã quá quen với tình trạng đó đến mức không còn cảm thấy

11


Cái nghịch dị trong thế giới nghệ thuật của Franz Kafka
nặng nề, cũng như họa sĩ Titoreli không cảm thấy chỗ ở của mình là ngột ngạt, và hai nhân viên
khu văn phòng kia thậm chí có thể bị ngất khi ra chỗ thoáng khí. Jôsep K. là người duy nhất cảm
nhận được sự thật, vì vậy anh trở thành một cá nhân cô đơn bị cả một xã hội bao vây và không
thể tồn tại. Thân phận con người được đẩy lên tới mức cao trước sự tồn tại của xã hội mà không
làm sao để thay đổi được. Cái nghịch dị ấy đeo bám con người và không bao giờ buông tha con
người. Và câu nói cuối cùng đầy ái oán của Joseph K. về số phận của mình: “ như một con chó!”
chính là sự phản kháng cuối cùng về cái nghịch dị bám riết lấy anh trong suốt một năm qua.
Trong cuộc sống tinh thần người phương Đông, với cái nhìn nhất thể về vũ trụ, với quan
niệm “ thiên nhiên tương đồng”, con người dù cô đơn vẫn còn có một điểm tựa tinh thần, đó
chính là thiên nhiên. Đến với thiên nhiên hòa mình trong đó, con người không chỉ tìm được sự
thảnh thơi trong tâm hồn, mà còn có cảm giác như được trở về với ngôi nhà thân yêu, đầy ấm
cúng của mình. Vì thế, khi muốn diễn tả sự cô đơn, các nhà thơ cổ phương Đông thường đặt con
người trong một không gian rộng lớn vô biên, xa lạ. Ở đó, họ không tìm thấy một hình ảnh gì
thân thuộc gần gũi với mình, con người như lạc vào một không gian, một thời gian nằm ngoài
dòng chảy cuộc đời. Bài thơ bất hủ của Trần Tử Ngang cũng phần nào nói lên điều ấy:
“ Tiền bất kiến cổ nhân
Hậu bất kiến lai giả
Niệm thiên địa chi du du
Độc thương nhiên nhi thế hạ ’’
(Đăng U Châu đài ca)
Như vậy, nếu như trong nghệ thuật phương Đông, nỗi cô đơn của con người thường được
tô đậm trong sự đối lập với không gian mênh mông xa lạ, thì trong sáng tác của F.Kafka cũng
như các nhà văn phương Tây sau này, con người cô đơn lạc lõng ngay trong những không gian
quen thuộc, gần gũi nhất. Con người xa lạ ngay giữa cuộc sống cộng đồng, xa lạ với người thân,

thậm chí với chính mình. Vì thế, dù hình ảnh con người cô đơn, lạc lõng vốn không phải là hình
ảnh hoàn toàn mới mẻ, lạ lẫm trong đời sống văn học. Song đến G.Kafka nó vẫn tiếp tục tạo nên
những xúc động lớn lao.

2.2 Hình tượng nhân vật vắng mặt

12


Cái nghịch dị trong thế giới nghệ thuật của Franz Kafka
Trong số những biệt tài khi sáng tạo nghệ thuật của Kafka, ta thấy nổi bật lên cái biệt tài
thể hiện cái vắng mặt. Đây được xem là một đặc sắc góp phần làm nên phong cách nhà văn.
Trong tác phẩm của Kafka ta luôn thấy có một nhân vật nào đó không xuất hiện nhưng lại có sức
mạnh, quyền lực không tưởng chi phối tới tiến trình của truyện và đặc biệt có sự tác động trực
tiếp và sâu sắc tới nhân vật trung tâm.
Ở Vụ án có thể thấy một nhân vật vắng mặt nhưng lại đóng vai trò là nhân vật trung tâm
trong tác phẩm đó là tòa án. Một tòa án không có địa điểm xác định, không nguyên tắc, không
luật pháp, gồm nhiều cấp ở đó nó không những “sử dụng những viên thanh tra hám tiền, đội
trưởng canh binh và những viên dự thẩm ngu độn”, sách luật pháp mà những vị quan tòa sử dụng
thì trong đó là “bức tranh thô tục” nhưng nó lại như ma quỷ hiện hình ở khắp mọi nơi “Chẳng có
cái gì là không thuộc về tổ chức tư pháp!” Nó như là tất cả thế giới, là cái gì bí ẩn phức tạp
không thể thấy được. Và nó thích ai thì sẽ dìm người ta đến chết mặc dù anh không có tội “Tổ
chức tư pháp chìm ngập trong vô vàn những cái tinh vi! Rồi cuối cùng nó cũng khám phá ra một
tội trạng ở chỗ xưa nay chưa từng bao giờ có cả.” Vì thế mà ai cũng sợ. Một tòa án phi lý và ta
biết chắc nó không có thực trong cuộc sống. Và đúng thế! Franz Kafka không muốn qua Vụ án
chỉ để xây dựng lên một tòa án quan liêu. Nếu tác phẩm của Kafka chỉ nói có thế thì đâu có thể
được coi là nhà văn tiên phong trong thế kỷ XX, không được coi là một nhà tiên tri. Với tác
phẩm của mình Franz Kafka như muốn nói đến một một thế giới bất ổn với những điều phi lý,
một thế giới mà con người ta thản nhiên chém giết nhau, muốn coi cảnh hấp hối của người khác
như một điều gì thú vị “Đôi mắt đã lờ đờ, nhưng Joseph K. vẫn còn nhìn thấy hai đứa chụm đầu

vào nhau cúi sát xuống mặt anh để quan sát cảnh chót”.
Đặc biệt Franz Kafka luôn bị cuốn hút bởi các chi tiết, ông ý thức rất rõ rằng chi tiết là
hình thức xuất hiện của những quy luật không thể thấy, là khả năng để diễn đạt cái không thể
diễn đạt được. Trong thế giới nghệ thuật của Vụ án có một hình ảnh bao trùm lên tất cả như là ấn
tượng duy nhất: một tòa án kết án tử hình người ta vô cớ. Đó là hình ảnh của một hiện thực hai
mặt. Nhà văn không mang đến cho người đọc những gì có thể tin ngay, phù hợp với yêu cầu
thẩm mĩ của sự bắt chước hiện thực, mà đưa ra một hiện thực tưởng như không thể có mà vẫn có
thực.
Xây dựng lên một thế giới nhân vật mờ nhạt với những quan hệ lỏng lẻo “Nhà văn khao
khát tìm kiếm sự thật về kiếp người và mong ước Con người được sống với Con người, được hòa
hợp với gia đình, xã hội và tìm được chính mình trong một thế giới có ý nghĩa. Mục đích của ông

13


Cái nghịch dị trong thế giới nghệ thuật của Franz Kafka
là làm thế nào để nói được bằng nghệ thuật những điều quan trọng đó về Con người một cách
hiệu quả nhất.” (Trương Đăng Dung)
Trong Trước cửa pháp luật ta cũng thấy một nhân vật ẩn lấp bên trong cánh cửa, không
hề ló mặt ra, không hề được miêu tả chỉ được nhắc tới qua lời thoại của người nông dân và gã
gác cổng, đó là nhân vật đại diện cho pháp luật. Mặc dù, nhân vật này không xuất hiện nhưng
thông qua những gì nó tác động tới các nhân vật khác cũng đủ thấy được mãnh lực phi thường
của nó.Ta không hề biết nhân vật vắng mặt dùng cái gì và dùng nó như thế nào mà khiến người
gác cổng cả cuộc đời không có phút giây nào lơ là việc canh gác của mình, đồng thời khiến
người nông dân cũng dành cả đời mình để chờ đợi. Đó là ván bài số phận, cả hai chỉ biết chấp
nhận vô điều kiện kẻ mình không hề được gặp mặt.
Trong Biến dạng dù không thấy xuất hiện cũng không hề được nhắc tới ở bất cứ chi tiết nào
nhưng ta vẫn thấy có một nhân vật vắng mặt nào đó đang chỉ huy toàn bộ tiến trình câu chuyện
và đang cố gắng biến nhân vật trung tâm thành con rối để nó giật dây. Ta vẫn thắc mắc: ai đã
khiến G. Samsa biến thành con bọ? ai đã làm nên tấn bi kịch đời anh? Kẻ đó là ai? Ta cố gắng

tìm mà không thấy và khi đã không thấy thì ta phải chấp nhận như chính cách bản thể nghịch dị
đã chấp nhận trong tác phẩm mà thôi.
Trong các sáng tác của mình, Kafka không bao giờ đi vào nhũng chi tiết cụ thể, với nhân
vật trung nhà văn chỉ phác họa vài nết không ăn nhập gì lắm với biến cố cuộc đời của họ, còn với
nhân vật vắng mặt thì không hề có một sự miêu tả mang tính phác họa nào, cả nhân vật trung tâm
và độc giả đều “mù” thông tin về nó. Nó chỉ được gợi ra bằng những tên gọi như quan tòa, pháp
luật... và đặc biệt ta biết được nó nhiều hơn thông qua những gì nóa gây ra cho nhân vật trung
tâm.
Trong tiểu thuyết Lâu đài ta bắt gặp một con người nào đó đang sai khiến K. và thách
thức K. như một ông chủ nhử mồi con thú đói của mình nhưng tuyệt nhiên ta không thấy nhân
vật đó nổi lên bề mặt câu chữ. Và nhân vật vắng mặt ấy hoàn toàn đối lập với K.: nó to lớn- K.
nhỏ bé, nó mạnh mẽ- K. yếu đuối, nó đông đảo- K. đơn độc, nó là kẻ thống trị- K. là kẻ bị trị...
sự đối lập này tương tự cả với G. Samsa trong Biến dạng, cả Joseph K trong Vụ án và bất cứ bản
thể nghịc dị nào trong sáng tác của F. Kafka.
Đây thực chất là một dấu ấn sáng tạo của F. Kafka trong thời đại mà mọi thứ không chỉ
được xem xet trong mối liên hệ bề mặt mà phải luôn đặt trong mối tương quan của cái vô hình,
cái vô thức của con người. Điều này cho thấy tầm nhận thức của F. Kafka với hiện thực cuộc

14


Cái nghịch dị trong thế giới nghệ thuật của Franz Kafka
sống là hoàn toàn phủ nhận đi cái nhìn của các nhà văn hiện thực trước đó, cái nhìn tiên phong
của một nhà văn hiện đại chủ nghĩa. Bởi vì, sau F. Kafka ta sẽ thấy một bộ mặt văn học mới hơn
rất nhiều, khi các nhà văn có sự thay đổi về tư duy và lối viết khiến cho văn đàn thế giới thế kỉ
XX mang tính cách mạng toàn diện, triệt để hơn.
CHƯƠNG 3
NGHỊCH DỊ TRONG KHÔNG GIAN VÀ THỜI GIAN NGHỆ THUẬT
3.1 Nghịch dị trong không gian nghệ thuật
Không gian nghệ thuật là hình thức bên trong của hình tương nghệ thuật thể hiện tính

chỉnh thể của nó. Sự miêu tả trần thuật trong nghệ thuật bao giờ cũng xuất phat từ một điểm
nhìn, diễn ra trong trường nhìn nhất định, qua đó thế giới nghệ thuật cụ thể, cảm tính bộc lộ toàn
bộ quảng tính của nó: cái này bên cạnh cía kia, liên tục, cách quãng, tiếp nối, cao, thấp, xa gần,
rộng, dài, tạo thành viễn cảnh nghệ thuật.( trang 106 Từ điển thuật ngữ văn học, Lê Bá Hán- Trần
Đình Sử, Nxb Giáo dục 2009).
Khi sáng tạo ra một hình tượng nhân vật, nhà văn luôn đặt trong một không gian nghệ
thuật nhất định để nhân vật thực hiện sứ vụ của nó. Với Kafka cũng vậy, sự sáng tạo ra bản thể
nghịch dị luông song hành với sự sáng tạo ra một không gian nghịch dị để nhân vật bộc lộ tất cả
những cái nghịch dị mà nhà văn giao cho nó nhằm khắc họa sâu hơn bản thể ấy. Và việc sáng tạo
ra không gian nghịch dị luôn mang tính hợp lý trong các sáng tác của F. Kafka, cho thấy cái nhìn
đầy tinh tế, độc đáo của nhà văn với hiện thực được phản ánh trong tác phẩm, cũng như là hiện
thực cuộc sống được quy chiếu từ tác phẩm.
3.1.1 Không gian mê lộ
Đặc điểm chung của loại không gian này là sự xuất hiện các yếu tố ngẫu nhiên, biến hóa
dị thường, gây tâm lý bất an và làm mất phương hướng nhân vật chính; đẩy nhân vật chính vào
kết thúc bi kịch và cái chết như là định mệnh đã an bài.
Tiểu thuyết Vụ án là một mê cung của các thiết chế quyền lực tòa án pháp luật phi lý.
Joseph K – nhân vật chính của tiểu thuyết – bị bắt không rõ nguyên do. Cũng như hai tên cảnh
sát, viên đội và thẩm phán được giao nhiệm vụ xét xử Joseph K nhưng cũng không biết bị cáo

15


Cái nghịch dị trong thế giới nghệ thuật của Franz Kafka
mắc tội gì. Joseph K phải đối mặt với bộ máy cai trị khổng lồ bí hiểm tồn tại khắp nơi, hữu hình
hoặc vô hình. Anh như bị thôi miên bởi cái thế giới đó, cái tổ chức bí mật đó, những người canh
giữ luật pháp đó, họ hỏi cung và thẩm vấn không cần biết tại sao. Bị lạc vào mê lộ pháp luật,
Joseph K không còn tự minh oan cho mình được, phải nhờ vào sự giúp đỡ của người khác như
Tiến sĩ Hun, nhà kỹ nghệ gia, Họa sĩ Titoreli... Song, anh phát hiện thấy bọn chúng cũng là tay
chân, dây mơ rễ má của trật tự tối cao ấy, là những tên ngớ ngẩn, dốt nát, bịp bợm và bất minh.

Các lối thoát dần đóng lại. Và Joseph K đã bị xử tử mà không biết tội trạng, không được khiếu
nại.
Tiểu thuyết Lâu đài “là hình ảnh huyền thoại về một tổ chức quyền lực quan liêu với
những sợi dây vô hình đã trói buộc cuộc đời của từng con người”.
Thế giới của Lâu đài là thế giới của mê cung, mang sức mạnh siêu nhiên. Con đường dẫn
K vào Lâu đài là một tiểu mê cung. Ngay từ đầu, K đã muốn đi vào nhưng con đường rất dài và
nó không dẫn chàng đến Lâu đài. Khi đến gần, dường như cố ý, nó lại vòng sang lối khác. Nhìn
từ xa, K có thể thấy Lâu đài, song chàng không thể và vĩnh viễn không bao giờ đến được.
Cùng với con đường, hình ảnh Lâu đài thấp thoáng hiện lên trái với logic thông thường.
Lâu đài không có vẻ cổ kính, tráng lệ mà chỉ là những quần thể nhà hợp thành, không ai biết đó
là Lâu đài. Có một tháp chuông nhưng không thể nhận ra đó là tháp chuông ở nhà thờ hay của
nhà ở. Con quạ xuất hiện báo hiệu sự chết chóc. Đó là quan sát từ xa. Còn nhìn gần, “Lâu đài này
trong thực tế chỉ là một thị trấn thảm hại”. Tiếng chuông nghe ma quái “Đổ từng hồi trầm ấm
vang lên một cách vui vẻ, tiếng chuông như đe dọa vì nó cũng vang lên đau đớn”. Sau đó là
những tiếng chuông yếu ớt vang lên “lay lắt”.
Bộ máy hành chính của Lâu đài cũng là một thứ mê cung. Lâu đài thông qua những mắt
xích vô tận các viên chức, thư ký, liên lạc đều nhằm đích là chống lại K. Ngẫu nhiên, Lâu đài viết
thư nhận K làm đạc điền, rồi có thư khen thưởng K về công việc tuy thật ra K chưa hề biết công
việc đạc điền. Qua những cuộc tiếp xúc của K với nhân viên Lâu đài, ta thấy K bị lừa. Viên trưởng
thôn đã nói trắng ra: “Những cuộc tiếp xúc ấy chỉ là giả tạo, nhưng vì thiếu hiểu biết ông lại tưởng
thật”. K chỉ còn biết tìm đến chánh thanh tra Klamm để tìm hiểu thực hư. Song, Klamm là một
chánh thanh tra quan liêu, không thèm nói chuyện với bất cứ ai trong làng, chưa một ai thật sự biết
mặt y, bởi Klamm luôn thay đổi hình dạng, bí hiểm. Vì vậy, K cố biết sự thật về Lâu đài, nhưng
càng theo đuổi mục đích này, anh lại càng xa nó hơn. Lâu đài là một mê cung của thế giới hành

16


Cái nghịch dị trong thế giới nghệ thuật của Franz Kafka
chính quyền lực vô hình. Nó cũng giống như mê cung luật pháp trong Vụ án: không thể tiếp cận,

không thể tìm gặp, nó tồn tại trong cụ thể; khắp mọi nơi đều có nó mà vẫn như không có nó.
Với ba tiểu mê lộ F. Kafka đã tạo dựng thành một đại mê lộ của Lâu đài. F. Kafka cho
thấy rõ nguyên nhân bị lưu đày của con người trong thế giới hiện đại, trong mê lộ của những
thiết chế mờ ám và phi lý được bày đặt ra như những cái bẫy, con người bị tước mất khả năng
tìm hiểu và thiết lập quan hệ đối với thế giới một cách bình thường, con người không phải chủ
nhân mà là nạn nhân của thế giới.
Trong truyện ngắn Trước cửa pháp luật, F. Kafka đưa ra kiểu kết cấu mê lộ khác, đó là
kết cấu trùng điệp của nhiều vòng bảo vệ cửa pháp luật. Càng vào trong, các vòng cửa pháp luật
càng có sức mạnh bí hiểm. Bác nông dân đến xin vào cổng pháp luật, khi nghe người bảo vệ
vòng đầu kể về mê lộ pháp luật ấy, bác không dám bước qua cửa, đứng chôn chân đợi rồi gục
chết ở đó: “Nếu bác muốn thì cứ thử vượt quyền tôi mà vào thử xem. Nhưng bác nên nhớ rằng:
tôi có sức mạnh đấy nhé. Đã thế, tôi mới chỉ là bảo vệ ở vòng ngoài, trong kia trước mỗi vòng
cửa còn có các nhân viên bảo vệ khác nữa, người bảo vệ vòng trong lại khỏe hơn người vòng
ngoài. Ngay cả tôi mà còn không dám nhìn mặt người bảo vệ ở vòng ba cơ đấy”.
Nếu như Lâu đài, Vụ án, Trước cửa pháp luật không gian mê lộ là không gian của các
thiết chế quyền lực bí hiểm về bộ máy hành chính, bộ máy pháp luật tòa án phi lý thì truyện ngắn
Hang ổ không gian mê lộ là không gian của hệ thống đường ngầm chằng chịt những “đường
ngang lối dọc”, là công trình được tạo ra bởi một con vật luôn sống trong tâm trạng bất an giữa
một thế giới thù địch. Để chống lại kẻ thù, chống lại sự bất an, con vật đã tạo ra mê lộ rắc rối đó,
kẻ thù của nó nếu tấn công vào hang sẽ bị “chết ngợp trong dãy mê lộ này”. F. Kafka miêu tả cái
hang ổ đầy bí hiểm, khó định vị được rõ ràng: “Cách chỗ này một nghìn bước chân gì đó mới
thật sự là lối vào chỗ ở của tôi, nó nằm ẩn, dưới một lớp rêu”, “cứ một trăm mét tôi lại mở rộng
đường hầm của mình, tôi khoét những hầm tròn nhỏ ở giữa ngã tư đường hầm”. Hang ổ có
khoảng năm mươi chỗ được che kín và một pháo đài trung tâm kiên cố. Pháo đài có diện tích
rộng gấp mười lần so với những khoảng trống trong rừng, có mười ngách tỏa ra “Mỗi ngách tùy
theo sơ đồ tổng thể đi sâu xuống hoặc đi lên, kéo dài ra hoặc lượn vòng tròn, mở rộng hoặc thu
hẹp”. Chính tác giả của công trình nhiều lúc cũng bị lạc trong mê cung của mình, khi ấy mê
cung trở thành kẻ thù của nó. Như vậy, thế giới mê lọ của Hang ổ tồn tại trong bản thể nó một
điều nghịch lý: mê lộ được tạo ra là nơi để trú ẩn, làm tan những lo âu, nhưng chính mê lộ ấy


17


Cái nghịch dị trong thế giới nghệ thuật của Franz Kafka
cũng đồng thời là điều lo âu, thù địch, một khi chủ nhân của nó bị lạc lối, mất phương hướng.

3.1.2 Không gian tù đọng, khó thở

Trong văn học truyền thống, con người thường hòa mình vào không gian vũ trụ, được hít
thở căng tròn buồng phổi không khí trong lành của vũ trụ bao la mà tự nhiên ban tặng. Con
người trong sáng tác của F. Kafka lại khác, hầu như chỉ tồn tại trong không gian ngột ngạt tù
túng. Con người quen thuộc gắn bó với không gian này đến nỗi không thể sống thiếu nó được.
Tính chất phi tự nhiên, phản truyền thống của không gian ấy là một ẩn dụ sâu sắc về sự tha hóa
của con người.
Trong bộ tiểu thuyết Lâu đài, Vụ án, và một số truyện ngắn của F. Kafka, ta thường gặp
những đoạn phim ngắn ghi lại hình ảnh những căn phòng chật hẹp yếm khí, thế giới đồ vật được
bố trí bề bộn trong đó lấn át đi phần tồn tại của con người, làm không gian ấy càng ngột ngạt
hơn. Ở tiểu thuyết Lâu đài, căn phòng người ta bố trí cho người đạc điền nơi quán trọ là một cái
gác xép không được thông gió. Những người giúp việc nơi quán trọ luôn ở trong ánh điện, trong
bầu không khí ngột ngạt, nghỉ ngủ chui rúc ở xó xỉnh nơi nhà kho, nhà bếp. Những đám nông
dân chen chúc nơi quán trọ sặc sụa mùi bia rượu. Chánh thanh tra Klamm sống trong một căn
phòng kín, tách biệt với thế giới bên ngoài, chỉ được thông với bên ngoài bằng một cái lỗ nhỏ
thiếu sinh khí. Đặc biệt F. Kafka đã phủ mờ không gian lạnh lẽo của tuyết xuống Lâu đài, xuống
làng “Ở dưới này tuyết ngập đến cửa sổ của những ngôi nhà nhỏ, treo thành từng khối từ trên các
mái nhà đến mức gần như rũ xuống đến mép cửa sổ”. Trong những căn nhà nhỏ, nhiều người
sống chen chúc bất luận trẻ con hay người già, thanh niên hoặc phụ nữ. Người ta sống trong căn
phòng tranh tối tranh sáng, không khí tù mù bốc lên từ các lò sưởi ảm đạm ngột ngạt và tù túng
tưởng chừng như vượt quá giới hạn chịu đựng của con người.
Đến Vụ án, không gian ngột ngạt tù túng lại xuất hiện dày đặc hơn. Căn phòng xét xử
Joseph K. lần đầu tiên chật ních người, trần nhà lại quá thấp “người ta đứng chen chúc, ai

cũng phải lom khom, đầu và lưng đụng vào trần nhà”. Căn phòng tối lờ mờ, đầy bụi bặm và
khói, đám đông ăn mặc tồi tàn, thậm chí có người còn mang theo gối, đệm, đội lên đầu để
khỏi va vào trần. Tòa án được bố trí ở vị trí tầng nóc ọp ẹp, không khí nặng nề. Luật sư Hun
sống trong căn phòng thấp lè tè, không có cửa sổ và kê vừa đủ một chiếc giường hẹp. Họa sĩ

18


Cái nghịch dị trong thế giới nghệ thuật của Franz Kafka
Titoreli sống trong một căn phòng mà theo Joseph K “Chưa bao giờ tự mình quan niệm nổi
một cái buồng con tồi tàn như thế mà người ta có thể gọi được là xưởng vẽ. Ngang dọc mỗi
chiều không nổi lấy được trông hai bước chân”. Tệ hại hơn, căn phòng lại bừa bộn những
chăn, gối, đệm, quần áo, tranh ảnh và đặc biệt là chưa được thông khí. Thế giới đồ vật ,
khoâng gian ngột ngạt đã chiếm không gian tồn tại con người. Con người quá nhỏ bé trước
thế giới, sự tồn tại của con người là không thực, tồn tại mà như không tồn tại, sống mà dường
như đã chết.
Cái phi lý của Vụ án là ở chỗ, những nhân vật của tòa án lại thích nghi hoàn toàn với
không khí ngột ngạt tù túng trong phòng làm việc, cái nơi mà “Mặt trời hun nóng mái nhà ghê
gớm. Xà nhà bỏng rẫy. Nhưng sau rồi người ta cũng hoàn toàn quen với bầu không khí này. Khi
nào ông (Joseph K.) trở lại đây lần thứ hai, hay lần thứ ba ông sẽ hầu như không cảm thấy ngột
ngạt nữa”. Luật sư Hun không ý thức được chỗ ở của mình là yếm khí chật hẹp, nguyên nhân tạo
ra căn bệnh trầm kha. Họa sĩ Titoreli lại cho rằng căn phòng như cái hộp bề bộn ấy là nơi lý
tưởng để vẽ tranh. Thậm chí nếu thay đổi cái không khí ngột ngạt tù túng ở các căn phòng thì
nhân viên tòa án cũng không thể chịu nổi. Đây là một cảnh Joseph K. đã chứng kiến khi cô gái
và nhân viên chỉ đường đưa anh ra ngoài văn phòng của tòa án: “Họ chịu đựng có vẻ khó nhọc
làn không khí tương đối mát mẻ từ cầu thang lùa vào, vì đã quen với bầu không khí trong các
văn phòng. Họ hầu như không đáp lại được và có lẽ cô gái đã ngã xỉu nếu anh không đóng vội
cửa lại”. Bởi vậy, thế giới trong sáng tác của F. Kafka chồng chất những cung bậc phi lý, tưởng
là không tồn tại mà lại tồn tại, thậm chí tồn tại thực hơn cái hiện thực, là thế giới hiện hữu ta
đang sống.

Không gian nghịch dị trong thế giới nghệ thuật của F. Kafka luôn được đặt trong không
gian đời thường, nảy sinh từ không gian đời thường nên nó không dễ bị xóa nhòa mà ngược lại
nó nổi lên bên trên bề mặt không gian đời thường và trỏ thành nỗi ám ảnh của bản thể nghịch
dị.Nó giống như một vết mực loang lổ trên trang giấy trắng và vô hình chung làm cho trang giấy
trắng trở nên xấu xí theo. Nghĩa là dù chỉ là một không gian hẹp trong tác phẩm nhưng sự tác
động của nó là vô đối tới mức không thể lí giải được, không cần lí giải chỉ còn cách là phải chấp
nhận để nó xâm chiếm mà thôi. Đây chính là một trong những sáng tạo nghệ thuật cho thấy rõ
nhất phong cách của F. Kafka. Một kiểu không gian của F. Kafka- không gian nghịch dị- không
gian F. Kafka.

19


Cái nghịch dị trong thế giới nghệ thuật của Franz Kafka
3.2 Nghịch dị trong thời gian nghệ thuật
Thời gian là vấn đề thường xuyên được đặt ra trong triết học cũng như trong cuộc sống
và sự tồn tại của con người. Đối với các nhà tiểu thuyết thì thời gian luôn là một nỗi ám ảnh
khôn nguôi. Nếu như trước đây trình tự thời gian thường được áp dụng trong tiểu thuyết hiện
thực là “thời gian niên biểu”, “thời gian của đồng hồ” do con người đặt ra thì giờ đây thời gian
tuyến tính ấy đã bị phá vỡ thay vào đó là một cấu trúc thời gian chằng chịt, phức tạp và đa tầng
Trong tác phẩm của F. Kafka không một bản thể nghịch dị nào lại nằm bên ngoài không
gian nghịch dị và tồn tại ngoài thời gian nghịch dị. Cho nên, cách thể hiện thời gian nghệ thuật
trong các sáng tác của F. Kafka cũng là một sáng tạo độc đáo thể hiện sâu sắc phong cách của
nhà văn.
“Thời gian nghệ thuật là hình thức nội tại của hình tượng nghệ thuật thể hiện tính chỉnh
thể của nó. Cũng như không gian nghệ thuật,sự miêu tả, trần thuật trong văn học nghệ thuật cũng
xuất phát từ một điểm nhìn nhất định trong thời gian. Và cái được trần thuật bao giờ cũng diễn ra
trong thời gian,được biết qua thời gian trần thuật. sự phối hợp của hai yếu tố thời gian này tạo
thành thời gian nghệ thuât,một hiện tượng ước lệ chỉ có trong thế giới nghệ thuật( trang 106 Từ
điển thuật ngữ văn học, Lê Bá Hán- Trần Đình Sử, Nxb Giáo dục 2009).

Ta thường thấy thời gian của nhưng cơn ác mộng trong thế giới nghệ thuật của F. Kafka ,
khoảng thời gian ấy làm ta liên hệ tới khoảng thời gian của cõi vô thức, của thế giới tinh thần
đang chìm sâu trong con người. F. Kafka đã dùng ngòi bút điêu luyện đi vào mô tả giấc mơ đó
thật cụ thể, nghĩ là nhân vật được đặt trong thời gian làm nảy sinh những cơn ác mộng và tác giả
là người thư kí trung thành ghi lại giấc mơ đang diễn ra của chính nhân vật ấy. Đó là trường hợp
được thể hiện trong truyện ngắn “ Một giấc mơ”. Nhân vật chính của truyện là Joseph K. hoàn
toàn chìm trong cõi vô thức, đang mơ về một chuyện quái dị khủng khiếp. Anh ta thấy mình lạc
vào khu nghĩa địa, ở đó có lễ hội đang diễn ra vui vẻ; anh bị cuốn hút bởi một ngôi mộ mới, càng
tiến lại gần thì lại càng xa nó. Rùng rợn hơn nữa, anh tiến lại gò mả mà chàng họa sĩ có khắc lên
đó hàng chữ trên tấm bia. Trong giấc mơ dường như anh tiên cảm được cái gò mả ấy là nơi kết
thúc định mệnh của anh. Bởi vì khi họa sĩ vẽ, có chiếc lá rơi xuống đó biến thành chữ J - đó là
tên Joseph K. Khi họa sĩ đi rồi, anh đến cào lớp đất mỏng nơi ấy và bỗng nhiên có một cái lỗ mở
ra, Joseph K rơi thụp xuống đó, mắc vào một hố sâu bí hiểm, cổ và đầu bị kẹt lại, tên anh được
khắc vào tấm bia với những nét chữ hoa mỹ. Đến đó, Joseph K tỉnh giấc và bị mê hoặc bởi
những cảnh tượng khủng khiếp ấy.

20


Cái nghịch dị trong thế giới nghệ thuật của Franz Kafka
Có thể nói, khi thể hiện thời gian của cõi vô thức F. Kafka như tiên nhiệm về số phận
nhân vật chính. Với các nhân vật, thời gian của đời thường ám ảnh dẫn đường vào những giấc
mơ. Con người không chỉ bất an với cuộc sống thường nhật mà con bất an ngay trong cõi vô thức
của mình.
Nhân vật Gregor Samsa trong Biến dạng vốn dĩ là một con người nhưng một buổi sáng
khi tỉnh dậy anh thấy mình biến thành một con côn trùng khổng lồ. Chắc chắn việc trở thành con
bọ đã diễn ra khi anh ta đang ngủ, khoảng thời gian mà cõi vô thức ngự trị. Và cái thời khắc định
mệnh vào buổi sáng sớm ấy cũng là lúc mà con người đặt giữa trạng thái nửa tỉnh nửa mơ, đặt
giữa khúc gãy thời gian vô thức và thời gian ý thức. Cho nên, G. Samsa thấy như là ảo giác, anh
bàng hoàng nửa tin nửa ngờ. Anh quyết định ngủ thêm một chút nữa để người tỉnh hẳn nhưng

định mệnh buộc anh phải như vậy.
Khoảng thời gian giao nhau giữa vô thức và ý thức nay còn được thấy trong Vụ án, với
hình tượng Joseph K. anh vừa tỉnh giấc bỗng hai kẻ lạ mặt đập cửa xông vào bắt anh. Joseph K.
không biết kẻ bắt mình là ai, tại sao lại bắt anh. Anh đang sống trong tâm trạng không biết đây là
hư hay thực, tỉnh hay mơ.
Không chỉ dừng lại ở đó, F. Kafka còn xây dựng nên khoảng thời gian từ biến cố định
mệnh của nhân vật đến khi họ từ giã cõi đời. Đó là khoảng thời gian trung tâm của tác phẩm, bản
thể nghịch dị có những biến đổi lớn về tâm- sinh lý trong hoàn cảnh mới. Ở G. Samsa, khoảng
thời gian đội nốt con bọ là một cơn ác mộng khủng khiếp nhất, nó gặm nhấm dần thể xác và linh
hồn của anh cho đến khi mục ruỗng: anh phải chụi cảnh lạc loài ngay trong gia đình mình, đó là
sự biến dạng khiến anh tách ra khỏi cộng đồng mà con người luôn là tổng hòa của các mối quan
hệ. Với anh đồng nghĩa với việc cái chết đang tới gần. Khoảng thời gian để các nghịch dị làm
mưa làm gió trong tác phẩm của F. Kafka bao giờ cũng là khoảng thời gian đưa nhân vật tới chỗ
chết. Joseph K. trong Vụ án cũng vậy, tù khi nhận được cái hung tin như sét đánh ngang tai ấy,
gần như anh bị cuốn vào cơn lốc xoáy đời mình, dù cố gắng vượt ra mà không thể nào vượt thoát
nổi, anh dùng chính sức mạnh của anh chống cự nhưng cũng bị chính sức mạnh ấy kháng cự. Và
kết cục của Joseph K. là sau sinh nhật lần thứ 30 đúng một năm, hai kẻ lạ mặt đến ngoáy lưỡi
dao vào trái tim anh. Một năm nghịch dị đủ để bao mòn bản thể nghịch dị và nó cũng chẵng khác
biệt so với sáu ngày trong Lâu đài , khởi- kết như một bài toán không lời giải “ bất khả tri” trong
từng bước chân đầy cảm giác phi lý mơ hồ dò dẫm mê lộ. K. tìm vào lâu đài để nhận việc đạc
điền mà kết chuyện rồi mà K. lang thang vô định trong khu vực lâu đài.

21


Cái nghịch dị trong thế giới nghệ thuật của Franz Kafka
Thêm vào đó, F. Kafka còn ưu tiên đưa vào tác phẩm thời gian của cả đời người và biến
nó trở nên nghịch dị. Điều này ta thấy xuất hiện ở nhiều tác phẩm, trong Biến dạng có nói về
cuộc đời của G. Samsa: trước khi biến dạng anh là một nhân viên chào hàng, sống cùng cha mẹ
và cô em gái, cuộc sống nhìn chung là hạnh phúc vì bản thân anh có những ước mơ cao cả và

cũng là niềm tự hào của cả gia đình. Như vậy G. Samsa cũng bình thường như bao ngươi khác
đó chứ? Nhưng khi biến cố khủng khiếp của cuộc đời ập đến thì anh phải chào thua và đóng lại
cuộc đời bằng cái chết thê thảm mà không ai thương hại, thậm chí mọi người còn cảm thấy vui
vẻ, nhẹ nhõm trước cái chết của anh. Đó là đời người nghịch dị vì trong khoảng thời gian từ lúc
sống bình thường đến lúc chết nó chịu chi phối của sự tha hóa. Cái cuộc đời nghịch dị này còn
được thấy ở nhân vật Joseph K trong Vụ án. Thời gian của đời người là thời gian tuyến tính, thời
gian của những cái bình thường nhưng những tai họa thình lình tới đã biến nó trở nên nghịch dị.
Và sự kết thúc khoảng thời gian đó hoặc là vô vọng hoặc là phải chết, nhân vật luôn là một kẻ
thua cuộc. Đặc biệt trong truyện ngắn Trước cửa pháp luật người nông dân đứng trước cái cổng
nghịch dị từ khi còn là một chàng trai trẻ, cậu rất muốn bước qua cánh cổng để vào bên trong
chiếm lĩnh pháp luật mà không vào nổi vì bị người gác cổng ngăn cản, đe dọa. Điều này cứ lặp đi
lặp lại đến nỗi cả hai người không muốn nhìn mặt nhau nữa, cho đến khi già yếu người nông dân
bị điếc đặc khiến cho người gác cổng phải thét lớn vào tai những lời lẽ đơn điệu vốn vẫn nói từ
hàng bao nhiêu năm trước. Và khi cả hai gần đến giờ chết, người nông dân đón nhận được câu
trả lời cuối cùng đã được dấu kín suốt thời gian qua: “ không có ai khác có thể vào đây được vì
cổng này chỉ dành riêng cho ông mà thôi. Nay tôi sắp sửa phải ra đi và sẽ đóng nó lại”. Một sự
chờ đợi dài dằng dặc, nhân vật chết dần chết mòn khi không thể chạm tay được tới vật thuộc
quyền mình sở hữu. Và khi dựng nên cái nghịch dị của thời gian ấy càng làm cho điều ấy trở nên
sâu sắc hơn. Đồng thời cũng chuyên chở một thông điệp nhân văn cao cả: đời người biết đâu là
đích mà nếu có biết đích để đến thì phải làm gì để đến được đó hay chỉ biết ngồi chờ đến chết mà
thôi. Trong sáng tác của mình, F. Kafka đưa vào quãn thời gian của một đời người và đã thành
công khi biến nó trở nên nghịch dị để phù hợp với cái nghịch dị của nhân vật trong tác phẩm.
Điều đặc biệt là khi thể hiện thời gian cả đời người tác giả đã lược bỏ tất că những yếu tố liên
quan đến tiểu sử chỉ để lại một số chi tiết nhỏ mà không cần có cũng được vì nó không giả thích
được những nghịch dị của nhân vật. Cho nên, thời gian cả đời người chỉ mang tính chống thiếu
mà thôi.

22



Cái nghịch dị trong thế giới nghệ thuật của Franz Kafka
Trong truyện ngắn Một thầy thuốc nông thôn nhà văn còn thể hiện hại khoảng thời gian
đối lập nhau. Nếu lúc đi trên quãng đường từ nhà mình đến chỗ bệnh nhân dễ dàng , nhanh
chóng tới mức nào thì lúc trở về cũng quãng đường đó nó lại trở nên chậm rãi, trì trệ bấy nhiêu.
Khoảng thời gian lúc đi là khoảng thời gian còn chứa đựng cái đời thường, con người vội vã, tất
bật với công việc, người ta chỉ biết làm mà không cần biết ý nghĩa của việc mình làm; còn
khoảng thời gian lúc về là khoảng thời gian nghịch dị, nó tạo ra cho con người những khoảng
lặng và đẩy họ vào tâm thế bất an để nhìn lại cuộc đời mình. Nhưng cái trớ trêu là khi đã có thời
gian nhìn ngắm lại cuộc đời thì người thầy thuốc cũng chỉ lởn vởn những ý nghĩ cho cuộc sống
mưu sinh: nào là mất việc, mất chức, nào là mình bị tên quản lý phản bội cướp đoạt quyên lợi...
con người chẳng thể thoát khỏi cái vỏ bọc do chính mình tạo ra nên luôn rơi vào bế tắc, “ vô
phương cứu chữa”. Đưa ra sự đối lập về thời gian ấy, nhà văn muốn làm cho cái nghịch dị phát
huy tác dụng để nhân vật tỏ rõ cái bản chất thực của mình, một sự tha hóa thảm hại, kẻ thù lớn
nhất của bản thể nghịch dị chính là bản thân nó.
Tất cả những điều này là cái nghịch dị của thời gian nghệ thuật trong các tác phẩm của F.
Kafka. Nó tạo ra một cơ sở hợp lí cho phép cái phi lí tồn tại, đồng thời chứa đựng sâu sắc tư
tưởng và thể hiện đậm nét phong cách của nhà văn.

23


Cái nghịch dị trong thế giới nghệ thuật của Franz Kafka

CHƯƠNG 4
NGHỊCH DỊ GẮN VỚI ĐỜI VĂN, ĐỜI THƯỜNG VÀ HIỆN THỰC TRONG TƯƠNG
LAI
4.1 Cái nghịch dị gắn với cuộc đời F. Kafka
Bất cứ đứa con tinh thần nào cũng luôn được đặt trong mối tương quan với người cha
sinh ra nó để có cơ sở nhận ra được những tác động của tiểu sử tác giả với tác phẩm. Và lẽ dĩ
nhiên các tác phẩm của F.Kafka cũng không nằm ngoài quy luật.

Cái nghịch dị trong thế giới nghệ thuật của F.Kafka gắn bó mật thiết với cuộc đời nhà
văn. Vì lẽ nó được sàng lọc qua một cuộc đời nhiều sóng gió, qua một tâm hồn nhạy cảm với
cuộc sống.
Trong xã hội bị tha hóa, mỗi cá nhân chỉ còn là cái bóng vật vờ, một hồ sơ, một con số,
một kẻ không tên, một cái tên viết tắt như Joseph K trong Vụ án hay K. trong Lâu đài và cả
Samsa( biến âm của Kafka) trong Biến dạng... nhưng tất cả những cái tên ấy lại làm ta liên tưởng
tới Kafka và hướng ta vào một cách giả thích khác. Vụ án nói về tình cảnh đau khổ của bản thân
nhà văn, sinh năm 1883 trong một gia đình gốc Do Thái đã bắt đầu được đồng hóa. Lúc trẻ,
Kafka không mấy quan tâm đến gốc rễ Do Thái của mình, cho dù gia đình ông vẫn vào đền tham
dự các buổi lễ quan trọng của Do Thái giáo. Nhưng, theo đa số các nhà nghiên cứu Do Thái hiện
nay, Kafka càng trưởng thành càng cảm thấy mình lạc loài, như người mất gốc, mất lai lịch; một
con người có thể chất yếu ớt dù lúc đó chưa phát hiện ra mình bị bệnh lao nhưng luôn cảm thấy
cái chết như lưỡi hái lơ lửng ở trên đầu; một con người bị truy nã khắp nơi như chính ông khi
chết hàng chục năm rồi mà bọn phát xít Hít-le còn thiêu đốt những tác phẩm của ông như cách
chúng hành xử với những người bà con của ông.
Một dấu hiệu khác cần quan tâm là Kafka về cuối đời, nảy sinh ý định di tản sang
Palestine, nơi người Do Thái xem là quê hương lịch sử của mình. Tất cả những người bạn của
Kafka đều mang gốc gác Do Thái, như Max Brod. Sau này, Max Brod đã định cư tại Palestine và
viết lời đề bạt cho những tác phẩm của Kafka. Theo người đã được Kafka ủy thác thực hiện di
chúc, đồng thời là người bạn tâm giao, hiểu biết cặn kẽ nhất về Kafka, đã cùng với Kafka chu du
Âu châu, thậm chí dẫn dắt nhau vào các nhà thổ hưởng lạc, thì Vụ Án và Lâu Đài là hai tác phẩm
anh em sinh đôi. Vụ Án là hành trình đi tìm công lý, trong khi Lâu Đài là biểu tượng của Phúc
Phận, biểu tượng của Ân Huệ. Đó là hai khái niệm thần học của Do Thái giáo mà theo sách

24


Cái nghịch dị trong thế giới nghệ thuật của Franz Kafka
thánh Kabbale, cho phép con người cảm nhận được sự hiện diện của Thượng Đế.
Trong Biến dạng ta thấy nổi bật lên hình bóng người cha với bộ dạng dũ dằn, luc nào

cũng mang vẻ bực tức, cáu gắt với đứa con trai bọ- người của mình. Người cha của Gregor
Samsa không thể thể chấp nhận, không hề chấp nhận anh trong bộ dạng của một con côn trùng
dù đó là con trrai mình ngay từ lần đầu chứng kiến cảnh nghịch dị đó. Và chi tiết G. Samsa cố
gắng lê lết xuống nhà bếp để thưởng thức tiếng violon của cô em gái khiến những người thuê nhà
hoảng loạn là ngòi nổ cho cơn cuồng phong của người cha. Ông hung hăng xua đuổi con bọ về
trở lại bốn bức tường của nó và cơn thịnh nộ đạt đến cao trào khi ông dùng trái táo ném vào lưng
con bọ để lại một vết lõm. Chính vết lõm này là nguyên nhân dẫn đến tình trạng thê thảm của
con bọ trong những ngày tiếp theo, con bọ dần yếu đi vì bị lở loét và cuối cùng là phải lãnh nhận
cái chết trong cô đơn và tuyệt vọng, khi phát hiện ra thì chỉ còn là những mảnh giáp sát khô xác.
Chính cái chết của đứa con trai làm cho người cha cảm thấy hả hê, nhẹ nhõm. Và chính hình
bóng người cha của G. Samsa là sự ám ảnh về hình bóng người cha trong cuộc đời của nhà vănmột người cha làm việc trong quân đội với bản tính khắt khe, quy củ và ông đã dùng chính lối
giáo dục của quân đội vào giáo dục người con trai duy nhất của mình là Kafka. Đó là lối giáo
dục lạnh lùng, vô tâm, hà khắc không phù hợp với một người có thể trạng yếu như Kafka. Cuộc
đời ông vì thế mà mang nỗi ám ảnh lớn về một tuổi thơ bất hạnh ngay trong chính gia đình của
mình. Và cái nghịch dị của G. Samsa chính là sự quy chiếu của nghịch cảnh đời F. Kafka- một
cậu bé chẳng bao giờ có tiếng nói riêng trước mặt người cha của mình.
Cả chuyện tình cảm cũng là những dấu ấn cuộc đời được tác giả gửi gắm trong các sáng
tác của mình. Trong tình duyên F. Kafka đã trải qua nhiều lần đính hôn rồi từ hôn, nhiều người
phụ nữ âm thầm bước vào trái tim ông và rồi cũng lặng lẽ bước khỏi trái tim ông. Cho nên với F.
Kafka tình trường cũng là một nỗi ám ảnh lớn và được kín đáo gửi qua cái nghịch dị trong thế
giới nghệ thuật. Trong số những người phụ nữ đi qua cuộc đời ông, có lẽ người để lại ấn tượng
sâu đậm nhất là cô Milenna Jesensk- người đã ở lại cùng ông trong những tháng ngày điều trị
bệnh lao, một y tá, một văn sĩ trẻ đẹp. F. Kafka đã tìm thấy ở Milenna một sự đồng điệu, qua
những bức thư tình của hai người ta thấy quá trình thay đổi cách xưng hô của một tình yêu đổ
vỡ: cô- em- cô. Mọi thứ quá nhanh với cả hai người và để lại một cú sốc lớn trong lòng nhà văn
khi ông biết Milenna đã có gia đình và tình cảm của cô dành cho ông chỉ là sự thương hại với
một người bệnh sắp chết mà thôi.

F. Kafka đau khổ khi đã cố giơ tay vẫy gọi tình yêu mà


không được đáp trả. Cuộc tình ngang trái này làm ta liên tưởng tới nhân vật K trong tiểu thuyết

25


×