Tải bản đầy đủ (.doc) (14 trang)

Lý luận biểu hiện của giá trị thặng dư và vấn đề hoàn thiện thể chế phân phối thu nhập ở việt nam hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (142.25 KB, 14 trang )

Đề 2: lý luận biểu hiện của giá trị thặng dư và vấn đề hoàn thiện
thể chế phân phối thu nhập ở Việt Nam hiện nay.

I – LÝ LUẬN VỀ GIÁ TRỊ THẶNG DƯ:

1,Phạm trù giá trị thặng dư:
a. Chuyển hóa tiền tệ thành tư bản:

Tiền tệ là sản phẩm cuối cùng của q trình sản xuất và lưu thơng
hàng hóa nhưng lại là điểm xuất phát đầu tiên của tư bản. Song bản thân
tiền không phải là tư bản và không phải lượng tiền nào cũng biên thành
tư bản, tiền chỉ biến thành tư bản khi được đưa vào lưu thông và vận
động theo quy công thức: T – H - T’.
Trong đó: T – Tư bản
H – Hàng hóa
T’ = T+∆T => ∆T – giá trị thặng dư
So với cơng thức lưu thơng hàng hóa giản đơn H – T – H, thì 2 cơng
thức tuy có sự giống nhau về hình thức đó là đều do 2 giai đoạn đối lập
nhau là mua và bán hình thành thì căn bản chúng có những điểm khác
nhau về chất. Đó là sự khác nhau về điểm xuất phát, điểm kết thúc và
đặc biệt là mục đích của lưu thơng hàng hóa.Do mục đích của lưu thơng
hàng hóa giản đơn là giá trị sử dụng nên vịng lưu thơng chấm dứt ở giai
1


đoạn hai, khi những người trao đổi đã có được giá trị sử dụng mà người
đó cần đến. Cịn mục đích lưu thơng tiền tệ với tư cách là tư bản không
phải là giá trị sử dụng, mà là giá trị, hơn nữa là giá trị tăng thêm.Vì vậy
nếu số tiền thu được bằng số tiền ứng ra thì quá trình vận động trở nên
vơ nghĩa. Do đó số tiền thu về phải lớn hơn số tiền ứng ra, nên công thức
vận động đầy đủ của tư bản là: T-H-T’, trong ®ã T’= T + ∆T.∆T là số


tiền trội hơn so với số tiền ứng ra, C. Mác gọi là giá trị thặng dư. Số tiền
ứng ra ban đầu chuyển hoá thành tư bản.
Vậy tư bản là giá trị mang lại giá trị thặng dư. Mục đích của lưu thơng
T-H-T’ là sự lớn lên của giá trị, là giá trị thặng dư, nên sự vận động TH-T’ là khơng có giới hạn, vì sự lớn lên của giá trị là khơng có giới hạn.
C.Mac chỉ rõ:” Vậy T – H – T’ thực sự là công thức chung của tư bản,
đúng như nó trực tiếp thể hiện ra trong lĩnh vực lưu thông”.
Mặt khác, kể cả trong trường hợp trao đổi ngang giá hay không ngang
giá đều không tạo ra giá trị thặng dư nhưng nhìn vào cơng thức chung
của tư banrlaij chỉ có lưu thơng mà khơng có ∆T => Mac kết luận :”Vậy
là tư bản không thể xuất hiện từ lưu thông cũng không thể xuất hiện ở
bên ngồi lưu thơng. Nó phải xuất hiện trong lưu thơng và thời khơng
phải trong lưu thơng”.(1)
b, Hàng hố - sức lao động:

2


Sức lao động là tồn bộ thể lực và trí lực tồn tại trong cơ thể con
người, thể lực và trí lực mà người đó đem ra vận dụng trong quá trình
sản xuất ra một giá trị sử dụng.
Sức lao động luôn là yếu tố cơ bản nhất của mọi q trình lao động
sản xuất vì nó ln gắn với con người mà con người thì ln sáng tạo và
sử dụng tư liệu sản xuất để tạo ra của cái vật chất phục vụ lợi ích con
người.C.Mác đã nhấn mạnh sức lao động chỉ trở thành hàng hoá khi:
Một là, người lao động phải được hoàn toàn tự do về thân thể, phải
làm chủ được sức lao động của mình và có quyền đem bán cho người
khác. Vậy người có sức lao động phải có quyền sở hữu sức lao động của
mình.=> điều kiện cần.
Hai là, người lao động đã bị tước hết tư liệu sản xuất, điều kiện này
bắt buộc người lao động phải bán sức lao động, vì khơng cịn cách nào

khác để sinh sống.
Là một loại hàng hóa, sức lao động có cả 2 thuộc tính là giá trị và giá
trị sử dụng. Đặc biệt ngoài yếu tố vật chất, nó cịn có yếu tố tinh thần
lịch sử, dân tộc, yếu tố gia đình và truyền thống, nghề nghiệp mà hàng
hố thơng thường khơng có.
Giá trị hàng hóa sức lao động biểu hiện dưới hình thức tiền cơng cịn
giá trị sử dụng được biểu hiện khi tiêu dùng. Khi đó giá trị của nó khơng
mất đi mà còn tạo ra 1 giá trị mới lớn hơn giá trị bản thân nó. Chính đặc

3


tính này đã làm cho sự xuất hiện của háng hóa sức lao động trở thành
điều kiện để tiền tệ chuyển hóa thành tư bản.
c, Bản chất giá trị thặng dư:
Trong nền sản xuất hàng hoá dựa trên chế độ tư hữu về tư liệu sản
xuất, giá trị sử dụng khơng phải là mục đích, nó được sản xuất chỉ vì nó
là vật mang giá trị trao đổi.
Nhà tư bản muốn sản xuất ra một giá trị sử dụng có một giá trị trao
đổi, nghĩa là một hàng hoá. Hơn nữa, nhà tư bản muốn sản xuất ra một
hàng hoá có giá trị lớn hơn tổng giá trị những tư liệu sản xuất và giá trị
sức lao động mà nhà tư bản đã bỏ ra để mua, nghĩa là muốn sản xuất ra
một giá trị thặng dư.
Vậy quá trình sản xuất tư bản chủ nghĩa là sự thống nhất giữa quá
trình sản xuất ra giá trị sử dụng và quá trình sản xuất ra giá trị thặng dư.
C.Mác viết: “ Với tư cách là sự thống nhất giữa hai quá trình lao động và
quá trình tạo ra giá trị thì quá trình sản xuất là một quá trình sản xuất
hàng hoá; với tư cách là sự thống nhất giữa quá trình lao động và quá
trình làm tăng giá trị thì quá trình sản xuất là một quá trình sản xuất tư
bản chủ nghĩa, là hình thái tư bản chủ nghĩa của nền sản xuất hàng hố”.

Q trình lao động với tư cách là quá trình nhà tư bản tiêu dùng sức
lao động có hai đặc trưng:

4


Một là, người công nhân lao động dưới sự kiểm soát của nhà tư bản
giống như những yếu tố khác của sản xuất được nhà tư bản sử dụng sao
cho có hiêụ quả nhất.
Hai là, sản phẩm làm ra thuộc sở hữu của nhà tư bản, chứ không phải
của người cơng nhân
C.Mác đã lấy ví dụ về việc sản xuất sợi ở nước Anh làm đối tượng
nghiên cứu quá trình sản xuất giá trị thặng dư,từ sự nghiên cứu trên,rút
ra một số nhận xét sau:
Một là, nghiên cứu quá trình sản xuất giá trị thặng dư chúng ta nhận
thấy mâu thuẫn của công thức chung của tư bản đã được giải quyết. Việc
chuyển hoá tiền thành tư bản diến ra trong lĩnh vực lưu thông và đồng
thời không diễn ra trong lĩnh vực đó. Chỉ có trong lưu thơng nhà tư bản
mới mua được một thứ hàng hoá đặc biệt, đó là hàng hố sức lao động.
Sau đó nhà tư bản sử dụng hàng hố đó trong sản xuất, tức là ngồi lĩnh
vực lưu thơng để sản xuất giá trị thặng dư cho nhà tư bản. Do đó tiền của
nhà tư bản mới biến thành tư bản.
Hai là, phân tích giá trị sản phẩm được sản xuất ra, chúng ta thấy có
hai phần:
Giá trị những tư liệu sản xuất nhờ lao động cụ thể của người công
nhân mà được bảo tồn và di chuyển vào giá trị của sản phẩm mới (sợi)
gọi là giá trị cũ.

5



Giá trị do lao động trừu tượng của công nhân tạo ra trong quá trình lao
động gọi là giá trị mới, phần giá trị mới này lớn hơn giá trị sức lao động,
nó bằng giá trị sức lao động cộng thêm giá trị thặng dư.
Ba là, ngày lao động của cơng nhân trong xí nghiệp tư bản được chia
thành hai phần:
Một phần gọi là thời gian lao động cần thiết: Trong thời gian này
người công nhân tạo ra được một lượng giá trị ngang bằng với giá trị sức
lao động hay mức tiền công mà nhà tư bản đã trả cho mình (4 đơla).
Phần thời gian cịn lại là thời gian lao động thặng dư: Trong thời gian
lao động thặng dư người công nhân lại tạo ra một lượng giá trị lớn hơn
giá trị sức lao động hay tiền lương nhà tư bản đã trả cho mình, đó là giá
trị thặng dư (4 đôla) và bộ phận này thuộc về nhà tư bản (nhà tư bản
chiếm đoạt).
Từ đó, Mác đi đến khái niệm về giá trị thặng dư:Giá trị thặng dư là
phần dơi ra bên ngồi giá trị sức lao động do công nhân làm thuê
sáng tạo ra và bị nhà tư bản chiếm đoạt.
Quá trình sản xuất ra giá trị thặng dư là quá trình sản xuất ra giá trị
vượt khỏi điểm mà ở đó sức lao động của người công nhân đã tạo ra một
lượng giá trị mới ngang bằng với giá trị sức lao động hay mức tiền công
mà nhà tư bản đã trả cho họ. Thực chất của sản xuất giá trị thặng dư là
sản xuất ra giá trị vượt khỏi giới hạn tại điểm đó giá trị sức lao động
được trả ngang giá.
6


2, Các phương pháp sản xuất giá trị thặng dư:
Mục đích của các nhà tư bản là sản xuất ra giá trị thặng dư tối đa, do vậy
mà các nhà tư bản dùng nhiều phương pháp để tăng khối lượng giá trị
thặng dư. Những phương pháp cơ bản để sản xuất giá trị thặng dư là sản

xuất giá trị thặng dư tuyệt đối và giá trị thặng dư tương đối.
a, Phương pháp sản xuất giá trị thặng dư tuyệt đối:
Trong giai đoạn phát triển đầu tiên của sản xuất tư bản chủ nghĩa, kỹ
thuật còn thấp kém, phương pháp chủ yếu mà các nhà tư bản sử dụng để
tăng giá trị thặng dư là kéo dài thời gian lao động của công nhân, trong
điều kiện thời gian lao động là tất yếu không thay đổi.
Giả sử thời gian lao động là 8 giờ trong đó 4 giờ là thơi gian lao động
cần thiết và 4 giờ là thời gian lao động thặng dư khi đó trình độ bóc lột
của nhà tư bản là 100%. Giá trị ngày lao động kéo dài thêm 2 giờ trong
khi thời gian lao động cần thiết khơng đổi thì thời gian lao động thặng
dư tăng lên một cách tuyệt đối , vì thế giá trị thặng dư cũng tăng lên,
trình độ bóc lột tăng lên đạt 200%(m’=200%).
Các nhà tư bản tìm mọi cách để kéo dài ngày lao động và phương
pháp bóc lột này đem lại hiệu quả rất cao cho các nhà tư bản. Nhưng
dưới chủ nghĩa tư bản mặc dù sức lao động của cơng nhân là hàng hố ,
nhưng nó tồn tại trong cơ thể sống con người vì vậy mà người cơng nhân
cần có thời gian để ăn ngủ nghỉ ngơi giải trí để phục hồi sức khoẻ nhằm
tái sản xuất sức lao động. Mặt khác , sức lao động là thứ hàng hoá đặc
7


biệt vì vậy ngồi yếu tố vật chất người cơng nhân địi hỏi phải có thời
gian cho nhu cầu sinh hoạt về tinh thần , vật chất , tôn giáo của mình.
Như vậy, về mặt kinh tế, ngày lao động phải dài hạn thời gian lao động
tất yếu , nhưng không thể vượt qua giới hạn về thể chất và tinh thần của
người lao động.
Vì thời gian lao động quá dài , do vậy mà đã dẫn đến phong trào
giai cấp vơ sản đấu tranh địi giai cấp tư sản phải rút ngắn thời gian
lao động trong ngày. Chính vì vậy mà giai cấp tư sản phải chuyển
sang một phương pháp bóc lột mới tinh vi hơn , đó là phương pháp

bóc lột giá trị thặng dư tương đối.
b,Phương pháp bóc lột giá trị thặng dư tương đối:
Bóc lột giá trị thặng dư tương đối được tiến hành bằng cách rút ngắn
thời gian lao động cần thiết để trên cơ sở đó kéo dài tương ứng thời gian
lao động thặng dư, trong điều kiện độ dài ngày lao động không đổi.
Giả sử ngày lao động 8 giờ, trong đó 4 giờ là thời gian lao động tất
yếu và 4 giờ là thời gian lao động thặng dư , trình độ bóc lột 100%.Giả
thiết rằng cơng nhân chỉ cần 2 giờ lao động đã tạo ra được một giá trị
bằng giá trị sức lao động của mình. Do đó mà tỷ lệ phân chia ngày lao
động thành thời gian lao động cần thiết và thời gian lao động giá trị
thặng dư trong trường hợp đó cũng khơng thay đổi. Khi đó thời gian lao
động cần thiết là 2 giờ, thời gian lao động thặng dư là 6 giờ, trình độ bóc
lột của nhà tư bản lúc này là 300%(m’=300%).

8


Như vậy để có thể giảm thời gian lao động cần thiết để từ đó gia tăng
tương ứng phần thời gian lao động thặng dư thì các nhà tư bản cần tìm
mọi biện pháp để tăng năng suất lao động trong những nghành sản xuất
tư liệu sinh hoạt. Đồng thời nâng cao năng suất lao động xã hội trong
những nghành, những lĩnh vực sản xuất ra vật phẩm tiêu dùng để nuôi
sống người công nhân.
Nếu trong giai đoạn đầu của chủ nghĩa tư bản, sản xuất giá trị thặng
dư tuyệt đối chiếm ưu thế, thì đến giai đoạn sau khi mà kỹ thuật phát
triển, sản xuất giá trị thặng dư tương đối đã chiếm ưu thế. Hai phương
pháp trên đã được các nhà tư bản sư dụng kết hợp với nhau để nâng cao
trình độ bóc lột cơng nhân làm thuê trong các giai đoạn phát triển của
chủ nghĩa tư bản.
II,Vấn đề hoàn thiện phân phối thu nhập ở Việt Nam hiện nay:

1, Quan niệm về giá trị thặng dư trong nền kinh tế xã hội chủ
nghĩa:
Từ lý luận kinh tế của Mác có thể nói: Giá trị thặng dư là giá trị do lao
động của công nhân làm thuê sản sinh ra vượt quá giá trị sức lao động
của họ và bị nhà tư bản chiếm đoạt. Nhà tư bản sử dụng tính chất đặc
biệt của hàng hóa sức lao động vào mục đích tạo ra cho mình giá trị
thặng dư. Chiếm đoạt toàn bộ giá trị thặng dư này là hành vi được gọi
đích danh là “bóc lột ” giá trị thặng dư.Trong hoạt động kinh tế tư bản
chủ nghĩa, giá trị thặng dư tuyệt đối, giá trị thặng dư tương đối và giá trị
9


thặng dư siêu ngạch đều bị nhà tư bản chiếm đoạt, vì vậy mà ln ln
có cuộc đấu tranh của cơng nhân làm th chống lại sự chiếm đoạt đó.
Cuộc đấu tranh chống bóc lột giá trị thặng dư về thực chất là đấu tranh
chống việc nhà tư bản chiếm đoạt hồn tồn giá trị thặng dư.
Vậy, rõ ràng, bóc lột giá trị thặng dư là sản phẩm của chế độ tư bản chủ
nghĩa. Ở đó sản xuất giá trị thặng dư đồng nghĩa với bóc lột giá trị
thặng dư. Vậy thì trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa có sản xuất giá trị thặng dư không? Cái được gọi là “giá trị thặng
dư” trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt
Nam thuộc về ai? Trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa này sở hữu “giá trị thặng dư” có phải là hành động bóc lột hay
khơng? Hay nói cách khác sản xuất giá trị thặng dư trong nền kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa có đồng nghĩa với bóc lột khơng?
Trước đây, do đối lập một cách máy móc CNXH với CNTB đã thịnh
hành một quan điểm cho rằng trong CNXH, thậm chí cả trong thời kỳ
qua độ lên CNXH, khơng cịn kinh tế hàng hóa, càng khơng cịn kinh tế
thị trường (trình độ phát triển cao của kinh tế hàng hóa), do đó cũng
khơng cịn phạm trù giá trị và giá trị thặng dư.Ngày nay, trải qua thực

tiễn chúng ta càng nhận thức rõ rằng:“ Sản xuất hàng hóa khơng đối lập
với CNXH, mà là thành tựu phát triển của nền văn minh nhân loại, tồn
tại khách quan, cần thiết cho công cuộc xây dựng CNXH và cả khi
CNXH đã được xây dựng ” (2).
10


Trong “Phê phán cương lĩnh Gô-ta”, C.Mác đã nhận định: xã hội trong
giai đoạn thấp của của chủ nghĩa cộng sản, hay cịn gọi là CNXH, vừa
thốt thai từ xã hội TBCN, là một xã hội, về mọi phương diện - kinh tế,
đạo đức, tinh thần - còn mang những dấu vết của xã hội cũ mà nó lọt
lịng ra” (3). V.I.Lênin cũng cho rằng: “chúng ta khơng thể hình dung một
thứ CNXH nào khác hơn là CNXH dựa trên tất cả những bài học mà nền
văn minh lớn của CNTB đã thu được” (4). Một khi xã hội XHCN còn
mang những dấu vết kinh tế của xã hội TBCN và kế thừa những thành
tựu của nền văn minh lớn mà CNTB đã thu được thì sự tồn tại sản xuất
và lưu thơng hàng hóa là tất yếu. Trong xã hội này, mỗi người lao động
vẫn còn lệ thuộc vào sự phân cơng lao động xã hội, vẫn cịn sự đối lập
giữa lao động chân tay và lao động động trí óc; lao động vẫn là phương
tiện để sinh sống chứ chưa trở thành nhu cầu bậc nhất của mỗi người,
sức sản xuất của xã hội chưa đạt đến mức của cải tuôn ra dào dạt để
phân phối theo nhu cầu, nên vẫn phải đi con đường vòng thực hiện phân
phối thơng qua trao đổi hàng hóa.
Mặt khác, sản xuất và phân phối giá trị thặng dư trong chủ nghĩa tư bản
và trong chủ nghĩa xã hội hồn tồn khơng giống nhau. Bởi vì “ bất kỳ
một sự phân phối nào về tư liệu tiêu dùng cũng chỉ là hậu quả của sự
phân phối chính ngay những điều kiện sản xuất; nhưng sự phân phối
những điều kiện sản xuất lại là một tính chất của chính ngay phương
thức sản xuất. Ví dụ, phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa dựa trên
tình hình là những điều kiện vật chất của sản xuất lại nằm ở trong tay

11


những kẻ khơng lao động, dưới hình thức sở hữu tư bản và sở hữu ruộng
đất, cịn quần chúng thì chỉ là kẻ sở hữu những điều kiện người của sản
xuất, tức là sức lao động. Nếu những yếu tố của sản xuất được phân phối
như thế thì thì việc phân phối hiện nay về tư liệu tiêu dùng tự nó cũng do
đó mà ra. Nếu những điều kiện vật chất của sản xuất là sở hữu tập thể
của bản thân những người lao động thì cũng sẽ có một sự phân phối
những tư liệu tiêu dùng khác với sự phân phối hiện nay.”(5)
2,vấn đề hoàn thiện phân phối thu nhập ở Việt Nam hiện nay:
Trong nền kinh tế tư bản chủ nghĩa: chỉ có chế độ tư hữu và chưa
có hình thức phân phối theo lao động vì dựa trên chế dộ tư hữu nên
chúng ta không thế tránh khỏi tính tự phát chạy theo lợi nhuận đơn
thuần, nảy sinh những hiện tượng tiêu cực làm tổn hại tới lợi ích chung
của xã hội. Trong thời kỳ này kết cấu kinh tế cịn nhiều thành phần,
chúng ta chưa có điều kiện để thực hiện hình thức phân phối lao động
trên quy mơ tồn xã hội mà chỉ có thể thực hiện trong một bộ phận nền
kinh tế, coi hình thức phân phối đó là hình thức phân phối chủ yếu mà
thơi.
Ở nước ta trong những năm qua có nhiều cố gắng để giải quyết vấn
đề phân phối thu nhập, đặc biệt từ khi chuyển sang nền kinh tế thị
trường đến nay. Nếu như ở chủ nghĩa tư bản có sự phân phối thu nhập
đồng đều giữa các cá nhân, làm giảm tính sang tạo, thì hiện nay chúng ta
phân phối theo lao động là chủ yếu, ai làm nhiều hưởng nhiều, ai làm ít
12


hưởng ít, ai khơng làm thỳ khơng hưởng, kích thích sang tạo nhất trong
sản xuất.


Hiện nay trong quá trình chuyển sang kinh tế thị trường ở nước ta
bên cạnh một bộ phận giàu lên chính đáng, đã và đang xuất hiện sự
phân hóa giàu nghèo giữa các vùng, giữa thành thị và nông thôn, giữa
các tầng lớp dân cư. Tuy vậy cho đến nay vẫn chưa có quan điểm nào
đúng đắn về tầm quan trọng của các hình thức phân phối ngồi hình thức
phân phối theo lao động. điều đó ảnh hưởng rất nhiều tới chất lượng sản
xuất.
một thực trạng nữa ở nước ta hiện nay là sự tồn tại biệt lập của các hình
thức phân phối thu nhập. trong nền sản xuất chủ yếu là phân phối theo
lao động, cịn trong lĩnh vực xã hội hình thức phân phối chủ yêu đó là
phân phối thong qua phúc lợi tập thể, xã hội.tuy thế nhưng chúng vẫn
tọa thành 1 thể thống nhất, mỗi hình thức một lĩnh vực và chúng đều
phát huy hết tác dụng của mình.
Như vậy vấn đề phân phối thu nhập cịn nhiều khiếm khuyết làm
kìm hãm sự phát triển kinh tế nước ta. Vấn đề đặt ra là cần làm sao để
phân phối thu nhập phải dựa theo nguyên tắc của kinh tế thị trường một
cách triệt để.

13


Chú thích:
(1). C.Mác và Ăngghen: Tồn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, H.1993,
t.23, tr.234
(2). ĐCSVN, Văn kiện ĐHĐBTQ lần thứ VIII, Nxb CTQG, H, 1996,
tr97.
(3). Mác - Ăngnghen toàn tập, tập 19, Nxb CTQG, H, 1995, tr33.
(4). Lênin toàn tập, tập 36, Nxb Tiến bộ, Matxcơva, 1977, tr334
(5). C.Mác và Ăngghen: Tồn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, H.1995,

t.36, tr.36-37

14


15



×