Tải bản đầy đủ (.doc) (15 trang)

Lý luận của chủ nghĩa mác – lê nin về khủng hoảng kinh tế

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (99.3 KB, 15 trang )

Đề bài: - Lý luận của chủ nghĩa Mác – Lê Nin về khủng hoảng kinh
tế?
-

Những biện pháp để khắc phục khủng hoảng kinh tế?

- Áp dụng vào nước ta hiện nay.
Bố cụ bài tiểu luận:
A. Lời mở đầu.
B. Nội dung chính:
I)

Lý luận của chủ nghĩa Mác – Lê nin về khủng hoảng kinh tế.
1) Khái niệm.
2) Nguyên nhân.
3) Hậu quả.
4) Tính chu kỳ của khủng hoảng kinh tế trong chủ nghĩa tư bản.

II)

Những biện pháp khắc phục khủn hoảng kinh tế.

III)

Áp dụng vào Việt Nam hiện nay.

C. Kết luận.


A. Lời mở đầu:
Khi sản xuất hàng hóa đơn CNTB ra đời với những ưu điểm vượt


trội của nó đã thúc đẩy sản xuất, trao đổi và lưu thông hàng hóa. Vì vậy
nó đã thúc đẩy nền sản xuất TBCN lên một mức cao hơn hẳn so với mức
cũ.
Nhưng đi kèm với sự phát triển của phương thưc sản xuất CNTB
lại là những mặt trái không thể tránh khỏi. Một trong những vấn đề đố là
chính những cuộc khủng hoảng kinh tế chu kì cứ 8 đén 12 năm lại diễn
ra một lần. Với mục tiêu là làm giàu, mong muốn chiếm đoạt giá trị
thặng dư một cách vô hạn, giai cấp tư bản đã tìm mọi cách vơ vét, thỏa
mãn lòng tham vô đáy của mình.
Cuộc cạnh tranh là cuộc chiến thu lợi nhuận của các nhà tư bản đã
vô tình dung đẩy nền kinh tế TBCN hay chính các nhà tư bản đến những
hậu quả không thể tránh: khủng hoảng kinh tế chu kì. Với tốc độ phát
triển của máy móc, của năng suất lao động, hiện nay khủng hoảng đã trở
thành một mối nguy hại, một thứ bệnh dịch có khả năng lây lan và có thể
bùng phát bất cứ lúc nào.
B.Phần nội dung:
I) Lý luận của chủ nghĩa Mác – Lê nin về khủng hoảng kinh tế.
1) Khái niệm:
Khủng hoảng kinh tế đề cập tới quá trình tái sản xuất đang bị
suy sụp tạm thời. Thời gian khủng hoảng làm cho những xung đột
giữa các giai tầng trong xã hội thêm căng thẳng, đồng thời nó tái


khởi động quá trình tích tụ tư bản mới.
Khủng hoảng kinh tế dưới thời CNTB là khủng hoảng sản xuất
thừa (thừa so với sức mua eo hẹp của quần chùng lao động). Trong các
phương thức sản xuất trước CNTB vẫn thường xảy ra những biến động
trong đời sống kinh tế, những biến động đó do thiên tai., đại dịch, dịch
bệnh...Nhưng duy nhất ở phương thức sản xuất CNTB lại có khủng
hoảng thừ hay cách nói khác là khủng hoảng kinh tế thừ a là hiện tượng

riêng của CNTB. Nó giống như cái nhọt nổi lên bên ngoài báo hiệu cho
những ung nhọt bên trong CNTB. Cái nhọt này là căn bệnh nan y đối với
tất cả các nước CNTB, cứ 8 hay 12 năm nó lại như ma lực như một sức
mạnh nào đó tái phát thêm 1 lần.
Một trong những “con bệnh” đó là nước Anh, trong vòng 133 năm kể từ
1825 tới 1958 đã phải chịu 7 lần “phát bệnh” vào những năm 1825 –
1836, 1890 – 1900, 1907 – 1920, 1920 – 1929, 1929 – 1937, 1938 –
1949, 1949 – 1958...Mĩ là nước khủng hoảng nhiều lần thứ 2, sau chiến
tranh thế giới thứ 2 Mĩ rơi vào cuộc khủng hoảng lần thứ 9 với những
hậu quả to lớn, sản xuất công nghiệp giảm 5,3%, GDP giảm 2,2%, thất
nghiệp tăng 7,8%, lạm phát tăng 4,6%...
2) Nguyên nhân:
Nguyên nhân của khủng hoảng không đâu xa mà ngay trong lòng
chính các xã hội CNTB, ngay từ khi ra đời nó đã mang theo nhũng mâu
thuẫn đối kháng trong mình. Nguyên nhân trước hết có thể nhắc đến là
mâu thuẫn giữa tính kế hoạch trong nội bộ từng xí nghiệp với tính vô


chính phủ trong nền sản xuất hàng hóa. Trong các nền sản xuất với tính
vô chính phủ trong nền sản xuất hàng hóa. Trong các nền sản xuất khác
tình trạng sản xuất vô chính phủ vẫn diễn ra. Nhưng không ở đâu hay bất
cứ đâu nền sản xuất nào tính vô chính phủ lại có thể gây ra những hậu
quả to lớn như vậy. Các nhà TB vì mong muốn làm giàu, vì mong muốn
làm giàu, vì mong muốn những khoản lợi nhuận kếch xù mà đã liên tục
thay đổi máy móc để nâng cao năng suất lao động. Bằng mọi cách nhà
TB chỉ chạy theo sức hút của đồng tiền bất chấp hậu quả. Họ tổ chức
cho xí nghiệp của mình sản xuất một cách thuận lợi nhất, tìm cho mình
một món hàng đầu tư thu lợi nhuận cao nhất và như vậy khi tìm được
những miếng mồi béo bở nhà TB sẵn sàng chuyển tư bản của họ từ
ngành này qua ngành kia. Những món mồi ngon, những miếng mồi lợi

nhuận siêu ngạch ấy đâu chỉ 1 nhà TB thấy. Do vậy việc tất cả ồ ạt
chuyển qua một ngành để kinh doanh ắt hẳn sẽ làm mất đi tỉ lệ ổn định
giữa các ngành. Mà tái sản xuất TBXH muốn tiến hành một cách trôi
chảy thì giữa các ngành sản xuất xã hột phải có những tỉ lệ nhất định.
Nhưng bây giờ sự cân bằng đã mất đi thì việc khủng hoảng là điều
không thể tránh khỏi.
Điển hình cho lòng tham CNTB là cuộc khủng hoảng cuối những
năm 70 nền kinh tế các nước công nghiệp chủ yếu đã bùng nổ khủng
hoảng một loạt ngành có tính chất thế giới. Hầu hết các ngành sản xuất
quan trọng của thế giới như luyện kim, đóng tàu, công nghiệp dệt,...
Chẳng hạn: trọng tải hạ thủy cảu thế giới các nước công nghiệp chủ yếu
vào thời kì khủng hoảng 1974 – 1975 là 34,4 triệu tấn, trong đó Nhật


Bản là 17,7 triệu tấn, khối EEC là 8,1 triệu tấn, Mĩ là 8,6 triệu tấn.
Ngành luyện thép cũng có tình trạng tương tự. Sản lượng thép của thế
giới tư bản phát triển là 490,7 triệu tấn. Các con số này vượt xa nhu cầu
về sắt thép của thế giới và là nguyên nhân gây nên cuộc khủng hoảng
1974 – 1975.
Nguyên nhân thứ 2 không thể không đề cập tới, đó chính là mâu
thuẫn giữa khả năng sản xuất vô hạn của CNTB và nhu cầu có khả năng
thanh toán của quần chúng lao động. Với mục đích đi lên để kiếm tiền,
nhà TB đã giẫm đạp lên cuộc sống của người lao động – những người đã
tạo ra của cải vật chất cho họ. Tích lũy, mở rộng sản xuất, cải tiến kĩ
thuật...tất cả đã ngày càng bần cùng hóa 1 cách tương đối quần chúng
lao động, ngày càng tạo nên vực sâu ngăn cách về mức sống giữa giai
cấp giai cấp Tư sản và giai cấp Vô sản. Trong khi hàng hóa sản xuất ra
với tốc độ chóng mặt thì sức mua của người lao động lại chỉ nhích lên
từng tí một, từng tí một rất chậm chạp. Đó là điều tất yếu để xảy ra
khủng hoảng: hàng hóa thì nhiều nhưng người tiêu dùng lại không đủ

tiền mua hàng. Thừa hàng hóa – đó là hiện tượng khơi mào để khủng
hoảng xảy ra: các xí nghiệp buộc phải hạ giá hàng, chịu lỗ vốn và có khi
là mất trắng. Từng bước một như vậy sản xuất bị thu hẹp dần, các xí
nghiệp đóng cửa, công nhân thất nghiệp...
Nguyên nhân cuối cùng cũng là nguyên nhân sâu xa nhất: đó là
mâu thuẫn giữa tính xã hội cao độ của lực lượng sản xuất với hình thức
chiếm hữu tư nhân TBCN. Phân công lao động xã hội phát triển hết sức


rộng rãi khiến cho việc sản xuất không còn là hành động cá nhân, phân
tán nữa mà trở thành một sợi dây chuyền xã hội thống nhất. Tư liệu sản
xuất nằm rong tay chủ tư bản nhưng chính xã hội CNTB lại làm cho tư
liệu sản xuất có tính xã hội, sản xuất cũng mang hành động sản xuất xã
hội và sản phẩm cũng là sản phẩm xã hội. Nhưng tính chất chỉ là tính
chất, thực tế lại không bao giờ như vậy bởi một khi tư liệu sản xuất còn
mang tính tư nhân thì tất cả các sản phẩm sản xuất vẫn còn phải phục vụ
chế độ chiếm hữu tư nhân. Phân tích cho thấy mâu thuẫn cơ vản của
phương thức sản xuất CNTB là mâu thuẫn giữa sản xuất có tính chất xã
hội và chiếm hữu có tính chất tư nhân TBCN. Đó là mâu thuẫn cơ bản,
không thể tách rời khỏi xã hội TB mà ngay từ khi ra đời nó đã mang sẵn
mâu thuẫn này cơ bản này trong nội tại của nó.
3) Hậu quả
Khủng hoảng kinh tế xảy ra là lúc mâu thuẫn bùng nổ, LLSX nổi
dậy chống lại quân hệ sản xuất TBCN. Tuy nhiên khủng hoảng chỉ giải
quyết mâu thuẫn tạm thời bởi nó chỉ có tác dụng cân bằng sản xuất trong
phạm vi giới hạn của nó, và mặt khác nó cũng chưa đủ mạnh mẽ để giải
quyết tận gốc mâu thuẫn đã ngấm sâu vào máu thịt CNTB Khủng hoảng
chỉ như con song ập đến làm lắng đọng mâu thuẫn tạm thời rồi từ từ đi,
ra xa và lặng lẽ chờ một cơ hội khác lại ập đến.
“Cơn sóng” khủng hoảng mỗi lần rút ra xa lại để lại những hậu

quả to lớn của nó với nền sản xuất TBXH nói riêng và thế giới nói
chung. Hậu quả luôn được nhắc tới đầu tiên có thể tận mắt thấy được và
không thiếu trong bất cứ cuộc khủng hoảng nào, đó là việc phá hoại lực


lượng sản xuất và làm rối loạn lĩnh vực lưu thông. Mỗi khi khủng hoảng
kinh tế đi qua người ta lại đưa ra những con số thống kê về sự tàn phá
kinh hoàng của nó. Khủng hoảng năm 1929 – 1933 là một ví dụ rõ nét
nhất mà mỗi lần nhắc lại người ta còn thấy sợ: 13 vạn công ty phá sản,
sản lượng thép sụt 76%, sản lượng sắt sụt 19.4%, sản lượng ô tô sụt
80%. Trong khi nhân dân lao động đang thiếu thốn nghèo đói, bọn chủ
tư bản đã phá hủy một khối lượng khổng lồ các phương tiện sản xuất và
hàng hóa tiêu dùng. Năm 1931, ở Mĩ người ta đã phá hủy những lò cao
có thể sản xuất ra 1 triệu tấn thép trong 1 năm, đánh đắm 124 tàu biển,
phá bỏ 1/4 diện tích trồng bông, giết và không sử dụng 6,4 triệu con lợn.
Còn ở Braxin năm 1933: 22 triệu bao cà phê bị liệng xuống biển…
Hậu quả thứ 2 của khủng hoảng gây ra là đẩy nhanh quá trình tích
tụ và tập trung TB là điều kiện dẫn tới độc quyền. Khủng hoảng cùng sự
phá sản của các nhà tư bản nhỏ là sự lớn mạnh của các công ty khổng lồ.
Với khả năng tài chính vững vàng và cánh tay quyền lực vượn xa các
nhà TB lớn đã chiếm được nhiều món lợi trong thời kỳ này. Việc phá
sản và sát nhập của các liên doanh, tập đoàn, công ty đã làm cho sự tập
trung tư bản ngày càng cao. Nếu như trước khủng hoảng 29-33 Mĩ chỉ
có 49 xí nghiệp có qui mô từ một vạn người trở lên thì sau khủng hoảng
con số này đã lên tới 343. Cũng ở Mĩ, đầu thế kỉ 20 chỉ có một công ty
có số vốn 1 tỷ USD thì đến đầu 1950 là 2 công ty, năm 1974 có 24 trong
số 49 công ty quốc tế có số vốn 59 tỷ. Lợi nhuận của 500 tổ chức siêu
độc quyền của Mĩ năm 1972 là 27,8 tỷ USD, năm 1973 là 38,7 tỷ USD
còn năm 1974 là năm khủng hoảng thì đã lên tới 43,6 tỷ USD. Tỷ suất



lợi nhuận 12 công ty toán cầu của Mĩ tăng từ 11% năm 1970 sau khủng
hoảng là 41% ( năm 1975).
Tuy nhiên cùng với quá trình tích tụ và tập trung tư bản là việc gia
tăng khoảng cách giàu nghèo ngày càng lớn và mâu thuẫn giữa TB và
người lao động ngày càng tăng. Đó là hậu quả thứ 3 của khủng hoảng.
Một khi mà tư liệu sản xuất tập trung hết vào tay các ông chủ tư bản thì
việc bóc lột và bần cùng hóa công nhân càng diễn ra ráo riết hơn, mạnh
mẽ hơn. Theo số liệu thống kê chưa đầy đủ thì 75% GDP toàn cầu nằm
trong 20% dân số thuộc nhóm giàu còn 20% dân số thuộc nhóm nghèo
chỉ có 1,5% GDP toàn cầu. Hiện nay con số đó có thể hơn. Trong khi có
hàng nghìn người đang chịu cảnh đói rét thì các công chủ tư bản lại có
thể chi cho những khoản ăn chơi tốn kém không có mục đích với chi phí
lên tới hàng triệu USD. Thực tế ở các nước tư bản lớn cho thấy trung
bình một ngày nhà tư bản có thể kiếm được trên dưới 1 triệu USD thì
công nhân nghèo chỉ có thể kiếm được xấp xỉ 2 USD. Khoảng cách
chênh lệch quá lớn ấy dường như không thể xóa và nó tạo điều kiện
mạnh mẽ cho hậu quả cuối cùng của các cuộc khủng hoảng diễn ra
nhanh chóng hơn.
Hậu quả cuối cùng là làm cho mâu thuẫn cơ bản của TBCN ngày
càng gay gắt hơn. Trong khi lực lượng sản xuất ngày càng mang tính xã
hội thì quan hệ sản xuất vẫn không thay đổi, vẫn là quan hệ chiếm hữu
tư liệu sản xuất . Khi khủng hoảng xảy ra đông đảo quần chúng nhân
dân lao động càng điêu đứng, càng có ý thức đấu tranh để thoát nghèo


khổ và đó là tiêu diệt chế độ TB. Còn giai cấp TB và nhà nước tư bản thì
lại bất lực trước những tai họa mà do mình tạo ra. Vì vậy khủng hoảng
làm cho đấu tranh giai cấp diễn ra mạnh mẽ hơn. Mặt khác khủng hoảng
lại đem đến sự tập trung tư liệu sản xuất vào tay tư bản càng cao nên

càng tăng thêm sự đối lập lợi ích. Chủ tư bản có càng nhiều thì quần
chúng càng có ít, càng làm lên chênh lệch to lớn trong xã hội.
4. Tính chu kỳ của khủng hoảng kinh tế trong CNTB:
Kinh tế thị trường tự do cạnh tranh tất yếu sẽ diễn ra
những cuộc khủng hoảng chu kỳ.
Có những cuộc khủng hoảng bộ phận xảy ra do mất cân
đối trong sản xuất của một ngành nào đó, mà một trong những
hình thức là sản xuất thừa tư bản cố định hay sản xuất thừa tư
bản lưu động. Do nền sản xuất tư bản chủ nghĩa chỉ nhằm mục
đích chiếm đoạt thật nhiều lao động thặng dư bằng cách sản xuất
với quy mô lớn mà không tính đến giới hạn của thị trường.
Khi khủng hoảng bao trùm những vật phẩm buôn bán chủ
yếu thì sẽ trở thành một cuộc tổng khủng hoảng, nghĩa là sản
xuất thừa ít nhiều có tính phổ biến trên toàn bộ thị trường. Một
bên hàng hóa không bán được. Bên kia là những nhà tư bản phá
sản và công nhân thất nghiệp chịu cảnh thiếu thốn.
Nhưng thừa hàng hóa chứ không phải thừa sản phẩm.
Thừa hàng hóa có tính chất tương đối, thừa so với nhu cầu có


khả năng thanh toán, chứ không phải thừa tuyệt đối. Xét nhu cầu
tuyệt đối thì nền sản xuất tư bản chủ nghĩa cũng sản xuất không
đủ. Giới hạn sản xuất của chủ nghĩa tư bản là lợi nhuận cho các
nhà tư bản chứ tuyệt nhiên không phải là nhu cầu của những
người sản xuất. Sản xuất thừa sản phẩm và sản xuất thừa hàng
hóa – đó là hai điều hoàn toàn khác nhau.
Khủng hoảng kinh tế trong nền kinh tế thị trường tự do
cạnh tranh dưới chủ nghĩa tư bản mang tính chu kỳ. Mỗi chu kỳ
trải qua một thời kỳ khủng hoảng, đình đốn (hay tiêu điều), hoạt
động trung bình (hay phục hồi), phồn vinh (hay hưng thịnh).

-Khủng hoảng: là giai đoạn khởi điểm của chu kỳ kinh tế
mới. Ở giai đoạn này, hàng hóa ế thừa, ứ đọng, giá cả giảm
mạnh, sản xuất đình trệ, xí nghiệp đóng cửa, công nhân thất
nghiệp hàng loạt, tiền công hạ xuống. Tư bản mất khả năng
thanh toán các khoản nợ, phá sản, lực lượng sản xuất bị phá hoại
nghiêm trọng. Đây là giai đoạn mà các mâu thuẫn biểu hiện
thành xung đột dữ dội.
-Tiêu điều: đặc điểm của giai đoạn này là sản xuất ở trạng
thái trì trệ, không còn tiếp tục đi xuống nhưng cũng không tăng
lên, thương nghiệp vẫn đình đốn, hàng hóa được đêm bán hạ
giá, tư bản để rỗi nhiều vì không có nơi đầu tư. Trong giai đoạn
ày để thoát khỏi tình trạng bế tắc, các nhà tư bản còn trụ lại
được tìm cách giảm chi phí bằng cách hạ thấp tiền công, tăng
cường độ và thời gian lao động của công nhân, đổi mới tư bản


cố định làm cho sản xuất vẫn còn có lời trong tình hình hạ giá.
Việc đổi mới tư bản cố định làm tăng nhu cầu về tư liệu sản xuất
và tư liệu tiêu dùng, tạo điều kiện cho sự phục hồi chung của
nền kinh tế.
-Phục hồi: là giai đoạn mà các xí nghiệp được khôi phục
và mở rộng sản xuất. Công nhân lại được thu hút vào làm việc;
mức sản xuất đạt đến quy mô cũ, vật giá tăng lên, lợi nhuận của
tư bản do đó cũng tăng lên.
-Hưng thịnh: là giai đoạn sản xuất phát triển vượt quá
điểm cao nhất của chu kỳ trước đạt được. Nhu cầu và khả năng
tiêu thụ hàng hóa tăng, xí nghiệp được mở rộng và xây dựng
thêm. Nhu cầu tín dụng tăng, ngân hàng tung tiền cho vay, năng
lực sản xuất lại vượt quá sức mua của xã hội. Do đó, lại tạo điều
kiện cho một cuộc khủng hoảng kinh tế mới

Từ cuộc khủng hoảng năm 1825, sau khi nền đại công
nghiệp vừa mới thoát khỏi thời kỳ ấu trĩ thì sự tuần hoàn có tính
chất chu kỳ mới bắt đầu. Tính trung bình thuở ban đầu là mười
năm, vì thời gian sử dụng tư bản cố định cũng vào khoảng mười
năm. Tư bản cố định là cơ sở vật chất cho những cuộc khủng
hoảng chu kỳ, vì khủng hoảng bao giờ cũng cấu thành khối điểm
cho những khoản đầu tư mới và lớn của tư bản. Do đó, đứng về
toàn thể xã hội mà xét thì khủng hoảng ít nhiều đều tạo một cơ
sở vật chất mới cho chu kỳ chu chuyển sau đó. Tiến bộ khoa
học, công nghệ lại làm cho cuộc đời của tư bản cố định bị rút


ngắn do những biến thiên không ngừng trong các tư liệu sản
xuất. Phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa càng phát triển thì
những biến thiên này càng xảy ra thường xuyên hơn. Gắn với
tình hình này là sự thay thế tư bản cố định sớm hơn do hao mòn
vô hình, trước khi những tư liệu sản xuất ấy sống trọn đời sống
thể chất của chúng. Do đó chu kỳ khủng hoảng được rút ngắn
lại.
II) Các biện pháp khắc phục khủng hoảng kinh tế
Trình độ phát triển nhất định của lực lượng sản xuất quyết
định tính chất của quan hệ sản xuất. Quan hệ sản xuất tác động
ngược lại lực lượng sản xuất, khi nó phù hợp với tính chất của
lực lượng sản xuất thì nó giúp cho lực lượng sản xuất phát triển
mạnh mẽ, khi nó không phù hợp thì nó biến thành trở ngại của
lực lượng sản xuất. Trong quá trình sản xuất con người không
ngừng thu thêm kinh nghiệm sản xuất, không ngừng cải tiến
công cụ, cải tiến kĩ thuật. Lực lượng sản xuất phát triển đến một
trình độ nào đó vượt ra ngoài khuôn khổ của quan hệ sản xuất
cho nên quan hệ sản xuất phải phù hợp với tính chất của lực

lượng sản xuất.
Quan hệ cung cầu là quan hệ giữa người bán và người
mua, những người sản xuất và những người tiêu dùng là những
quan hệ có vai trò quan trọng trọng kinh tế hàng hóa.Không phải
chỉ ở giá cả ảnh hưởng tới cung cầu, mà ảnh hưởng tới việc xác
định giá cả trên thị trường.Khi cung lớn hơn cầu người bán phải
giảm giá cả, giá cả có thể thấp hơn giá trị.


Giữa cung và cầu về hàng hóa phải có sự thích ứng cần
thiết khách quan về hình thái hiện vật và hình thái giá trị. Do
vậy quan hệ cung cầu điều tiết được sự chênh lệch giữa giá cả
thị trường và giá trị thị trường. Sự lên xuống của giá cả thị
trường lại điều tiết quan hệ cung cầu, làm cho nền sản xuất có
được những tỉ lệ tương đối.Trước khi đạt tới sự tương đối thì xã
hội lãng phí rất nhiều sức lực và của cải.Vì vậy xã hội đòi hỏi
phải có sự kiểm tra, điều tiết, định hướng, một cách có ý thức
với sự vận động của cơ chế thị trường.
Các nhà tư bản ra sức tìm lối thoát bằng cách giảm bớt chi
phí sản xuất dù có bán hàng hóa với giá thấp vẫn thu được lợi
nhuận. Họ ra sức tăng cường bóc lột công nhân lợi dụng tình
hình thất nghiệp để hạ thấp tiền lương, kéo dài ngày lao động
nâng cao cường độ lao động. Biện pháp quan trọng là áp dụng
kỹ thuật để cải tiến bằng cách đổi mới hàng loạt máy móc thiết
bị.
Ngoài các
II. Liên hệ với Việt Nam hiện nay
Việt Nam là một nước định hướng XHCN, may mắn
không xảy ra cuộc khủng hoảng kinh tế chu kì như các nước
phát triển trên thế giới. Nhưng do nước ta đi lên yuwf một nền

kinh tế còn mang năng tính tự cấp tự túc, công nghiệp nhỏ bé và
lạc hậu, các ngành dịc vụ chưa phát triển. Trước tình hình đó
Đảng và Nhà nước ta đã phát huy vốn đầu tư nước ngoài, công
nghiệp hóa – hiện đại hóa, khuyến khích phát triển doanh nghiệp


vừa và nhỏ, khuyến khích các nhà đầu tư nước ngoài vào Việt
Nam, xây dựng cơ sở vật chất – kỹ thuật. Khi thay đổi cũng đạt
một số thành tựu như: Việt Nam từ nước nhập khẩu gạo trở
thành nước xuất khẩu sạo thứ 2 thế giới, cơ sở hạ tầng dần được
phát triển đóng góp lớn vào phát triển kinh tế.
Bên cạnh đó còn có rất nhiều thách thức đối với Viêt
Nam. Việt Nam là một nước định hướng XHCN nên luôn luôn
quan tâm đến vấn đề bình đẳng trong xã hội, tuy nhiên cùng với
sự phát triển kinh tế thì khoảng cách giàu nghèo ngày càng gia
tăng, đây chính là 1 nguy cơ tiềm ẩn của khủng hoảng kinh tế.
Ngoài ra do hệ thống pháp luật chưa được hoàn thiện nên công
tác quản lý giám sát nền kinh tế còn có nhiều hạn chế.
Bằng việc phát huy những thuận lợi và giải quyết mạnh
mẽ những khó khăn, khuyết điểm còn tồn tại Việt Nam sẽ khắc
phục được ảnh hưởng của nhưng cuộc khủng hoảng kinh tế đã,
đang và sẽ xảy ra.




×