Tải bản đầy đủ (.pdf) (136 trang)

Luận văn thạc sĩ văn hóa đọc của SINH VIÊN đại học QUỐC GIA hà nội

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.47 MB, 136 trang )

MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
“Văn hóa đọc” hiện nay đang là một khái niệm chưa hoàn thiện, ít nhiều
trong chúng ta đã nghe hay đọc khái niệm này ít nhất một lần. Mỗi người có một
quan niệm khác nhau về văn hóa đọc. Có người cho rằng: “Văn hoá đọc là một khái
niệm có hai nghĩa, một nghĩa rộng và một nghĩa hẹp. Văn hoá đọc, theo nghĩa
rộng, đó là nền văn hoá đọc của mỗi quốc gia thể hiện qua chủ trương, đường lối,
chính sách của Nhà nước, của cộng đồng và ý thức của mỗi thành viên trong xã
hội về xây dựng phát triển cơ sở vật chất(thư viện,phòng đọc; xuất bản phát hành
sách,tài liệu...) nhằm phát triển văn hóa đọc. Văn hoá đọc, theo nghĩa hẹp là đọc
có văn hoá, đó là ứng xử đối với việc đọc: thể hiện qua thói quen đọc, sở thích đọc
và kỹ năng đọc của mỗi người đọc” hay “văn hóa đọc là ứng xử, giá trị và chuẩn
mực đọc của mỗi cá nhân”. Như vậy, có thể dễ dàng hiểu, văn hóa đọc là cách thức
ứng xử và đánh giá đọc của mỗi cá nhân thông qua thói quen đọc, sở thích đọc và
kỹ năng đọc của bản thân.
Tại sao văn hóa đọc hiện nay đang được đặc biệt quan tâm? Một thực tế của
xã hội hiện nay đó là sự bùng nổ khoa học công nghệ, con người trở nên “lười” hơn
bởi những công cụ hiện đại. Việc đọc sách cũng vậy, đọc sách online, sách điện tử
(e-book), báo điện tử (e-journal), chính phủ điện tử (e-government), học trực tuyến
(e-learning), v.v… đang trở nên phổ biến hơn, mua sách lậu, giá rẻ, nhanh chóng,
dễ dàng hơn so với việc đến thư viện và tìm kiếm thủ công, mất thời gian và công
sức, có nhiều lúc không thỏa mãn yêu cầu của mình. Do vậy, người ta lo ngại nhiều
vấn đề sẽ dẫn đến văn hóa đọc bị “xuống cấp”, bị “lấn át” và đang dần bị mai một
hay “đọc” sẽ vẫn thắng “xem”, văn hóa đọc không bao giờ triệt tiêu?
Phát triển văn hóa đọc hiện nay không phải là làm tăng số lượng sách, báo
trong xã hội mà làm tăng hiệu quả chất lượng sử dụng chúng. Từ việc phân tích tâm
lý người dùng tin, những ảnh hưởng đến nhu cầu tin của họ, thư viện cần đưa ra
những phương thức giải quyết và nâng cao hiệu quả phục vụ của mình. Bộ Văn hóa
Thể thao và Du lịch đã xây dựng dự thảo đề án “Phát triển văn hóa đọc trong cộng
đồng giai đoạn 2011-2020”. Để phát triển văn hóa đọc cho cộng đồng UNESCO
cũng sáng lập ngày sách quốc tế là ngày 23 tháng 4 hàng năm để cổ vũ phong trào


-7-


đọc sách và xây dựng thói quên đọc sách trên toàn Thế giới. Quyết định và lời kêu
gọi này của UNESCO được nhiều quốc gia hưởng ứng trong đó có Việt Nam. Ngày
23 tháng 4 cũng là “Ngày đọc sách Việt Nam” nhằm khơi dậy phong trào đọc sách
và văn hóa đọc của người Việt. Như vậy, phát triển văn hóa đọc luôn là vấn đề có
tính chiến lược của mọi quốc gia trong việc nâng cao dân trí, phát triển bền vững
nguồn nhân lực.
Để thực hiện thành công công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước,
Đảng và Nhà nước đã xác định rất rõ cùng với Khoa học và Công nghệ, GD&ĐT là
quốc sách hàng đầu. Vì vậy, GD&ĐT đã và đang được đổi mới toàn diện, đặc biệt
là giáo dục đại học. Phương thức đào tạo theo niên chế đang được chuyển sang
phương thức đào tạo theo tín chỉ, lấy người học làm trung tâm. Nó đòi hỏi người
học phải tự học tập, tự nghiên cứu là chính. Người thày chỉ là người hướng dẫn,
định hướng, dạy cho phương pháp học, phương pháp nghiên cứu. Chính vì vậy văn
hóa đọc cần phải chú trọng phát triển hơn bao giờ hết cho sinh viên, cho người học
trong các trường đại học ở Việt Nam hiện nay.
Nằm trong hệ thống giáo dục đại học Việt Nam, ĐHQGHN là trung tâm đào
tạo và NCKH đa ngành lớn hàng đầu của cả nước. Định hướng phát triển của
ĐHQGHN là xây dựng ĐHQGHN trở thành đại học nghiên cứu, vì vậy một trong
những nhiệm vụ quan trọng cần phải chú trọng đến người học là phát triển văn hóa
đọc cho họ. Hay nói cách khác là cần phát triển việc tự học, tự nghiên cứu tài liệu
một cách tự giác, mang lại đam mê, thích thú đọc tài liệu cho họ, đồng thời giúp họ
nhanh chóng tiếp cận đến nội dung cũng như các loại hình tài liệu khác nhau. Việc
tiếp nhận thông tin từ sách, báo, tài liệu có nhiều cách khác nhau nhưng trong đó
đọc là một hoạt động tích cực nhất cho sinh viên - những người bắt đầu làm quen
với NCKH. Nhiệm vụ này, trước hết thuộc về Trung tâm TT-TV của ĐHQGHN và
các phòng tư liệu của các khoa trong trường thành viên. Để có cơ sở khoa học để đề
xuất các giải pháp khả thi, tôi quyết định lựa chọn đề tài “Văn hóa đọc của sinh

viên Đại học Quốc Gia Hà Nội” làm đề tài luận văn tốt nghiệp thạc sĩ ngành Thông
tin – Thư viện của mình.

-8-


2. Tình hình nghiên cứu
"Văn hoá đọc" gần đây đã được nhiều người đề cập với ý nghĩa là một hoạt
động văn hoá của con người thông qua việc đọc sách báo, tài liệu để tiếp nhận và
xử lý thông tin, tri thức một cách khoa học và bổ ích. Văn hoá đọc góp phần to lớn
vào việc bồi dưỡng, nâng cao kiến thức, hình thành và phát triển nhân cách con
người. Để tôn vinh những giá trị mà văn hóa đọc mang lại, đã có bài báo khẳng
định “Đọc sách là hành trình của trí tuệ và tâm hồn”, “Đọc sách là biểu tượng của
văn hóa và văn minh” hay một trang web quen thuộc với bạn đọc đăng tải những
thông tin về vấn đề đọc sách và văn hóa đọc “sachhay.com”. Từ nhiều năm nay, tại
các quốc gia ở châu Âu, Bắc Mỹ, châu Phi các hoạt động quảng bá cho ngày đọc
sách được trình diễn khắp nơi trên đường phố, trên các phương tiện giao thông
cộng cộng, trong giảng đường, thư viện, … Tiêu biểu nghiên cứu văn hóa đọc ở
Đức cho thấy văn hóa đọc Ðức đã có một sự phát triển liên tục, bén rễ sâu xa trong
đời sống xã hội và đời sống tinh thần người Ðức. Hội chợ sách Leipzip, một truyền
thống giao lưu văn hóa đọc từ thế kỷ 17, được tổ chức vào tháng 3 mỗi năm cũng
đang thu hút một số lượng lớn người triển lãm. Trên thế giới đã thiết lập “một ngày
tôn vinh để giữ gìn và phát triển văn hóa đọc” vào 23/04 hàng năm và người Việt
Nam cũng thực sự chờ mong một ngày Tết đọc sách đến cho người Việt.
Bộ Văn Hóa Thể Thao và Du Lịch đã tổ chức cuộc hội thảo với chủ đề
“Định hướng và giải pháp phát triển văn hóa đọc ở Việt Nam”. Ngoài ra, Bộ còn
xây dựng dự thảo Đề án “Phát triển văn hóa đọc trong cộng đồng giai đoạn 20112020, tầm nhìn 2030” . Đề án là bước cụ thể hóa thực hiện Chiến lược phát triển
văn hóa đến năm 2020 với mục tiêu “Xây dựng phong trào đọc sách trong xã hội,
góp phần xây dựng có hiệu quả thế hệ đọc tương lai”.
Tuy nhiên, không phải ai cũng nhận thấy được tầm quan trọng của văn hóa

đọc trong đời sống xã hội. Nhiều nhà nghiên cứu tự đặt ra những câu hỏi “Thế kỷ
XXI, liệu văn hóa đọc có còn nữa không?”, “Người Việt có “văn hóa đọc”?”, “Văn
hóa đọc có cần báo động?”. Để trả lời được câu hỏi đặt ra, đã có không ít bài viết
tìm hiểu về văn hóa đọc thời đại hiện nay: “Văn hóa đọc, một cảm nhận” trên Tạp
chí Sách và Đời sống; “Văn hóa đọc và phát triển văn hóa đọc ở Việt Nam” của tác
giả Nguyễn Hữu Viêm – Thư viện Quốc Gia Việt Nam; “Đọc và văn hóa đọc trước
-9-


ngưỡng cửa thông tin” của tác giả Phạm Văn Tình đăng trên Tạp chí Thư viện số
3/2006; bài viết “Văn hóa đọc: Cơ hội và thách thức” của sinh viên Phạm Đức Sinh viên trường Đại học Văn hiến Thành phố Hồ Chí Minh, “Cảm nhận về văn
hóa đọc” của tác giả Nguyễn Quang A – Viện trưởng Viện Nghiên cứu Phát triển
IDS hay bài báo cáo “Văn hóa đọc của sinh viên trường Đại học Lao động – Xã hội
trước ngưỡng cửa công nghệ thông tin” của Nhóm sinh viên khoa Công tác xã hội,
trường Đại học Lao động – Xã hội năm 2011.
Về vấn đề phát triển văn hóa đọc, nhiều đề tài luận văn thạc sỹ đã nghiên
cứu như: “Văn hóa đọc trong thanh niên hiện nay (trường hợp tỉnh Khánh Hòa)”
của học viên Nguyễn Thị Khánh Hòa, luận văn thạc sỹ khoa văn hóa học trường
Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc Gia Thành phố Hồ Chí
Minh, năm 2009; “Nghiên cứu đánh giá nhu cầu đọc sách để định hướng xuất bản
sách phục vụ bạn đọc, góp phần phát triển văn hoá đọc tại các vùng miền” của tác
giả Đỗ Kim Thịnh, Cục Xuất bản - Bộ Thông tin và Truyền thông, đề tài khoa học
năm 2009; “Tăng cường và mở rộng phong trào đọc sách báo ở nông thôn tỉnh
Hậu Giang” của tác giả Võ Thị Thu Hương, Luận văn Thạc sĩ Khoa học Thư viện,
Trường Đại học Văn hoá, năm 2006; “Thực trạng văn hóa đọc của thanh thiếu niên
tại Bình Dương hiện nay” của học viên Nguyễn Văn Thục, đề tài nghiên cứu khoa
học xã hội và nhân văn cấp tỉnh, năm 2011; “Phát triển văn hoá đọc cho sinh viên
Học viện Cảnh sát nhân dân” của học viên Đỗ Thu Thơm, chuyên ngành Khoa học
Thư viện, Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc gia Hà
Nội, năm 2011; … Các công trình nghiên cứu trên đều đi từ thực trạng văn hóa đọc

và mục đích cuối cùng là đưa ra những giải pháp, chiến lược nhằm phát triển văn
hóa đọc, khẳng định vai trò văn hóa đọc trong đời sống xã hội.
Như vậy, đề tài “Văn hóa đọc của sinh viên Đại học Quốc Gia Hà Nội,” đi
sâu tìm hiểu văn hóa đọc của sinh viên Đại học Quốc Gia Hà Nội để từ đó đưa ra
định hướng phát triển văn hóa đọc cho sinh viên là một nghiên cứu hoàn toàn mới,
chưa có đề tài nào nghiên cứu trước đó.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu

- 10 -


Trên cơ sở nghiên cứu lý luận và phân tích những yếu tố ảnh hưởng tác động
đến văn hóa đọc và nghiên cứu thực trạng văn hóa đọc của sinh viên Đại học Quốc
Gia Hà Nội, tác giả luận văn muốn đưa ra các giải pháp nhằm phát triển văn hóa
đọc cho sinh viên Đại học Quốc Gia Hà Nội.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để thực hiện mục tiêu trên, luận văn tập trung giải quyết các nhiệm vụ sau:
- Tìm hiểu cơ sở lý luận về văn hóa đọc nói chung và văn hóa đọc của sinh viên
nói riêng.
- Nghiên cứu khái quát đặc điểm của ĐHQGHN và Trung tâm Thông tin thư
viện cùng các khoa của các trường thành viên.
- Nghiên cứu điều kiện sống và học tập của sinh viên ĐHQGHN.
- Nghiên cứu thực trạng văn hóa đọc của sinh viên Đại học Quốc Gia Hà Nội.
- Đề xuất các giải pháp nhằm phát triển văn hóa đọc cho sinh viên Đại học
Quốc Gia Hà Nội.
4. Giả thiết nghiên cứu
Nếu văn hóa đọc của sinh viên Đại học Quốc gia Hà Nội được cải thiện và
phát triển thì sẽ nâng cao được kỹ năng tự học, tự nghiên cứu cho sinh viên, đồng
thời Nhà trường, các khoa và thư viện sẽ phát huy được hiệu quả tổ chức và hoạt

động của mình.
5. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là phát triển văn hóa đọc cho sinh viên.
6. Phạm vi nghiên cứu
- Phạm vi thời gian: năm 2013 – năm tác giả tiến hành điều tra, khảo sát thực
tế và phát bảng hỏi
- Phạm vi không gian: văn hóa đọc của sinh viên Đại học Quốc Gia Hà Nội.
7. Phương pháp nghiên cứu
- Luận văn sử dụng phương pháp luận duy vật biện chứng, duy vật lịch sử và
quan điểm của Đảng, Nhà nước về công tác sách, báo và tài liệu.
- Luận văn sử dụng các phương pháp nghiên cứu cụ thể sau:
+ Phương pháp nghiên cứu, thu thập, phân tích và tổng hợp tài liệu
+ Phương pháp thống kê số liệu, bảng biểu
- 11 -


+ Phương pháp quan sát
+ Phương pháp điều tra bảng hỏi
8. Ý nghĩa khoa học và ứng dụng của đề tài
8.1. Về mặt khoa học:
Luận văn góp phần hoàn thiện cơ sở lý luận về phát triển văn hóa đọc cho
người dùng tin nói chung và cho sinh viên nói riêng.
8.2. Về mặt ứng dụng:
Kết quả khảo sát thực trạng và các giải pháp phát triển văn hóa đọc của sinh
viên trong luận văn sẽ là cơ sở khoa học và thực tiễn để phát triển văn hóa đọc cho
sinh viên Đại học Quốc Gia Hà Nội. Đồng thời, luận văn là tài liệu tham khảo cho
các nghiên cứu sau này có liên quan đến hướng nghiên cứu của đề tài.
9. Kết quả nghiên cứu
Công trình nghiên cứu của tác giả được trình bày từ 100 đến 150 trang.
Ngoài phần mở đầu, danh mục tài liệu tham khảo và các phụ lục, nội dung

luận văn có bố cục gồm 3 chương:
Chương 1: Cơ sở lý luận và thực tiền về văn hóa đọc của sinh viên Đại học
Quốc Gia Hà Nội
Chương 2: Thực trạng văn hóa đọc của sinh viên Đại học Quốc Gia Hà Nội
Chương 3: Giải pháp phát triển văn hóa đọc cho sinh viên Đại học Quốc Gia
Hà Nội.

- 12 -


NỘI DUNG
CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ VĂN HÓA ĐỌC
CỦA SINH VIÊN ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
1.1. Những vấn đề lý luận chung về văn hóa đọc
1.1.1. Khái niệm văn hóa đọc
Văn hóa đọc - một bộ phận của Văn hóa – là một trong những động lực thúc
đẩy sự hình thành nên con người mới, những công dân có hiểu biết, có trí tuệ để có
thể thích ứng với sự phát triển của xã hội hiện đại – xã hội dựa trên nền tảng của
nền kinh tế tri thức..
Như vậy, để hiểu về văn hóa đọc trước hết cần làm rõ khái niệm về văn hóa.
Đây là khái niệm mang nội hàm rộng với rất nhiều cách hiểu khác nhau, liên quan
đến mọi mặt đời sống vật chất và tinh thần của con người.
Theo Wikipedia định nghĩa “Văn hóa là bao gồm tất cả những sản phẩm của
con người, và như vậy, văn hóa bao gồm cả hai khía cạnh: khía cạnh phi vật chất
của xã hội như ngôn ngữ, tư tưởng, giá trị và các khía cạnh vật chất như nhà cửa,
quần áo, các phương tiện, v.v... Cả hai khía cạnh cần thiết để làm ra sản phẩm và
đó là một phần của văn hóa”.
Trong Từ điển tiếng Việt của Viện Ngôn ngữ học, do Nhà xuất bản Đà Nẵng
và Trung tâm Từ điển học xuất bản năm 2004 thì đưa ra một loạt quan niệm về văn
hóa: “Văn hóa là tổng thể nói chung những giá trị vật chất và tinh thần do con

người sáng tạo ra trong quá trình lịch sử -văn hóa là một hệ thống hữu cơ các giá trị
vật chất và tinh thần do con người sáng tạo và tích lũy qua quá trình hoạt động thực
tiễn,trong sự tương tác giữa con người với môi trường tự nhiên xã hội.” Hay nói
tổng quát: Văn hóa là những hoạt động của con người nhằm thỏa mãn nhu cầu đời
sống tinh thần. Văn hóa là tri thức, kiến thức khoa học. Văn hóa là trình độ cao
trong sinh hoạt xã hội, biểu hiện của văn minh. Văn hóa còn là cụm từ để chỉ một
nền văn hóa của một thời kỳ lịch sử cổ xưa, được xác định trên cơ sở một tổng thể
những di vật có những đặc điểm giống nhau, ví dụ Văn hóa Hòa Bình, Văn hóa
Đông Sơn.

- 13 -


Theo PGS.TSKH Trần Ngọc Thêm cho rằng: Văn hóa là một hệ thống hữu cơ
các giá trị vật chất và tinh thần do con người sáng tạo và tích lũy qua quá trình hoạt
động thực tiễn, trong sự tương tác giữa con người với môi trường tự nhiên và xã
hội của mình [43, tr.2].
Như vậy, có thể định nghĩa Văn hóa là sản phẩm của loài người, văn hóa được
tạo ra và phát triển trong quan hệ qua lại giữa con người và xã hội. Song, chính văn
hóa lại tham gia vào việc tạo nên con người, và duy trì sự bền vững và trật tự xã
hội. Văn hóa được truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác thông qua quá trình xã hội
hóa. Văn hóa được tái tạo và phát triển trong quá trình hành động và tương tác xã
hội của con người. Văn hóa là trình độ phát triển của con người và của xã hội được
biểu hiện trong các kiểu và hình thức tổ chức đời sống và hành động của con người
cũng như trong giá trị vật chất và tinh thần mà do con người tạo ra.
Văn hóa được thể hiện hàng ngày, rất gần gũi với mọi người chúng ta như:
văn hóa dân tộc, văn hóa lễ hội, văn hóa đô thị, văn hóa lối sống, văn hóa giáo
dục... Nhưng nhìn chung tất cả các hiện tượng văn hóa đều thuộc về một trong bốn
thành tố sau: Văn hóa nhận thức, Văn hóa tổ chức cộng đồng, Văn hóa ứng xử với
môi trường tự nhiên và Văn hóa ứng xử với môi trường xã hội. Do vậy, Văn hóa là

yếu tố quyết định sự tồn tại và phát triển của xã hội loài người.
Từ khi chữ viết ra đời, con người bắt đầu có nhu cầu đọc chữ và sách, báo
chính là sản phẩm của công nghệ in ấn phát triển. Sách được đánh giá là nguồn lưu
trữ tri thức, văn hóa của một quốc gia, dân tộc với số lượng lớn, chính xác và dễ
khai thác nhất. Đồng thời, sách còn là cơ sở cho giao lưu văn hóa giữa các nền văn
hóa. Vì vậy, hoạt động đọc của con người ngày càng trở nên phổ biến hơn trong xã
hội. Đọc không còn chỉ là "để biết", để thừa nhận và tiếp nhận tri thức nhân loại mà
là đọc để phát hiện, để chứng minh chân lý. Khi đó, con người định hướng đến
sách, đến các bộ sách, đến các công trình lớn, đến các lý luận và học thuyết. Sự đọc
này ngầm định sự giao tiếp và tranh luận.
Ngày nay, với sự phát triển của khoa học công nghệ, con người được tiếp thu
mọi lĩnh vực tri thức thông tin qua truyền thanh, truyền hình và các phương tiện
truyền thông khác nhưng sách vẫn giữ vai trò vô cũng quan trọng đối với cuộc
sống. Đọc sách là một hoạt động có tính chất văn hóa của người đọc. Tuy nhiên,
- 14 -


đọc sách gì và đọc như thế nào cũng là một phương diện của văn hóa mà chúng ta
vẫn gọi là Văn hóa đọc.
"Văn hóa đọc" là một khái niệm mới, chưa có định nghĩa cũng như khái
niệm nào nói văn hóa đọc là gì và nó như thế nào? Mặc dù vậy, theo thời gian cũng
như sự phát triển của xã hội, thuật ngữ “văn hóa đọc” ngày càng được nói nhiều
hơn trên các phương tiện thông tin đại chúng và trở thành đề tài khoa học.
Có nhiều quan niệm khác nhau về văn hóa đọc:
Văn hoá đọc là một khái niệm có hai nghĩa, một nghĩa rộng và một nghĩa
hẹp.:
+ Ở nghĩa rộng, đó là ứng xử đọc, giá trị đọc và chuẩn mực đọc của mỗi cá
nhân, của cộng đồng xã hội và của các nhà quản lý và cơ quan quản lý nhà nước.
Như vậy, văn hoá đọc ở nghĩa rộng là sự hợp thành của ba yếu tố, hay chính xác
hơn là ba lớp như ba vòng tròn không đồng tâm, ba vòng tròn giao nhau.

+ Ở nghĩa hẹp, đó là ứng xử, giá trị và chuẩn mực đọc của mỗi cá nhân. Ứng
xử, giá trị và chuẩn mực này cũng gồm ba thành phần: thói quen đọc, sở thích đọc
và kỹ năng đọc [33, tr. 1-2].
Theo ThS. Chu Vân Khánh, văn hóa đọc là một loại hình hoạt động văn hóa,
bởi lẽ: Đọc sách là tiêu thụ, quảng bá những giá trị văn hóa và các giá trị từ sách
báo mà người đọc tiếp nhận, đã được thực thao và làm nền tảng để tiếp tục sáng tạo
nên những giá trị mới. Vì vậy, có thể xem văn hóa đọc là một chỉ số văn hóa của
một cộng đồng, một xã hội.
ThS. Bùi Văn Vượng lại coi thuật ngữ văn hóa đọc là đọc sách có văn hóa,
hay xây dựng một xã hội đọc sách.
Theo TS. Lê Văn Viết, quan niệm đọc đến một mức độ, trình độ nhất định nào
đó thì mới được coi là văn hóa đọc [37, tr. 2].
Như vậy, Văn hóa đọc có thể hiểu một cách khái quát là cách thức ứng xử và
đánh giá đọc của mỗi cá nhân thông qua thói quen đọc, sở thích đọc và kỹ năng đọc
của bản thân.
Ngày nay với sự bùng nổ công nghệ thông tin, con người ngày càng tiếp xúc
với các phương tiện truyền thông hiện đại, nhiều ý kiến lo ngại rằng văn hoá nghe
nhìn sẽ ngày càng lấn lướt văn hoá đọc. Thậm chí nhiều người đổ lỗi cho sự phát
- 15 -


triển của công nghệ đã khiến cho văn hóa đọc ngày càng bị lãng quên. Tuy nhiên
xu hướng thế giới cho thấy, việc ra đời sách điện tử không hề làm mất đi văn hóa
đọc mà thậm chí bởi sự tiện dụng, sách điện tử còn làm cho số người đọc sách tăng
lên. Chúng ta không nên gạt bỏ một công nghệ hiện đại khi mà nó hoàn toàn có khả
năng thúc đẩy sự phát triển văn hóa đọc . Bởi lẽ các loại hình văn hóa khác như văn
hóa nghe nhìn, không thể lấn át văn hóa đọc mà chúng chỉ bổ sung cho nhau, mỗi
loại hình có một thế mạnh riêng. Văn hóa đọc bao giờ cũng đóng vai trò chủ đạo
trong việc truyền bá và tiếp thu kiến thức một cách hệ thống và sâu sắc mà văn hóa
nghe nhìn không thể làm được như vậy. Trong khi văn hóa nghe nhìn lấy đi sự sáng

tạo, trí tưởng tượng thì văn hóa đọc lại làm giàu thêm những thứ đó. Đọc sách vẫn
luôn được coi là một cách thưởng thức văn hóa sang trọng và có chiều sâu. Vì thế
chúng ta không cần quá lo lắng việc trong Xã hội phát triển văn hóa đọc sẽ mất đi,
cái cần làm là chúng ta hãy mở rộng hơn những cách tiếp cận việc đọc.
1.1.2. Nội dung của văn hóa đọc
Từ định nghĩa trên, Văn hóa đọc được biểu hiện qua các đặc điểm của người
đọc đó là nhu cầu đọc, thói quen đọc và sở thích đọc, kỹ năng đọc và văn hóa ứng
xử với tài liệu
1. Nhu cầu đọc
Nhu cầu là một hiện tượng tâm lý trong cấu trúc tâm lý chung của con
người. Nhu cầu đọc là đòi hỏi khách quan của chủ thể (cá nhân, nhóm, xã hội) đối
với việc tiếp nhận và sử dụng tài liệu nhằm duy trì và phát triển các hoạt động sống
của con người. Nói cách khác, nhu cầu đọc là thái độ của chủ thể với việc đọc như
một hoạt động sống không thể thiếu được.
Yêu cầu đọc là biểu hiện cụ thể của nhu cầu đọc. Khi người đọc đã xác định
được đối tượng tài liệu cụ thể thỏa mãn được nhu cầu của mình thì họ đưa ra yêu
cầu tương ứng. Yêu cầu tương tự sễ lặp đi lặp lại nhiều lần ở những đối tượng cụ
thể khác nhau. Tuy nhiên cũng có trường hợp đặc biệt, yêu cầu đọc không phản ánh
nhu cầu mà xuất phát từ những yêu cầu công việc đột xuất. Ví dụ để thực hiện bài
tập của một môn học ở một thời điểm cụ thể nào đó [20, tr. 69].
Nhu cầu đọc bắt nguồn từ yêu cầu tiếp nhận thông tin khi con người tham
gia các hoạt động sống khác nhau, nhưng nó chỉ thực sự hình thành với điều kiện
- 16 -


chủ thể có khả năng giải mã thông tin được mã hóa trong tài liệu. Khi đòi hỏi đối
với việc đọc trở nên cấp bách, thường xuyên, nhu cầu đọc xuất hiện.
Nhu cầu đọc bao giờ cũng gắn liền với số lượng và chất lượng tài liệu được
lưu hành trong một xã hội cụ thể. Thư viện là nơi lưu trữ và truyền tải tri thức
thông qua vốn tài liệu và công tác phục vụ bạn đọc. Vì vậy, nhu cầu đọc là nguồn

gốc của hoạt động thư viện. Hoạt động thư viện không thể tồn tại và phát triển ở
những nơi không có nhu cầu đọc.
2. Thói quen đọc và sở thích đọc
Thói quen là một chuỗi phản xạ có điều kiện do rèn luyện mà có. Phản xạ có
điều kiện là những hành vi (nếp sống, phương pháp làm việc) được lặp đi lại nhiều
lần trong cuộc sống và rèn luyện (học tập, làm việc), đó là những hành vi định hình
trong cuộc sống và được coi là bản chất thứ hai của con người nhưng nó không sẵn
có mà là kết quả của việc sinh hoạt, học tập, rèn luyện, tu dưỡng của mỗi cá nhân
trong cuộc sống hằng ngày, tuy vậy thói quen cũng có thể bắt nguồn từ một nguyên
nhân đôi khi rất tình cờ hay do bị lôi kéo từ một cá thể khác [42, tr.1].
Sở thích hay còn gọi là thú vui, thú tiêu khiển là những hoạt động thường
xuyên hoặc theo thói quen để đem lại cho con người niềm vui, sự phấn khởi trong
khoảng thời gian thư giãn, sở thích cũng chỉ về sự hứng thú, thái độ ham thích đối
với một đối tượng nhất định [41, tr.1].
Hứng thú là một thái độ đặc thù của cá nhân đối với đối tượng nào đó, do ý
nghĩa của nó trong đời sống và do sự hấp dẫn về tình cảm của nó (Theo định nghĩa
của Tâm lý học). Hứng thú biểu hiện ở sự tập trung cao độ, ở sự say mê, hấp dẫn
bởi nội dung hoạt động, ở bề rộng và chiều sâu của hứng thú. Hứng thú làm nảy
sinh khát vọng hành động, làm tăng hiệu quả của hoạt động nhận thức, tăng sức
làm việc. Như vậy, hứng thú đọc là thái độ đặc biệt của chủ thể đối với đối tượng
của hoạt động đọc sách, vì sự cuốn hút về mặt tình cảm và ý nghĩa thiết thực của nó
trong đời sống cá nhân.
Mỗi người đều có lối sống, thói quen và sở thích riêng rất khác nhau và việc
thay đổi những thói quen của một con người rất khó khăn. Có những thói quen
được hình thành từ hứng thú về một hoạt động nào đó hay từ những sở thích của

- 17 -


bản thân. Vì vậy, trên khía cạnh lợi ích và tác hại của hành động mang lại mà có thể

chia thói quen thành hai loại là thói quen tốt và thói quen xấu.
Thói quen đọc hay sở thích đọc là một hoạt động hay mối quan tâm của con
người liên quan đến việc đọc sách, báo, tài liệu có tính chất lặp lại nhiều lần trong
thời gian rảnh rỗi nhằm thỏa mãn nhu cầu tinh thần của bản thân.
Có những thói quen đọc sách bắt nguồn từ việc đọc sách thường xuyên trong
thời gian dài ví dụ như một ngày luôn giành từ 2 đến 3 giờ đề đọc sách hay từ hứng
thú đọc một loại sách nhất định như truyện tranh, tiểu thuyết, sách văn học, sách về
khoa học viễn tưởng, … Vì vậy, nhu cầu đọc và hứng thú đọc là nhân tố kích thích
hoạt động đọc làm cho hoạt động đọc đạt hiệu quả cao (tăng cường sức chú ý,
cường độ đọc cao, có sự tham gia đến mức tối ưu của các quá trình tư duy, tưởng
tượng, trí nhớ) dẫn tới việc thụ cảm tài liệu ở mức độ cao.
Ngày nay, giới trẻ nói chung, sinh viên nói riêng ngày càng tiếp cận nhiều
hơn với các loại hình truyền thông đa phương tiện, trở nên “lười” đọc sách, thư
viện cũng vì vậy ngày càng vắng bóng sinh viên. Bạn đọc có xu hướng tìm kiếm
một cách nhanh chóng, ngắn gọn, dễ hiểu thay vì ngồi đọc, nghiền ngẫm suy nghĩ,
ghi chép thông tin. Như vây, việc hình thành thói quen đọc sách và tạo hứng thú
đọc cần được rèn luyện không chỉ trong môi trường giáo dục gia đình, Nhà trường
mà cả sự quan tâm của Thư viện.
3. Kỹ năng đọc
Việc đọc được miêu tả như một phương tiện giao tiếp và mục tiêu chính của
đọc là hiểu được ý nghĩa của các tài liệu in ấn hoặc các tài liệu viết. Đọc có nghĩa là
“đọc và hiểu”, nhưng để hiểu được các vấn đề đã đọc thì bản thân mỗi người đọc
cần có kỹ năng.
Có nhiều cách định nghĩa khác nhau về kỹ năng và thường được nhắc đến
trong đời sống hàng ngày như kỹ năng sống, kỹ năng giao tiếp, kỹ năng chuyên
môn, kỹ năng mềm, .... Tuy nhiên hầu hết chúng ta đều thừa nhận rằng kỹ năng
được hình thành khi chúng ta áp dụng kiến thức vào thực tiễn. Kỹ năng học được
do quá trình lặp đi lặp lại một hoặc một nhóm hành động nhất định nào đó một cách
có ý thức. Kỹ năng luôn có chủ đích và định hướng rõ ràng [22, tr.1].


- 18 -


Vậy, Kỹ năng là năng lực hay khả năng của chủ thể thực hiện thuần thục
một hay một chuỗi hành động trên cơ sở hiểu biết (kiến thức hoặc kinh nghiệm)
nhằm tạo ra kết quả mong đợi [22, tr. 1].
Kỹ năng đọc là một loại kỹ năng mềm, phương thức giúp người đọc có thể
tiếp nhận thông tin một cách nhanh nhất. Cùng với nhu cầu đọc, hứng thú đọc thì
kỹ năng đọc là yếu tố quan trọng cấu thành văn hóa đọc.
Nếu xét theo tổng quan thì kỹ năng phân ra làm 3 loại: Kỹ năng chuyên
môn, kỹ năng sống và kỹ năng làm việc. Nếu xét theo liên đới chuyên môn kỹ năng
bao gồm: kỹ năng cứng, kỹ năng mềm và kỹ năng hỗn hợp.
Kỹ năng đọc là thành tố quan trọng nhất trong cấu trúc văn hóa đọc, là khả
năng hiểu, lĩnh hội và cảm thụ tác phẩm, biến tri thức, kinh nghiệm trong sách
thành tri thức, kinh nghiệm của bản thân để có thể vận dụng một cách nhuần
nhuyễn, sáng tạo trong khi tiến hành các hoạt động sống khác nhau [10, tr. 113].
Kỹ năng đọc phụ thuộc vào nhiều yếu tố như tri thức, kinh nghiệm, năng lực
và mục đích đọc của mỗi cá nhân. Trong đó, mục đích đọc là yếu tố quan trọng
trong việc lựa chọn phương pháp đọc phù hợp với yêu cầu đọc. Từ đó sẽ giúp các
bạn tránh được đọc tràn lan, tốn công sức và quản lý thời gian đọc sách hợp lý.
Để văn hóa đọc trở thành trở thành một chuẩn mực phải có kỹ năng đọc. Kỹ
năng đọc là sự thể hiện tổ hợp những thao tác tư duy được xác lập thành thói quen
ứng xử đọc. Các thao tác tư duy đó là:
- Lựa chọn có ý thức đề tài hoặc những vấn đề cần đọc cho bản thân, biết
vận dụng thành thạo các cách đọc khác nhau đối với từng loại tài liệu đọc (tài liệu
nghiên cứu, tài liệu phổ thông, tài liệu giải trí...).
- Biết định hướng nguồn tài liệu cần thiết cho bản thân, trước hết trong các
thư mục và mục lục thư viện, các nguồn tra cứu như: bách khoa thư, từ điển giải
nghĩa, các loại sổ tay, cẩm nang... và biết định hướng nguồn tài liệu cần thiết cho
bản thân trong môi trường số (trong các cơ sở dữ liệu, trên Internet).

- Thể hiện được tính hệ thống, tính liên tục trong quá trình lựa chọn tài liệu
đọc (đọc từ trình độ thấp lên trình độ cao, từ các vấn đề đơn giản tới phức tạp).
- Biết cách tiếp nhận tối đa và sâu sắc nội dung tài liệu đọc, kể cả cách ngồi,
khoảng cách giữa mắt và tài liệu đọc,v...v...
- 19 -


- Biết vận dụng các biện pháp kỹ thuật để củng cố và đào sâu những nội
dung đã đọc như ghi chép, lập hộp phiếu thư mục, soạn tóm tắt, viết chú giải, trao
đổi với bạn bè, đồng nghiệp...
- Biết vận dụng vào thực tiễn những nội dung đã đọc.
Trong kỹ năng đọc yếu tố nào cũng quan trọng, không được coi nhẹ một yếu
tố nào. Nếu không biết vận dụng các cách đọc khác nhau đối với từng loại tài liệu
đọc, đọc tài liệu nghiên cứu cũng như đọc tài liệu giải trí, không thể tiếp nhận được
nội dung sâu sắc của tài liệu nghiên cứu. Vì mục đích cuối cùng của kỹ năng đọc là
đọc có hiệu quả cao nhất, nắm chắc nội dung cốt lõi và biết vận dụng những điều
đã đọc được vào cuộc sống của chính người đọc [33, tr.3].
Trong giai đoạn hiện nay, giáo dục đại học đã bắt đầu chuyển qua đào tạo
theo học chế tín chỉ đòi hỏi sinh viên hình thành thói quen tích cực tự học. Tức là
sinh viên cần phải “Tự nghiên cứu, tìm tòi- Tự thể hiện- Tự kiểm tra và điều chỉnh”
nhằm hình thành phẩm chất cần cù, nghiêm túc, không ỷ lại, trông chờ, chủ động,
tích cực và sáng tạo. Như vậy, bản thân mỗi sinh viên cần tự rèn luyện cho mình kỹ
năng đọc để có thể đáp ứng được các yêu cầu trong học tập.
4. Văn hóa ứng xử với tài liệu
Ứng xử là sự phản ứng của con người đối với sự tác động của người khác
trong những tính huống xác định. Ứng xử không thể hiện sự chủ động trong giao
tiếp mà chủ động trong phản ứng có sự lựa chọn, tính toán, thể hiện qua thái độ,
hành vi, cử chỉ, cách nói năng - tuỳ thuộc vào tri thức, nhân cách nhằm đạt kết quả
giao tiếp cao nhất.
Vậy, kết hợp với định nghĩa văn hóa ở trên, văn hóa ứng xử là cách mà con

người thể hiện thái độ của mình đối với người khác và với môi trường xung quanh,
được biểu hiện qua hình thái của văn hóa nói và văn hóa hành động.
Khi nói đến văn hóa ứng xử với tài liệu tức là nói tới việc bạn thu nhận các
thông tin trong tài liệu bằng cách nào ? Bạn đối xử với tài liệu đó ra sao ? Hay nói
một cách khác là bạn thể hiện sự tôn trọng đối với cuốn sách bạn đang sử dụng như
thế nào ?
Văn hóa ứng xử với tài liệu chính là thái độ và hành động của người đọc đối
với tài liệu trong quá trình đọc. Nhũng biểu hiện này phục thuộc vào tính cách và
- 20 -


nhận thức của mỗi cá nhân bao gồm các thái độ : giữ gìn, khai thác/ sử dụng đúng
mục đích, không có hành vi làm hư tổn tài liệu. Ngoài ra, văn hóa ứng xử với tài
liệu còn thể hiện qua tư thế đọc, nơi lưu giữ tài liệu.
Đối với sinh viên, là người tiếp xúc với tài liệu thường xuyên trong quá trình
học tập, nghiên cứu, thói quen đọc ảnh hưởng rất lớn đến văn hóa ứng xử với tài
liệu của mỗi người.Vì vậy, ngoài việc hình thành thói quen đọc sách hàng ngày,
bản thân mỗi người cần tạo cho mình một thái độ trân trọng tài liệu – sản phẩm trí
tuệ của nhân loại.
1.1.3. Các yếu tố ảnh hưởng đến văn hóa đọc
Văn hóa đọc chịu ảnh hưởng của nhiều yếu tố như Môi trường xã hội, Lứa
tuổi, Trình độ văn hóa, Sự phát triển của khoa học công nghệ, Hoạt động của Thư
viện, Phương pháp đào tạo đại học hiện nay, …
Môi trường xã hội
Văn hóa đọc với ý nghĩa là một bộ phận của văn hóa, do đó nó chịu ảnh
hưởng khá sâu sắc của các điều kiện môi trường xã hội.
Khi nền văn hóa phát triển sẽ sản sinh ra thông tin đa dạng, sẽ được lưu giữ
và chuyển tải bằng nhiều phương tiện khác nhau để có thể bảo quản và lưu truyền
cho các thế hệ sau. Nếu như trước kia sách là con đường lớn nhất để con người tiếp
cận thông tin và tiếp cận văn hóa, tri thức thì nay với sự phát triển của cuộc sống

hiện đại, ngoài sách, con người còn tiếp nhận thông tin của các phương tiện đại
chúng như: Truyền hình, phim ảnh, internet…đặc biệt kể từ khi xuất hiện Internet,
chỉ với một chiếc máy tính, con người ta có thể ngồi một chỗ và tìm hiểu văn hóa,
lịch sử, thông tin của cả thế giới. Văn hóa đọc vì thế thay đổi để bắt kịp cuộc sống
hiện đại.
Nhiều ý kiến cho rằng sự phát triển này sẽ khiến cho văn hóa đọc ngày càng
bị lãng quên, con người sẽ “chạy” theo các thiết bị hiện đại làm cho con người nhàn
hơn, ít phải suy nghĩ hơn. Tuy nhiên, nếu nhìn lại sự thay đổi với sự phát triển
nhanh của Xã hội, để bắt nhịp với cuộc sống hiện đại chúng ta cũng nên có một cái
nhìn khách quan hơn với các phương tiện điện tử nói riêng và văn hóa đọc nói
chung. Chúng ta không nên gạt bỏ một công nghệ hiện đại khi mà nó hoàn toàn có
khả năng thúc đẩy sự phát triển văn hóa đọc.
- 21 -


Lứa tuổi
Mỗi giai đoạn lứa tuổi của con người có những đặc điểm tâm lý riêng do
hoạt động chủ đạo chi phối. Tâm lý học phân chia 4 giai đoạn lứa tuổi tương ứng
với những hoạt động chủ đạo có tính chất khác nhau: trước tuổi học; học tập; tham
gia lao động sản xuất; nghỉ lao động.
Các đặc điểm tâm lý lứa tuổi ảnh hưởng khá rõ rệt tới nội dung và phương
thức thỏa mãn nhu cầu đọc.
Trình độ văn hóa
Trình độ văn hóa có ảnh hưởng trực tiếp đến đời sống tinh thần của con
người (nhu cầu hiểu biết và nhu cầu thẩm mỹ phát triển).
Là một nhu cầu tinh thần, nhu cầu tin và nhu cầu đọc cũng bị chi phối bởi
trình độ văn hóa của con người (nội dung và phương thức thỏa mãn)
Sự phát triển của khoa học công nghệ
Ngày nay, cùng với sự phát triển mạnh mẽ của khoa học kỹ thuật, các
phương tiện truyền thông điện tử, tin học đã đem đến rất nhiều tiện ích cho con

người. Sự phát triển của công nghệ thông tin và viễn thông, các hoạt động sản xuất
kinh doanh, giao lưu, trao đổi văn hóa,… đã có sự thay đổi mạnh mẽ theo chiều
hướng tích cực. Bên cạnh đó, nó cũng mang tới một số ảnh hưởng tiêu cực đặc biệt
là giới trẻ mà đối tượng chính là học sinh, sinh viên. Nhiều sinh viên thường chỉ có
thói quen tìm kiếm những thông tin giải trí, mà không tận dụng được hết những tiện
ích, những mặt tích cực của Internet đem lại để phục phụ học tập, nâng cao nghiệp
vụ chuyên môn.
Ví như sự ra đời của sách điện tử (e-book) đã thu hút số lượng lớn bạn đọc.
Một cuộc cách mạng về cách thức đọc được mở ra khi mà các thiết bị đọc sách với
kiểu dáng gọn nhẹ, chỉ tương đương thậm chí bé và nhẹ hơn một cuốn sách thông
thường nhưng lại có thế chứa hàng nghìn quyển sách. Song thời gian đã chứng
minh điều ngược lại, báo in vẫn sống khỏe bên cạnh báo điện tử và dù muốn hay
không muốn thì sách điện tử cũng đã có mặt và đang góp phần thay đổi văn hóa
đọc.
Như vậy, dù xã hội có phát triển hay cuộc sống có thay đổi thì văn hóa đọc
vẫn là yếu tố không thể thiếu, không thể thay thế. Bởi lẽ các loại hình văn hóa khác
- 22 -


như văn hóa nghe nhìn, không thể lấn át văn hóa đọc mà chúng chỉ bổ sung cho
nhau, mỗi loại hình có một thế mạnh riêng. Văn hóa đọc bao giờ cũng đóng vai trò
chủ đạo trong việc truyền bá và tiếp thu kiến thức một cách hệ thống và sâu sắc mà
văn hóa nghe nhìn không thể làm được như vậy. Trong khi văn hóa nghe nhìn lấy
đi sự sáng tạo, trí tưởng tượng thì văn hóa đọc lại làm giàu thêm những thứ đó. Đọc
sách vẫn luôn được coi là một cách thưởng thức văn hóa sang trọng và có chiều
sâu. Vì thế chúng ta không cần quá lo lắng việc trong xã hội phát triển văn hóa đọc
sẽ mất đi, cái cần làm là chúng ta hãy mở rộng hơn những cách tiếp cận việc đọc.
Hãy để công nghệ hiện đại có cơ hội bổ trợ cho cách thức đọc truyền thống, để văn
hóa đọc nói chung có thêm cơ hội phát triển.
Hoạt động của thư viện

Thư viện là kho tàng chứa tất cả của cải tinh thần của loài người
(G.V.Leibniz), là nơi thông tin được tổ chức, nơi dễ dàng tìm thấy thông tin mà tất
cả mọi người cần hoặc muốn. Thư viện bổ sung và cập nhật những kiến thức mới,
những phương pháp giảng dạy tiên tiến làm cho việc học tập và giảng dạy thêm
sinh động và hấp dẫn.. Thư viện chỉ có giá trị khi nó có thông tin và có người biến
thông tin trở nên hữu ích hay nói cách khác thư viện là cầu nối giữa thông tin và
người sử dụng.
Hoạt động của thư viện bao gồm việc tổ chức, quản lý và phát triển tất cả
các sản phẩm và dịch vụ của thư viện như : bổ sung tài liệu, cung cấp tài liệu, khai
thác thông tin, hoạt động tuyên truyền, giới thiệu tài liệu, hội nghị, hội thảo bạn
đọc, …
Mỗi loại hình thư viện phục vụ chuyên sâu cho một loại người đọc xác định
trong xã hội và có mục đích, yêu cầu, nội dung hoạt động không giống nhau. Tuy
nhiên, mục tiêu cuối cùng của hoạt động thư viện là nhằm thu hút số lượng lớn bạn
đọc thuộc mọi trình độ khác nhau, mọi thành phần xã hội, mọi lứa tuổi và giúp họ
thỏa mãn nhu cầu tin của bản thân. Như vậy, để đáp ứng mục tiêu đó, trước hết thư
viện cần nghiên cứu nhu cầu tin và đặc điểm của các nhóm người dùng tin khác
nhau của một thư viện cụ thể. Từ đó thư viện cần đa dạng hóa, hiện đại hóa các loại
hình sản phẩm và dịch vụ thông tin – thư viện, tăng cường hướng dẫn sử dụng thư
viện, quảng bá nguồn lực thông tin, vốn tài liệu và dịch vụ thư viện. Việc phát triển
- 23 -


dịch vụ thư viện phải được xem là một trong những giải pháp mang ý nghĩa chiến
lược trong việc xây dựng và phát triển văn hóa đọc trong cộng đồng trong bối cảnh
của nước ta hiện nay.
Ví dụ như hoạt động tuyên truyền, hướng dẫn việc đọc sách, hướng dẫn sử
dụng thư viện trong học tập đã gây dựng, nuôi dưỡng và định hình thói quen đọc,
giúp hình thành sở thích đọc tích cực, lành mạnh, uốn nắn những sở thích đọc lệch
lạc và góp phần từng bước giáo dục kỹ năng đọc cho người đọc. Quan trọng hơn là

tạo ra thói quen sử dụng thư viện trong học tập.
Hiện nay, thời đại bùng nổ thông tin, việc đánh giá văn hóa đọc trong cộng
đồng còn có những ý kiến khác nhau về vai trò của thư viện và tài liệu truyền
thống. Một vấn đề mới được đặt ra là: Thư viện cần làm gì để phát triển văn hóa
đọc trong cộng đồng trong khi công nghệ thông tin đang phát triển mạnh. Vì vậy,
các thư viện đang có xu hướng hiện đại hóa hoạt động thư viện bằng cách ứng dụng
công nghệ thông tin vào các khâu công tác nghiệp vụ như: tra cứu, khai thác vốn tài
liệu trên thiết bị điện tử, số hóa tài liệu, mượn liên thư viện trong nước và ngoài
nước, mượn trả tài liệu tự động, … Xuất hiện thuật ngữ Thư viện số, Thư viện điện
tử. Vì vậy, nhiều ý kiến lo ngại rằng tài liệu in sẽ bị lãng quên. Tuy nhiên, Chúng ta
không nên gạt bỏ một công nghệ hiện đại khi mà nó hoàn toàn có khả năng thúc
đẩy sự phát triển văn hóa đọc bởi vì vấn đề cốt lõi là cá nhân người đọc cần phải
biết đọc gì và biết khai thác ở đâu.
Ngoài ra, không thể quên một yếu tố quyết định trong việc đảm bảo hiệu quả
hoạt động của thư viện, cầu nối giữa nguồn tài nguyên thông tin và bạn đọc, đó là
cán bộ thư viện. Cùng với sự phát triển của khoa học công nghệ, người cán bộ thư
viện hôm nay không chỉ là người hỗ trợ người dùng tin mà còn là người đào tạo
người dùng tin, người nghiên cứu, người quản lý tri thức. Đặc biệt những kỹ năng
thiết yếu cần có của một cán bộ thư viện là kỹ năng giao tiếp, kỹ năng xử lý tình
huống, trình độ ngoại ngữ và tin học. Chính vì vậy, cán bộ thư viện cần được đào
tạo và tự đào tạo thường xuyên để nâng cao trình độ và năng lực nghiệp vụ của
mình.
Phương pháp đào tạo đại học hiện nay

- 24 -


Chất lượng giảng dạy đại học ở nước ta trước đây đang trong tình trạng báo
động cao. Việc giảng dạy và học tập vẫn diễn ra một cách thụ động, cổ truyền và
nhàm chán. Phương thức dạy và học như thế đang làm mất đi khả năng sáng tạo,

năng lực tư duy độc lập, sự sinh động và hấp dẫn của các buổi học. Từ năm 2010,
phương thức đào tạo theo học chế tín chỉ đã được áp dụng cho hầu hết các trường
Đại học và Cao Đẳng trong cả nước. Phương pháp dạy và học mới đòi hỏi một số
điều kiện tiên quyết cho phép người học “phát huy nội lực” và người dạy “dạy cách
phát huy nội lực”. Phương pháp này sẽ rút ngắn thời gian giảng dạy lý thuyết trên
cơ sở sinh viên được cung cấp nguồn thông tin dồi dào trước khi lên lớp, tăng thời
gian tự học của sinh viên.
Tự học có vai trò vô cùng quan trọng trong quá trình học tập theo hệ thống
tín chỉ của sinh viên ở các trường đại học hiện nay. Tự học nhằm phát huy tính tự
giác học và nghiên cứu. Đào tạo theo hệ thống tín chỉ xác định rõ trọng tâm của
người học là bắt buộc nhận thức việc tự học của mình là chính.
Đào tạo theo hệ thống tín chỉ đòi hỏi sinh viên phải hình thành kỹ năng tự
học và tự nghiên cứu. Muốn thực hiện tốt vấn đề liên quan đến học tập, sinh viên
phải tự đến thư viện tìm tài liệu liên quan đến vấn đề cần nghiên cứu, thảo luận.
Thư viện có đầy đủ sách báo, tài liệu điện tử, vv... về mọi lĩnh vực tri thức trong
chương trình đào tạo của nhà trường. Những điều sinh viên phát kiến, tìm tòi được
sẽ khắc sâu vào tâm trí của sinh viên, vì đó là những điều họ tự tìm ra chứ không
phải là những điều mà họ phải cố nhớ. Từ đó sinh viên sẽ tự hình thành cho mình
thói quen đọc sách và văn hóa đọc tốt đẹp.
Vì vậy, để phát huy hiệu quả của mô hình đào tạo theo hệ thống tín chỉ,
ngoài nỗ lực từ phía nhà trường trong việc xây dựng chương trình đào tạo phù hợp,
đổi mới phương pháp giảng dạy, nâng cấp cơ sở vật chất, sắp xếp lại hệ thống và
quy trình quản lý thì bản thân mỗi sinh viên phải chủ động trong học tập, tự xây
dựng cho mình kế hoạch học tập riêng, xây dựng kỹ năng đọc phù hợp với năng lực
học tập, hoàn cảnh gia đình và sở thích cá nhân.

- 25 -


1.2. Khái quát về Đại học Quốc Gia Hà Nội

1.2.1. Lịch sử hình thành và phát triển của Đại học Quốc gia Hà Nội
Đại học Quốc gia Hà Nội (ĐHQGHN - tên giao dịch bằng tiếng Anh:
Vietnam National University, Hanoi; viết tắt là VNU) là một trong hai đại học quốc
gia của Việt Nam, đặt tại Hà Nội. Đây là một cơ sở đào tạo đại học, sau đại học,
nghiên cứu và ứng dụng khoa học-công nghệ, đa ngành, đa lĩnh vực, chất lượng
cao, giữ vai trò nòng cốt, quan trọng trong hệ thống giáo dục đại học ở Việt Nam.
Với tiền thân của Đại học Quốc gia Hà Nội là Viện Đại học Đông Dương
được thành lập vào năm 1906, tiếp nối là Đại học Quốc gia Việt Nam, trường Đại
học Tổng hợp Hà Nội, và ngày nay là Đại học Quốc gia Hà Nội được sát nhập từ 3
trường là Đại học Tổng hợp Hà Nội, Đại học sư phạm Ngoại ngữ và Đại học Sư
phạm 1.
Như vậy, trải qua hơn 100 năn hình thành và phát triển, Đại học Quốc Gia Hà
Nội đã đóng góp to lớn vào sự nghiệp phát triển giáo dục chung của đất nước và
ngày càng mở rộng quy mô đào tạo đáp ứng yêu cầu chất lượng cao, trình độ cao,
nuôi dưỡng tài năng, nhân tài cho đất nước.
1.2.2. Chức năng và nhiệm vụ của Đại học Quốc gia Hà Nội
- Trình Thủ tướng Chính phủ quyết định chiến lược, quy hoạch, kế hoạch
phát triển, các đề án, dự án quan trọng của Đại học quốc gia sau khi có ý kiến của
Bộ Giáo dục và Đào tạo và các bộ, ngành liên quan.
- Báo cáo Thủ tướng Chính phủ các quyết nghị của Hội đồng Đại học quốc
gia về việc thực hiện chiến lược, quy hoạch, kế hoạch, đề án phát triển của Đại học
quốc gia và các nội dung khác theo yêu cầu của Thủ tướng Chính phủ.
- Tổ chức các hoạt động đào tạo, nghiên cứu khoa học, hợp tác quốc tế theo
quy định của pháp luật; đào tạo bồi dưỡng nhân tài khoa học; chuyển giao tri thức
và cung cấp nguồn nhân lực chất lượng cao phục vụ phát triển kinh tế - xã hội và
hội nhập quốc tế.
- Đào tạo theo danh mục các ngành đào tạo của Nước Cộng hoà Xã hội chủ
nghĩa Việt Nam và thí điểm đào tạo các ngành mới ở trình độ cao đẳng, đại học,
cao học, tiến sỹ nhằm cung cấp nguồn nhân lực chất lượng cao và bồi dưỡng nhân
tài cho đất nước.

- 26 -


- Nghiên cứu khoa học nhằm phát triển khoa học - công nghệ và giải quyết
các vấn đề thực tiễn do kinh tế - xã hội nước ta đặt ra, tham gia tư vấn các vấn đề
chiến lược, chính sách và các giải pháp phát triển khoa học - công nghệ, giáo dục đào tạo, kinh tế - xã hội cho các cấp lãnh đạo Đảng và Nhà nước ở Trung ương và
địa phương, kết hợp chặt chẽ đào tạo với nghiên cứu khoa học và sản xuất, dịch vụ
khoa học - công nghệ.
- Quản lý, điều hành sử dụng, chia sẻ các nguồn lực và cơ sở vật chất dùng
chung trong Đại học quốc gia đảm bảo tính hữu cơ, đồng bộ và hiệu quả; huy động
nguồn lực của xã hội để xây dựng Đại học quốc gia thành trung tâm đào tạo, nghiên
cứu khoa học đạt chuẩn quốc tế.
1.2.3. Cơ cấu tổ chức của Đại học Quốc gia Hà Nội
ĐHQGHN hoạt động theo cơ chế tự chủ, tự chịu trách nhiệm cao; được làm
việc trực tiếp với các Bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, Ủy ban
nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương về những vấn đề liên quan đến
hoạt động và phát triển của ĐHQGHN.
Đại học Quốc gia Hà Nội có cơ cấu tổ chức đặc biệt (so với các trường đại
học khác ở Việt Nam) bao gồm:
- Các trường đại học thành viên: Là những cơ sở đào tạo đại học, sau đại học
và nghiên cứu khoa học, công nghệ về một hoặc một số lĩnh vực chuyên môn, kinh
tế xã hội liên quan với nhau.
- Các viện nghiên cứu khoa học - công nghệ thành viên: Là những cơ sở
nghiên cứu khoa học, công nghệ và đào tạo sau đại học về một hoặc một số lĩnh
vực khoa học, công nghệ liên quan với nhau.
- Các khoa trực thuộc: Là những đơn vị đào tạo đại học, sau đại học và nghiên
cứu khoa học, công nghệ về một số ngành thuộc một lĩnh vực chuyên môn kinh tế xã hội.
- Các trung tâm nghiên cứu khoa học và trung tâm đào tạo: Là những đơn vị
thực hiện một số nhiệm vụ đào tạo và nghiên cứu, dịch vụ, chuyển giao khoa học công nghệ đáp ứng yêu cầu kinh tế - xã hội đặt ra.


- 27 -


- Các đơn vị phục vụ: Là những đơn vị có chức năng tổ chức và quản lý một
hoặc một số lĩnh vực công tác nhằm phục vụ cho công tác đào tạo, nghiên cứu khoa
học và triển khai ứng dụng của Đại học Quốc gia Hà Nội.
- Văn phòng và các ban chức năng thuộc khối cơ quan Đại học Quốc gia Hà
Nội: Là những cơ quan có chức năng tham mưu và giúp việc cho Giám đốc
ĐHQGHN quản lý và tổ chức thực hiện một hoặc một số lĩnh vực công tác của Đại
học Quốc gia Hà Nội
Hiện nay, để đảm bảo phù hợp với những quy định mới của pháp luật, đồng
thời với việc xác định vị trí việc làm trong các đơn vị thành viên, đơn vị trực thuộc,
ĐHQGHN đang tiến hành triển khai công tác thực hiện Đề án điều chỉnh, sắp xếp
lại và phát triển tổ chức trong ĐHQGHN theo hướng tinh giản đầu mối, tăng cường
nguồn lực cho các đơn vị thành viên và đầu tư phát triển cho các đơn vị trực thuộc.
1.2.4. Đội ngũ cán bộ Đại học Quốc gia Hà Nội
Đội ngũ cán bộ khoa học của ĐHQGHN đông đảo và mạnh nhất trong hệ
thống các trường đại học của cả nước. Tỷ lệ cán bộ khoa học (giảng viên, nghiên
cứu viên) có trình độ tiến sĩ, tiến sĩ khoa học đạt 44%, tỷ lệ cán bộ khoa học có học
hàm Giáo sư, Phó Giáo sư đạt 17%, cao gấp ba lần so với tỷ lệ trung bình của cả
nước.
ĐHQGHN không chỉ tích cực đào tạo, bồi dưỡng, thu hút các nhà khoa học có
học vị tiến sĩ trở lên về công tác tại ĐHQGHN mà còn thực hiện các giải pháp hợp
lý, tạo điều kiện thuận lợi cho trên 300 Giáo sư, Phó Giáo sư của các cơ sở nghiên
cứu và đào tạo trong cả nước và hàng trăm nhà khoa học có uy tín của thế giới,
trong đó có một số người đạt giải Nobel và các giải thưởng lớn có uy tín khác cùng
tham gia giảng dạy và nghiên cứu khoa học.
Thực hiện kế hoạch phát triển 5 năm (2011-2015) ĐHQGHN đang triển khai
Đề án phát triển đội ngũ cán bộ, xây dựng và đa dạng hóa phương thức phát triển
cả cán bộ khoa học (giảng viên, nghiên cứu viên) và cán bộ quản lý phục vụ theo

chuẩn chất lượng tương ứng, có phẩm chất đạo đức tốt, năng lực, kiến thức, kỹ
năng đáp ứng yêu cầu thực hiện sứ mạng, tầm nhìn, mục tiêu chiến lược phát triển
ĐHQGHN nhanh chóng đạt chuẩn quốc tế.

- 28 -


Đồng thời, ĐHQGHN cũng đang xây dựng cơ chế, chính sách để nâng cao
hơn nữa tính chủ động, sáng tạo, tự chủ, tự chịu trách nhiệm của các đơn vị đối với
công tác đào tạo, bồi dưỡng, phát triển, quản lý cán bộ.
1.3. Khái quát về các đơn vị đáp ứng nhu cầu tin cho sinh viên của Đại học
Quốc Gia Hà Nội
1.3.1. Trung tâm Thông tin Thư viện Đại học Quốc gia Hà Nội
Trung tâm Thông tin - Thư viện, Đại học Quốc gia Hà Nội (Tên Tiếng Anh là
Library and Information Center Vietnam National University, Hanoi – Viết tắt là
LIC) được thành lập năm 1997 là một đơn vị sự nghiệp trực thuộc ĐHQGHN.
Về chức năng, nhiệm vụ của Trung tâm
Trung tâm có chức năng lưu giữ, quản lý thông tin, tư liệu và thư viện phục
vụ công tác đào tạo, nghiên cứu khoa học, triển khai ứng dụng và quản lý của
ĐHQGHN; nghiên cứu, thu thập, xử lý, thông báo, phổ biến và cung cấp tin, tài
liệu khoa học phục vụ cán bộ, viên chức, học sinh, sinh viên, học viên cao học,
nghiên cứu sinh của ĐHQGHN; nghiên cứu khoa học thuộc lĩnh vực thông tin –
thư viện.
Với chức năng như trên, Trung tâm có các nhiệm vụ sau:
- Xây dựng kế hoạch ngắn hạn và chiến lược phát triển; tổ chức và điều phối
toàn bộ hệ thống thông tin, tư liệu, thư viện trong ĐHQGHN
- Thu thập, bổ sung - trao đổi, phân tích - xử lí tài liệu và tin. Tổ chức sắp xếp,
lưu trữ, bảo quản kho tư liệu ĐHQGHN bao gồm tất cả các loại hình ấn phẩm và
vật mang tin.
- Xây dựng hệ thống tra cứu tìm tin thích hợp; thiết lập mạng lưới truy nhập

và tìm kiếm thông tin tự động hoá; tổ chức cho toàn thể bạn đọc trong ĐHQGHN
khai thác, sử dụng thuận lợi và có hiệu quả kho tin và tài liệu của Trung tâm và các
nguồn tin bên ngoài.
- Nghiên cứu khoa học thông tin, tư liệu, thư viện, góp phần xây dựng lý luận
khoa học chuyên ngành. ứng dụng những thành tựu khoa học và kỹ thuật mới vào
xử lí và phục vụ thông tin, thư viện.
- Tổ chức đào tạo và bồi dưỡng nhằm nâng cao trình độ tổ chức, xử lí, cung
cấp tin và tài liệu của đội ngũ cán bộ thông tin, tư liệu, thư viện. Trang bị kiến thức
- 29 -


về hình thức cấu trúc cung cấp tin, về phương pháp tra cứu, tìm kiếm tin và sử dụng
thư viện cho cán bộ và sinh viên ĐHQGHN.
- Tổ chức và quản lí đội ngũ cán bộ, kho tài liệu, cơ sở hạ tầng và các tài sản
khác của Trung tâm phù hợp với chức năng, nhiệm vụ được giao theo quy định của
ĐHQGHN.
Trung tâm có quan hệ với gần 100 tổ chức thông tin – thư viện trên thế giới;
bao gồm các trường đại học, các viện nghiên cứu, thư viện quốc gia, các nhà xuất
bản như: Thư viện Đại học Hawaii, Đại học Tokyo, Viện Nghiên cứu Harvard
Yenching, Thư viện Quốc gia Australia, Thư viện Đại học Quốc gia Seoul, Đại học
Bắc Kinh, …
Bên cạnh đó, Trung tâm cũng có quan hệ với các tổ chức nước ngoài đặt tại
Hà Nội: Hội đồng Anh, Trung tâm Hoa Kỳ, Đại Sứ quán Hoa Kỳ, Quỹ Châu Á.....
Hiện tại, Trung tâm là thành viên của Mạng lưới Thư viện trực tuyến đại học quốc
gia các nước Đông Nam Á (AUNILO) và Hội đồng thư viện đại học Đông Nam Á.
Về đội ngũ cán bộ thư viện
- Đội ngũ cán bộ gồm 136 người, trong đó có: 1 Tiến sĩ, 15 Thạc sĩ, 104 Cử
nhân, 16 Cao đẳng
- Khối các phòng chức năng: 24 cán bộ
- Khối các phòng chuyên môn, nghiệp vụ: 38 cán bộ

- Khối các phòng phục vụ bạn đọc: 74 cán bộ
Trung tâm Thông tin – Thư viện ĐHQGHN được tổ chức trên cơ sở hợp
nhất các thư viện của các trường đại học thuộc ĐHQGHN, bao gồm:
Các phòng ban chức năng:
+ Ban Giám đốc
+ Phòng hành chính tổng hợp
+ Phòng Tài vụ
+ Phòng Bổ sung – Trao đổi
+ Phòng Phân loại – Biên mục
+ Phòng Thông tin – nghiệp vụ
+ Phòng phát triển tài nguyên số
+ Phòng Tin học
- 30 -


Các phòng phục vụ bạn đọc tại các trường Đại học trực thuộc ĐHQGHN
 Phòng phục vụ bạn đọc chung: tại 144 Xuân Thuỷ, Cầu Giấy, Hà Nội
 Phòng phục vụ bạn đọc ngoại ngữ: tại 1 Phạm Văn Đồng, Cầu Giấy,
Hà Nội.
 Phòng phục vụ bạn đọc Khoa học Xã hội Nhân văn và Khoa học Tự
nhiên: tại 336 Nguyễn Trãi, Thanh Xuân, Hà Nội.
 Phòng phục vụ bạn đọc Mễ Trì: tại 182 đường Lương Thế Vinh, Thanh
Xuân, Hà Nội.
Về cơ sở vật chất
Trung tâm có 4 phòng Phục vụ bạn đọc đặt tại các khu vực có cơ sở đào tạo
và ký túc xá của ĐHQGHN với tổng cộng 1.300 chỗ ngồi; cung cấp các dịch vụ
đọc tại chỗ, mượn về nhà, mượn liên thư viện, hướng dẫn cách tra cứu tìm tin trên
mạng, tìm kiếm các cơ sở dữ liệu và thông tin trực tuyến theo yêu cầu bạn đọc.
Hệ thống máy tính cấu hình cao với 10 máy chủ và 300 máy trạm; kết nối
mạng ĐHQGHN VNUnet và Internet 24/24 giờ. Hiện nay, Trung tâm đang ứng

dụng tin học hóa trong tất cả các chu trình phục vụ, song song với việc sử dụng
phần mềm quản lý Virtua và từng bước phát triển hình mẫu thư viện điện tử.
1.3.2. Các phòng tư liệu của các khoa trong các Trường/Khoa thành viên
Phòng Tư liệu Khoa có thể coi như một thư viện nhỏ, phục vụ hiệu quả cho
sinh viên, học viên cao học, nghiên cứu sinh, các cán bộ giảng dạy, các nhà nghiên
cứu trong khoa bên ngoài, trong nước và quốc tế, góp phần quan trọng nâng cao
chất lượng đào tạo và nghiên cứu khoa học của Khoa và xã hội.
Mỗi một khoa trong trường đều được xây dựng một phòng tư liệu, là nơi lưu
giữ những tài liệu liên quan đến chuyên ngành bao gồm tài liệu gốc, sách, tạp chí.
Số lượng tài liệu tùy thuộc vào việc lưu trữ của mỗi khoa.
Về vốn tài liệu của các phòng tư liệu: Phần lớn nguồn tài liệu lưu trữ tại đây là
tài liệu nội sinh bao gồm các công trình nghiên cứu khoa học, Khóa luận tốt nghiệp,
Luận văn, Luận án, … Đây là nguồn tư liệu có giá trị thực tiễn và giá trị khoa học
cao, là kết quả của quá trình học tập, nghiên cứu của các thế hệ sinh viên, học viên
và cán bộ nghiên cứu. Việc sắp xếp tư liệu đảm bảo tính phân loại, dễ hiểu và liên
tục theo ngôn ngữ và thể loại sách, được lưu giữ, cập nhật ngay từ khóa đào tạo đầu
- 31 -


×