Tải bản đầy đủ (.doc) (28 trang)

LÝ LUẬN GIÁ TRỊ của CHỦ NGHĨA mác lê NIN ý NGHĨA THỰC TIỄN của vấn đề NGHIÊN cứu đối với PHÁT TRIỂN THỊ TRƯỜNG XĂNG dầu ở VN

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (191.33 KB, 28 trang )

Những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lê nin 2

ĐỀ TÀI:

LÝ LUẬN GIÁ TRỊ CỦA CHỦ NGHĨA MÁC - LÊ NIN.
Ý NGHĨA THỰC TIỄN CỦA VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU ĐỐI VỚI
PHÁT TRIỂN THỊ TRƯỜNG XĂNG DẦU Ở VIỆT NAM./.

Phạm Lưu Duẩn
MSV: CQ530558

1

Trường Đại Học Kinh Tế quốc Dân


Những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lê nin 2

Lời mở đầu
Chuyển đổi kinh tế vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý
của Nhà nước là bước ngoặt quan trọng làm thay đổi đời sống kinh tế xã hội đất nước. Sự thành công hay không của quá trình chuyển đổi
quyết định thắng lợi hay không của sự nghiệp đổi mới. Việt nam là một
nước anh hùng bất khuất trong công cuộc bảo vệ tổ quốc vài thập kỷ
trước. Còn hiện nay, bước vào thế lỷ 21 Việt nam vẫn là một nước nghèo
của thế giới. Những chiến thắng trên mặt trận không thể làm ra những
chiến thắng về kinh tế, sách lược chiến trường không thể là sách lược
kinh tế. Đứng trước thực trạng đó, Đại hội VI của Đảng đánh dấu một
bước ngoặt lịch sử đó là bắt đầu công cuộc đổi mới nền kinh tế nước ta.
Trong sự nghiệp đổi mới ở nước ta, vấn đề đổi mới cơ chế quản lý
kinh tế chiếm vị trí quan trọng. Đặc biệt trong bối cảnh Việt nam đang
chuyển đổi cơ chế quản lý kinh tế từ cơ chế tập trung, quan liêu, bao cấp


sang cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước và định hướng theo
chủ nghĩa xã hội như đường lối của Đảng ta đã đề ra từ các kì Đại hội
VI, VII, VIII. Quá trình đổi mới nền kinh tế nước ta những năm qua cho
thấy rằng, việc chuyển nền kinh tế nước ta vận hành theo cơ chế thị
trường có sự quản lý của Nhà nước là sự phù hợp với xu thế phát triển tất
Phạm Lưu Duẩn
MSV: CQ530558

2

Trường Đại Học Kinh Tế quốc Dân


Những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lê nin 2

yếu khách quan của nền kinh tế, phù hợp với xu hướng quốc tế hoá đời
sống kinh tế.
Vì vậy, trong bài viết của mình, em xin trình bày một số vấn đề về
lý luận giá trị của chủ nghĩa Mác - Lê nin và ý nghĩa thực tiễn của vấn đề
này đối với phát triển thị trường xăng dầu ở Việt Nam.

I. Lý luận giá trị của chủ nghĩa Mác - Lê nin
1. Điều kiện ra đời, tồn tại và ưu thế của sản xuất hàng hóa
1.1. Điều kiện ra đời, tồn tại của sản xuất hàng hóa
Kinh tế tự nhiên: Là một hình thức tổ chức kinh tế mà ở đó sản
phẩm làm ra chỉ để thỏa mãn nhu cầu tiêu dùng của những người sản
xuất.
Kinh tế hàng hóa: Là một hình thức tổ chức kinh tế mà ở đó sản
phẩm làm ra là để trao đổi, để bán.
Kinh tế hàng hóa đối lập và là bước tiến bộ so với kinh tế tự nhiên.

Theo quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lê nin, sự ra đời của sản xuất
hàng hóa do hai điều kiện quyết định đó là: Có sự phân công lao động xã
hội; Có sự tách biệt tương đối về mặt kinh tế giữa những người sản xuất.
1.2. Ưu thế của sản xuất hàng hóa
Thứ nhất: Khai thác được những lợi thế về tự nhiên, xã hội, kỹ
thuật của từng người, từng cơ sở, từng vùng, từng địa phương.
Phạm Lưu Duẩn
MSV: CQ530558

3

Trường Đại Học Kinh Tế quốc Dân


Những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lê nin 2

Thứ hai: Tạo điiều kiện thuận lợi cho việc ứng dụng những thành
tựu khoa học - kỹ thuật vào sản xuất, thúc đẩy sản xuất phát triển.
Thứ ba: Buộc những người sản xuất hàng hóa phải luôn luôn năng
động, nhạy bén.
Thứ tư: Làm cho giao lưu kinh tế văn hóa giữa các địa phương, các
ngành ngày càng phát triển. Phân công lao động phát triền mạnh.
Thứ năm: Xóa bỏ tính bảo thủ trì trệ của kinh tế tự nhiên.
2. Hàng hóa
2.1. Hàng hoá và hai thuộc tính của hàng hoá
Hàng hoá là sản phẩm của lao động có thể thoả mãn nhu cầu nào
đó của con người, thông qua trao đổi, mua và bán. Trong mỗi hình thái
kinh tế xã hội, sản xuất hàng hoá có bản chất khác nhau, nhưng hàng hoá
đều có hai thuộc tính:
2.1.1. Giá trị sử dụng

Giá trị sử dụng: Là công dụng của hàng hóa có thể thoả mãn nhu
cầu nào đó của con người. Ví dụ: cơm để ăn, xe đạp để đi, máy móc,
nguyên nhiên vật liệu để sản xuất… Giá trị sử dụng là phạm trù vĩnh
viễn.
Giá trị sử dụng là thuộc tính tự nhiên của hàng hoá, nó không phải
là giá trị sử dụng cho bản thân người sản xuất hàng hoá, mà là giá trị
Phạm Lưu Duẩn
MSV: CQ530558

4

Trường Đại Học Kinh Tế quốc Dân


Những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lê nin 2

sử dụng cho người khác, cho xã hội thông qua trao đổi - mua bán.
Trong kinh tế hàng hoá, giá trị sử dụng là vật mang giá trị trao đổi.
2.1.2. Giá trị hàng hóa
Giá trị trao đổi: Là một quan hệ về số lượng, thể hiện tỷ lệ trao đổi
giữa hàng hóa này và hàng hóa khác. Ví dụ: 1m vải = 10kg thóc.
Nếu gạt giá trị sử dụng của hàng hóa thì mọi hàng hóa đều là sản
phẩm của lao động. Lao động là cơ sở của trao đổi và tạo thàng giá trị
hàng hóa.
Vậy giá trị của hàng hóa là lao động của người sản xuất hàng hoá
kết tinh trong hàng hoá. Giá trị là phạm trù lịch sử chỉ tồn tại trong
sản xuất hàng hóa; Giá trị phản ánh quan hệ giữa người sản xuất hàng
hóa; Giá trị là thuộc tính xã hội của hàng hóa.
Hai thuộc tính của hàng hóa có mối quan hệ vừa thống nhất vừa
mâu thuẫn với nhau.

2.2. Tính hai mặt của lao động sản xuất hàng hoá
2.2.1. Lao động cụ thể
Lao động cụ thể: Là lao động có ích dưới một hình thức cụ thể của
những nghề nghiệp chuyên môn nhất định. Mỗi lao động cụ thể có mục
Phạm Lưu Duẩn
MSV: CQ530558

5

Trường Đại Học Kinh Tế quốc Dân


Những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lê nin 2

đích riêng, đối tượng riêng, phương pháp riên, phương tiện riêng và kết
quả riêng.
Lao động cụ thể là cơ sở của phân công lao động xã hội. Cùng với
sự phát triển của khoa học, kỹ thuật, các hình thức lao động cụ thể ngày
càng đa dạng, phong phú. Mỗi lao động cụ thể tạo ra một loại giá trị sử
dụng nhất định. Lao động cụ thể là một phạm trù vĩnh viễn, là một điều
kiện không thể thiếu trong bất kỳ hình thái kinh tế – xã hội nào. Hình
thức của lao động cụ thể có thể thay đổi.
2.2.2. Lao động trừu tượng
Lao động trừu tượng: Là lao động của người sản xuất hàng hoá đã
gạt bỏ hình thức biểu hiện cụ thể của nó để quy về cái chung đồng nhất,
đó là sự tiêu phí sức lao động, tiêu hao sức lực cơ bắp, thần kinh của con
người.
Lao động trừu tượng tạo ra giá trị hàng hóa. Lao động trừu tượng là
phạm trù lịch sử, chỉ có sản xuất sản phẩm để bán thì lao động sản xuất
hàng hóa đó mới có tính chất là lao động trừu tượng. Lao động trừu

tượng là lao động đồng nhất và giống nhau về chất.
Lao động cụ thể biểu hiện thành lao động tư nhân. Lao động trừu
tượng biểu hiện thành lao động xã hội. Mâu thuẫn cơ bản của nền sản
xuất hàng hóa là mâu thuẫn giữa lao động tư nhân và lao động xã hội.
Phạm Lưu Duẩn
MSV: CQ530558

6

Trường Đại Học Kinh Tế quốc Dân


Những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lê nin 2

2.3. Lượng giá trị của hàng hóa
2.3.1. Thước đo lượng giá trị của hàng hóa
Lượng giá trị: Là do lượng lao động hao phí để sản xuất ra hàng
hoá đó quyết định. Đo lượng lao động bằng thước đo thời gian như: một
giờ lao động, một ngày lao động… Do đó, lượng giá trị của hàng hoá
cũng do thời gian lao động quyết định.
Thời gian lao động cá biệt quyết định lượng giá trị cá biệt hàng hoá
của từng người sản xuất. Lượng giá trị của hàng hoá được tính bằng thời
gian lao động cần thiết. Thời gian lao động xã hội cần thiết là thời gian
cần thiết để sản xuất ra một hàng hoá với trình độ kỹ thuật trung bình,
trình độ khéo léo trung bình và cường độ trung bình, trong điều kiện bình
thường so với hoàn cảnh xã hội nhất định. Thông thường, thời gian lao
động xã hội cần thiết trùng hợp với thời gian lao động cá biệt của những
người cung cấp đại bộ phận loại hàng hoá nào đó trên thị trường.
2.3.2. Các nhân tố ảnh hưởng tới lượng giá trị hàng hoá
Năng suất lao động: Là năng lực sản xuất của lao dộng được tính

bằng: Số lượng sản phẩm sảm xuất ra trong một đơn vị thời gian; Số
lượng lao động hao phí để sản xuất ra một dươn vị sản phẩm. Các nhân
tố ảnh hưởng tới năng suất lao động: Trình độ khéo léo trung bình; Mức
độ phát triển của khoa học - kỹ thuật, công nghệ và mức độ ứng dụng
Phạm Lưu Duẩn
MSV: CQ530558

7

Trường Đại Học Kinh Tế quốc Dân


Những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lê nin 2

những thành tựu vào sản xuất; Trình độ tổ chức quản lý; Quy mô và hiệu
suất của tư liệu sản xuất; Các điều kiện tự nhiên. Năng suất lao động
tăng lên, giá trị một đơn vị sản phẩm giảm.
Cường độ lao động: Được đo bằng sự tiêu hao lao động trong một
đơn vị thời gian. Cường độ lao động tăng giá trị một đơn vị sản phẩm
không đổi. Cường độ lao động phụ thuộc vào: Trình độ tổ chức quản lý;
Quy mô và hiệu suất của tư liệu sản xuất; Thể chất, tinh thần của người
lao động.
Lao động giản đơn: Là lao động không qua huấn luyện, đào tạo,
lao động không thành thạo. Khi đem trao đổi trên thị trường người ta lấy
lao động giản đơn làm đơn vị và quy mọi lao động thành lao động giản
đơn.
Lao động phức tạp: Là lao động phải qua huấn luyện, đào tạo, lao
động thành thạo. Trong cùng một thời gian, lao động phức tạp tạo ra
nhiều giá trị hơn lao động giản đơn.
3. Tiền tệ

Hàng hoá là sự thống nhất của hai thuộc tính giá trị sử dụng và giá
trị. Về mặt giá trị sử dụng, tức hình thái tự nhiên của hàng hoá, ta có thể
nhận biết trực tiếp được bằng các giác quan. Nhưng về mặt giá trị, tức
hình thái xã hội của hàng hoá, nó không có một nguyên tử vật chất nào
Phạm Lưu Duẩn
MSV: CQ530558

8

Trường Đại Học Kinh Tế quốc Dân


Những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lê nin 2

nên không thể cảm nhận trực tiếp được. Nó chỉ bộc lộ ra trong quá trình
trao đổi thông qua các hình thái biểu hiện của nó.
Hình thái giá trị giản đơn hay ngẫu nhiên: đây là hình thái phôi
thai của giá trị, nó xuất hiện trong giai đoạn đầu của trao đổi hàng hoá,
trao đổi mang tính chất hiện vật ngẫu nhiên, người ta trao đổi trực tiếp
vật này lấy vật khác. Hàng hoá mà giá trị của nó được biểu hiện ở một
hàng hoá khác thì gọi là hình thái giá trị tương đối. Còn hàng hoá mà giá
trị sử dụng của nó biểu hiện giá trị của hàng hoá khác gọi là hình thái vật
ngang giá. Nó có ba đặc điểm: Giá trị sử dụng của nó trở thành hình thức
biểu hiện của giá trị; Lao động cụ thể trở thành hình thức biểu hiện của
lao động trừu tượng; Lao động tư nhân trở thành hình thức biểu hiện của
lao động xã hội.
Hình thái giá trị đầy đủ hay mở rộng: Khi lực lượng sản xuất phát
triển hơn, sau phân công lao động xã hội lần thứ nhất, chăn nuôi tách
khỏi trồng trọt, trao đổi trở nên thường xuyên hơn, một hàng hoá có thể
đổi lấy nhiều hàng hoá khác. Tương ứng với giai đoạn này là hình thái

đầy đủ hay mở rộng.
Hình thái giá trị chung: Với sự phát triển cao hơn của lực lượng
sản xuất và phân công lao động xã hội, hàng hoá được đưa ra trao đổi
thường xuyên hơn. Nhu cầu trao đổi do đó trở nên phức tạp hơn, người
có vải muốn đổi thóc, nhưng người có thóc lại không cần vải mà lại cần
Phạm Lưu Duẩn
MSV: CQ530558

9

Trường Đại Học Kinh Tế quốc Dân


Những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lê nin 2

thứ khác. Vì thế, việc trao đổi trực tiếp không còn thích hợp và gây trở
ngại cho trao đổi. Trong tình hình đó, người ta phải đi vòng, mang hàng
hoá của mình đổi lấy thứ hàng hoá mà nó được nhiều người ưa chuộng,
rồi đem đổi lấy thứ hàng hoá mà mình cần. Khi vật trung gian trong trao
đổi được cố định lại ở thứ hàng hoá được nhiều người ưa chuộng , thì
hình thái chung xuất hiện. Các địa phương khác nhau thì hàng hoá dùng
làm vật ngang giá chung cũng khác nhau.
Hình thái tiền tệ: Khi lực lượng sản xuất và phân công lao động xã
hội phát triển hơn nữa, sản xuất hàng hoá và thị trường ngày càng mở
rộng, thì tình trạng có nhiều vật ngang giá chung làm cho trao đổi giữa
các địa phương vấp phải khó khăn, do đó đòi hỏi khách quan phải hình
thành vật ngang giá chung thống nhất. Khi vật ngang giá chung được cố
định lại ở một vật độc tôn và phổ biến thì hình thái tiền tệ của giá trị.
Vậy tiền tệ là một hàng hoá đặc biệt được tách ra từ trong thế giới hàng
hoá làm vật ngang giá chung thống nhất; Nó thể hiện lao động xã hội và

biểu hiện quan hệ giữa những người sản xuất hàng hoá.
4. Quy luật giá trị
4.1. Nội dung của quy luật giá trị
Yêu cầu chung của quy luật: Giá trị là quy luật căn bản của sản
xuất và trao đổi hàng hoá. Ở đâu có sản xuất và trao đổi hàng hoá thì ở
Phạm Lưu Duẩn
MSV: CQ530558

10

Trường Đại Học Kinh Tế quốc Dân


Những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lê nin 2

đó có sự tồn tại và phát huy tác dụng của giá trị. Theo giá trị, sản xuất và
trao đổi hàng hoá phải dựa trên cơ sở hao phí lao động xã hội cần thiết.
Yêu cầu riêng trong sản xuất hàng hoá: Trong kinh tế hàng hoá,
mỗi người sản xuất tự quyết định hao phí lao động cá biệt của mình,
nhưng giá trị của hàng hoá không được quyết định bởi hao phí lao động
cá biệt của từng người sản xuất hàng hoá, mà bởi hao phí lao động xã hội
cần thiết. Vì vậy, muốn bán được hàng hoá, bù đắp được chi phí và có
lãi, người sản xuất phải điều chỉnh làm cho hao phí lao động cá biệt của
mình phù hợp với mức chi phí lao động mà xã hội chấp nhận được.
Yêu cầu riêng trong lưu thông hàng hoá: Trao đổi hàng hoá cũng
phải dựa trên cơ sở hao phí lao động xã hội cần thiết, có nghĩa là trao đổi
theo nguyên tắc ngang giá. Sự vận động của giá trị thông qua sự vận
động của giá cả hàng hoá. Vì giá trị là cơ sở của giá cả, nên trước hết giá
cả phụ thuộc và giá trị. Hàng hoá nào nhiều giá trị thì giá cả của nó sẽ
cao và ngược lại. Trên thị trường, ngoài giá trị, giá cả còn phụ thuộc vào

các nhân tố: cạnh tranh, cung cầu, sức mua của đồng tiền.
Trong thời kỳ tư bản tự do cạnh tranh: Giá trị biểu hiện thành quy
luật giá cả sản xuất. Giá cả sản xuất bằng chi phí sản xuất cộng với lợi
nhuận bình quân (giá cả sản xuất = k + p ngang). Tiền đề của giá cả sản
xuất là sự hình thành tỷ suất lợi nhuận bình quân. Điều kiện để giá trị
biến thành giá cả sản xuất gồm có: Đại công nghiệp cơ khí tự bản chủ
Phạm Lưu Duẩn
MSV: CQ530558

11

Trường Đại Học Kinh Tế quốc Dân


Những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lê nin 2

nghĩa phát triển; Sự liên hệ rộng rãi giữa các ngành sản xuất, quan hệ tín
dụng phát triển, tư bản tự do di chuyển từ ngành này sang ngành khác.
Trước đây, khi chưa xuất hiện phạm trù giá cả sản xuất thì giá cả hàng
hoá xoay quanh giá trị hàng hoá. Giờ đây, giá cả hàng hoá xoay quanh
giá cả sản xuất. Xét về mặt lượng ở mỗi ngành giá cả sản xuất và giá trị
hàng hoá có thể không bằng nhau, nhưng trong toàn xã hội thì tổng giá
cả sản xuất luôn bằng tổng giá trị hàng hoá. Trong mối quan hệ này thì
giá trị vẫn là cơ sở, là nội dung bên trong của giá cả sản xuất; giá cả sản
xuất là cơ sở của giá cả thị trường, và giá cả thị trường xoay quanh giá cả
sản xuất.
Trong thời kỳ tư bản độc quyền: Giá trị biểu hiện thành quy luật giá
cả độc quyền. Do chiếm được vị trí độc quyền nên các tổ chức độc quyền
đã áp đặt giá cả độc quyền; Giá cả độc quyền thấp khi mua, giá cả độc
quyền cao khi bán. Tuy nhiên, điều đó không có nghĩa là trong giai đoạn

đế quốc chủ nghĩa giá trị không còn hoạt động. Về thực chất, giá cả độc
quyền vẫn không thoát ly và không phủ định cơ sở của nó là giá trị. Các
tổ chức độc quyền thi hành chính sách giá cả độc quyền chẳng qua là
chiếm đoạt một phần giá trị và giá trị thặng dư của những người khác.
Nếu xem xét trong toàn bộ hệ thống kinh tế tư bản chủ nghĩa thì tổng số
giá cả vẫn bằng tổng số giá trị. Như vậy, nếu như trong giai đoạn chủ
nghĩa tư bản tự do cạnh tranh giá trị biểu hiện thành quy luật giá cả sản

Phạm Lưu Duẩn
MSV: CQ530558

12

Trường Đại Học Kinh Tế quốc Dân


Những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lê nin 2

xuất, thì trong giai đoạn đế quốc chủ nghĩa giá trị biểu hiện thành quy
luật giá cả độc quyền.
4.2. Tác động của quy luật giá trị
4.2.1. Điều tiết sản xuất và lưu thông hàng hoá:
Trong quá trình sản xuất hàng hoá: Điều tiết sản xuất tức là điều
hoà, phân bổ các yếu tố sản xuất giữa các ngành, các lĩnh vực của nền
kinh tế. Tác dụng này của giá trị thông qua sự biến động của giá cả hàng
hoá trên thị trường dưới tác động của quy luật cung cầu. Nếu ở ngành
nào đó khi cung nhỏ hơn cầu, giá cả hàng hoá sẽ lên cao hơn giá trị, hàng
hoá bán chạy, lãi cao, thì người sản xuất sẽ đổ xô vào ngành ấy. Do đó,
tư liệu sản xuất và sức lao động được chuyển dịch vào ngành ấy tăng lên.
Ngược lại, khi cung ở ngành đó vượt quá cầu, giá cả hàng hoá giảm

xuống, hàng hoá bán không chạy và có thể lỗ vốn. Tình hình ấy buộc
người sản xuất phải thu hẹp quy mô sản xuất lại hoặc chuyển sang đầu tư
vào ngành có giá cả hàng hoá cao.
Trong quá trình lưu thông hàng hoá: Điều tiết lưu thông của giá trị
cũng thông qua giá cả trên thị trường. Sự biến động của giá cả thị trường
cũng do tác dụng thu hút luồng hàng từ nơi giá cả thấp đến nơi giá cả
cao, do đó làm cho lưu thông hàng hoá thông suốt.

Phạm Lưu Duẩn
MSV: CQ530558

13

Trường Đại Học Kinh Tế quốc Dân


Những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lê nin 2

4.2.2. Kích thích cải tiến kỹ thuật, hợp lý hoá sản xuất, tăng năng suất
lao động, lực lượng sản xuất xã hội phát triển nhanh:
Người sản xuất phải hạ thấp chi phí cá biệt: Trong nền kinh tế
hàng hoá, mỗi người sản xuất hàng hoá là một chủ thể kinh tế độc lập, tự
quyết định hoạt động sản xuất kinh doanh của mình. Nhưng do điều kiện
sản xuất khác nhau nên hao phí lao động cá biệt khác nhau, người sản
xuất nào có hao phí lao động cá biệt nhỏ hơn hao phí lao động xã hội củ
hàng hoá ở thế có lợi, sẽ thu được lãi cao. Người sản xuất nào có hao phí
lao động cá biệt lớn hơn hao phí lao động xã hội cần thiết sẽ ở thế bất
lợi, lỗ vốn. Để giành lợi thế trng cạnh tranh và tránh nguy cơ vỡ nợ, phá
sản, họ phải hạ thấp hao phí lao động cá biệt của mình, sao cho bằng hao
phí lao động xã hội cần thiết.

Thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển: Để có lợi thế họ phải tìm
cách cải tiến kỹ thuật, cải tiến tổ chức quản lý, thực hiện tiết kiệm chặt
chẽ, tăng năng suất lao động. Sự cạnh tranh quyết liệt càng thúc đẩy quá
trình này diễn ra mạnh mẽ hơn, mang tính xã hội, kết quả là lực lượng
sản xuất xã hội được thúc đẩy phát triển mạnh mẽ.
4.2.3. Thực hiện sự lựa chọn tự nhiên và phân hoá người sản xuất hàng
hoá thành kẻ giàu người nghèo:
Thực hiện sự lựa chọn tự nhiên: Quá trình cạnh tranh theo đuổi giá
trị tất yếu dẫn đến kết qủa là: Những người có điều kiện sản xuất thuận
Phạm Lưu Duẩn
MSV: CQ530558

14

Trường Đại Học Kinh Tế quốc Dân


Những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lê nin 2

lợi, có trình độ, kiến thức cao, trang bị kỹ thuật tốt nên có hao phí lao
động cá biệt thấp hơn hao phí lao động xã hội cần thiết, nhờ đó phát tài,
giàu lên nhanh chóng. Họ mua sắm thêm tư liệu sản xuất, mở rộng kinh
doanh. Ngược lại những người không có điều kiện thuận lợi làm ăn thua
kém, hoặc gặp rủi ro trong kinh doanh nên bị thua lỗ dẫn tới phá sản trở
thành nghèo khó.
Phân hoá xã hội thành kẻ giàu người nghèo: Xã hội bị phân hoá
thành kẻ giàu người nghèo, tạo ra sự bất bình đẳng trong xã hội; Thúc
đẩy quá trình tích tụ và tập trung sản xuất, do đó tạo điều kiện ra đời của
sản xuất lớn có xã hội cao, đồng thời chọn lọc được những người sản
xuất kinh doanh giỏi, hình thành đội ngũ cán bộ quản lý có trình độ, lao

động lành nghề đáp ứng nhu cầu phát triển của đất nước.
Tổ chức xã hội: Giá trị đóng vai trò quan trọng trong việc làm
phong phú thêm nội dung kinh tế của các mối quan hệ kinh tế giữa xã
hội với các tập thể lao động (các đơn vị kinh doanh), giữa các tập thể lao
động với nhau cũng như giữa các tập thể với từng người lao động. Giá trị
tạo cho chủ nghĩa xã hội các công cụ kinh tế quan trọng để thực hiện,
củng cố và phát triển sự xã hội hoá sản xuất trên thực tế. Sự xã hội hóa
trên thực tế là sự tác động lẫn nhau một cách chặt chẽ và hợp lý, giữa các
đơn vị kinh tế, tạo cơ sở cho người tham gia sản xuất hoạt động theo
phương án thống nhất, đảm bảo các lợi ích của xã hội, tập thể và người
lao động.
Phạm Lưu Duẩn
MSV: CQ530558

15

Trường Đại Học Kinh Tế quốc Dân


Những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lê nin 2

Kích thích xã hội: Giá trị phục vụ quá trình phân phối, nhằm tính
đến hiệu quả kinh tế. Ở đây, việc phân phối bao gồm sự phân chia các
nguồn lực cho các đơn vị sản xuất kinh doanh, các sản phẩm tiêu dùng
và sự trả lương cho lao động. Giá trị kích thích sự phát triển của các hoạt
động sản xuất kinh doanh và thúc đẩy tăng trưởng kinh tế.
Bảo đảm xã hội: Việc tuân thủ các yêu cầu của giá trị sẽ định
hướng nền kinh tế của chủ nghĩa xã hội hướng vào hiệu quả kinh tế, đảm
bảo sự phát triển lực lượng sản xuất và tạo điều kiện khai thác các nguồn
lực để đẩy mạnh tăng trưởng kinh tế. Mặt khác, việc trao đổi ngang giá

theo yêu cầu của giá trị đã tạo ra điều kiện cần thiết bảo đảm cho xí
nghiệp làm ăn tốt, chống lại việc phân phối vô căn cứ đối với các nguồn
vốn sản xuất kinh doanh. Đây chính là đóng góp của giá trị trong việc
đảm bảo xã hội ổn định và phát triển.
II. Ý nghĩa thực tiễn của lý luận giá trị đối với phát triển thị trường
xăng dầu ở Việt Nam.
1. Thực trạng thị trường xăng dầu ở nước ta:
Cùng với quá trình chuyển đổi nền kinh tế từ tập trung, bao cấp
sang nền kinh tế thị trường có sự quản lý của Nhà nước, hoạt động phân
phối xăng dầu cũng đã trải qua các giai đoạn tương ứng, từ phương thức
cung cấp theo định lượng, áp dụng một mức giá thống nhất do Nhà nước
quy định đến mua bán theo nhu cầu, thông qua hợp đồng kinh tế. Để tiếp
Phạm Lưu Duẩn
MSV: CQ530558

16

Trường Đại Học Kinh Tế quốc Dân


Những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lê nin 2

cận với những thay đổi đó, đặc biệt là giai đoạn bắt đầu tiếp cận thị
trường, Nhà nước đã nhiều lần điều chỉnh cơ chế quản lý vĩ mô về kinh
doanh xăng dầu với những chính sách phù hợp với đặc thù của mỗi giai
đoạn. Khái quát thị trường xăng dầu trong hơn 20 năm qua, kể từ khi
Việt Nam đặt viên gạch đầu tiên xây dựng nền móng của thị trường xăng
dầu năm 1989, quá trình chuyển đổi có thể phân chia thành 3 giai đoạn:
trước năm 2000, từ năm 2000 đến cuối năm 2008 và từ cuối năm 2008
trở lại đây. Trên cơ sở phân tích, đánh giá và nhìn nhận trên mọi góc

cạnh của thị trường, chúng ta cần khẳng định những bước tiến của quá
trình đổi mới cơ chế kinh doanh xăng dầu, đối diện với những mặt hạn
chế và đặt ra các vấn đề cần tiếp tục đổi mới để phát triển thị trường
xăng dầu trong giai đoạn tiếp theo, thích ứng với những biến động ngày
càng phức tạp của nguồn năng lượng dầu mỏ.
1.1. Giai đoạn trước năm 2000
Giai đoạn này kéo dài trên 10 năm, với sự gia tăng của các đầu mối
nhập khẩu từ một đầu mối duy nhất, tăng dần lên 5 và đến năm 1999, đã
có 10 đầu mối tham gia nhập khẩu xăng dầu cho nhu cầu nội địa.
Trong những năm từ 1989 đến 1992, khi không còn nguồn xăng
dầu cung cấp theo Hiệp định với Liên xô (cũ), Nhà nước chuyển từ quy
định "giá cứng" sang áp dụng giá chuẩn để phù hợp với việc hình thành
nguồn xăng dầu nhập khẩu từ lượng ngoại tệ do doanh nghiệp đầu mối tự
Phạm Lưu Duẩn
MSV: CQ530558

17

Trường Đại Học Kinh Tế quốc Dân


Những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lê nin 2

cân đối, mua của các doanh nghiệp xuất khẩu qua ngân hàng hoặc hình
thức uỷ thác bao tiêu xăng dầu cho doanh nghiệp có ngoại tệ thu được từ
xuất khẩu. Vào giai đoạn này, nguồn ngoại tệ từ dầu thô do Nhà nước
bảo đảm chỉ chiếm dưới 40% tổng nhu cầu ngoại tệ nhập khẩu xăng dầu.
Doanh nghiệp đầu mối được quyền quyết định giá bán +/- 10% so với
giá chuẩn để bảo đảm hoạt động kinh doanh.
Từ năm 1993, để thống nhất quản lý giá bán, Nhà nước ban hành

quy định giá tối đa; doanh nghiệp tự quyết định giá bán buôn và bán lẻ
trong phạm vi giá tối đa. Nhà nước xác định mức độ chịu đựng của nền
kinh tế để xác định giá tối đa; việc điều chỉnh giá tối đa ở giai đoạn này
chỉ diễn ra khi tất cả các công cụ điều tiết đã sử dụng hết.
Công cụ thuế nhập khẩu được sử dụng như một van điều tiết để giữ
mặt bằng giá tối đa, không tạo ra siêu lợi nhuận và doanh nghiệp cũng
không phát sinh lỗ sau một chu kỳ kinh doanh. Phụ thu là một công cụ
bổ sung cho thuế nhập khẩu khi mức thuế nhập khẩu đã được điều chỉnh
tăng hết khung, được đưa vào Quỹ Bình ổn giá do Nhà nước quản lý. Lệ
phí giao thông thu từ năm 1994 cũng được hình thành từ nguyên tắc tận
thu cho ngân sách Nhà nước khi điều kiện cho phép, là khoản thu cố
định và sau này đổi tên là phí xăng dầu.
Đặc điểm lớn nhất của giai đoạn này là: nhờ quy định của Nhà
nước về giá chuẩn, doanh nghiệp đầu mối được điều chỉnh giá bán xăng
Phạm Lưu Duẩn
MSV: CQ530558

18

Trường Đại Học Kinh Tế quốc Dân


Những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lê nin 2

dầu nhập khẩu thuộc nguồn ngoại tệ tự huy động từ các doanh nghiệp
xuất khẩu, đảm bảo quyền lợi cho họ thông qua tỷ giá phù hợp nên đã
huy động được số ngoại tệ nhập khẩu gần 60% nhu cầu xăng dầu cho
nền kinh tế sau khi không còn nguồn xăng dầu theo Hiệp định.
Chính chủ trương không áp dụng cơ chế bù giá cho các đối tượng
sử dụng xăng dầu thông qua doanh nghiệp kinh doanh xăng dầu là điều

kiện quyết định để Việt Nam có thể tự cân đối được ngoại tệ nhập khẩu
xăng dầu ngay cả khi nguồn ngoại tệ tập trung của Nhà nước từ dầu thô
mới chỉ chiếm tỷ trọng nhỏ hơn 50% so với tổng nhu cầu ngoại tệ nhập
khẩu xăng dầu lúc đó.
Giai đoạn này cũng là thời kỳ giá xăng dầu thế giới ở mức đáy (dầu
thô chỉ ở mức trên 10 usd/thùng), tương đối ổn định nên với cơ chế giá
tối đa, Nhà nước đã đạt được mục tiêu đề ra, cụ thể là: Cân đối cung cầu được đảm bảo vững chắc; Các hộ sản xuất và người tiêu dùng lẻ
được hưởng mức giá tương đối ổn định, biến động giá tuy chỉ theo xu
hướng tăng song mức tăng đều, không gây khó khăn nhiều cho sản xuất
và tiêu dùng khi chủ động hoạch định được ngân sách cho tiêu thụ xăng
dầu hàng năm; Ngân sách Nhà nước tăng thu thông qua việc tận thu thuế
nhập khẩu, phụ thu, phí xăng dầu; Doanh nghiệp có tích luỹ để đầu tư
phát triển, định hình hệ thống cơ sở vật chất, từ cầu cảng, kho đầu mối,
kho trung chuyển, phương tiện vận tải đến mạng lưới bán lẻ.

Phạm Lưu Duẩn
MSV: CQ530558

19

Trường Đại Học Kinh Tế quốc Dân


Những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lê nin 2

Mặc dù vậy, cơ chế quản lý - điều hành trong giai đoạn này cũng
đã bộc lộ khá rõ những nhược điểm mà nổi bật là tương quan giá bán
giữa các mặt hàng không hợp lý dẫn đến tiêu dùng lãng phí, nhà đầu tư
không có đủ thông tin để tính toán đúng hiệu quả đầu tư nên chỉ cần thay
đổi cơ chế điều hành giá sẽ làm ảnh hưởng rất lớn sử dụng nhiên liệu,

nhiều nhà sản xuất thậm chí đã phải thay đổi công nghệ do thay đổi
nhiên liệu đốt (thay thế madut, dầu hoả bằng than, trấu, gas); gian lận
thương mại xuất hiện do định giá thấp đối với mặt hàng chính sách (dầu
hoả); Nhà nước giữ giá ổn định trong một thời gian quá dài thoát ly giá
thế giới tạo sức ỳ và tâm lý phản ứng của người sử dụng về thay đổi giá
mà không cần xét đến nguyên nhân và sự cần thiết phải điều chỉnh tăng
giá.
Ở cuối của giai đoạn này giá thế giới - nguồn - thị trường đã có dấu
hiệu biến động mạnh, ở mức cao hơn; các cân đối cung cầu và ngân
sách, chỉ tiêu tăng trưởng kinh tế và lạm phát…đều có nguy cơ bị phá vỡ
khi tình trạng đó kéo dài; trong khi chưa tìm được cơ chế điều hành thích
hợp, vì mục tiêu ổn định để phát triển kinh tế xã hội, Nhà nước đã sử
dụng biện pháp bình ổn giá, khởi đầu cho giai đoạn bù giá cho người tiêu
dùng qua doanh nghiệp nhập khẩu trong gần 10 năm tiếp theo.
1.2. Giai đoạn từ năm 2000 đến trước thời điểm Nhà nước công bố
chấm dứt bù giá, vận hành giá xăng dầu theo thị trường (tháng
9/2008)
Phạm Lưu Duẩn
MSV: CQ530558

20

Trường Đại Học Kinh Tế quốc Dân


Những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lê nin 2

Về cơ bản, nội dung và phương thức quản lý điều hành hoạt động
kinh doanh xăng dầu vẫn chưa có sự thay đổi so với giai đoạn trước đó.
Trong khi đó, từ đầu những năm 2000, biến động giá xăng dầu thế

giới đã có những thay đổi căn bản; mặt bằng giá mới hình thành và liên
tiếp bị phá vỡ để xác lập mặt bằng mới trong các năm tiếp theo. Do tiếp
tục chính sách bù giá cho người tiêu dùng thông qua doanh nghiệp nhập
khẩu khi cố gắng giữ mức giá nội địa ở mức thấp nên số tiền ngân sách
bù giá ngày càng gia tăng, từ 1000 tỷ (năm 2000) lên đến 22 nghìn tỷ
đồng năm 2008; loại trừ yếu tố trượt giá thì đây cũng là một tốc tộ tăng
quá cao; chưa có đánh giá nào đề cập đến khía cạnh này song xét đơn
thuần trên số liệu, nếu đầu tư hàng ngàn tỷ đồng này cho các dự án phát
triển cơ sở hạ tầng kinh doanh xăng dầu, đã có thể tạo lập một hệ thống
kinh doanh xăng dầu đủ lớn và hiện đại, có khả năng cạnh tranh khi mở
cửa thị trường xăng dầu trong tương lai gần.
Cũng trong giai đoạn này, sau khi nổ ra cuộc chiến tranh Vùng
Vịnh lần thứ 2; giá xăng dầu đã dịu lại song cũng đã hình thành một mặt
bằng mới; trước nguy cơ không thể cân đối ngân sách cho bù giá xăng
dầu, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 187/2003/QĐ-TTg
ngày 15/9/2003 về kinh doanh xăng dầu.

Cho đến thời điểm này, sự

đổi mới cơ chế quản lý, chủ yếu là quản lý giá theo Quyết định 187 vẫn
được coi là mạnh mẽ nhất với các tư tưởng cơ bản bao gồm:

Phạm Lưu Duẩn
MSV: CQ530558

21

Trường Đại Học Kinh Tế quốc Dân



Những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lê nin 2

Nhà nước xác định giá định hướng; doanh nghiệp đầu mối được
điều chỉnh tăng giá bán trong phạm vi + 10% (đối với xăng) và + 5%
(đối với các mặt hàng dầu).
Hình thành 2 vùng giá bán; giá bán tại vùng xa cảng nhập khẩu,
doanh nghiệp được phép cộng tới vào giá bán một phần chi phí vận tải
nhưng tối đa không vượt quá 2% so với giá bán ở vùng gần cảng nhập
khẩu.
Chỉ thay đổi giá định hướng khi các yếu tố cấu thành giá thay đổi
lớn, Nhà nước không còn công cụ điều tiết, bảo đảm các lợi ích của
người tiêu dùng - Nhà nước và doanh nghiệp.
Tuy nhiên, vì những lý do khách quan, sự đột phá cơ chế điều hành
giá trong QĐ 187 chưa được triển khai trên thực tế; cho đến hiện nay,
Nhà nước tiếp tục điều hành và can thiệp trực tiếp vào giá bán xăng dầu,
kể cả chiều tăng và giảm.
Trong giai đoạn này, mặc dù chưa vận hành điều khoản về giá
xong sự ra đời của QĐ 187 năm 2003 và NĐ 55 năm 2007 đã tạo ra một
hệ thống phân phối rộng khắp với gần 10.000 cửa hàng xăng dầu trên cả
nước, góp phần ổn định, lành mạnh hóa thị trường trước đây khá lộn xộn
khi thiết lập quan hệ giữa người nhập khẩu và các đại lý, tổng đại lý khi
gắn trách nhiệm, quyền lợi của doanh nghiệp đầu mối với các đại lý,
tổng đại lý cũng như giúp cơ quan quản lý chức năng, người tiêu dùng
Phạm Lưu Duẩn
MSV: CQ530558

22

Trường Đại Học Kinh Tế quốc Dân



Những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lê nin 2

cùng tham gia vào quá trình giám sát hoạt động của các đại lý, tổng đại
lý trong việc chấp hành quy định kinh doanh xăng dầu.
Đánh giá chung cho giai đoạn này, có thể thấy quyết tâm rất cao để
đổi mới cơ chế quản lý kinh doanh xăng dầu thể hiện qua 2 văn bản pháp
quy là QĐ 187 và NĐ 55 song cho đến hiện nay, văn bản đã không đi
vào thực tế kinh doanh (trừ hệ thống phân phối được thiết lập nhưng việc
kiểm soát tính tuân thủ hầu như chưa thực hiện được). Yếu tố ổn định giá
vẫn được đặt lên hàng đầu và chính nó đã làm cho các cơ quan quản lý
Nhà nước lúng lúng khi phải điều hành đạt các mục tiêu dường như mâu
thuẫn nhau ở cùng một thời điểm.
Việc áp dụng một biện pháp duy nhất (biện pháp bù giá), làm cho
giá nội địa thoát ly giá thế giới trong một chu kỳ quá dài với bối cảnh giá
xăng dầu thế giới đã nhiều lần hình thành mặt bằng giá mới cao hơn;
ngoài yếu tố cung cầu thì yếu tố chính trị cũng ảnh hưởng lớn đến biến
động giá; biên độ dao động giá quá mạnh sau mỗi ngày… đã làm cân đối
ngân sách bị phá vỡ, doanh nghiệp bị kiệt quệ nguồn lực cho phát triển;
việc kìm giá và điều chỉnh sốc tác động tiêu cực đến nền kinh tế, chưa kể
hiện tượng đầu cơ chờ tăng giá làm méo mó nhu cầu, chuyển khá nhiều
nguồn lực cho đại lý; phần lớn người tiêu dùng không được thông tin đầy
đủ về cơ chế điều hành và lợi ích mà Nhà nước đem lại cho nhân dân nên
thường xuyên có phản ứng tiêu cực sau mỗi lần điều chỉnh giá (kể cả
tăng và giảm), từ đó chưa tạo được sự đồng thuận trong xã hội; thẩm lậu
Phạm Lưu Duẩn
MSV: CQ530558

23


Trường Đại Học Kinh Tế quốc Dân


Những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lê nin 2

xăng dầu qua biên giới ngày càng phức tạp, khó kiểm soát; Nhà nước
thất thu ngân sách kể cả lúc giá thấp hơn và cao hơn nước lân cận do
thẩm lậu xăng dầu qua biên giới.
Hệ quả rất xấu của cơ chế bù giá xăng dầu kéo dài (mà người tiêu
dùng vẫn hiểu là bù lỗ cho doanh nghiệp đầu mối) là việc khó chấp nhận
điều chỉnh tăng giá, kể cả mức rất thấp và phản ứng mạnh trước thông tin
doanh nghiệp kinh doanh xăng dầu không có hiệu quả mà luôn được Nhà
nước bù lỗ.
Cũng cần khẳng định rằng, chỉ khi Nhà nước bảo đảm đủ cân đối
ngoại tệ cho nhập khẩu xăng dầu thì mới có thể áp dụng biện pháp bù
giá. Đây chính là điểm khác biệt so với giai đoạn trước, khi mà nguồn
ngoại tệ từ dầu thô và các nguồn dự trữ tập trung khác của Nhà nước đã
đủ lớn.
1.3. Giai đoạn từ cuối năm 2008 đến nay
Có thể nói, giai đoạn này tuy rất ngắn nhưng đã bộc lộ nhiều nhất
những bất cập của cơ chế điều hành giá và thuế xăng dầu. Việc tiếp tục
can thiệp giá và áp dụng một cơ chế điều hành trong điều kiện giá xăng
dầu thế giới biến động rất nhanh chóng theo hai xu hướng ngược nhau đã
dẫn đến một nghịch lý là: trong thời kỳ giá thế giới đã giảm sâu, Nhà
nước vẫn phải bỏ một số tiền bù giá tương đương, thậm chí cao hơn so
với giai đoạn giá thế giới tăng đỉnh điểm;
Phạm Lưu Duẩn
MSV: CQ530558

24


Trường Đại Học Kinh Tế quốc Dân


Những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lê nin 2

Khái quát lại, từ khi công bố chấm dứt bù giá đến nay, doanh
nghiệp vẫn không có thực quyền về xác định giá bán như các văn bản
quy định; Nhà nước không có biện pháp kiểm soát các doanh nghiệp kết
cấu giá bán xăng để hình thành nguồn trả nợ ngân sách, tạo ra sự mấp
mô về giá bán, doanh nghiệp không bình đẳng trong cạnh tranh; các văn
bản mới tiếp tục ra đời song cũng không đi vào thực tế (barem thuế nhập
khẩu, quỹ bình ổn giá); cơ chế đăng ký giá kéo dài mang nặng tính xin
cho (phê duyệt), các cơ quan truyền thông khai thác và đưa ra thông tin
về tăng giảm giá rất sớm, không những không có tính định hướng dư
luận mà tạo ra áp lực nặng nề cho cả doanh nghiệp và cơ quan quản lý,
nguồn lực từ doanh nghiệp đầu mối chuyển qua đại lý rất khó kiểm soát
sự minh bạch và đúng đắn của các nhu cầu ở trước thời điểm tăng giá.
Trầm trọng hơn là xã hội không thừa nhận hoạt động kinh doanh xăng
dầu là phải có lãi (dù rất thấp) như tất cả các hoạt động kinh doanh khác.
2. Vận dụng lý luận vào sự phát triển của thị trường xăng dầu.
Nhà nước đưa ra những chính sách nhằm tạo ra thị trường tự do
trao đổi, chấm dứt sự bù giá, giá cả xăng dầu được điều hành theo cơ chế
thị trường. Song trên thực tế, giá cả mặt hàng này vẫn nằm trong sự điều
tiết của nhà nước. Vậy nguyên nhân do đâu? Thứ nhất: Xăng dầu là một
trong những mặt hàng trọng điểm của đất nước, sự biến động của giá cả
sẽ ảnh hưởng lớn tới nền kinh tế như lạm phát tăng cao... Thứ hai: Sự
độc quyền về xăng dầu của các tổng công ty. Hiện nay nhìn vào cơ cấu
Phạm Lưu Duẩn
MSV: CQ530558


25

Trường Đại Học Kinh Tế quốc Dân


×