Tải bản đầy đủ (.doc) (74 trang)

Nội dung ôn tập môn Lịch sử Đảng lớp ccllct tập trung Khu vực II, Quận 9, Tp.HCM

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (422.71 KB, 74 trang )

Câu 1: Phân tích, chứng minh tính đúng đắn cương lĩnh đầu tiên của Đảng
A. Bối cảnh lịch sử :
Cuối thế kỉ XIX đầu thế kỉ XX, sau khi cơ bản kết thúc giai đoạn xâm lược vũ trang, thực
dân Pháp đã thi hành nhiều chính sách thống trị nô dịch và bóc lột nhân dân ta rất tàn bạo.
Đất nước Việt Nam biến đổi từ một xã hội phong kiến thành một xã hội thuộc địa, mất hẳn
quyền độc lập, chủ quyền trở thành một dân tộc bị nô lệ, mất nước.
Các giai cấp xã hội bị biến, xã hội Việt Nam hình thành 2 mâu thuẫn cơ bản là : mâu thuẫn
giữa toàn thể dân tộc Việt Nam với chủ nghĩa đế quốc xâm lược Pháp và bọn tay sai; mâu
thuẫn giữa nhân dân Việt Nam, chủ yếu là giai cấp nông dân với giai cấp địa chủ phong kiến.
Cuối thế kỉ XIX, đầu thế kỉ XX, nhân dân Việt Nam đã nhiều lần nổi dậy đấu tranh chống
Pháp dưới nhiều ngọn cờ, tư tưởng khác nhau, hình thức và phương pháp đấu tranh khác
nhau, nhưng các phong trào yêu nước này đều thất bại, chứng tỏ CMVN đang thực sự lâm
vào tình trạng khủng hoảng về đường lối cứu nước và giai cấp lãnh đạo cách mạng. Từ đó
nảy sinh yêu cầu khách quan là cần có một đường hướng cứu nước mới cho CMVN.
Giữa lúc dân tộc ta đứng trước cuộc khủng hoảng về đường lối cứu nước, Nguyễn Ái Quốc
ra đi tìm con đường cứu nước theo phương hướng mới. Sau nhiều năm bôn ba hải ngoại,
Người nghiên cứu nhiều loại hình chủ nghĩa cả về lí luận và thực tiễn. Cách mạng tháng
Mười Nga thành công, Người đã hướng đến cách mạng tháng Mười và chịu ảnh hưởng của
cuộc cách mạng vĩ đại đó, Người gia nhập Đảng cộng sản Pháp và trở thành người chiến sĩ
cộng sản đầu tiên của giai cấp công nhân và và dân tộc Việt Nam.
Từ khi trở thành người cộng sản, Người thành lập tổ chức Việt Nam thanh niên cách mạng
đồng chí hội, thông qua tổ chức này và các báo : Người cùng khổ, Nhân đạo, tác phẩm Bản
án chế độ thực dân Pháp, Đường cách mệnh…truyền bá chủ nghĩa Mác-Lenin về Việt Nam
và đã trở thành tư tưởng cách mạng hướng đạo phong trào dân tộc và các tổ chức chính trị
theo khuynh hướng cách mạng vô sản, dẫn đến sự ra đời các tổ chức Đảng cộng sản ở Việt
Nam là : Đông Dương cộng sản Đảng, An Nam cộng sản Đảng, Đông Dương cộng sản liên
đoàn.
Trước tình hình xuất hiện ba tổ chức cộng sản trong một nước. Được giao nhiệm vụ của
Quốc tế cộng sản, đ/c Nguyễn Ái Quốc chịu trách nhiệm hợp nhất các phần tử chân chính lại
để thành lập một Đảng duy nhất. Hội nghị hợp nhất được tiến hành từ 3/2 đến 7/2/1930 (hội
nghị tháng Hai) tại Hương Cảng và thống nhất hợp nhất các tổ chức cộng sản thành một


Đảng lấy tên là Đảng cộng sản Việt Nam, thông qua 4 văn kiện do Nguyễn Ái Quốc dự
thảo : Chính cương vắn tắt, sách lược vắn tắt, điều lệ vắn tắt và lời kêu gọi của lãnh tụ
Nguyễn Ái Quốc thay mặt cho Quốc tế cộng sản và Đảng cộng sản Việt Nam gửi đến quần
chúng công, nông, binh, đồng bào và đồng chí trong cả nước nhân dịp thành lập Đảng. Bốn
văn kiện này được coi là cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng ta.
Tuy bị Hội nghị BCH.TW Đảng tháng 10/1930 phê phán Chánh cương vắn tắt, sách lược
vắn tắt của hội nghị tháng Hai có nhiều sai lầm, thậm chí còn cho rằng sai phạm chính trị rất
nguy hiểm nên quyết định thủ tiêu Chánh cương vắn tắt, sách lược vắn tắt và điều lệ của
Đảng; thay đổi bằng luận cương : Tư sản dân quyền cách mạng do Trần Phú soạn thảo và
đổi tên Đảng là : Đảng cộng sản Đông Dương. Nhưng thực tiễn quá trình lãnh đạo CMVN
đã chứng minh sự sáng tạo, tính đúng đắn của cương lĩnh đầu tiên về quan điểm, tư tưởng,
đường lối chiến lược và sách lược của Đảng, phù hợp với nguyện vọng thiết tha của đại đa số
nhân dân. Tính đúng đắn của cương lĩnh đầu tiên của Đảng ta được thể hiện ở nội dung cơ
bản Chính cương vắn tắt và Sách lược vắn tắt của Đảng như sau :


B. Tính đúng đắn của cương lĩnh tháng Hai
1)- Đảng ta chủ trương thực hiện đường lối chiến lược cách mạng trên cơ sở phân tích tình
hình kinh tế, thành phần giai cấp, xã hội nước ta, Cương lĩnh viết :  Chủ trương làm tư sản
dân quyền cách mạng và thổ địa cách mạng để đi tới xã hội cộng sản. Thực chất chủ trương
cuộc cách mạng có 2 giai đoạn : đánh đổ đế quốc và phong kiến tay sai giành độc lập cho
dân tộc là làm cho nước Việt Nam được độc lập, tự do; tịch thu ruộng đất của bọn đế quốc,
phong kiến để làm của công chia cho dân nghèo; chuẩn bị và lãnh đạo nông dân nghèo làm
cách mạng ruộng đất, quốc hữu hóa toàn bộ xí nghiệp của bọn đế quốc; thiết lập chính phủ
công, nông, binh và tổ chức quân đội công nông.
Các nhiệm vụ trên bao hàm cả nội dung dân tộc và dân chủ, chống đế quốc và chống phong
kiến. Mục tiêu chủ yếu lúc này là đánh đổ ách thống trị của đế quốc xâm lược và tay sai,
giành độc lập dân tộc và dân chủ cho nhân dân. Mục đích cuối cùng là xây dựng thành công
CNXH, CNCS ở Việt Nam. Song, nổi bật lên là nhiệm vụ chống đế quốc và tay sai phản
động, giành độc lập, tự do cho dân tộc. Vì thế, giữa hai giai đoạn cách mạng : Giải phóng

dân tộc và xây dựng CNXH không có bức tường ngăn cách (cuộc vận động trước thành công
tạo điều kiện cho cuộc vận động sau giành thắng lợi), không phải tiến hành một cuộc cách
mạng chính trị lần thứ hai để giải quyết vấn đề chính quyền như cách mạng Nga và Trung
Quốc.
Nhận thức của Đảng là do những yêu cầu khách quan của CMVN, với chính sách thống trị
của thực dân Pháp biến Việt Nam từ xã hội phong kiến thành xã hội thuộc địa nữa phong
kiến với nhiều mâu thuẫn tồn tại là : mâu thuẫn giữa nhân dân Việt nam với đế quốc Pháp
xâm lược về độc lập dân tộc; mâu thuẫn giữa nhân dân Việt Nam mà đa số là nông dân mâu
thuẫn với chế độ phong kiến chung quanh vấn đề dân chủ mà chủ yếu ruộng đất và dân cày,
dân cày hoàn toàn phụ thuộc vào địa chủ, bị trói chặt vào mảnh ruộng của giai cấp địa chủ
với tô thuế nặng nề. Theo tư tưởng của Nguyễn Ái Quốc thì nhiệm vụ cách mạng sẽ tiến
hành đánh đổ đế quốc chủ nghĩa Pháp và bọn phong kiến, làm cho nước Nam hoàn toàn
được độc lập, tổ chức ra quân đội công, nông, binh, thâu hết ruộng đất của đế quốc làm của
công chia cho dân cày nghèo, bỏ sưu thuế cho dân nghèo, mở mang công nghiệp và nông
nghiệp, thi hành luật ngày làm 8 giờ.
So với nhận thức của Nguyễn Ái Quốc đã nêu trong Cương lĩnh tháng 2/1930, Luận cương
chánh trị của Đảng cộng sản Đông Dương do Trần Phú soạn thảo là : chủ trương đánh đổ đế
quốc và phong kiến phải thực hiện đồng thời và ngang nhau, không có nhiệm vụ nào hơn
nhiệm vụ nào. Về vấn đề này, là do sự nhận thức và giáo điều về mối quan hệ giữa vấn đề
dân tộc và giai cấp trong cách mạng thuộc địa, hiểu biết không đầy đủ về tình hình đặc điểm
xã hội, giai cấp và dân tộc ở Đông Dương, lại mang khuynh hướng tả của quốc tế cộng
sản trong bối cảnh thời gian lúc đó, cho nên BCHTW Đảng mà đứng đầu là Trần Phú đã
không vạch rõ được mâu thuẫn chủ yếu của xã hội thuộc địa là mâu thuẫn giữa dân tộc Việt
Nam với bọn thực dân xâm lược Pháp cùng bọn tay sai của chúng, nên không nêu toát lên
được vấn đề dân tộc lên hàng đầu, mà nặng về đấu tranh giai cấp. Về cách mạng ruộng đất,
Luận cương không đề ra được một chiến lược liên minh dân tộc và giai cấp rộng rãi trong
cuộc đấu tranh chống đế quốc Pháp và tay sai. Luận cương đánh giá không đúng mức vai trò
cách mạng của giai cấp tiểu tư sản, phủ nhận mặt tích cực của giai cấp tư sản dân tộc, cường
điệu mặt tiêu cực của giai cấp này, không thấy được khả năng phân hóa và lôi kéo một bộ
phận giai cấp địa chủ trong cuộc cách mạng giải phóng dân tộc.

2)- Đảng chủ trương đề cao nhiệm vụ chống đế quốc và tay sai lên hàng đầu; nhiệm vụ
chống phong kiến được thực hiện ở mức độ thấp hơn. Song, ở đây ngoài 2 mâu thuẫn giữa
nông dân và chế độ phong kiến, nhân dân Việt Nam và đế quốc Pháp còn có mâu thuẫn giữa


dân tộc Việt nam với liên minh đế quốc và bọn tay sai. Vì vậy, mâu thuẫn chủ yếu đòi hỏi
trong khi đồng thời chống đế quốc và phong kiến phải ưu tiên đặt nhiệm vụ chống đế quốc
và tay sai lên hàng đầu (đại địa chủ, đại tư sản phản cách mạng và vua quan phong kiến),
nhằm giành lại độc lập, tự do, dân chủ cho toàn dân tộc. Vì có giành được độc lập, dân tộc
mới có thể tiến hành cuộc cách mạng XHCN và đi lên CNXH.
3)- Về lực lượng cách mạng :
Cương lĩnh của Đảng chủ trương đoàn kết tất cả các giai cấp cách mạng, các lực lượng tiến
bộ và cá nhân yêu nước nhằm tập trung lực lượng đánh đổ kẻ thù chủ yếu của dân tộc là
CNĐQ Pháp và tay sai, mở đường cho cách mạng phát triển đến thắng lợi hoàn toàn. Về lực
lượng CM Đảng ta xác định : Mọi người Việt Nam đều là con Lạc, cháu Hồng. Ai cũng
chịu cái khổ, cái nhục của họa mất nước. Vì vậy, việc cứu nước là việc của mọi người,
không phụ thuộc vào địa vị xã hội, vào hoàn cảnh kinh tế, vào năng lực cá nhân. Trong đó
xác định giai cấp công nông là động lực chính của CMVN.
Trong tác phẩm Đường cách mệnh, Nguyễn Ái Quốc đã chỉ rõ :công nông là gốc cách
mệnh còn học trò, nhà buôn nhỏ, điền chủ nhỏ… chỉ là bầu bạn của cách mệnh công nông.
Đảng phải thu phục cho được công nông và làm cho giai cấp công nhân lãnh đạo được đông
đảo quần chúng; ngoài lực lượng công nông là chính, phải hết sức liên lạc với tiểu tư sản, trí
thức, trung nông… để kéo họ về phía vô sản giai cấp. Đối với phú nông, trung tiểu địa chủ
và tư sản Việt Nam mà chưa rõ mặt phản cách mạng thì phải lợi dụng, ít lâu mới làm cho họ
đứng trung lập. Bộ phận nào đã ra mặt phản cách mạng (Đảng Lập hiến) thì phải đánh đổ.
Trong khi liên lạc tạm thời với các giai cấp, phải rất cẩn thận, không khi nào nhượng bộ một
chút lợi ích gì của giai cấp công nông mà đi vào đường lối thỏa hiệp. Tư tưởng này của
Nguyễn Ái Quốc khác với luận cương 10/30 là : Luận cương tư sản dân quyền cách mạng
tháng 10/1930 chưa xác định đầy đủ tính chất giai cấp của xã hội đương thời, lực lượng cách
mạng chỉ dựa vào công nông và thành phần lao khổ thành phố (như là bọn bán rao ngoài

đường, bọn thủ công nghiệp nhỏ không mướn thợ, bọn trí thức thất nghiệp,…), phủ nhận và
phủ định những mặt tích cực của các thành phần yêu nước khác (thành phần tiểu tư sản, trí
thức, trung nông, tư sản dân tộc…) và chủ trương không thành lập mặt trận, nên không lợi
dụng và huy động được sức mạnh của cả dân tộc tham gia cách mạng.
Đồng thời, Hồ Chí Minh cũng cho rằng tất cả những người yêu nước Việt Nam đều có khả
năng trở thành cộng sản, và người cộng sản chân chính là người có tinh thần yêu nước triệt
để. Chính sách Đại đoàn kết dân tộc là tư tưởng lớn của Hồ Chí Minh, là nhân tố cơ bản và
quyết định thắng lợi của CMVN. Chính sách Đại đoàn kết là truyền thống yêu nước của dân
tộc ta đã thực hiện trong quá trình lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc như : Hội nghị
Diên Hồng, Hội nghị Bình Than thời nhà Trần đã tập hợp được lòng yêu nước của nhân dân
đánh bại quân Nguyên Mông ở thế kỷ XIII, lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến của Chủ tịch
Hồ Chí Minh đã tập hợp được mọi tầng lớp quần chúng nhân dân lao động đánh đuổi đế
quốc Pháp xâm lược với cách mạng 8/1945 thành công xây dựng nên Nước VNDCCH, chiến
thắng Điện Biên Phủ vang dội năm 1954, miền Bắc hoàn thành cuộc cách mạng DTDC tiến
lên CNXH. Đại thắng mùa xuân năm 1975 thống nhất nước nhà, hoàn thành CMDTDCND ở
miền Nam, cả nước cùng tiến lên xây dựng CNXH.
4)- Xác định giai cấp lãnh đạo CMVN là giai cấp công nhân lãnh đạo thông qua đội tiền
phong của họ là Đảng cộng sản Việt Nam, và khẳng định sự lãnh đạo của Đảng là nhân tố
quyết định thắng lợi của cách mạng. Đảng là đội tiên phong của vô sản giai cấp, cho nên
Đảng có trách nhiệm thu phục cho được đại bộ phận giai cấp mình, phải làm cho giai cấp
mình lãnh đạo được dân chúng, phải thu phục cho được đại đa số dân cày (lúc này Việt Nam
trên 90% là nông dân) và phải dựa chắc vào dân cày nghèo, phải liên lạc với các giai cấp


cách mạng và các tầng lớp yêu nước để đoàn kết họ lại. Đảng là một khối thống nhất ý chí và
hành động. đảng viên phải : hăng hái tranh đấu cẩn thận và dám hi sinh, phục tùng mệnh
lệnh Đảng và đóng kinh phí, chịu phấn đấu trong một bộ phận Đảng.
Từ thực tiễn các phong trào đấu tranh từ năm 1919-1925, đã có nhiều cuộc đấu tranh của
phong trào công nhân như : 8/3/1920 226 thủy thủ ở Sài Gòn bãi công đòi phụ cấp đắt đỏ,
1924 thợ nhuộm Sài Gòn - Chợ Lớn bãi công, 27/2/1924 công nhân nhà máy dệt Nam Định

bãi công… nhưng các cuộc bãi công này vẫn mang tính chất tự phát, chỉ đưa yêu sách kinh
tế chứ chưa có tổ chức chỉ đạo chặt chẽ và chưa nêu được khẩu hiệu chính trị (chưa giác ngộ
chính trị, chưa có ý thức tổ chức kỷ luật). Từ 1926, khi tổ chức VNTN phát triển mạnh ở
trong và ngoài nước, thì giai cấp công nhân được nhận thức chủ nghĩa Mác-Lênin, đồng thời
khi có Đảng tiền phong của GCCN ra đời đã kết thúc giai đoạn đấu tranh tự phát, đạt đến
trình độ đấu tranh tự giác ngày càng cao đưa cuộc đấu tranh dân tộc kết hợp chặt chẽ với
cuộc đấu tranh giai cấp tiến lên giành thắng lợi. Chính vì vậy, GCCN Việt Nam đã đảm nhận
được vai trò lịch sử, thông qua đội tiền phong của họ là Đảng CSVN (Đảng lấy chủ nghĩa
Lênin làm kim chỉ nam, Đảng có vững cách mạng mới thành công) và trở thành giai cấp lãnh
đạo CMVN.
5)- Đảng chủ trương giành chính quyền bằng phương pháp bạo lực cách mạng, thiết lập
chính quyền mới của GCCN. Cương lĩnh của Đảng đã khẳng định CMVN phải tiến hành
bằng bạo lực cách mạng của quần chúng, để đánh đổ đế quốc Pháp và bọn phong kiến làm
cho nước nam hoàn toàn được độc lập, rồi dựng nên chính quyền công, nông, binh chứ
không phải bằng con đường cải lương, thỏa hiệp. Kinh nghiệm của cách mạng tháng Mười
Nga, sau cách mạng DCTS tháng 2/1917, tồn tại song song hai chính quyền : Chính phủ tư
sản lâm thời và chính quyền Xô viết, hai nền chuyên chính với hai bản chất giai cấp đối lập
nhau không thể cùng tồn tại trong một nước. Lênin chủ trương thực hiện 2 phương án hòa
bình & vũ trang. Phương án đấu tranh hòa bị thất bại, Đảng cộng sản Bônsêvích phải rút vào
hoạt động bí mật và Đảng đã tổ chức lãnh đạo hoạt động cách mạng bằng phương pháp đấu
tranh vũ trang và đã giành được thắng lợi. Vì vậy, Đảng ta đã rút ra kinh nghiệm là do bản
chất của CNĐQ và giai cấp tư sản với hai bản chất giai cấp hoàn toàn đối lập, là một cuộc
chiến đấu không khoan nhượng; phải dùng bạo lực cách mạng đánh đổ bạo lực phản cách
mạng mới giành được thắng lợi hoàn toàn.
Lịch sử Việt Nam đã chứng minh trong quá trình dựng nước và giữ nước; cách mạng tháng
8/1945 thành lập nước VN.DCCH, trận Điện Biên Phủ 1954 buộc Pháp phải ngồi vào bàn
hội nghị ký kết hiệp định Giơnevơ, miền Bắc hoàn toàn được giải phóng, và 30/4/1975 giải
phóng hoàn toàn miền Nam thống nhất tổ quốc; Đảng ta đã dùng bạo lực cách mạng đánh
đuổi lần lượt đế quốc Pháp, Nhật, Mỹ và tay sai hoàn thành cuộc cách mạng DTDC nhân
dân, cả nước cùng tiến lên xây dựng chế độ CNXH.

6)- Dùng chủ trương liên minh - đoàn kết với giai cấp vô sản bị áp bức của các dân tộc
thuộc địa trên thế giới chống lại chủ nghĩa đế quốc.
Hồ Chí Minh đi từ chủ nghĩa yêu nước đến chủ nghĩa Mác-Lênin. Vì vậy, Hồ Chí Minh đã
phát huy cao độ chủ nghĩa yêu nước truyền thống của Việt Nam trong sự thống nhất với chủ
nghĩa quốc tế vô sản. Hồ Chí Minh cho rằng : Những tư tưởng dân tộc chân chính đồng
thời cũng là những tư tưởng quốc tế chân chính. Sự bóc lột thuộc địa không chỉ là một
nguồn sống của bọn tư bản mà còn là cái nền móng của CNĐQ. Do đó, cuộc cách mạng
giải phóng dân tộc không những phải trở thành bộ phận khắng khít của cuộc cách mạng vô
sản mang tính toàn cầu mà còn có vai trò là một trào lưu lớn của cách mạng trong thế kỷ này.
Vì thế phải CMVN phải đoàn kết với các dân tộc bị áp bức và giai cấp vô sản quốc tế, nhất là
giai cấp công nhân Pháp. Cách mạng giải phóng dân tộc không tách rời cách mạng vô sản


nhưng chỉ có thể thực hiện bằng nỗ lực của bản thân các dân tộc thuộc địa; và Người cho
rằng CMVN phải vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác-Lênin phù hợp với tình hình thực tế của
Việt Nam mới mang đến thắng lợi hoàn toàn. Thực tế đã chứng minh rằng, phong trào vô sản
thế giới đã giành được nhiều thắng lợi; sau chiến tranh thế giới II hệ thống XHCN hình
thành, và thắng lợi của cách mạng Việt Nam trong đó có sự giúp đỡ và tạo điều kiện của các
nước XHCN và phong trào liên minh - đoàn kết với giai cấp vô sản bị áp bức của các dân tộc
thuộc địa trên thế giới chống lại chủ nghĩa đế quốc.
Ngoài ra, theo quan điểm Hội nghị tháng 10/1930 việc đổi tên Đảng cộng sản Việt Nam
thành Đảng cộng sản Đông Dương là bao gồm được Cao Miên và Lào. Việt Nam, Cao Miên,
Lào tuy tiếng nói, phong tục và nòi giống khác nhau nhưng về mặt chính trị và kinh tế thì
phải liên hệ mật thiết với nhau; xứ Đông Dương là một xứ thuộc địa để khai khẩn của đế
quốc chủ nghĩa Pháp. Bởi vậy kinh tế Đông Dương bị phụ thuộc vào kinh tế của đế quốc chủ
nghĩa Pháp; xứ Đông Dương cần phải phát triển độc lập, nhưng vì là thuộc địa nên không
phát triển độc lập được; các mâu thuẫn về giai cấp và kinh tế ở các nước Đông Dương đều
giống nhau… việc đặt tên Đảng cộng sản Việt Nam bỏ qua Ai Lao và Cao Miên là không
đúng.
Về việc đổi tên Đảng cộng sản Việt Nam thành Đảng cộng sản Đông Dương của Luận

cương tháng 10/1930 nhìn ở một khía cạnh nào đó thì phản ánh đúng. Tuy nhiên, theo quan
điểm của Nguyễn Ái Quốc, việc đặt tên Đảng cộng sản Việt Nam là đúng hơn. Đó là do sự
hiểu biết đúng đắn về tình hình, đặc điểm, tâm lí dân tộc của ba nước Đông Dương (Việt
Nam, Cao Miên, Lào), việc đặt tên Đảng còn mang tính khoa học của chủ nghĩa Mác-Lenin.
Những căn cứ đúng đắn để đặt tên Đảng cộng sản Việt Nam được thể hiện ở các đặc điểm
sau :
. Theo LêNin, các dân tộc bị lệ thuộc sau khi độc lập được tách ra để xây dựng độc lập dân
tộc và có quyền tự quyết.
. Cách mạng ba nước Việt Nam, Cao Miên, Lào sông liền sông - núi liền núi, không nhất
thiết phải thành lập Liên bang Đông Dương.
. Xuất phát từ tư tưởng, tâm lí dân tộc đã hình thành và ăn sâu vào tư tưởng nhận thức của
từng con người ở từng quốc gia về lãnh thổ và ranh giới. Khi đã giành được độc lập thì tùy
theo yêu cầu cụ thể mà có thể liên hiệp thành Liên bang Đông Dương.
Cương lĩnh chính trị của Đảng ta ra đời sau Nghị quyết đại hội quốc tế cộng sản lần thứ VI
khoảng một năm rưỡi. Nguyễn Ái Quốc đã tiếp thu nhiều tư tưởng đúng đắn, đồng thời đã
không chịu ảnh hưởng một số quan điểm tả của quốc tế cộng sản. Cương lĩnh đầu tiên của
Đảng là kết quả của sự vận dụng và phát triển sáng tạo học thuyết Mác-Lenin, đường lối của
quốc tế cộng sản và kinh nghiệm cách mạng thế giới vào hoàn cảnh cụ thể nước ta, là sự thể
hiện tập trung tư tưởng cơ bản của Chủ tịch Hồ Chí Minh về cách mạng XHCN ở nước thuộc
địa nửa phong kiến.
Sở dĩ có những vấn đề chưa thống nhất giữa Cương lĩnh đầu tiên do Ngyễn Ái Quốc soạn
thảo và Chính cương 10/1930 là vì không chỉ do kết hợp hay tách rời yếu tố giai cấp với yếu
tố dân tộc, mà còn do xác định đúng hay chưa đúng vị trí của mỗi yếu tố đó trong điều kiện
cụ thể của nước ta. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác-Lenin, đánh
giá đúng hơn và đầy đủ hơn các yếu tố dân tộc trong CMVN. Tuy bị phê phán, nhưng thực
tiễn CMVN đã chứng minh sự đúng đắn, sáng tạo của Cương lĩnh đầu tiên do Chủ tịch Hồ
Chí Minh soạn thảo. Chủ tịch Hồ Chí Minh viết Việc thành lập Đảng là bước ngoặt vô
cùng quan trọng trong lịch sử CMVN. Nó chứng tỏ rằng giai cấp vô sản ta đã trưởng thành
và đủ sức lãnh đạo cách mạng.



Sau đại hội VII quốc tế cộng sản, 7/1936, tại Hương Cảng, đ/c Lê Hồng Phong chủ trì hội
nghị BCHTW đã vạch ra những chủ trương mới về CMVN. Đặc biệt là bắt đầu xem xét lại
quan điểm chỉ đạo chiến lược của hội nghị 10/1930 và đưa ra những quan điểm mới đúng
đắn, phù hợp với tư tưởng chiến lược của cương lĩnh 2/1930, và nó mở đường cho chiến lược
của Đảng ta về sau này.
Hội nghị BCHTW 5/1941 do Chủ tịch Hồ Chí Minh trực tiếp lãnh đạo đã đi đến quyết định
điều chỉnh lớn về chiến lược Cách mạng tư sản dân quyền mà nội dung là nêu cao nhiệm
vụ giải phóng dân tộc, coi đó là nhiệm vụ cốt lõi của cách mạng Đông Dương, xác định cách
mạng Đông Dương trong giai đoạn đầu là cách mạng giải phóng dân tộc. Đây chính là sự kế
tục và phát triển hoàn chỉnh hơn nữa tư tưởng cách mạng giải phóng dân tộc của Hồ Chí
Minh đã vạch ra trong cương lĩnh 2/1930, là một bước trưởng thành vượt bậc của Đảng ta về
lãnh đạo chính trị, xây dựng đường lối cách mạng giải phóng dân tộc, có ý nghĩa quyết định
thành công của cuộc tổng khởi nghĩa tháng 8/1945…
C. Tóm lại :
Thắng lợi của CMVN dưới sự lãnh đạo của Đảng CSVN là bằng chứng không thể bác bỏ
tính đúng đắn của tư tưởng Hồ Chí Minh về sự gắn bó sự nghiệp giải phóng dân tộc với giải
phóng giai cấp bằng con đường đi lên CNXH. Đó là cương lĩnh đúng đắn của Đảng, chấm
dứt thời kỳ khủng hoảng về đường lối cứu nước của CMVN, mở ra giai đoạn mới, giai đoạn
đấu tranh giải phóng dân tộc. Chúng ta cũng không thể phủ nhận được rằng chủ nghĩa MácLênin đã như một thứ động lực tinh thần hợp lòng người nhất, để trên nền móng đó phát huy
sức mạnh của lòng yêu nước của dân tộc Việt Nam.
Nghị quyết của Đại hội lần IX nêu rõ: “Thực tiễn phong phú và những thành tựu thu được
qua 15 năm đổi mới đã chứng minh tính đúng đắn của cương lĩnh được thông qua tại đại hội
VII của Đảng, đồng thời giúp chúng ta nhận thức ngày càng rõ hơn về con đường đi lên
CNXH ở nước ta. Đảng và nhân dân ta quyết tâm xây dựng đất nước VN theo con đường
CNXH trên nền tảng Chủ nghĩa Mác – Lê Nin và tư tưởng Hồ Chí Minh”
Đại hội IX của Đảng đã rút ra các bài học kinh nghiệm sau 15 năm đổi mới (1986-2000) là:
“Một là, trong quá trình đổi mới, phải kiên trì mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội
trên nền tảng chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh. Hai là, đổi mới phải dựa vào
dân, vì lợi ích của nhân dân, phù hợp với thực tiễn, luôn luôn sáng tạo. Ba là, đổi mới phải

kết hợp với sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại. Bốn là, đường lối đúng đắn của đảng là
nhân tố quyết định sự thành công của sự nghiệp đổi mới.” (VKĐH IX, trang 19)
Ý nghĩa:
Một là trong quá trình đổi mới, phải kiên trì mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội
trên nền tảng chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh. Độc lập dân tộc gắn với
CNXH trên nền tảng CNMLN, tư tưởng HCM là sự nghiệp CM vĩ đại, triệt để nhất trong
lịch sử dân tộc ta. Trong gắn bó đó, độc lập dân tộc không chỉ bó hẹp trong phạm vi độc lập
chủ quyền quốc gia - lãnh thổ, nhân dân thoát khỏi ách thống trị của bọn đế quốc xâm lược,
mà còn đi tới giải phóng giai cấp, giải phóng dân tộc và giải phóng con ngưới khỏi bị áp
bức, bóc lột, bất công và mọi tha hoá; nhân dân lao động có cuộc sống ấm no, tự do hạnh
phúc và làm chủ đất nước, làm chủ vận mệnh của mình. Thống nhất giữa độc lập dân tộc và
CNXH là quy luật, là sợi chỉ đỏ xuyên suốt đường lối cách mạng Việt nam. Độc lập dân tộc
là cơ sở và điều kiện tiên quyết để xây dựng CNXH. CNXH bảo đảm vững chắc cho độc lập
dân tộc. Chính nhờ nhận thức và vận dụng đúng đắn quy luật đó, cuộc kháng chiến chống
thực dân Pháp đã thành công, cuộc kháng chiến chống đế quốc My cứu nước và giành được
thắng lợi. Trong những năm đổi mới vừa qua, mặc dù đứng ytrước những khó khăn thử
thách, biến động phức tạp của tình hình thế giới và khu vực, nhưng Đảng vẫn kiên định mục


tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Những kết quả đạt được trong quá trình xây dựng
CNXH trên phạm vi cả nước nói chung, trong 15 năm đổi mới nói riêng cũng bắt nguồn từ
đó.
Hai là, phải dựa vào nhân dân, vì lợi ích của nhân dân , phù hợp với thực tiễn, luôn luôn
sáng tạo. Cách mạng là sự nghiệp của quần chúng. Để đưa công cuộc đổi mới tới thắng lợi,
phải phát huy tính chủ động, sáng tạo, tham gia một cách tích cực, tự giác của nhân dân.
Việc dựa vào nhân dân, qua thực tiễn phong phú của nhân dân tiến hành tổng kết từng bước
tìm ra quy luật các mặt của cuộc sống để đi lên, đó là chìa khóa của thành công” dễ mười lần
không dân cũng chịu; khó trăm lần dân chịu cũng xong”. Ngày nay, bài học đó vẫn giữ
nguyên giá trị. Quá trình hình thành đường lối đổi mới cũng như trong suốt quá trình triển
khai thực hiện đường lối đó, Đảng ta luôn quán triệt tư tưởng dựa vào dân, lấy dân làm gốc,

lắng nghe ý kiến nguyện vọng của nhân dân, tổng kết những điển hình tiên tiến và những
kinh nghiệm hay của nhân dân trong quá trình thực hiện đường lối của đảng, để không ngừng
hoàn thiện đường lối chính sách.
Ba là, phải kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại. Công cuộc đổi mới của nhân
dân ta diễn ra trong lúc cuộc cách mạng khoa học – công nghệ thế giới phát triển mạnh mẽ;
xu thế khu vực hoá, toàn cầu hoá có ảnh hưởng mạnh mẽ đến nhịp độ phát triển và cuộc sống
của các dân tộc; cuộc đấu tranh của nhân dân thế giới và hoà bình, độc lập dân tộc, dân chủ
và tiến bộ xã hội, vì một trật tự chính trị, kinh tế thế giới thực sự dân chủ, công bằng, hợp lý
đang dâng cao…Để tiến hành đổi mới có kết quả, trong khi không một chút xem nhẹ việc
phát huy nội lực là chính, chúng ta phải ra sức tranh thủ tối đa mọi cơ hội tốt do những xu
hướng nói trên tạo ra việ tranh thủ các nguồn lực bên ngoài phải đảm bảo nguyên tắc thực
hiện chính sách đa phương hoá, đa dạng hoá, giữ vững độc lập dân tộc và định hướng xã hội
chủ nghĩa, bảo vệ và phát triển nền văn hoá dân tộc, không xâm phạm công việc nội bộ, bình
đẳng, cùng có lợi.
Bốn là, đường lối đúng đắn của Đảng là nhân tố quyết định thành công của sự nghiệp đổi
mới. Kinh nghiệm lịch sử rút ra từ sự sụp đổ chế độ XHCN ở Liên Xô và các nước Đông Au
cho thấy: Nguyên nhân hàng đầu dẫn đến sự sụp đổ là do đường lối chính trị, tư tưởng, tổ
chức sai lầm nghiêm trọng. Đối với Đảng ta, đảng khới xướng và lãnh đạo công cuộc đổi
mới với đường lối đúng đắn. Đường lối đó là kết quả tổng kết từ thực tiễn và nghiên cứu
phát triển lý luận trên sở nhận thức đúng đắn về chủ nghĩa Mác Lê Nin, tư tưởng Hồ Chí
Minh, kiên định mục tiêu độc lập dân tộc gắn với chủ nghĩa xã hội. Kế thừa truyền thống văn
hoá dân tộc, tiếp thu tinh hoa văn hoá nhân loại, phải biết dựa vào dân, vì dân, phát huy sức
mạnh đại đoàn kết toàn dân, tăng cườmg và phát huy nội lực đi đôi với không ngừng hoàn
thiện đường lối đổi mới; thường xuyên xây dựng; chỉnh đốn Đảng; tạo ra sự thống nhất về
quan điểm, ý chí và hành động trong toàn Đảng, lãnh đạo nhân dân thực hiện các mục tiêu,
nhiệm vụ do Đảng đề ra, kiện toàn bộ máy và hoạt động của Nhà Nước…Vì vậy, có cơ sở
vũng chắc để tin tưởng đường lối của Đảng, ở sự lãnh đạo của Đảng và tương lai tươi sáng
của dân tộc.
Đảng cộng sản Việt Nam ra đời và sự ra đời của cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng là
bước ngoặc vĩ đại trong lịch sử cách mạng nước ta, chấm dứt cuộc khủng hoảng về đường lối

cứu nước, là cơ sở định hướng cho mọi hoạt động của Đảng hiện nay và trong những thập kỷ
tới. Thực hiện thắng lợi cương lĩnh này, nước ta nhất định trở thành một nước xã hội chủ
nghĩa phồn vinh./


Câu 2: Phân tích cao trào cách mạng chống đế quốc, chống phong kiến giai đoạn
1930-1945 ?
Trong thế kỷ XIX, khi thực dân Pháp xâm lược nước ta, lực lượng chính của dân tộc là
nông dân đã bị mòn mỏi sau các cuộc chiến tranh Nam Bắc Triều, rồi Trịnh Nguyễn phân
tranh; triều đình nhà Nguyễn lại thối nát, đầu hàng, nên đế quốc Pháp đã đặt được ách
thống trị lên đầu lên cổ nhân dân Việt Nam. Nhiều cuộc khởi nghĩa của nhân dân ta đã nổ
ra rất mãnh liệt, song đều thất bại vì không có đường lối đúng. Đảng Cộng Sản Việt Nam
ra đời năm 1930 đánh dấu bước chuyển biến quyết định của cách mạng Việt Nam, mở
đường thắng lợi cho cách mạng giải phóng dân tộc Việt Nam. Bắt đầu từ đó một đường lối,
chiến lược cách mạng rõ ràng, đúng đắn được xác định và đưa hoạt động cách mạng của
nhân dân VN đi đến thành công, đặc biệt là trong cao trào cách mạng chống đế quốc Pháp
và phong kiến 1930-1945.
Ngay sau khi ra đời, trong Chính cương vắn tắt, Sách lược vắn tắt, tiếp đó là Luận cương
chính trị, Đảng đã xác định đường lối cách mạng Việt Nam là phải trải qua hai giai đoạn:
trước hết là cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân, sau đó tiến lên chủ nghĩa xã hội, bỏ qua
giai đoạn phát triển của chế độ tư bản chủ nghĩa, mục đích cuối cùng của Đảng là thực hiện
chủ nghĩa cộng sản ở nước ta. Trong suốt quá trình lãnh đạo cách mạng, Đảng luôn luôn
nắm vững ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, vì vậy đã giải quyết đúng đắn hàng
loạt vấn đề lớn của cách mạng VNvà đã giành được những thắng lợi vĩ đại.
Cương lĩnh chính trị (tháng 2/1930) và Luận cương chính trị (tháng 10/1930) đều khẳng
định : dưới thời Pháp thuộc, xã hội Việt Nam có hai mâu thuẫn cơ bản: mâu thuẫn giữa dân
tộc ta với chủ nghĩa đế quốc và mâu thuẫn giữa nhân dân ta, chủ yếu là nông dân, với giai
cấp địa chủ phong kiến. Cụ thể hơn, Đảng nhận định nước ta là nước nông nghiệp, nông
dân chiếm hơn 90% số dân, chủ nghĩa đế quốc dựa vào chế độ phong kiến để bóc lột nhân
dân, chủ yếu là bóc lột nông dân. Nguyện vọng tha thiết và trực tiếp của nông dân là dân

tộc độc lập, người cày có ruộng. Từ đó chỉ ra con đường cách mạng VN là “tư sản dân
quyền CM và thổ địa CM để đi tới XH cộng sản”; bằng bạo lực cách mạng đánh đuổi đế
quốc Pháp và xóa bỏ chế độ phong kiến VN, tiến đến cách mạng XHCN bỏ qua phát triển
TBCN.
Tuy nhiên, việc giải quyết mối quan hệ giữa nhiệm vụ chống đế quốc và nhiệm vụ chống
phong kiến để có thể phát huy cao độ yếu tố dân tộc là vấn đề phức tạp, Đảng ta đã phải
mất một thời gian tương đối dài mới đạt được sự nhất trí cao. Luận cương chính trị có hạn
chế là chưa vạch ra được mâu thuẫn chủ yếu của xã hội thuộc địa nửa phong kiến; đặt
nhiệm vụ chống phong kiến lên hàng đầu, chống đế quốc là hàng thứ yếu, cho việc phân
loại địa chủ là một sai lầm. Ngược lại với chính cương vắn tắt cho rằng: Mâu thuẩn giữa
dân tộc và đế quốc là mâu thuẩn cơ bản của xã hội nhưng đồng thời là mâu thuẩn chủ yếu
của xã hội, thì phải giải quyết nó trước hết; từ đó Đảng phải đặt nhiệm vụ chống đế quốc giải phóng dân tộc lên hàng đầu, với khẩu hiệu "Tổ quốc trên hết" để phát huy cao độ sức
mạnh dân tộc nhưng không coi nhẹ những nhiệm vụ dân chủ; chống phong kiến được rải ra
từng bước, chia ra 3 loại địa chủ: tiểu địa chủ, trung địa chủ và đại địa chủ để có sách lược
phù hợp với từng đối tượng, nhằm lôi kéo tranh thủ tập hợp lực lượng CM. Hai nhiệm vụ
chiến lược trên phải được tiến hành kh#ng khít với nhau, không được tách rời. Đó là tư
tưởng đúng đắn về chỉ đạo chiến lược, sách lược của Đảng ta.
Đảng lãnh đạo phong trào đấu tranh dân tộc, dân chủ tạo nên cao trào CM 1930-1931, xây
dựng lực lượng ctrị với nòng cốt là công – nông… với đỉnh cao là phong trào Xô viết Nghệ tĩnh, đây là cuộc tổng diễn tập đầu tiên của CM VN dưới sự lãnh đạo của Đảng, đem

6-2


lại cho Đảng một số kinh nghiệm về xác định mục tiêu đấu tranh, lựa chọn phương pháp
CM phù hợp với giai đoạn CM và về tập hợp lực lượng CM.
Từ giữa năm 1935, Đảng tập trung củng cố và phát triển Đảng trong các xí nghiệp, hầm
mỏ và nông thôn…; đẩy mạnh công tác vận động, thu phục quần chúng và mở rộng tuyên
truyền chống đế quốc, chống chiến tranh.
Suốt giai đoạn thực hiện phong trào vận động dân chủ (1936 - 1939), vận dụng nghị quyết
của quốc tế cộng sản vào đông dương, hai nhiệm vụ chống đế quốc và phong kiến của CM

VN là không hề thay đổi. Tháng 7/1936, CM VN chuyển hướng chỉ đạo chiến lược; đề ra
nghị quyết đấu tranh chống phát xít và bọn phản động nội địa, đòi tự do, dân chủ, cơm áo,
hòa bình. Thành lập Mặt trận nhân dân phản đế rộng rãi bao gồm các giai cấp, các đảng
phái, các đoàn thể chính trị, tôn giáo và dân tộc. Chuyển hướng hình thức tổ chức từ bí mật,
bất hợp pháp là chủ yếu chuyển sang đấu tranh công khai, hợp pháp và nửa hợp pháp là chủ
yếu như: hội cày, hội cấy, hội đá banh…để đấu tranh. Cao trào CM dân chủ phát triển
mạnh mẽ, đòi hỏi Đảng phải tiếp tục bổ sung chủ trương và biện pháp để chỉ đạo phong
trào, tháng 3-1938, TW họp quyết định tổ chức thực hiện Mặt trận thống nhất dân chủ và
coi đó là nhiệm vụ trọng tâm của Đảng trong giai đoạn hiện tại. Thời gian này, Đảng còn
sử dụng báo chí công khai làm vũ khí đấu tranh CM; xuất bản nhiều sách giới thiệu về đấu
tranh giai cấp, về CNXH, CNCS.
Cao trào dân chủ 1936-1939 là thắng lợi to lớn, đánh dấu bước phát triển mới của phong
trào CM VN. Qua phong trào, Đảng và các lực lượng CM VN trưởng thành nhanh chóng.
Cao trào 36-39 là cuộc tổng diễn tập lần thứ 2 cho tổng khởi nghĩa sau này. Để lại cho
Đảng ta nhiều bài học kinh nghiệm quý giá về: xác định kẻ thù và mục tiêu đấu tranh trước
mắt; tập hợp lực lượng rộng rãi trên cơ sở động viên sự tham gia của mọi tầng lớp XH; để
lãnh đạo được mặt trận, Đảng phải vững mạnh về chính trị và tổ chức, phải xây dựng khối
liên minh công – nông làm nòng cốt; phải biết sử dụng linh hoạt nhiều hình thức đấu tranh.
Giai đoạn 1939 – 1945 trước những biến động to lớn của tình hình thế giới và trong nước,
Đảng quyết định chuyển hướng chỉ đạo chiến lược, tiếp tục hoàn chỉnh mối quan hệ 2
nhiệm vụ chống đế quốc và phong kiến. Thể hiện qua Nghị quyết TW 6 (11/1939); NQ TW
7 (11/1940); NQ TW 8 (5/1941). Các nghị quyết đều khẳng định những nhiệm vụ chống đế
quốc và phong kiến của CM nước ta là không thay đổi, nhưng mục tiêu trước mắt là đánh
đổ đế quốc và tay sai, làm cho nước nhà hoàn toàn độc lập; tạm gác khẩu hiệu CM ruộng
đất, thay vào đó là khẩu hiệu tịch thu ruộng đất của đế quốc và tai sai chia cho dân cày.
Lợi dụng Pháp thua Đức trong chiến tranh thế giới thứ hai, Nhật vào chiếm nước ta, buộc
Pháp thỏa hiệp với Nhật cùng cai trị VN. Nhân dân ta chịu một cổ hai tròng. Xu hướng đấu
tranh vũ trang phát triển mạnh trong nhân dân, mở đầu là cuộc khởi nghĩa Bắc Sơn, tiếp
theo là khởi nghĩa Nam Kỳ (11/1940), khởi nghĩa Đô Lương (1/1941) đã thức tỉnh nhân
dân cả nước vùng lên tranh đấu.

Hội nghị lần thứ tám BCH TW (5/1941), Đảng chủ trương thành lập Mặt trận VN độc lập
đồng minh (gọi tắt là Việt Minh), đánh đuổi đế quốc Pháp - Nhật, thành lập Chính phủ
nhân dân của nước VN dân chủ cộng hòa. Trên cơ sở lực lượng chính trị được xây dựng,
Đảng chỉ đạo tổ chức lực lượng vũ trang CM gồm Hội cứu quốc quân, Đội VN tuyên
truyền giải phóng quân; thành lập các khu căn cứ địa CM; xác định khởi nghĩa từng phần
tiến đến tổng khởi nghĩa, xác định kẽ thù của CM là Phát Xít Nhật và thực dân Pháp. Đồng
thời thúc đẩy mạnh mẽ các hoạt động trên mặt trận văn hóa tư tưởng, xây dựng Đảng…chờ
đợi thời cơ tổng khởi nghĩa giành chính quyền.
Đêm 9-3-1945, Nhật đảo chính Pháp ở Đông Dương; cũng đêm đó BTV TW Đảng họp tại
Đình Bảng (Bắc Ninh) quyết định và Chỉ thị “Nhật - Pháp bắn nhau và hành động của


chúng ta”; chỉ rõ phát xít Nhật giờ đây là kẻ thù chính của nhân dân Đông Dương và nêu
các khẩu hiệu “Đánh đuổi phát xít Nhật”, “Thành lập chính quyền CM của nhân dân” để
chống lại chính phủ bù nhìn tay sai của Nhật, phát động cao trào kháng Nhật, làm tiền đề
cho cuộc tổng khởi nghĩa.
Giữa tháng 8-1945, tình thế trực tiếp CM đã xuất hiện, khi chính phủ Nhật đầu hàng Liên
Xô và quân đồng minh vô điều kiện, quân đội Nhật ở Đông Dương bị tê liệt hoàn toàn. Cơ
hội ngàn năm cho dân tộc ta vùng lên tổng khởi nghĩa giành chính quyền đã tới. Dưới sự
lãnh đạo của Đảng, nhân dân ta tiến hành cuộc cách mạng tháng Tám thành công. Và ngày
2/9/1945 tại Quảng Trường Ba Đình Chủ Tịch Hồ Chí Minh đã đọc bảng Tuyên ngôn độc
lập, khai sinh nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa- mở đầu một kỷ nguyên mới - kỷ nguyên
độc lập tự do, dân chủ nhân dân, tiến lên CNXH cho dân tộc VN.
Thắng lợi của cuộc tổng khởi nghĩa tháng Tám năm 1945 là kết quả của quá trình đấu
tranh lâu dài, gian khổ của nhân dân ta; là bước nhảy vọt vĩ đại đánh dấu sự biến đổi cực kỳ
to lớn trong lịch sử tiến hóa của dân tộc Việt Nam, từng cống hiến to lớn về lý luận và thực
tiễn đối với CM thế giới, đặt biệt là CM giải phóng dân tộc. Nói lên sự lãnh đạo đúng đắn
của Đảng và tinh thần quật khởi mạnh mẽ của toàn dân.
Nhưng với dã tâm đế quốc, thực dân pháp đã không từ mọi thủ đoạn, đã quay lại tái xâm
lược nước ta một lần nữa. Nhưng với bản lĩnh chính trị của Đảng cầm quyền đã trãi qua thử

thách trong thực tiễn đấu tranh trên mọi lĩnh vực để giải phóng dân tộc, một lần nữa Đảng
ta lãnh đạo nhân dân đi vào đấu tranh ở giai đoạn mới với hình thức, tính chất và quy mô ác
liệt hơn.
Chủ tịch HCM ra “Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến”. Đảng ta khẳng định đường lối
kháng chiến chống thực dân Pháp của ta là: toàn dân, toàn diện, lâu dài và dựa vào sức
mình là chính; tuy lâu dài, gian khổ nhưng nhất định thắng lợi.
Đại hội Đảng lần thứ II (2/1951), Đảng đổi tên là Đảng lao động Việt Nam (được tách ra
từ ĐCS Đông Dương) và ra hoạt động công khai. Đảng đã xác định đối tượng của CM Việt
Nam lúc là chủ nghĩa đế quốc xâm lược cụ thể là thực dân Pháp can thiệp Mỹ, phong kiến
phản động làm tay sai cho đế quốc là đối tượng thứ 2 của CM. Vạch ra 3 nhiệm vụ cơ bản
của CM Việt Nam là đánh đuổi đế quốc giành độc lập dân tộc; xóa bỏ di tích phong kiến,
làm cho người cày có ruộng phát triển chế độ dân chủ nhân dân; xây dựng cơ sở vật chất
CNXH. Nhiệm vụ chính vẫn là hoàn thành giải phóng dân tộc. Động lực của cuộc kháng
chiến CM dân tộc dân chủ nhân dân là giai cấp công nhân, nông dân, tiểu tư sản thành thị,
tiểu tư sản tri thức và tư sản dân tộc. Ngoài ra còn có những nhân sĩ yêu nước và tiến bộ.
Người lãnh đạo CM là giai cấp công nhân thông qua đội tiền phong của giai cấp công nhân
là Đảng Lao Động Việt Nam.
Song, đồng thời Đảng chỉ đạo thực khẩu hiệu “Người cày có ruộng”, tiến hành cải cách
ruộng đất ở vùng tự do và phát động quần chúng triệt để giảm tô ở các vùng địch chiếm
đóng. Các hội nghị TW 1 (tháng 3/1951), TW 2 (10/51), TW 3 (4/52), TW 4 (tháng
1/1953) và đặc biệt là hội nghị TW 5 (tháng 11/191953) đều trực tiếp chỉ đạo thực hiện
những Nvụ trên.
Quá trình thực hiện CM ruộng đất diễn ra đồng thời với cuộc tiến công chiến lược Đông –
Xuân 1953 – 1954 và chiến dịch Điện Biên Phủ, quân dân ta đã đánh bại hoàn toàn mọi cố
giắng quân sự của Pháp ở VN. Hiệp định Giơnevơ được ký kết (tháng 7/1954), hòa bình
lập lại ở Miền Bắc.
Phản ánh đúng tư tưởng chiến lược về tính không tách rời của hai nhiệm vụ chống đế
quốc và phong kiến, phản ánh nhận thức của Đảng muốn giữ quyền lãnh đạo dân tộc phải
thực hiện những yêu cầu dân chủ đối với nông dân, Đại hội toàn quốc lần thứ II của Đảng



(2-1951) đã định rõ "nhiệm vụ giải phóng dân tộc bao gồm nhiệm vụ phản phong kiến", và
thay khái niệm "cách mạng tư sản dân quyền" bằng khái niệm "cách mạng dân tộc dân chủ
nhân dân". Nhận thức của Đảng đã rõ ràng. Tuy nhiên, trong việc tổ chức thực hiện, Đảng
đã phạm sai lầm hữu khuynh, có lúc quá chú trọng tranh thủ tầng lớp trên, coi nhẹ phát
triển lực lượng công nhân, và sai lầm tả khuynh trong cải cách ruộng đất.
Từ những thành công cũng như sai lầm nghiêm trọng dù là tạm thời, Đảng đã rút ra bài
học quan trọng về mối quan hệ giữa chiến lược và sự chỉ đạo chiến lược. Đó là: "nắm vững
và giương cao ngọn cờ dân tộc và dân chủ với hai khẩu hiệu chiến lược "dân tộc độc lập"
và "người cày có ruộng", Đảng ta đã lôi cuốn được đông đảo nông dân đi theo giai cấp
công nhân, động viên được các tầng lớp nhân dân khác cùng với công, nông bước lên trận
tuyến cách mạng chống đế quốc và phong kiến. Trong quá trình cách mạng, những nhiệm
vụ chiến lược đó đã được cụ thể hoá bằng những mục tiêu thích hợp với từng thời kỳ, dựa
trên sự phân tích những mối quan hệ giai cấp cụ thể và khả n#ng phân hoá hàng ngũ kẻ thù
đế quốc và phong kiến, nhằm tập trung ngọn lửa cách mạng vào kẻ thù nguy hại nhất trong
từng lúc một. Song, dù ở bất cứ thời kỳ nào, những mục tiêu và nhiệm vụ chính trị cụ thể
do Đảng đề ra, về cơ bản đều bao hàm cả hai nội dung dân tộc và dân chủ, về cơ bản đều
gắn liền hai nhiệm vụ chống đế quốc và chống phong kiến". Như vậy về mối quan hệ giữa
hai nhiệm vụ chiến lược, Đảng đã nhận thức đầy đủ hơn, diễn đạt rõ ràng hơn, có tính lý
luận sâu sắc và bảo đảm cho Đảng tránh mắc sai lầm tả hữu khuynh trong việc lãnh đạo
hoàn thành cách mạng dân tộc dân chủ ở miền Nam trong thời kỳ chống đế quốc Mỹ.
Dưới sự lãnh đạo sáng suốt, đúng đắn của Đảng, cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp
xâm lược và can thiệp của Mỹ đã kết thúc thắng lợi, đã đi vài lịch sử dân tộc như một chiến
công hiển hách. Với thắng lợi của kháng chiến chống Pháp, nhiệm vụ của cuộc cách mạng
dân tộc, dân chủ mà Đảng ta đã vạch ra trong cương lĩnh chính trị đầu tiên đã căn bản hoàn
thành trên một nửa nước, mở đường cho miền Bắc bước lên thời kỳ quá độ lên CNXH, xây
dựng hậu phương vững mạnh để nhân dân tiếp tục đấu tranh hoàn thành CM dân tộc, đưa
chủ trương cả nước, giải phóng miền nam, thực hiện thống nhất đất nước đi lên xây dựng
CNXH, đem lại cuộc sống tự do, ấm no, hạnh phúc cho người dân.
Câu 3: Phân tích bài học kinh nghiệm, bài học xây dựng khối đại đoàn kết dân tộc qua

các giai đoạn từ 1930 đến nay. Liên hệ Nghị quyết Trung Ương 7 Khoá IX
Ngay khi Đảng Cộng Sản Việt Nam ra đời, chủ trương đoàn kết toàn dân trong Mặt trận
dân tộc thống nhất là một chính sách lớn của Đảng ta trong suốt quá trình lãnh đạo cách
mạng Việt Nam. Sức mạnh đoàn kết đã được phát huy trong đấu tranh giành độc lập dân tộc
và xây dựng, bảo vệ Tổ quốc. Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định : Đại đoàn
kết trong Mặt trận dân tộc thống nhất là một trong những nhân tố quyết định thắng lợi của
cách mạng Việt Nam.
Nhìn lại lịch sử Việt Nam, ngay từ thời xa xưa, các nhà lãnh đạo triều đại Lý, Trần, Lê…
cũng đã nhìn thấy sức mạnh của dân, để chủ trương dựa vào dân chống ngoại xâm. Trần
Quốc Tuấn đã rút ra bài học: "phải khoan thư sức dân, làm kế rễ sâu gốc vững, ấy là thượng
sách để giữ nước". Nguyễn Trãi cũng đã nói: "Đỡ thuyền cũng là dân mà lật thuyền cũng là
dân"… Kế thừa di sản quý báu của dân tộc, vận dụng di sản đó và kinh nghiệm của thế giới
vào cách mạng Việt Nam, Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng đã khẳng định "dân là gốc của nước",
"có dân là có tất cả" và thực hiện chủ trương: “Đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết, Thành công,
thành công, đại thành công". Trong tác phẩm "Đường kách mệnh", Người cũng đã nhấn
mạnh “Kách mệnh là việc chung của dân chúng, chứ không phải là việc của một hai người.


4-2

Với tư tưởng cối lõi ấy, ngay từ ngày thành lập, Đảng ta đã coi Mặt trận dân tộc thống nhất
là vấn đề có ý nghĩa chiến lược và đã phê phán mọi biểu hiện coi nhẹ công tác mặt trận, hạ
thấp vai trò của quần chúng, coi thường nhân tố dân tộc trong cách mạng.
Để hình thành được mặt trận, tập hợp được hết thảy các lực lượng cách mạng và tiến bộ
trong mỗi thời kỳ cách mạng, Đảng ta đã đề ra những chủ trương, chính sách thích hợp nhằm
đoàn kết toàn dân, phấn đấu cho một mục tiêu nhất định xem đó là chương trình hành động
thống nhất của tất cả các giai cấp, các đảng phái, các lực lượng tham gia Mặt trận dân tộc
thống nhất. Thể hiện tính chất quần chúng rộng rãi trong công tác mặt trận và căn cứ vào
từng thời kỳ, Đảng ta đã linh hoạt trong việc chỉ ra cách thức đấu tranh, lựa chọn hình thức
đấu tranh và tên gọi Mặt trận cho phù hợp với hoàn cảnh cụ thể và mục tiêu, nhiệm vụ từng

thời kỳ cách mạng như: Mặt trận dân chủ, Mặt trận Việt Minh, Mặt trận Liên Việt, Mặt trận
Tổ quốc, Mặt trận dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam. v.v.. Có mặt trận được tổ chức
chặt chẽ theo hệ thống từ trung ương đến cơ sở; có mặt trận chỉ mang tính chất liên hiệp
hành động; nhưng tất cả đều nhằm tập hợp, động viên được hết thảy mọi người tích cực tham
gia vào sự nghiệp chung giải phóng dân tộc và xây dựng, bảo vệ Tổ quốc.
Song song đó, Đảng luôn coi đoàn kết dân tộc luôn là nguồn sức mạnh của cách mạng và là
một trong những nhân tố quyết định thắng lợi của cách mạng Việt Nam. Chính vì vậy, Đảng
ta đã chủ trương xây dựng được khối đại đoàn kết dân tộc trên cơ sở liên minh công - nông –
trí thức. Đảng đã
Ngay từ khi mới thành lập, trong Cương lĩnh đầu tiên của Đảng đã chỉ rõ giai cấp vô sản
phải tranh thủ được nhiều bạn đồng minh, phải tập hợp các lực lượng cách mạng trong Mặt
trận dân tộc thống nhất. Hình thức Mặt trận dân tộc thống nhất đầu tiên lấy tên là Hội phản
đế đồng minh. Trong chỉ thị lập Mặt trận, Đảng đã nhấn mạnh: Nếu không tổ chức được lực
lượng thật rộng, thật kín thì cách mạng cũng khó thành công.
Sau cao trào cách mạng 1930-1931, đế quốc Pháp khủng bố ác liệt, phong trào cách mạng
tạm thời lắng xuống, Đảng chuyển hướng tổ chức quần chúng đấu tranh và quần chúng vẫn
hướng về Đảng. Khi điều kiện và thời cơ thuận lợi xuất hiện, Đảng đã kịp thời đề ra chủ
trương, chính sách đúng nên đã nhanh chóng tập hợp lực lượng, liên hiệp hành động với các
giai cấp, các tầng lớp yêu nước, các đảng phái dân chủ, hình thành Mặt trận dân chủ Đông
dương trong thời kỳ 1936-1939. Vì vậy, Đảng đã phát động được một cao trào đấu tranh
cách mạng đòi cải thiện dân sinh, dân chủ, cơm áo, hòa bình, chống phản động thuộc địa,
chống chủ nghĩa phát xít, chống chiến tranh.
Tháng 9/1939, Chiến tranh thế giới lần thứ hai bùng nổ, Đảng đặt nhiệm vụ giải phóng dân
tộc lên hàng đầu. Đồng chí Hồ Chí Minh về nước, cùng Ban Chấp hành Trung ương Đảng
hoàn chỉnh chủ trương chuyển hướng chỉ đạo chiến lược. Hội nghị Trung ương Đảng lần thứ
8 khoá I (tháng 5-1941), dưới sự lãnh đạo trực tiếp của đồng chí Hồ Chí Minh đã chủ trương
tạm gác khẩu hiệu tịch thu ruộng đất của địa chủ, thành lập Mặt trận Việt Nam độc lập đồng
minh (gọi tắt là Mặt trận Việt Minh) để mở rộng khối đoàn kết dân tộc không chỉ bao gồm
giai cấp công – nông mà còn cả những người Việt Nam yêu nước, tập trung mũi nhọn đấu
tranh vào nhiệm vụ chống đế quốc, giành độc lập dân tộc. Dưới ngọn cờ đại đoàn kết của

Mặt trận Việt Minh, nhân dân ta đã dấy lên một cao trào kháng Nhật cứu nước sôi nổi và đều
khắp, nắm vững thời cơ Đảng đã chỉ đạo Mặt trận khởi nghĩa từng phần, khởi nghĩa vũ trang
dẫn đến tổng khởi nghĩa đưa Cách mạng Tháng Tám 1945 đến thắng lợi.
Chính quyền cách mạng vừa mới thành lập, thì quân Pháp núp sau quân đội Anh trở lại xâm
lược nước ta từ phía Nam, còn quân Tưởng kéo vào phía Bắc. Trước tình thế hiểm nguy ấy,
Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh chủ trương mở rộng hơn nữa Mặt trận dân tộc thống nhất.
Tháng 5-1946, Mặt trận Liên Việt ra đời, khối đại đoàn kết dân tộc được củng cố, làm hậu


thuẫn vững chắc cho chính quyền cách mạng. Với mục tiêu giai đoạn này là đặt nhiệm vụ
đánh đổ đế quốc hàng đầu, Đảng đã huy động lực lượng toàn dân tham gia và áp dụng nhiều
biện pháp linh hoạt để thêm bạn, bớt thù, do đó đã đẩy lùi được mọi âm mưu thâm độc của
thù trong, giặc ngoài.
Sau chiến thắng Điện Biên Phủ, miền Bắc được hoàn toàn giải phóng, ở miền Nam, đế quốc
Mỹ biến miền Nam nước ta thành thuộc địa kiểu mới và Mỹ trở thành kẻ thù chính của dân
tộc ta. Trong hoàn cảnh mới, Đảng chủ trương thành lập ở mỗi miền một mặt trận dân tộc
thống nhất nhằm mở rộng và t#ng cường khối đoàn kết dân tộc để hoàn thành cách mạng dân
tộc dân chủ nhân dân trong cả nước và đưa miền Bắc tiến lên chủ nghĩa xã hội
Tháng 9-1955, ở miền Bắc, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam ra đời với mục tiêu xây dựng
CNXH. Tháng 12-1960, ở miền Nam, sau cao trào "đồng khởi", Mặt trận dân tộc giải phóng
miền Nam Việt Nam được thành lập với mục tiêu giải phóng Miền Nam.
Nhân dân ta còn đoàn kết với nhân dân các dân tộc Lào và Campuchia anh em, hình thành
Mặt trận đoàn kết ba nước, các lực lượng hoà bình, tiến bộ trên thế giới, kể cả nhân dân tiến
bộ Mỹ, ủng hộ sự nghiệp chống Mỹ, cứu nước của nhân dân ta. Trong cuộc kháng chiến Mỹ,
cứu nước đã hình thành trên thực tế ba tầng mặt trận : ở trong nước, trên bán đảo Đông
Dương và trên thế giới, đoàn kết mọi lực lượng có thể đoàn kết, tranh thủ mọi lực lượng có
thể tranh thủ để lên án và cô lập đế quốc Mỹ xâm lược.
Sau đại thắng mùa Xuân n#m 1975, miền Nam hoàn toàn giải phóng, đất nước thống nhất,
cả nước đi lên chủ nghĩa xã hội. Nhưng chủ nghĩa đế quốc và các thế lực phản động vẫn còn
âm mưu và hành động phá hoại sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc của nhân dân ta.

Đảng ta vẫn chủ trương tiếp tục coi trọng vai trò của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, nơi tập
họp đông đảo nhân dân cả nước ra sức thực hiện hai nhiệm vụ chiến lược là xây dựng chủ
nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa. Nhân dân ta tiếp tục t#ng cường đoàn kết
với nhân dân hai nước Lào và Campuchia, đoàn kết với các nước xã hội chủ nghĩa và các
nước, các dân tộc tiến bộ trên thế giới, đấu tranh cho hoà bình, độc lập dân tộc, dân chủ và
tiến bộ xã hội.
Từ những kết quả xây dựng mặt trận dân tộc thống nhất qua các giai đoạn trên, ta có thể rút
ra một số kinh nghiệm như sau :
Một là phải xác định đúng kẻ thù, sắp xếp đúng bạn đồng minh. Muốn có chính sách mặt
trận đúng đắn, trước hết phải xác định đúng kẻ thù cụ thể, phải chỉ rõ kẻ thù cần phải đánh
đổ trong từng giai đoạn chiến lược, trong từng thời kỳ của một giai đoạn. Có như vậy mới
tập trung được toàn bộ lực lượng cách mạng đánh đổ kẻ thù cũng như mới lợi dụng được
những mâu thuẫn trong nội bộ kẻ thù và vận dụng sách lược mềm dẻo để cô lập cao độ kẻ
thù nguy hiểm nhất. Đảng ta đã có nhiều thành công nổi bật trong việc xác định kẻ thù cụ thể
và chính sách mặt trận trong các thời kỳ cách mạng. Đặc biệt là trong thời kỳ 1945-1946,
công tác mặt trận lúc này hết sức phức tạp, nhưng phong phú và sáng tạo. Tình hình lúc bấy
giờ thay đổi từng ngày, từng tháng. Cùng một lúc cách mạng nước ta phải đối phó với nhiều
kẻ thù, nhưng Đảng đã đánh giá đúng các loại kẻ thù, xác định đúng kẻ thù chính, để có sách
lược và phương pháp đấu tranh phù hợp : khi thì hòa với Tưởng để chống Pháp, khi thì tạm
thời hoà với Pháp để đuổi Tưởng nhằm phân hoá, cô lập kẻ thù, tránh thế bất lợi phải chống
với nhiều kẻ thù cùng một lúc, để t#ng thêm sức mạnh giành thắng lợi. Trong kháng chiến
chống Mỹ, Đảng ta đã sáng suốt chỉ rõ kẻ thù nguy hiểm nhất không chỉ của dân tộc ta mà
của cả loài người tiến bộ là đế quốc Mỹ, nên đã hình thành được ba tầng mặt trận: ở trong
nước, ở Đông Dương và trên thế giới, tạo ra sức mạnh để giành thắng lợi trong sự nghiệp
chống Mỹ, cứu nước.


Trong công tác mặt trận, vì trong dân tộc có nhiều giai cấp, nên Đảng phải đánh giá đúng
thái độ chính trị của các giai cấp và tầng lớp xã hội khác nhau để sắp xếp đúng đắn vị trí các
lực lượng trong Mặt trận dân tộc thống nhất: vai trò lãnh đạo, lực lượng nòng cốt, bạn đồng

minh lâu dài và gần gũi, bạn đồng minh tạm thời, v.v.. Ngay từ khi thành lập, Đảng ta đã
đánh giá đầy đủ vị trí của giai cấp nông dân Việt Nam, giai cấp đông đảo nhất, chiếm 95%
số dân, là bạn đồng minh cách mạng và trung thành nhất của giai cấp công nhân Việt Nam.
Hai giai cấp công nhân và nông dân và tầng lớp trí thức có liên minh chặt chẽ mới phát huy
đầy đủ sức mạnh, thực hiện triệt để nhiệm vụ giải phóng dân tộc và giai cấp, trong đó giai
cấp công nhân phải đóng vai trò lãnh đạo của giai cấp công nhân. Bên cạnh đó, Đảng ra sức
tập hợp đông đảo lực lượng về phía cách mạng trên cơ sở đánh giá cao truyền thống yêu
nước của mọi tầng lớp nhân dân. Đảng đã lôi cuốn giai cấp tư sản dân tộc, một bộ phận hoặc
từng cá nhân xuất thân từ giai cấp phong kiến địa chủ có tinh thần yêu nước tham gia cách
mạng giải phóng dân tộc. Trong giai đoạn cách mạng dân tộc dân chủ, Đảng hết sức chú ý
phân tích thái độ chính trị của các giai cấp, các tầng lớp, nhất là các tầng lớp trên để tranh
thủ mọi khả n#ng có thể tranh thủ nhằm t#ng cường mặt trận dân tộc rộng rãi để chống đế
quốc và tay sai. Trong cách mạng xã hội chủ nghĩa, Đảng ta tiếp tục lắng nghe, tìm hiểu quan
điểm, tư tưởng và thái độ chính trị của các giai cấp, các tầng lớp để kịp thời đề ra những chủ
trương chính sách đúng đắn, những hình thức tổ chức sát hợp để tập hợp lực lượng đông đảo,
nhằm củng cố khối đoàn kết dân tộc, xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội ở nước ta.
Hai là giải quyết đúng đắn các mối quan hệ trong nội bộ mặt trận. Để tránh tả và hữu
khuynh trong việc thực hiện chính sách đoàn kết dân tộc, Đảng ta đã giải quyết đúng đắn các
mối quan hệ trong nội bộ mặt trận.
- Đối với mối quan hệ giữa dân tộc và giai cấp, mặt trận là tổ chức tập hợp lực lượng dân
tộc bao gồm nhiều giai cấp, tầng lớp được tập hợp, đoàn kết trên cơ sở chương trình hành
động chung. Vì vậy, cương lĩnh chung của mặt trận thể hiện đúng mối quan hệ giữa lợi ích
chung toàn dân tộc với lợi ích riêng từng giai cấp. Nếu vượt ra khỏi giới hạn mục tiêu đó là
phạm sai lầm tả khuynh. Trái lại, không đấu tranh để thực hiện những mục tiêu chung đã xác
định là phạm sai lầm hữu khuynh. Trong thời kỳ 1936-1939, Đảng nêu ra mục tiêu đấu tranh
đòi cải thiện dân sinh, dân chủ, chống chủ nghĩa phátxít, chống chiến tranh; trong thời kỳ
1939-1945 là đấu tranh chống Nhật, Pháp, giành độc lập dân tộc; trong thời kỳ chống Mỹ,
cứu nước đã có lúc Đảng nêu ra mục tiêu trước mắt tranh đấu cho miền Nam Việt Nam, hoà
bình, trung lập, v.v.. .
- Đối với mối quan hệ giữa liên minh công nông và mặt trận, đây là mối quan hệ lớn nhất

trong công tác mặt trận. Chỉ nhấn mạnh liên minh công nông mà không chú ý tranh thủ các
giai cấp, tầng lớp khác là hẹp hòi, tả khuynh. Ngược lại, chỉ chú ý vận động các giai cấp,
tầng lớp khác mà không chú ý củng cố liên minh công nông là phạm sai lầm hữu khuynh.
Đảng ta đã giải quyết đúng đắn mối quan hệ trên bằng việc thường xuyên nắm vững mục
tiêu lâu dài và mục tiêu chủ yếu trong từng thời kỳ cách mạng, phân tích được mâu thuẫn
chủ yếu để vạch rõ kẻ thù trực tiếp, nguy hiểm nhất. Khi cần tập trung lực lượng để giải
quyết những nhiệm vụ cấp bách nhất của cách mạng, Đảng đã giải quyết đúng mức quyền lợi
của công nông và của các giai cấp, các tầng lớp tham gia mặt trận.
- Đối với mối quan hệ giữa tranh thủ tầng lớp trên (tiểu tư sản, địa chủ..) đi đôi với phát
động quần chúng cơ bản. Đảng chủ trương “có thể và cần phải” tranh thủ tầng lớp trên, nhất
là những cá nhân có uy tín trong quần chúng, đó là điều cần thiết và có lợi cho việc phát
động quần chúng cơ bản. Nhưng phong trào vững chắc phải là phong trào cách mạng của
quần chúng cơ bản. Chỉ khi nào phong trào đó mạnh mới bảo đảm tranh thủ được tầng lớp
trên. Vận động các dân tộc ít người là một trong những công tác quan trọng bậc nhất của


4-6

mặt trận, của chính quyền cách mạng. Để đoàn kết đồng bào theo các tôn giáo, Đảng đưa ra
chính sách tự do tín ngưỡng và giáo dục quần chúng, nâng cao trình độ giác ngộ chính trị của
giáo dân, làm cho họ phân biệt rõ địch - ta, ra sức đẩy mạnh sản xuất, cải thiện đời sống vật
chất và tinh thần. Đối với tầng lớp trên trong tôn giáo, Đảng chủ trương đoàn kết với họ trên
tinh thần yêu nước chân chính và giúp đỡ họ hiểu biết đường lối, chính sách của cách mạng,
vận động họ cùng với đồng bào theo các tôn giáo làm những việc có ích cho Tổ quốc, chống
lại mọi âm mưu chia rẽ dân tộc và phá hoại của kẻ thù. Trong việc xây dựng mặt trận, Đảng
giải quyết đúng đắn mối quan hệ giữa đoàn kết và đấu tranh. Đoàn kết một chiều, thiếu đấu
tranh trong thực tế dẫn đến phá vỡ khối đoàn kết, thủ tiêu mặt trận. Đấu tranh vượt quá
cương lĩnh là phạm sai lầm tả khuynh, trái lại, thiếu đấu tranh để thực hiện cương lĩnh là hữu
khuynh, dẫn đến mất đoàn kết.
Ba là nâng cao sự lãnh đạo của Đảng trong mặt trận. Đây là vấn đề có tính nguyên tắc

nhằm giữ vững đường lối chính trị, mục tiêu, nhiệm vụ cách mạng của Đảng, chống mọi
khuynh hướng hạ thấp vai trò của Đảng, đòi chia quyền lãnh đạo trong mặt trận, xa rời
phương hướng, mục tiêu chiến lược của cách mạng. Để bảo đảm sự lãnh đạo của Đảng trong
mặt trận, phải luôn luôn tránh hai khuynh hướng lệch lạc là: cô độc, hẹp hòi, coi nhẹ tranh
thủ các lực lượng có thể tranh thủ; hoặc đoàn kết một chiều, đoàn kết mà không đấu tranh
đúng mức với những tư tưởng và việc làm sai trái của các thành viên trong mặt trận. Về phần
mình, Đảng không ngừng phấn đấu nâng cao n#ng lực lãnh đạo bằng sự hoàn thiện đường lối
chiến lược, đổi mới chủ trương, sách lược cho phù hợp với tình hình, nhiệm vụ và cải tiến
phong cách, phương thức làm việc trong mặt trận, chống tác phong quan liêu, mệnh lệnh,
thiếu kiên trì giáo dục, thuyết phục.
Tóm lại, bài học thành công của Đảng ta về xây dựng khối đoàn kết thống nhất dân tộc
thông qua hình thức tổ chức các mặt trận là vấn đề có ý nghĩa chiến lược, xuyên suốt quá
trình cách mạng nước ta từ trước đến nay, tạo nên một sức mạnh không gì có thể phá vỡ nổi.
Trong công cuộc đổi mới hiện nay, vai trò của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam cần phải tiếp tục
được coi trọng và ngày càng mở rộng để tập hợp mọi thành phần, lực lượng của đất nước,
tạo thành sức mạnh tổng hợp làm nên sự nghiệp dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng và
văn minh tiến lên chủ nghĩa xã hội..
Câu 4: Phân tích quá trình nhận thức đường lối cách mạng DTDC của Đảng ta từ
1930 đến 1954.
I. Sự ra đời của Đảng cộng sản Việt Nam
Trước yêu cầu của lịch sử, Nguyễn Ái Quốc được sự phân công của quốc tế cộng sản,
nhận trách nhiệm thống nhất các tổ chức cộng sản để lập ra một Đảng cộng sản duy nhất ở
Việt Nam. Hội nghị thống nhất lấy tên là Đảng cộng sản Việt Nam, thông qua chánh cương
vắn tắt, điều lệ vắn tắt, chương trình tóm tắt, sách lược vắn tắt của Đảng và điều lệ tóm tắt
của các hội quần chúng do Nguyễn Ái Quốc Soạn thảo.
Hội nghị hợp nhất mang ý nghĩa lịch sử là đại hội thành lập Đảng cộng sản Việt Nam.
Chánh cương vắn tắt và Sách lược vắn tắt đã xác định một cách tóm gọn những nét chính
về các vấn đề chiến lược và sách lược của CMVN. Tuy còn sơ lược, nhưng đã vạch ra
đường lối cơ bản, đúng đắn cho CMVN, là cương lĩnh đầu tiên của Đảng. Nội dung cương
lĩnh tóm tắt :

- Đảng chủ trương làm tư sản dân quyền cách mạng và thổ địa cách mạng, tức là làm cuộc
CMDTDCND để đi tới xã hội cộng sản.
- Nhiệm vụ của cuộc cách mạng là : Đánh đổ đế quốc chủ nghĩa Pháp và bọn phong kiến,
làm cho nước Nam được hoàn toàn độc lập, dựng ra Chính phủ công nông binh, tổ chức ra


quân đội công nông; thủ tiêu các quốc trái, thu hết sản nghiệp lớn của bọn đế quốc chủ
nghĩa Pháp để giao cho Chính phủ công nông binh, thu hết ruộng đất của đế quốc chủ nghĩa
làm của công chia cho dân cày nghèo, tiến hành cách mạng ruộng đất, miễn thuế cho dân
nghèo, mở mang công nghiệp và nông nghiệp, thi hành luật ngày làm 8 giờ; dân chúng
được tự do tổ chức, nam nữ bình quyền, phổ thông giáo dục theo hướng công nông hóa…
Các nhiệm vụ trên bao hàm cả hai nội dung : dân tộc và dân chủ, chống đế quốc và chống
phong kiến, trong đó nổi bật lên là nhiệm vụ chống đế quốc và tay sai phong kiến, giành
độc lập và tự do cho toàn thể dân tộc.
- Đảng phải vận động thu phục cho được đông đảo công nhân, làm cho GCCN lãnh đạo
dân chúng, phải thu phục cho được đông đảo nông dân và dựa vững vào nông dân nghèo,
lãnh đạo họ làm cách mạng ruộng đất. Đảng phải hết sức lôi kéo tiểu tư sản, trí thức, trung
nông đi về phía giai cấp vô sản, lợi dụng hoặc trung lập phú nông, trung và tiểu địa chủ và
tư bản Việt Nam. Bộ phận nào đã ra mặt phản cách mạng thì phải đánh đổ. Trong khi liên
lạc với các giai cấp, phải cẩn thận không được đi vào đường lối thỏa hiệp.
- Đảng là đội tiên phong của giai cấp vô sản, tổ chức lãnh đạo CMVN đấu tranh nhằm giải
phóng cho toàn thể đồng bào bị áp bức bóc lột. Đảng phải liên kết với các dân tộc bị áp bức
và quần chúng vô sản trên thế giới, nhất là giai cấp vô sản Pháp.
Chính cương vắn tắt, sách lược vắn tắt do Hồ Chí Minh soạn thảo là cương lĩnh đầu tiên
của Đảng CSVN, đó là cương lĩnh cách mạng giải phóng dân tộc đúng đắn và sáng tạo, phù
hợp xu thế phát triển của thời đại mới, nhuần nhuyễn về quan điểm giai cấp, thấm đượm
tinh thần dân tộc. Độc lập tự do gắn liền với định hướng tiến lên CNXH, là tư tưởng cốt lõi
của cương lĩnh.
II. Quá trình nhận thức đường lối cách mạng dân tộc dân chủ từ 1930-1954
1)- Thời kì 1930-1945 :

Sau hội nghị thành lập Đảng, cương lĩnh và điều lệ của Đảng được các cơ sở Đảng bí mật
đưa vào quần chúng. Phong trào cách mạng rộng lớn của quần chúng diễn ra ngày càng sôi
nổi và trên đà phát triển mạnh mẽ. Cương lĩnh đầu tiên của Đảng cộng sản Việt Nam chỉ
phác ra những nét cơ bản nhất về đường lối CMVN. yêu cầu khách quan đòi hỏi Đảng phải
có một cương lĩnh đầu đủ, toàn diện hơn.
Trần phú sau một thời gian dài học ở Liên Xô, được quốc tế cộng sản cử về nước hoạt
động và bổ sung vào BCHTW Đảng, được giao nhiệm vụ soạn thảo Luận cương chính
trị. Hội nghị lần thứ nhất BCHTW Đảng họp 10/1930, thống nhất đổi tên Đảng thành
Đảng cộng sản Đông Dương, thông qua Luận cương chính trị, điều lệ Đảng, cử BCHTW
chính thức… BCHTW Đảng đã đánh giá rằng Chánh cương vắn tắt, sách lược vắn tắt của
Hội nghị hợp nhất tháng 2/1930 đã phạm sai lầm chính trị rất nguy hiểm vì chỉ lo đến
việc phản đế mà quên mất lợi ích giai cấp tranh đấu. Vì vậy đã quyết định thủ tiêu
Chánh cương, Sách lược vắn tắt của Đảng và phải dựa vào Nghị quyết của quốc tế cộng
sản, chính sách và kế hoạch của Đảng theo tinh thần hội nghị tháng 10/1930. Luận cương
chính trị 10/1930 xác định :
- Mâu thuẫn giai cấp ngày càng diễn ra gay gắt ở Việt Nam, Lào, Cao Miên là : một bên
thì thợ thuyền, dân cày và các phần tử lao khổ, một bên thì địa chủ phong kiến, tư bản và
đế quốc chủ nghĩa.
- Tính chất cách mạng Đông Dương lúc đầu là một cuộc cách mạng tư sản dân quyền,
có tính chất thổ địa và phản đế, Tư sản dân quyền cách mạng là thời kì dự bị để làm xã
hội cách mạng. Sau khi cách mạng tư sản dân quyền thắng lợi thì sẽ tiếp tục phát triển
bỏ qua thời kì tư bản mà tranh đấu thẳng lên con đường XHCN.


- Sự cốt yếu của cách mạng tư sản dân quyền là phải tranh đấu để đánh đổ các di tích
phong kiến, thực hành cách mạng ruộng đất cho triệt để và tranh đấu để đánh đổ đế quốc
chủ nghĩa Pháp, làm cho Đông Dương hoàn toàn độc lập. Hai mặt tranh đấu đó liên lạc mật
thiết với nhau, vì có đánh đổ ĐQCN mới phá được giai cấp địa chủ, tiến hành cách mạng
thổ địa thắng lợi và có phá tan được chế độ phong kiến mới đánh đổ được ĐQCN. Luận
cương coi vấn đề thổ địa cách mạng là cái cốt của cách mạng tư sản dân quyền , là cơ sở

để Đảng giành quyền lãnh đạo dân cày.
- Xác định giai cấp vô sản (GCVS) và nông dân là hai động lực chính của cách mạng tư
sản dân quyền. Trong đó GCVS là động lực chính và mạnh, là giai cấp lãnh đạo cách
mạng. Tư sản thương nghiệp chỉ đứng về phía đế quốc chống cách mạng, tư sản công
nghiệp thì đứng về phía quốc gia cải lương và khi cách mạng phát triển cao thì họ sẽ theo
phe đế quốc. Giai cấp tiểu tư sản, bộ phận tiểu thủ công nghiệp thì có thái độ do dự; tiểu tư
sản thương gia thì không tán thành cách mạng; tiểu tư sản trí thức thì có xu hướng quốc gia
cách mạng và chỉ có thể hăng hái chống đế quốc trong thời kì đầu. Chỉ có các phần tử lao
khổ ở đô thị mới đi theo cách mạng mà thôi.
- Sự lãnh đạo Đảng là điều kiện cốt yếu cho sự thắng lợi của cách mạng. Đảng phải có
đường lối chính trị đúng đắn, tập trung gắn bó quần chúng, lấy chủ nghĩa Mác-Lenin làm
nền tảng tư tưởng. Đảng là đội tiên phong của GCCN, đại biểu cho chính quyền lợi của
GCCN, đấu tranh cho mục tiêu CSCN.
+ Đảng phải liên lạc mật thiết với vô sản và các dân tộc thuộc địa, nhất là vô sản Pháp.
+ Đảng phải lãnh đạo nhân dân chuẩn bị tiến lên võ trang, bạo động để giành chính quyền,
phải coi võ trang là một nghệ thuật, phải theo khuôn phép nhà binh.
Nhìn chung, qua những nội dung cơ bản nêu trên của luận cương tháng 10/1930, đã thấy
rõ là luận cương chính trị đã khẳng định lại nhiều vấn đề cơ bản thuộc về đường lối chiến
lược cách mạng nước ta mà Chính cương vắn tắt, Sách lược vắn tắt đã nêu.
Tuy có mang tính kế thừa Chính cương vắn tắt, Sách lược vắn tắt của hội nghị tháng
2/1930, nhưng do nhận thức giáo điều về mối quan hệ giữa vấn đề dân tộc và giai cấp trong
cách mạng thuộc địa, hiểu biết không đầy đủ về tình hình đặc điểm của xã hội, giai cấp và
dân tộc ở Đông Dương, đồng thời lại chịu ảnh hưởng khuynh hướng tả của quốc tế cộng
sản, cho nên BCHTW Đảng do Trần Phú đứng đầu đã không vạch rõ được mâu thuẫn chủ
yếu của một xã hội thuộc địa là mâu thuẫn giữa dân tộc Việt Nam với bọn thực dân xâm
lược Pháp cùng bọn tay sai của chúng, nên không nêu toát lên được vấn đề dân tộc lên hàng
đầu, mà nặng về đấu tranh giai cấp. Về cách mạng ruộng đất : không đề ra được chiến lược
liên minh dân tộc và giai cấp rộng rãi trong cuộc đấu tranh chống đế quốc Pháp và tay sai.
Từ đó đã phê phán gay gắt quan điểm đúng đắn của Hội nghị hợp nhất là đặt vấn đề dân tộc
lên hàng đầu và đã quyết định thủ tiêu Chánh cương vắn tắt, Sách lược vắn tắt của Đảng do

Nguyễn Ái Quốc soạn thảo. Song, ngay từ đầu, thực tiễn cách mạng đã khẳng định tính
chất khoa học, cách mạng và vị trí lịch sử của Cương lĩnh đầu tiên của Đảng.
Cao trào cách mạng của quần chúng với đỉnh cao là cao trào Xô Viết Nghệ Tĩnh, cuộc đấu
tranh giữa cách mạng và phản cách mạng quyết liệt thì Ban thường vụ TW Đảng ra chỉ thị
thành lập Hội phản đế đồng minh, trong đó nêu lên tư tưởng chiến lược cách mạng đúng
đắn đã được nêu trong Chánh cương vắn tắt, Sách lược vắn tắt, coi việc đoàn kết toàn dân
thành một tổ chức rộng rãi, lấy công nông là động lực chính quyết định thắng lợi của cách
mạng giải phóng dân tộc. Chỉ thị cũng phê phán những nhận thức sai lầm trong Đảng là
tách rời vấn đề dân tộc và giai cấp, nhận thức không đúng về vai trò đoàn kết dân tộc, về
vai trò Hội phản đế đồng minh trong cách mạng thuộc địa. Hậu quả là làm cho tổ chức cách


mạng vẫn đơn thuần mầu sắc công nông, thiếu một tổ chức thật quãng đại quần chúng
trong hàng ngũ chống đế quốc Pháp.
Tuy nội dung của bản chỉ thị phù hợp với tư tưởng đoàn kết dân tộc đã được nêu trong
cương lĩnh đầu tiên của Đảng. Song quan điểm và chủ trương đúng đắn về vấn đề quan hệ
giữa dân tộc và giai cấp, vấn đề đoàn kết dân tộc vẫn chưa trở thành tư tưởng chủ đạo của
BCHTW lúc đó.
Từ tháng 10/1930 cho đến đại hội đại biểu toàn Đảng lần thứ I (3/1935), nhiều chương
trình hành động và Nghị quyết của Đảng đều tiếp tục đứng trên quan điểm tư tưởng sai lầm
của Hội nghị tháng 10/1930. Nhìn nhận và đánh giá một cách khách quan về chủ trương
của Hội nghị BCHTW Đảng lúc bấy giờ về mối quan hệ giữa dân tộc và giai cấp, giữa
nhiệm vụ chống đế quốc và phong kiến, giữa liên minh công nông và đoàn kết với các lực
lượng yêu nước trong dân tộc thì thấy có nhiều quan điểm, nhận thức mâu thuẫn nhau.
Bệnh ấu trĩ về chính trị, khuynh hướng tả, biệt phái và giáo điều rập khuôn vẫn còn là
khuynh hướng chi phối trong các chủ trương và chính sách của Đảng.
Trước những chuyển biến của tình hình trong nước và quốc tế, đặc biệt là chủ trương
chiến lược của đại hội lần thứ VII quốc tế cộng sản. Tháng 7/1936, đ/c Lê Hồng Phong chủ
trì hội nghị đã vạch ra những chủ trương mới về chính trị, tổ chức và đấu tranh; xác định
chiến lược cách mạng ở Đông Dương vẫn là cách mệnh tư sản dân quyền - phản đế và

điền địa - lập chính quyền công nông bằng hình thức Xô Viết, để dự bị điều kiện đi tới cách
mệnh XHCN. Trung ương Đảng nêu rõ, tạm thời không nêu khẩu hiệu độc lập dân tộc và
ruộng đất cho người cày; mục tiêu trước mắt và trực tiếp là : nhiệm vụ lập mặt trận nhân
dân phản đế rộng rãi bao gồm các giai cấp, các đảng phái, các đoàn thể chính trị và tín
ngưỡng tôn giáo khác nhau, các dân tộc Đông Dương cùng đấu tranh đòi những điều kiện
dân chủ, dân sinh cho nhân dân lao động và chống hoạt động thuộc địa. Trung ương còn
chủ trương đổi mới về tổ chức và đấu tranh, chuyển từ hình thức tổ chức đấu tranh bí mật,
không hợp pháp sang các hình thức công khai, và nửa công khai, hợp pháp và nửa hợp
pháp.
Điều đáng chú ý là trong khi đề ra chủ trương mới lãnh đạo nhân dân đấu tranh đòi các
quyền về dân chủ dân sinh. Trung ương Đảng đã bắt đầu chú ý và xem xét lại quan điểm
chỉ đạo chiến lược chống đế quốc và phong kiến của hội nghị tháng 10/1930 và đi đến kết
luận : không nhất thiết phải thực hiện ngang bằng nhiệm vụ chống đế quốc và chống phong
kiến mà tùy thuộc vào điều kiện và hoàn cảnh lịch sử cụ thể, tùy vào tương quan so sánh
lực lượng giữa hai bên mà đề cao nhiệm vụ này hay nhiệm vụ kia. Và cho rằng, nhiệm vụ
đấu tranh chống đế quốc là cần kíp cho lúc hiện thời, còn vấn đề điền địa tuy quan trọng
nhưng chưa phải trực tiếp bắt buộc, thì có thể trước hết tập trung đánh đổ đế quốc rồi giải
quyết vấn đề điền địa sau; nhưng có khi vấn đề điền địa và phản đế phải liên tiếp giải
quyết, vấn đề này giúp cho vấn đề kia làm xong mục đích của cuộc vận động. Nghĩa là
cuộc phản đế phát triển tới trình độ võ trang tranh đấu kịch liệt, đồng thời vì muốn tăng
thêm lực lượng tranh đấu chống đế quốc cần phải phát triển cuộc cách mạng điền địa. Đây
là tư duy mới, là một quan điểm đúng đắn phù hợp với tư tưởng chiến lược của Cương lĩnh
tháng 2/1930, và nó mở đường cho chiến lược của Đảng ta từ năm 1939 về sau này.
Chiến tranh thế giới thứ hai bùng nổ. Ở Đông Dương, thực dân Pháp thi hành chính sách
thống trị thời chiến. Phát xít Nhật nhảy vào Đông Dương, từ đó nhân dân ta một cổ hai
tròng áp bức Pháp - Nhật. Mâu thuẫn giữa nhân dân ta và Pháp - Nhật gay gắt hơn bao giờ
hết. Hội nghị TW6 (11/1939) do đ/c Nguyễn Văn Cừ chủ trì và đặc biệt là hội nghị
BCHTW lần thứ 8 (5/1941) do Hồ Chí Minh trực tiếp lãnh đạo đã đề ra những thay đổi mới
về đường lối, chủ trương cách mạng tư sản dân quyền ở Đông Dương.



Hội nghị 5/1941 nhận định : bước đường sinh tồn của các dân tộc ở Đông Dương không
có con đường nào khác hơn là con đường đánh đổ đế quốc Pháp, chống tất cả ách ngoại
xâm vô luận là da trắng hay da vàng để tranh lấy giải phóng dân tộc. BCHTW Đảng
khẳng định : tập hợp toàn dân tộc, đề cao khẩu hiệu đánh đổ đế quốc giành độc lập cho dân
tộc, đề cao khẩu hiệu dân tộc trên hết, nhiệm vụ chống phong kiến rải ra nhiều bước; trung
ương Đảng chủ trương đấu tranh để xây dựng các quốc gia riêng biệt : Việt Nam, Cao
Miên, Lào theo quan điểm thực hiện quyền dân tộc tự quyết, không tổ chức thành Liên
bang Đông Dương; chủ trương thành lập mặt trận Việt Minh để tập hợp toàn dân tộc chống
Pháp - Nhật, và chỉ ra con đường đấu tranh giành chính quyền là khởi nghĩa võ trang với
hình thức khởi nghĩa từng phần tiến lên tổng khởi nghĩa.
Trong thư gửi đồng bào 6/1941, Người viết : Trong lúc này quyền lợi dân tộc giải phóng
cao hơn hết thảy, chúng ta hãy đoàn kết lại đánh đổ bọn đế quốc và bọn Việt gian đặng cứu
giống nòi ra khỏi nước sôi lửa nóng…, Việc cứu nước là việc chung, ai là người Việt
Nam đều phải kề vai gánh vác một phần trách nhiệm : người có tiền góp tiền, người có của
góp của... Riêng phần tôi, tôi xin đem hết tâm lực đi cùng các bạn, vì đồng bào mưu giành
tự do độc lập, dầu phải hi sinh tính mệnh cũng không nề.
Các Nghị quyết trên và sự điều chỉnh chiến lược của BCHTW chính là sự kế tục và phát
triển những quan điểm, tư tưởng đúng đắn của Chính cương vắn tắt, Sách lược văn tắt
2/1930 và là nguồn gốc quyết định thắng lợi của tổng khởi nghĩa tháng 8/1945 sau này.
2)- Thời kì 1945 - 1954 :
a)- Bối cảnh lịch sử :
Tổng khởi nghĩa tháng 8/1945 thành công, khai sinh ra nước Việt Nam dân chủ cộng hòa.
Kết thúc chiến tranh TG II, tương quan lực lượng trên thế giới có nhiều thay đổi, hệ thống
các nước XHCN hình thành tạo một dòng thác cách mạng phối hợp phong trào giải phóng
dân tộc, đấu tranh vì hòa bình tiến bộ trên thế giới tiến công đẩy lùi CNĐQ. Chủ nghĩa thực
dân cũ thất bại, Pháp suy yếu do chiến tranh TG II và lệ thuộc Mĩ về nhiều phương diện.
CNĐQ dưới sự điều khiển của Mĩ coi Việt Nam là trọng điểm, thỏa thuận với nhau về quan
điểm bao vây tiêu diệt CMVN.
Ở trong nước, lực lượng mọi mặt của Nhà nước còn non yếu, các nước đế quốc và các thế

lực phản động quốc tế và trong nước liên kết bao vây chống phá quyết liệt. Miền Bắc, quân
Tưởng kéo vào với danh nghĩa quân đồng minh tước vũ khí quân Nhật, nhưng thực chất là
âm mưu Cầm Hồ, diệt cộng tạo lập một Chính phủ tay sai tranh giành quyền lực gây khó
khăn cho cách mạng. Ngoài ra còn có 2 vạn quân Anh dưới danh nghĩa đồng minh dọn
đường cho Pháp trở lại tái chiếm Việt Nam. Ngày 23/8/1945, quân Pháp đã nổ súng đánh
chiếm : Sài Gòn, Gia Định, Chợ Lớn. Bên cạnh đó, Chính phủ cách mạng phải đương đầu
với nhiều tổ chức và giáo phái phản động ở miền Nam do Pháp viện trợ để tranh giành
quyền lực với Việt Minh… Mặt khác, Chính quyền cách mạng phải đương đầu với nền
kinh tế nghèo nàn, các di sản văn hóa nô dịch nặng nề… Đất nước lâm vào tình thế :
nghìn cân treo sợi tóc.
Trước tình thế khó khăn, Đảng ta do Chủ tịch Hồ Chí Minh đã thực hiện chính sách đại
đoàn kết dân tộc, huy động mọi sức mạnh của cả dân tộc, dùng sách lược đấu tranh linh
hoạt và khôn khéo với địch, từng bước vượt qua mọi hiểm nguy, chủ động trước mọi tình
thế để giữ vững chính quyền, đưa cách mạng tiến lên. Lúc này, Ban thường vụ TW Đảng ta
xác định : Cuộc cách mạng Đông Dương lúc này vẫn là cuộc cách mạng dân tộc giải
phóng. Cuộc cách mạng ấy đang tiếp diễn, nó chưa hoàn thành, vì nước ta chưa hoàn toàn
độc lập. Phân tích âm mưu của các đế quốc đối với Đông Dương, Đảng ta nêu rõ : Kẻ thù
chính của dân tộc lúc này là thực dân Pháp xâm lăng, phải tập trung ngọn lửa đấu tranh


vào chúng. Vì vậy, phải lập mặt trận dân tộc thống nhất chống thực dân Pháp xâm lược,
mở rộng Việt Minh … Kiên quyết giành độc lập, tự do, hạnh phúc cho dân tộc, độc lập về
chính trị, thực hiện chế độ dân chủ cộng hòa, cải thiện đời sống nhân dân.
Những chủ trương trên của Ban thường vụ TW Đảng được nêu trong chỉ thị Kháng chiến
kiến quốc. Ngoài ra, Chỉ thị Kháng chiến kiến quốc Đảng cũng nêu rõ : cách mạng muốn
đứng vững phải biết tự bảo vệ, phải đồng thời thực hiện hai mặt song song :
- Kiến quốc để phát triển thực lực cách mạng nhằm đủ mạnh để thắng kẻ thù
- Thực hiện sách lược hòa hoãn, nhân nhượng kẻ thù để nhằm hòa hoãn những kẻ có thể
hòa hoãn được để tập trung lực lượng chống Pháp.
 Về tổ chức thực hiện chỉ thị kháng chiến kiến quốc

- Về xây dựng và phát triển thực lực cách mạng : ta tổ chức tổng tuyển cử, xây dựng chính
quyền cách mạng, ban hành Hiến pháp (1946) tạo tính hợp hiến, hợp pháp của Chính phủ
Hồ Chí Minh. Tích cực xây dựng lực lượng vũ trang : Quân đội nhân dân và Công an nhân
dân, diệt nạn đói, giặc dốt.
- Về thực hiện chính sách hòa hoãn : thực hiện thành 2 giai đoạn
+ Giai đoạn I (9/1945-2/1946) : chủ trương hòa với Tưởng để tập trung lực lượng đánh
Pháp ở Nam Bộ, tranh thủ hòa hoãn để tập trung phát triển lực lượng cách mạng
+ Giai đoạn II (3/1946-12/1946) : kí kết với Pháp Hiệp định sơ bộ 6/3/1946, đặt cơ sở đi
đến đàm phán để kí một Hiệp định chính thức. Cuộc đàm phán chính thức giữa ta và Pháp
tại Phông-ten-nơ-bơ-lo không đi đến kết quả. Nhằm tranh thủ kéo dài thời gian cho việc
tiếp tục xây dựng lực lượng, chuẩn bị cho cuộc kháng chiến toàn quốc. Chủ tịch Hồ Chí
Minh kí với Chính phủ Pháp bản tạm ước 14/9/1946 : chấp nhận cho Pháp mang 15 vạn
quân ra miền Bắc, Việt Nam là quốc gia nằm trong sự bảo hộ của Pháp. Phía Pháp phải
chấp nhận Bắc kì trải qua cuộc trưng cầu dân ý, công nhận Chính phủ Hồ Chí Minh là quốc
gia tự do nằm trong Liên hiệp Pháp... Với kết quả đàm phán và thương lượng : 20 vạn quân
Tưởng, 6 vạn quân Nhật, 2 vạn quân Anh phải rút về nước.
Nhìn chung, từ 9/1945-12/1946, Đảng ta đã lãnh đạo nhân dân đấu tranh giữ vững được
Chính quyền cách mạng, đẩy mạnh kháng chiến ở miền Nam, chuẩn bị mọi mặt cho cuộc
kháng_chiến trên quy mô cả nước. Thực tiễn lịch sử của thời kì này đã đem lại cho Đảng ta
nhiều bài học quý báu, nhất là bài học về phát huy sức mạnh đoàn kết dân tộc, chống chia
rẽ, đối lập, về lợi dụng triệt để mâu thuẫn trong nội bộ kẻ thù và về sự nhân nhượng có
nguyên tắc.
 Phát động toàn quốc kháng chiến; đường lối kháng chiến của Đảng
Sau kí Hiệp định sơ bộ, thực dân Pháp đem quân ra miền Bắc liên tục khiêu khích và lấn
chiếm, gửi tối hậu thư Chính phủ ta đòi tước vũ khí lực lượng tự vệ Hà Nội, kiểm soát an
ninh thủ đô. Hành động của thực dân Pháp đã đặt Đảng và Chính phủ ta trước một tình thế
không thể nhân nhượng. Lịch sử dân tộc đã đặt trước một sự lựa chọn mới : phải đứng lên
kháng chiến trong toàn quốc để bảo vệ nền độc lập. Đêm 19/12/1946, Ban thường vụ TW
Đảng đã quyết định phát động cuộc kháng chiến trên quy mô cả nước. Chủ tịch Hồ Chí
Minh đã ra lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến.

Lời kêu gọi của Chủ tịch Hồ Chí Minh là tiếng gọi của non sông đất nước, là lời hịch làm
thấu động tình cảm sâu xa và cao đẹp nhất trong mỗi lòng người dân Việt anh hùng bất
khuất, làm cho cả nước sôi sục đứng lên chiến đấu bằng mọi thứ vũ khí có trong tay, với ý
chí cảm tử cho tổ quốc quyết sinh, với một thái độ chính trị dứt khoát và kiên định, vì
độc lập tự do của tổ quốc. Lời kêu gọi đó là một cương lĩnh kháng chiến, khái quát ở trình
độ cao, chứa đựng những tư tưởng, quan điểm và đường lối chiến tranh nhân dân của Chủ
tịch Hồ Chí Minh và của Đảng. Ngày 22/12/1946, Ban thường vụ TW Đảng ra bảng chỉ thị


toàn dân kháng chiến. Tóm tắt những nội dung cơ bản đường lối kháng chiến của Đảng như
sau :
- Về tính chất và mục tiêu của cuộc kháng chiến : nhân dân Việt Nam xác định cuộc chiến
tranh chính nghĩa chống chiến tranh phi nghĩa xâm lược của thực dân Pháp; chiến tranh
chống Pháp là sự tiếp tục của cuộc cách mạng giải phóng dân tộc nhằm bảo vệ độc lập dân
tộc, giành ruộng đất cho người cày và xây dựng cơ sở đi lên CNXH.
- Về xác định phương châm kháng chiến : kháng chiến toàn dân, kháng chiến toàn diện,
kháng chiến trên tinh thần tự lực cánh sinh, kháng chiến lâu dài và trải qua ba giai đoạn :
cầm cự, phòng ngự và tổng phản công. Đảng ta xác định kháng chiến nhất định thắng lợi.
Về mối quan hệ giữa dân tộc và dân chủ trong giai đoạn này, tác phẩm : Kháng chiến
nhất định thắng lợi của Trường Chinh đã nêu rõ quan điểm của Đảng là : cuộc kháng
chiến chỉ hoàn thành nhiệm vụ giải phóng đất nước, củng cố và mở rộng chế độ Cộng hòa
dân chủ. Nó không tịch thu ruộng đất của địa chủ phong kiến chia cho dân cày, chỉ tịch thu
ruộng đất và các hạng tài sản khác của Việt gian phản động để bổ sung ngân quỹ kháng
chiến hay ủng hộ các gia đình chiến sĩ hi sinh.
 Đại hội toàn quốc lần thứ II của Đảng (1951)
Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ II triệu tập từ ngày 11 đến 19/2/1951 tại Tuyên Quang.
Đại hội quyết định tách ba Đảng bộ Đảng cộng sản ở Đông Dương để lập ra mỗi nước một
Đảng cách mạng riêng. Đảng cộng sản Đông Dương được đổi tên là Đảng lao động Việt
Nam.
Tại Đại hội Đảng, báo cáo chính trị của Hồ Chí Minh đã vạch rõ khẩu hiệu chính của ta là

tiêu diệt thực dân Pháp và đánh bại bọn can thiệp Mĩ, giành thống nhất độc lập hoàn toàn,
đưa Đảng ra hoạt động công khai lấy tên Đảng là Đảng lao động Việt Nam. Báo cáo chính
trị Bàn về cách mạng Việt Nam của Trường Chinh đã trình bày toàn bộ đường lối CMVN.
Đó là cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân tiến lên CNXH ở Việt Nam. Nội dung cốt lõi
của bản báo cáo bàn về CMVN là Cương lĩnh chính trị thứ ba của Đảng ta.
Đại hội xác định nhiệm vụ cơ bản hiện nay của CMVN là đánh đuổi bọn đế quốc xâm
lược, giành độc lập và thống nhất cho dân tộc, xóa bỏ những di tích phong kiến và nửa
phong kiến, làm cho người cày có ruộng, phát triển chế độ dân chủ nhân dân, gây cơ sở cho
CNXH. Ba nhiệm vụ đó khắng khích với nhau, song nhiệm vụ chính trước mắt là hoàn
thành giải phóng dân tộc. Đại hội xác định lực lượng CMDTDCND ở Việt Nam là :
GCCN, giai cấp nông dân, giai cấp tiểu tư sản thành thị, tiểu tư sản trí thức và tư sản dân
tộc. Ngoài ra là những thân sĩ (địa chủ) yêu nước và tiến bộ. Những giai cấp, tầng lớp và
phần tử đó hợp thành nhân dân. Nền tảng của nhân dân là công, nông và lao động trí thức.
Người lãnh đạo cách mạng là GCCN…
Đảng lãnh đạo thực hiện cải cách ruộng đất trong vùng tự do. Đầu 1953, Hội nghị TW lần
3,4 của Đảng chủ trương tổ chức cải cách ruộng đất, xóa bỏ giai cấp địa chủ, chia ruộng đất
cho nông dân ở vùng tự do. Kết quả : trong một thời gian ngắn đã xóa bỏ hoàn toàn giai
cấp địa chủ, chia ruộng đất (đất địa chủ và đất làng xã) cho nông dân. Đây là cuộc cách
mạng đổi đời của nông dân, lúc này nông dân chỉ có đóng một sắc thuế duy nhất là thuế
kháng chiến, không còn phải nộp tô thuế cho địa chủ.
III. Đảng lãnh đạo đường lối, xây dựng thực lực kháng chiến về mọi mặt
Do tương quan lực lượng giữa ta và địch, phương châm chiến lược của ta là đánh lâu dài.
Là một quá trình vừa đánh vừa xây dựng lực lượng, từng bước làm biến đổi so sánh lực
lượng có lợi cho ta. Vì thế phải đánh địch trên tất cả các lĩnh vực : quân sự, kinh tế, chính
trị văn hóa, trong đó Đảng xác định quân sự là mặt trận hàng đầu, nhằm tiêu diệt lực lượng
địch trên toàn bộ đất nước.


- Về chính trị : Đảng chủ trương tiếp tục củng cố chính quyền dân chủ nhân dân ở vùng tự
do, mở rộng mặt trận đoàn kết dân tộc chống Pháp bằng việc duy trì mặt trận Việt Minh và

xây dựng thêm mặt trận Liên Việt để thu hút mọi lực lượng chống Pháp; tuyên truyền tính
chất chính nghĩa của cuộc kháng chiến để cô lập và hạn chế tối đa những hoạt động của
bọn Việt gian.
- Về kinh tế : xây dựng nền kinh tế tự cung tự cấp ở vùng tự do, đảm bảo đời sống nhân
dân và nuôi quân đánh Pháp, thực hiện sách lược tiêu thổ kháng chiến ở vùng tự do. xây
dựng các nhà máy quốc phòng, chế tạo vũ khí với phương châm phục vụ trước mắt cho
kháng chiến và khi kháng chiến thành công sẽ phục vụ chuyển sang xây dựng CNXH. Ở
vùng tạm chiếm : đưa lực lượng phá hoại nền kinh tế bằng lực lượng du kích, đặc công, đẩy
mạnh sách lược làm chảy máu nền kinh tế của Pháp.
- Mặt trận tư tưởng văn hóa : tuyên truyền đấu tranh xóa bỏ những tàn dư phong kiến lạc
hậu, tư tưởng thực dân, xây dựng nền văn hóa mới, nền văn hóa khoa học đại chúng.
- Về quân sự : Dựa vào thực lực kháng chiến ngày càng tăng cường, nhất là sự phát triển
của ba thứ quân, Đảng chỉ đạo đấu tranh đi từ đánh nhỏ đến đánh lớn, từ chiến tranh du
kích phát triển lên chiến tranh chính quy, kết hợp chiến tranh du kích với chiến tranh chính
quy. Đảng chủ trương dẫn dắt cuộc kháng chiến qua ba giai đoạn :
+ Giai đoạn 1 (9/1945 đến cuối 1947) : chủ động tiến hành cuộc kháng chiến cục bộ ở
miền Nam và sau đó phát động kháng chiến trong cả nước. Ta đã đánh bại kế hoạch đánh
nhanh thắng nhanh của thực dân Pháp (kế hoạch một tuần dạo mát ở Việt Nam). Đỉnh cao
của giai đoạn này là ta đã đánh bại cuộc hành quân Thu Đông 1947 của Pháp ra miền Bắc.
+ Giai đoạn 2 (1948 đến 1950) : trên cơ sở chiến tranh du kích được mở rộng, ta đã liên
tiếp mở nhiều chiến dịch nhỏ hạ hàng loạt đồn bót, tiêu diệt nhiều sinh lực của địch, thu
hẹp vùng chiếm đóng của chúng ở nhiều nơi. Kết hợp một số chiến dịch nhỏ ta đã đánh bại
kế hoạch dùng người Việt đánh người Việt, lấy chiến tranh nuôi chiến tranh của thực dân
Pháp. Năm 1950, ta chủ động mở chiến dịch Biên giới, một chiến dịch tấn công lớn đầu
tiên của quân đội ta. Chiến dịch Biên giới thắng lợi đánh dấu một bước trưởng thành của về
trình độ tác chiến và nghệ thuật chỉ đạo chiến dịch của quân đội ta.
+ Giai đoạn 3 (1951 đến 7/1954) : chủ động mở nhiều chiến dịch ở vùng đồng bằng Bắc
bộ, sau đó là chiến dịch Đông Xuân 1953-1954 mà đỉnh cao là chiến dịch Điện Biên Phủ.
với chiến dịch Điện Biên Phủ ta đã đánh bại mọi cố gắng quân sự cao nhất của quân đội
viễn chinh Pháp ở Đông Dương và buộc Pháp phải ngồi vào bàn hội nghị kí Hiệp định

Giơnevơ.
Chiến thắng Điện Biên Phủ là thắng lợi to lớn nhất trong cuộc đọ sức toàn diện và quyết
liệt nhất của quân đội nhân dân Việt Nam với quân đội xâm lược Pháp. Chiến công đó mãi
mãi được ghi nhớ vào lịch sử dân tộc như một Bạch Đằng, một Chi Lăng hay một Đống Đa
trong thế kỉ XX và đi sâu vào lịch sử thế giới như một chiến công hiển hách, một sự kiện
báo hiệu sự sụp đổ hoàn toàn của chủ nghĩa thực dân.
Câu 5: Đảng lãnh đạo cuộc đấu tranh bảo vệ chính quyền non trẻ 1945-1946.
Thắng lợi của cách mạng Tháng Tám thành công mở ra kỷ nguyên mới cho lịch sử dân tộc
Việt Nam:kỷ nguyên đất nước được độc lập thống nhất. Song ngay từ những ngày đầu của
chính quyền cách mạng, các thế lực phản động, “thù trong giặc ngoài” hợp vây, chống phá
hòng thủ tiêu thành quả cách mạng của nhân dân ta, xóa bỏ nền độc lập mà nhân dân ta vừa
giành được.
Thời điểm cách mạng tháng 8/1945 nước ta cơ sở rất nhiều khó khăn:


Về kinh tế: nền kinh tế vốn đã nghèo nàn lạc hậu, bị chiến tranh và thiên tai tàn phá nặng nề
làm cho xơ xác, kiệt quệ. Nạn đói đầu năm 1945 do Pháp, Nhật gây ra làm 2 triệu người chết
chưa được khắc phục, thì tháng 8/1945 lại xảy ra lụt lớn ở Miền Bắc, sau đó thì bị hạn kéo
dài. Sản xuất nông nghiệp bị đình đốn, hàng vạn công nhân không có việc làm, hàng hóa
khan hiếm, giá cả tăng vọt. Tài chính cạn kiệt, ngân sách trống rỗng, Ngân hàng Đông dương
còn nằm trong tay tư bản Pháp. Quân Tưởng tung tiền Quan kim mất giá ra thị trường gây
rối loạn nền tài chính, kinh tế của ta. Phải cung cấp lương thực cho 20 vạn quân Tưởng.
Về mặt xã hội, dưới chính sách ngu dân của Pháp, 95% dân số mù chữ, tệ nạn xã hội phát
triển mạnh mẽ.
Bên cạnh đó Chính phủ Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa chưa được thế giới công nhận và đặt
quan hệ ngoại giao với ta. Chính quyền non trẻ chưa được lực lượng tiến bộ trên thế giới
giúp đỡ.
Nhưng nghiêm trọng hơn cả vẫn là nạn ngoại xâm và nội phản. Chỉ trong vòng 20 ngày sau
cuộc tổng khởi nghĩa tháng Tám những đội quân của các nước đồng minh đã dồn dập kéo
đến. 20 vạn quân Tưởng đã ồ ạt tràn qua biên giới tiến vào Miền Bắc cho đến vĩ tuyến 16 với

danh nghĩa là quân đồng minh. Nhưng thực chất có âm mưu thực hiện kế hoạch “Cầm Hồ
diệt Cộng” nhằm tiếp diễn đảng cộng sản Việt Nam, lật đổ chính quyền nước ta, lập chính
quyền tay sai của chúng. Cũng với danh nghĩa đồng minh, phía Nam vĩ tuyến 16, quân Anh
kéo vào tước vũ khí của quân Nhật. Nhưng thực chất là tiếp tay cho Pháp quay lại xâm lược
Đông Dương. Ngày 23/9/1945, 6000 quân Pháp được tiếp tay của quân Anh nổ súng xâm
lược Sài Gòn, mở đầu xâm lược Việt Nam lần thứ hai. Trong nước còn hơn 6000 quân Nhật
đầu hàng đồng minh làm tay sai cho quân Anh và Pháp.
Ơ trong nước, nhiều đảng phái phản động như Việt Nam quốc dân đảng do Vũ Hồng
Khanh, Việt Nam cách mạng đồng minh hội (Việt Cách) do Nguyễn Hải Thần, hai lực lượng
trên là phản quốc, từ lâu không liên lạc với cách mạng Việt Nam, dựa vào thế lực của đế
quốc chúng phá cách mạng Việt Nam, tìm cách tranh quyền lãnh đạo. Bọn ngụy quân, ngụy
quyền chưa bị tiếp diễn tiếp tục chống phá cách mạng. Bên cạnh đó thì có lực lượng tôn giáo
như Hòa hảo, Cao đài,... phát triển mạnh ở phía Nam tìm cách tranh giành chính quyền. Phía
Bắc bọn phản cách mạng đội lớp thiên chúa giáo chống phá cách mạng rất mạnh.
Song, cách mạng nước ta cũng có mặt thuận lợi đó là: nhân tố phát huy sức mạnh tổng hợp
có ba dòng thác cách mạng là cách mạng xã hội chủ nghĩa, phong trào cộng sản công nhân
quốc tế, phong trào giải phóng dân tộc.
Tuy vậy, Đảng ta có đánh giá thuận lợi mang tính chất lâu dài vững chắc là có đảng cầm
quyền trên cả nước thống nhất về chính trị, tư tưởng và tổ chức. Hệ thống chính quyền các
cấp được nhân dân ủng hộ, khối đại đoàn kết dân tộc được củng cố, đang phát huy. Uy tín
lãnh đạo của đảng, lãnh tụ ngày càng lớn hơn. Tình hình thế giới có tác động lớn đối với Việt
Nam, đó là sự phát triển của 3 dòng thác cách mạng, đó là phong trào giải phóng dân tộc, xã
hội chủ nghĩa, công nhân thế giới gián tiếp ủng hộ cách mạng Việt Nam.
Tóm lại, sau cách mạng tháng 8/1945, chính quyền cách mạng chưa được sự giúp đỡ của
cách mạng thế giới, chính quyền đứng trước những khó khăn đang lâm vào tình thế “ngàn
cân treo sợi tóc”. Chưa bao giờ đất nước ta lại có nhiều kẻ thù hung bạo và xảo quyệt như
vậy. Chính quyền nhân dân có thể bị lật đổ, nền độc lập mới giành được có nguy cơ bị mất.
Tình hình đó đòi hỏi đảng và chính quyền cách mạng phải có đường lối chiến lược và sách
lược đúng đắn mới có thể bảo vệ và phát triển thành quả cách mạng.
Ngày 3/9/1945, trong phiên họp đầu tiên của Chính phủ lâm thời, chủ tịch Hồ Chí Minh đã

nêu 6 việc cấp bách là fađp chiến dịch tăng gia sản xuất để chống đói; mở phong trào chống
nạn mù chữ; sớm tổ chức tổng tuyển cử; mở phong trào giáo dục cần, kiêm, liê, chính;bỏ


thuế thân, thuế chợ, thuế đò và tuyên bố tự do tín ngưỡng, lương giáo đoàn kết. Ba nhiệm vụ
lớn là diệt giặc đói; diệt giặc dốt; diệt giặc ngoại xâm.
Khi thực dân Pháp đánh chiếm Nam bộ, đồng chí Hoàng Quốc Việt được cử vào Nam để
cùng đảng bộ Nam bộ kháng chiến. Đảng ta chủ trương phát triển chiến tranh nhân dân, cả
nước ủng hộ kháng chiến nam bộ.
Ngày 25/11/1945 Ban chấp hành Trung ương Đảng ra chỉ thị “kháng chiến kiến quốc” xác
định cách mạng Việt Nam lúc này vẫn là cuộc cách mạng giải phóng dân tộc. Đảng xác định
kẻ thù chính của ta lúc này là thực dân Pháp xâm lược, phải tập trung ngọn lửa đấu tranh vào
chúng. Đảng phát động phong trào chống ngoại xâm vừa kháng chiến vừa kiến quốc để giữ
vững nền độc lập và thống nhất.
Chỉ thị “kháng chiến kiến quốc” nêu ra ba nhiệm vụ trước mắt là củng cố chính quyền;
chống thực dân Pháp, bài trừ nội phản; cải thiện đời sống nhân dân.
Để thực hiện các nhiệm vụ đó, Đảng vạch ra các biện pháp đó là:
Một, về chính trị: để giữ vững củng cố chính quyền cách mạng, đảng xúc tiến việc tổng
tuyển cử quốc hội trong cả nước, xác lập quyền làm chủ của nhân dân, xác lập pháp lý của
chính quyền, kiện toàn bộ máy chính quyền từ trung ương đến cơ sở. Mở rộng Mặt trận Việt
Minh nhằm tập hợp lực lượng cách mạng.
Hai, về kinh tế, tài chính: trước mắt đảng tổ chức lạc quyên cứu đói, biện pháp cơ bản và
lâu dài là tăng gia sản xuất. Phát động phong trào thi đua sản xuất với khẩu hiệu “tấc đất tấc
vàng”; khôi phục các nhà máy, hầm mỏ, lập ngân hàng quốc gia, phát hành giấy bạc. Nhờ đó
nạn đói được đẩy lùi, sản xuất được khôi phục nhanh và phát triển.
Phát động nhân dân tự nguyện đóng góp tiền của hưởng ứng “tuần lễ vàng”, xây dựng “quỹ
độc lập” ngân hàng nhà nước tăng lên hàng chục triệu đồng với hàng trăm kg vàng, nền tài
chính độc lập được từng bước xây dựng.
Ba, về quốc phòng, an ninh: chính quyền cách mạng nhanh chóng xóa bỏ bộ máy cai trị của
chính quyền cũ, giải tán các đảng phái phản động, kiên quyết trừng trị bọn phản quốc, giáo

dục nhân dân tăng cường cảnh giác, bảo vệ chính quyền cách mạng. Đảng coi trọng và phát
triển các công cụ bạo lực cách mạng, củng cố lực lượng cách mạng trên cơ sở 3 thứ quân
(thường trực, địa phương, du kích). Cuối năm 1946, quân đội thường trực đã lên đến 8 vạn
người. Việc quân sự hóa toàn dân được thực hiện rộng khắp.
Bốn, về văn hóa xã hội: Đảng vận động toàn dân xây dựng nền văn hóa mới, xóa bỏ mọi tệ
nạn, văn hóa nô dịch, thực hiện nền giáo dục mới, phát triển “bình dân học vụ” để diệt “giặc
dốt”. Chỉ trong một năm cả nước đã có 2,5 triệu người biết đọc, biết viết.
Năm đối với công tác tổ chức của đảng: duy trì hệ thống bí mật, bán công khai. Đảng tuyên
bố tự giải tán tháng 11/1945 mà thực chất là rút vào hoạt động bí mật. Đây là sách lược để
bảo toàn lực lượng.
Sáu, về ngoại giao: Đảng tiến hành thực hiện công tác tuyên truyền quốc tế vạch mặt kẻ thù
của 3 nước Đông Dương, vạch mặt kẻ thù chủ yếu là thực dân Pháp xâm lược.
Để thoát khỏi vòng vây đế quốc, tránh tình thế đối đầu với nhiều kẻ thù cùng một lúc, Đảng
và chủ tịch Hồ Chí Minh đã thi hành những sách lược ngoại giao khôn khéo, mềm dẻo nhằm
ngăn chặn chiến tranh, thực hiện thêm bạn bớt thù, kéo dài thời gian hòa hoãn để xây dựng
lực lượng cách mạng.
Thực hiện sách lược hòa hoãn hai giai đoạn:
Giai đoạn thứ nhất từ tháng 9/1945 đến tháng 3/1946. Đây là giai đoạn tạm thời hòa hoãn
với Tưởng trên Miền Bắc để tập trung chống Pháp ở Miền Nam.
Đảng ta xác định rõ thực dân Pháp là kẻ thù chính, trước mắt và nguy hiểm hơn cả, cần phải
tập trung chĩa mũi nhọn đấu tranh vào chúng, vì chúng đã và đàng trắng trợn vũ trang xâm


lược Nam bộ. Vì thế đảng chủ trương hòa hoãn, nhân nhượng ở Miền Bắc để tập trung sức
chống Pháp ở Miền Nam. Nội dung nhân nhượng chủ yếu là: ta cung cấp lương thực cho
quân đội Tưởng và tay sai của chúng; mở rộng 70 ghế trong Quốc Hội cho bọn Việt Quốc,
Việt Cách không phải qua bầu cử và đưa một số đại diện của các đảng này vào Chính phủ
liên hiệp lâm thời; các lực lượng vũ trang được lệnh tránh các xung đột với quân Tưởng,
không để mắc vào cạm bẫy khiêu khích kiếm cơ hội lật đổ chính quyền cách mạng của
chúng.

Tuy có nhân nhượng với Tưởng ở một số mặt, nhưng ta vẫn đảm bảo nguyên tắc giữ vững
thành quả cách mạng và đảm bảo sự lãnh đạo của Đảng đối với chính quyền, nhà nước. Dù
thực hiện Chính phủ liên hiệp, nhưng bản chất cách mạng của chính quyền vẫn được giữ
vững và chỉ liên hiệp ở cấp trung ương. Trong khi hòa hoãn với Tưởng, ta vẫn không ngừng
cảnh giác, khi cần thiết thì kiên quyết trấn áp bọn phản động để giữ vững chính quyền cách
mạng. Nhờ đó Miền Bắc được ổn định và củng cố tập trung sức người, sức của cho Miền
Nam chống xâm lược. Trải qua nửa năm đấu tranh gay go với sách lược ngoại giao sáng
suốt, ta đã làm thất bại một bước ý định âm mưu của Tưởng và tay sai, giữ vững và củng cố
chính quyền cách mạng.
Giai đoạn thứ hai từ tháng 3/1946 đến tháng 12/1946, đây là giai đoạn tạm thời hòa hoãn
với thực dân Pháp để đẩy nhanh quân Tưởng về nước.
Ngày 28/2/1946, Tưởng và Pháp đã ký hiệp ước thỏa thuận để quân Pháp vào Miền Bắc
thay thế quân Tưởng “canh giữ tù binh Nhật” và giữ trật tự” theo “hiệp ước quốc tế”. Hiệp
ước Hoa-Pháp thực chất là sự mua bán chính trị giữa các thế lực đế quốc nhằm hợp pháp hóa
hành động xâm lược của Pháp ở Đông dương. Điều đó đặt cho cách mạng nước ta trước “sự
đã rồi”, chỉ có hai con đường hoặc cầm súng đánh Pháp, ta sẽ cùng lúc đối đầu với kẻ thù,
hoặc tạm thời hòa hoãn với Pháp ta sẽ tránh được tình thế bất lợi phải chiến đấu với nhiều kẻ
thù. Đảng ta chọn con đường thứ hai “hòa để tiến”.
Thực hiện chủ trương đó, chủ tịch Hồ Chí Minh thay mặt Chính phủ Việt Nam ký với đại
diện Chính phủ Pháp bản hiệp định sơ bộ ngày 6/3/1946. Với hiệp định này, về pháp lý Pháp
đã phải công nhận nước ta là một nước tự do có Chính phủ, nghị viện, quân đội và tài chính
riêng. Việc quân Pháp vào Miền Bắc cũng được qui định rõ về địa điểm, thời gian và số
lượng. Quân Tưởng rút khỏi Việt Nam, bọn tay sai tan rã.
Trong bối cảnh lịch sử lúc đó, ký hiệp định sơ bộ là một chủ trương đúng đắn, sáng tạo,một
mẫu mực tuyệt vời của sách lược Lêninnit về lợi dụng mâu thuẫn trong hàng ngũ kẻ thù và
về nhân nhượng có nguyên tắc. Thực tế cách mạng đối với cả nước, hiệp định sơ bộ tạo điều
kiện hòa hoãn để nhân dân ta củng cố thành quả cách mạng đã giành được, chuẩn bị điều
kiện đưa sự nghiệp kháng chiến kiến quốc tiến lên bước phát triển mới. Ký hiệp định sơ bộ là
tạo thêm cơ sở pháp lý buộc Tưởng phải rút nhanh khỏi Miền Bắc. Đối với Miền Nam, trước
tình thế cuộc kháng chiến đang đứng trước những thử thách gay gắt, hiệp định sơ bộ tạo điều

kiện cho lực lượng kháng chiến trở lại bám trụ thôn xã, tạo sức mạnh để cùng cả nước bước
vào cuộc kháng chiến toàn quốc với tư cách và sức mạnh mới.
Ngày 14/9/1946 ta ký tạm ước với Chính phủ Pháp, đây là một nhân nhượng cuối cùng của
ta đối với Pháp. Chúng ta không nhân nhượng được nữa và cuộc kháng chiến chống thực dân
Pháp bắt đầu.
Như vậy, với những sách lược ngoại giao tài tình, sáng suốt trong điều kiện vô cùng khó
khăn ở giai đoạn 45-46 thể hiện năng lực lãnh đạo của đảng cộng sản Việt Nam và chủ tịch
Hồ Chí Minh là rất sáng suốt, nhạy cảm về chính trị, đánh giá đúng âm mưu, hành động, thế
lực của kẻ thù để có đối sách thích hợp. Qua đó đảng ta rút ra một số bài học kinh nghiệm
sau:


×