Tải bản đầy đủ (.doc) (15 trang)

Lý luận của chủ nghĩa mác lê nin về khủng hoảng kinh tế và sự vận dụng ở việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (117.82 KB, 15 trang )

Trường Đại học Kinh tế quốc dân
Môn : Những nguyên lí cơ bản của chủ nghĩa Mác-Lênin (học phần
2).
Sinh viên: Trần Đức Hải Mã sinh viên: 11131111
Lớp: Những nguyên lí cơ bản của chủ nghĩa Mác-Lê nin 2 - 41
Đề tài: Lý luận của chủ nghĩa Mác-Lê nin về “Khủng hoảng kinh tế”
và sự vận dụng ở Việt Nam (liên hệ thực tế ở Việt Nam).
BÀI LÀM
Lời nói đầu
Năm 2008, thế giới vừa trải qua một cuộc khủng hoảng kinh tế
chưa từng có trong lịch sử và hậu quả của nó vẫn còn kéo dài cho
đến tận ngày nay.Cuộc khủng hoảng bắt đầu từ Mỹ và không lâu
sau lan rộng ra khắp thế giới.Không ai có thể tưởng tượng được
nền kinh tế số 1 thế giới lại suy sụp nhanh đến vậy và những hậu
quả to lớn mà nó ảnh hưởng đến thế giới trong đó có Việt Nam.
Chính việc này đã cho em nguồn cảm hứng để chọn đề tài “khủng
hoảng kinh tế”.
Bài viết được chia thành 4 phần chính : khủng hoảng kinh tế là gì,
nguyên nhân, hậu quả, tính chu kì của khủng hoảng kinh tế,đặc
điểm của chu kì kinh tế sau chiến tranh thế giới thứ hai, liên hệ thực
tiễn ở Việt Nam.
Bài viết dựa trên cơ sở kiến thức còn eo hẹp và chủ nghĩa Mác-Lê
nin của em kết hợp với tài liệu tham khảo bên ngoài nên còn nhiều
sai sót.Rất mong nhận được sự góp ý của thầy cô để bài viết thêm
hoàn thiện.Em xin chân thành cảm ơn.
I.Khủng hoảng kinh tế là gì:
Khủng hoảng kinh tế là biểu hiện của sự mất cân đối trong phát
triển kinh tế cụ thể giữa các khu vực, các ngành, các khâu,cung-cầu,
sản xuất- tiêu dùng, hàng- tiền trong một thời gian dài mà không



điều chỉnh đượcgây ra các tác động tiêu cực đến kinh tế- xã hội
trong phạm vi rộng hoặc hẹp.Khi khủng hoảng nổ ra hàng hóa
không tiêu thụ được, sản xuất bị thu hẹp, nhiều doanh nghiệp bị vỡ
nợ, phá sản, người dân thất nghiệp, sức mua giảm, thị trường rối
loạn.
Khủng hoảng vào năm 1825 được coi là thảm họa tài chính toàn
thế giới đầu tiên. Sau khi cuộc diễu hành giành độc lập đã lan đến
Mỹ Latin, châu Âu đã nhập thêm vốn-tư bản cho lục địa đó, dẫn đến
xuất khẩu và các món nợ quốc gia của những nước cộng hòa mới
này tăng lên. Số vàng và bạc kiếm được ở Mỹ đã chuyển về cho nước
Anh. Sự đầu cơ đông đảo vào các kim loại qúy hiếm đã làm cạn kiệt
các ngân hàng nước Anh và dẫn đến phá sản thị trường vốn. Khủng
hoảng đã lan ra phần lớn lãnh thổ Tây Âu và Mỹ Latin.
Khủng hoảng trong thị trường chứng khoán năm 1836-1837 đã
bao phủ những quốc gia Anh, Đức và Hà Lan, gắn bó với những vốn
đầu tư vô căn cứ được góp vào sự phát triển của những đường xe
lửa. Và kết qủa là toàn bộ hệ thống ngân hàng những nước đó bị
tổn thương nghiêm trọng.
Vào năm 1857 một trong những khủng hoảng có quy mô lớn nhất
thế kỷ 19 bùng nổ. Những công ty đường xe lửa bị phá sản hoàn
toàn dẫn đến sự sụp đổ của hệ thống ngân hàng quốc gia nhiều
nước, rồi đến sự sập đổ của hệ thống ngân hàng toàn châu Âu.
Lý do khủng hoảng tiền tệ năm 1861 ở Mỹ là cuộc nội chiến giữa
miền Nam và miền Bắc. Nhà nước đã không thể thanh toán được
văn tự nợ sau khi vay ngân hàng. Khủng hoảng đã xuất hiện và kéo
dài đến cuối cuộc chiến tranh.
Vào năm 1914 khủng hoảng tài chính tiếp theo bùng lên. Nhà nước
Mỹ và phần lớn những nước châu Âu đã bán tống bán tháo ngân
phiếu nhiều quốc gia khác để cung cấp cho những hoạt động quân
sự của nước mình.

Thời kỳ giữa hai cuộc chiến tranh thế giới hoàn toàn là khủng
hoảng kinh tế. Thời kỳ Đình Trệ năm 1920-1922 và giai đoạn Đình
Đốn Vĩ Đại năm 1929-1933 đã tác động đến đời sống mọi giới con


người. Mùng 4 tháng 10 năm 1929 (“Thứ năm đen”), ở thị trường
chứng khoán Niu-Yoóc, giá chứng khoán giảm đi 60-70%.
Cùng lúc đó, nền kinh tế đang phát triển nhanh chóng của Mỹ đã
sụp đổ nhanh chóng. Đến cuối tháng, những người giữ cổ phiếu bị
mất hơn 15 tỷ đô-la, còn đến cuối năm giá chứng khoán sụt xuống
40 tỷ đô-la – số tiền khổng lồ vào thời điểm đó. Ngay tiếp sau đó,
khủng hoảng bùng lên cả ở châu Âu. Vào năm 1933, ở những nước
phát triển có tới hơn 30 triệu người chính thức không có việc làm.
Khủng hoảng năm 1957-1958 lan tràn ra Mỹ, Canada và những
nước Tây Âu. Sản xuất công nghiệp thế giới giảm đi 4%. Kinh tế Mỹ
vào năm 1973-1974 bị thu hẹp lại và giống như trong thời kỳ Đình
Đốn Vĩ Đại. Khủng hoảng bao trùm toàn bộ châu Âu. Ở Anh giá
chứng khoán giảm đi 56%. Tình hình còn trầm trọng thêm vì khủng
hoảng dầu mỏ kèm theo, giá một thùng dầu tăng từ 3 lên thành 12
đô-la.
Ngày 19 tháng 10 năm 1987 được ghi nhớ ở lịch sử Mỹ là “Thứ hai
đen tối”. Trong vòng một ngày, chỉ số quỹ Dow Jones Industrial sụt đi
22,6%. Tiếp theo thị trường Canada và Úc bị sụt giảm, còn sở giao
dịch Hồng Kông nghỉ việc trong vòng một tuần.
Vào năm 1994-1995, khủng hoảng nổ ra ở Mêhicô, hai năm sau thị
trường quỹ của châu Á sụp đổ. Các chuyên gia kết luận rằng khủng
hoảng ở châu Á làm GDP thế giới giảm 2 ngàn tỷ đô-la. Một năm
sau Nga đã phải tuyên bố lạm phát và chấp nhận buông xuôi, vì
món nợ nhà nước quá lớn. Thị giá đồng Rúp sụt giảm, còn những
người đầu tư quay lưng lại với kinh tế Nga.

Khủng hoảng năm 2008 là khủng hoảng đầu tiên đối với chúng ta,
nó tác động đến nhiều mặt sản xuất trong nền kinh tế của Việt Nam
như bất động sản, ngân hàng, lạm phát, ....
Từ những điểm mốc trong lịch sử người ta tính ra được khủng
hoảng kinh tế trong chủ nghĩa tư bản mang tính chu kì, cứ khoảng
từ 8 đến 12 năm, nền kinh tế tư bản chủ nghĩa lại phải qua một
cuộc khủng hoảng.


II.Nguyên nhân của khủng hoảng kinh tế trong chủ nghĩa tư
bản:
Nguyên nhân chủ yếu của khủng hoảng kinh tế bắt đầu từ chính các
mâu thuẫn của tư bản chủ nghĩa với chức năng lưu thông của tiền
tệ là mầm mống thúc đẩy.
Có 3 mâu thuẫn cơ bản quan hệ biện chứng với nhau từ đó làm xuất
hiện khủng hoảng kinh tế trong chủ nghĩa tư bản:
Mâu thuẫn giữa tính tổ chức, tính kế hoạch trong từng xí nghiệp
rất chặt chẽ và khoa học với khuynh hướng tự phát vô chính phủ
trong toàn xã hội: thời kì đầu con người chỉ sản xuất ra một lượng
hàng hóa đủ để thỏa mãn cho nhu cầu của bản thân, sản xuất để
trao đổi chưa phát triển, vì vậy mà trao đổi hạn chế, thị trường hạn
chế, phương thức sản xuất ổn định, sự đóng cửa có tính chất địa
phương đối với thế giới bên ngoài, sự thống nhất có tính chất địa
phương ở trong nước, phường hội ở thành thị.Nhưng cùng với sự
mở rộng của sản xuất hàng hóa và nhất là cùng với sự xuất hiện
của phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa thì những quy luật
trước đó bị phá hủy.Tình trạng vô chính phủ trong sản xuất xã hội
bộc lộ ra bên ngoài và ngày càng bị đẩy đến chỗ cùng cực. Nhưng
công cụ chủ yếu nhất mà phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa
dùng để làm tăng thêm tình trạng vô chính phủ ấy trong sản xuất

xã hội, chính là cái đối lập trực tiếp với tình trạng vô chính phủ; đó
là sự tổ chức ngày càng chặt chẽkhoa học ở trong từng xí nghiệp
sản xuất cá biệt. Chính là nhờ cái đòn bẩy ấy mà phương thức sản
xuất tư bản chủ nghĩa đã chấm dứt tình trạng ổn định hòa bình
trước kia.Đấu tranh không phải chỉ nổ ra giữa những người sản
xuất cá thể trong từng địa phương; những cuộc đấu tranh địa
phương đến lượt chúng, lại phát triển thành những cuộc đấu tranh
giữa các nước, thành những cuộc chiến tranh thương nghiệp trong
thê kỷ XVII và XVIII. Cuối cùng đại công nghiệp và sự tạo ra thi
trường thế giới đã làm cho cuộc đấu tranh lan rộng khắp nơi và
đồng thời đem lại cho nó một tính chất kịch liệt chưa từng thấy.
Giữa những nhà tư bản cá biệt cũng như giữa cả những ngành sản
xuất và giữa cà các nước, sự thuận lợi của những điêu kiện tự nhiên
hoặc nhân tạo của sản xuất quyết đinh sự sống còn của họ. Kẻ thất


bại bị loại trừ thẳng tay.Chính điều đó đã buộc các nhà tư bản cải
tiến máy móc, công nghệ sản xuất, phương thức tổ chức, quản lí để
truy cầu giá trị thặng dư và tồn tại. Việc này vô hình chung đã góp
phần thúc đẩy thêm mâu thuẫn thứ hai.
Mâu thuẫn giữa khuynh hướng tích lũy, mở rộng không có giới hạn
của tư bản với sức mua ngày càng eo hẹp của quần chúng do bị bần
cùng hóa : Các nhà tư bản luôn theo đuổi giá trị thặng dư không có
giới hạn, đó là quy luật tuyệt đối trong chủ nghĩa tư bản và để làm
được điều đó nhà tư bản có khuynh hướng tích lũy, mở rộng, cải
tiến máy móc, công nghệ. Máy móc được cải tiến đồng nghĩa với
việc sẽ rút ngắn được thời gian sản xuất, tăng sản lượng,.... nhưng
về bản chất vẫn là tăng sức bóc lột người công nhân. Lao động thủ
công của nhiều người sẽ bị thay thế bằng một vài người sử dụng
máy móc. Hậu quả là có một bộ phận không nhỏ người công nhân

bị thất nghiệp. Như vậy vô hình chung máy móc đã trở thành công
cụ của giai cấp tư bản để chống lại người lao động, nó trở thành
phương tiện chắc chắn nhất để biến toàn bộ cuộc đời của người
công nhân và của gia đình họ thành thời gian lao động tiềm tàng để
làm tăng thêm giá trị của tư bản. Tuy nhiên giá trị thặng dư mà các
nhà tư bản kiếm được từ việc nâng cao công nghệ sản xuất vẫn chỉ
là lý thuyết nếu như hàng hóa của họ không tiêu thụ được, quy
trình tiền- hàng-tiền’ bị gián đoạn, giá trị thặng dư chỉ là một thứ
hão huyền nhìn thấy được mà không thể sở hữu, có được nó. Vậy tại
sao hàng hóa của họ lại không bán được? Nguyên nhân là do song
song với việc nhà tư bản thu được nhiều giá trị thặng dư hơn đồng
nghĩa với việc quần chúng nhân dân lao động ngày càng bị bần
cùng hóa. Chúng ta có thể coi như đó là hai đầu của một chiếc bập
bênh, phía nhà tư bản càng ở trên cao bao nhiêu thì phía của nhân
dân lao động càng xuống thấp bấy nhiêu. Người giàu càng giàu, còn
người nghèo càng nghèo. Mọi việc sau đó diễn ra theo đúng quy
luật, cung lớn hơn cầu, hàng hóa ế ẩm, dư thừa. Tình trạng thừa
hàng hóa không phải là so với nhu cầu của xã hội mà là “thừa” so
với sức mua của người dân. Và trông chờ ở phương thức sản xuất
tư bản chủ nghĩa một sự phân phối sản phẩm khác thì cũng chẳng
khác gì dòi hỏi những điện cực của một bộ ắc-quy trong khi chúng
vẫn tiếp xúc với nước, sẽ không phân giải nước nữa và không tạo ra


ô-xy ở cực dương và hy-drô ở cực âm nữa. Trong lúc khủng hoảng
diễn ra, hàng hóa đang bị phá hủy thì hàng triệu người lao động
lâm vào tình trạng đói khổ do không có khả năng thanh toán. Việc
này đã thúc đẩy mâu thuẫn thứ 3.
Mâu thuẫn đối kháng giữa giai cấp tư bản và giai cấp lao động làm
thuê: Cùng với việc giai cấp vô sản trên thế giới ngày càng lớn

mạnh, người lao động ngày càng được khai sáng các cuộc bãi công
đòi tăng lương, giảm giờ làm ngày càng nhiều. Tuy nhiên nhà tư
bản luôn luôn đặt lợi ích của mình lên hàng đầu cho nên mâu thuẫn
khó được giải quyết và ngày càng trở nên gay gắt. Người lao động
và nhà tư bản khó có thể tìm được tiếng nói chung. Và mâu thuẫn
khi lên đến đỉnh điểm sẽ tạo ra những sự xáo trộn cả về kinh tế, xã
hội, chính trị.
Có thể thấy 3 mâu thuẫn trên liên hệ với nhau một cách có quy luật,
chúng cùng thúc đẩy nhau tạo nên khủng hoảng kinh tế trong chủ
nghĩa tư bản.
III.Hậu quả của khủng hoảng kinh tế:
Lực lượng sản xuất bị phá hoại và làm rối loạn lĩnh vực lưu thông:
mỗi lần xảy ra khủng hoảng, hàng loạt xí nghiệp đóng cửa, quy mô
sản xuất bị thu hẹp lại, giá cả thị trường giảm sút mạnh, khối lượng
mậu dịch trong và ngoài nước bị thu hẹp lại, nhiều ngân hàng phải
đóng cửa, giá cổ phiếu hạ thấp.
Đẩy nhanh quá trình tích tụ và tập trung tư bản từ đó dẫn tới độc
quyền: khủng hoảng vừa là nguy cơ nhưng cũng là cơ hội cho
những nhà tư bản có tiềm lực mạnh, chiến lược tốt, tầm nhìn bao
quát. Khối lượng của cải trong xã hội đạt đến số lượng nhiều,
những nhà tư bản yếu kém sẽ bị thôn tính, kẻ mạnh sẽ sống sót và
càng mạnh hơn. Từ đó dẫn tới sự hình thành các nhà tư bản độc
quyền hoặc các tổ chức kinh tế độc quyền.
Khoảng cách giàu nghèo ngày càng lớn, mâu thuẫn giữa tư bản và
lao động ngày càng tăng.
Mâu thuẫn cơ bản của chủ nghĩa tư bản ngày càng gay gắt.


IV.Tính chu kì trong khủng hoảng kinh tế:
Chu kì kinh tế của chủ nghĩa tư bản là khoảng thời gian là khoảng

thời gian nền kinh tế tư bản chủ nghĩa vận động từ đầu cuộc khủng
hoảng này đến đầu khủng hoảng sau. Chu kì kinh tế gồm 4 giai
đoạn: khủng hoảng, tiêu điều, phục hồi và hưng thịnh.
-

Khủng hoảng: là giai đoạn khởi điểm của chu kì kinh tế mới. Ở
giai đoạn này hàng hóa ế thừa, dự trữ hàng hóa trong kho của
các xí nghiệp tăng lên, giá cả giảm mạnh, sản xuất đình trệ, xí
nghiệp đóng cửa, công nhân thất nghiệp hàng loạt, tiền công
hạ xuống. Cuộc cạnh tranh để tiêu thụ hàng hóa trở nên gay
gắt, sản xuất bị thu hẹp. Tư bản mất khả năng thanh toán các
khoản nợ, tâm lí hoảng loạn,việc rút tiền khỏi ngân hàng, bán
cổ phiếu, trái phiếu làm giá thị trường giảm mạnh.Khủng
hoảng đã phá hủy nghiêm trọng lực lượng sản xuất, người lao
động thất nghiệp, đời sống hết sức khó khăn. Và đây lại là cơ
hội thuận lợi để cho nhà tư bản tăng cường bóc lột công nhân.
Để sinh tồn, người lao động phải chấp nhận làm việc với tiền
lương thấp và cường độ lao động cao. Đây là giai đoạn mà các
mâu thuẫn biểu hiện dưới hình thức xung đột dữ dội.

-

Tiêu điều: là giai đoạn tiếp sau khủng hoảng. Đặc điểm của
giai đoạn này là sản xuất ở trạng thái trì trệ, không tiếp tục
giảm sút nhưng cũng không tăng lên, thương nghiệp vẫn đình
đốn, hàng hóa được đem bán phá giá, tư bản để rỗi nhiều vì
không có chỗ đầu tư. Để thoát khỏi tình trạng bế tắc các nhà tư
bản còn trụ lại được tìm mọi cách để giảm chi phí sản xuất
bằng việc tăng cường bóc lột công nhân ( hạ tiền lương, tăng
cường độ lao động,...) và đổi mới tư bản cố định, cải tiến sản

xuất.Việc đổi mới tư bản cố định làm tăng nhu cầu về tư liệu
sản xuất và tư liệu tiêu dùng, tạo điều kiện cho sự phục hồi
chung của nền kinh tế.

-

Phục hồi: là giai đoạn nối tiếp sau giai đoạn tiêu điều. Đây là
giai đoạn mà các xí nghiệp được khôi phục và mở rộng sản
xuất nhờ đổi mới tư bản cố định. Sản xuất được mở rộng và
đạt mức trước khủng hoảng. Công nhân lại được tuyển vào


làm việc, giá cả hàng hóa tăng lên, lợi nhuận tư bản cũng tăng
lên, nền kinh tế bước sang giai đoạn mới, giai đoạn hưng thịnh.
-

Hưng thịnh: là giai đoạn phát triển cao nhất của chu kì kinh tế,
sản xuất phát triển vượt quá điểm cao nhất mà chu kì trước đã
đạt được. Nhu cầu và khả năng tiêu thụ hàng hóa tăng, xí
nghiệp được mở rộng và xây dựng thêm. Nhu cầu tín dụng
tăng, ngân hàng tung tiền cho vay, năng lực sản xuất lại vượt
quá mức của xã hội. Do đó lại tạo điều kiện cho một cuộc
khủng hoảng kinh tế mới.

V. Đặc điểm của chu kì khủng hoảng từ sau chiến tranh thế
giới thứ hai đến nay:
Khủng hoảng kinh tế không gay gắt như trước: Khủng hoảng kinh
tế 1929- 1933 làm cho sản xuất công nghiệp ở các nước tư bản phát
triển trong thời gian này bị thụt lùi hàng chục năm. Nhưng từ sau
chiến tranh thế giới thứ hai khủng hoảng kinh tế chỉ làm sản xuất

công nghiệp giảm tương đối nhẹ.
Vật giá leo thang trong khủng hoảng: thông thường khi khủng
hoảng xảy ra hàng hóa dư thừa, ế ẩm, giá cả tụt mạnh nhưng sau
chiến tranh vật giá chỉ giảm nhẹ và đặc biệt đến thập kỉ 60, 70 của
thế kỉ XX thì vật giá lại tăng mạnh, tốc độ tăng giá lên tới mức hai
con số ở nhiều nước. Đây là hiện tượng chưa hề có trong lịch sử
phát triển của chủ nghĩa tư bản trước chiến tranh.
Sự xuất hiện của các cuộc khủng hoảng trung gian, khủng hoảng cơ
cấu:
-

-

Khủng hoảng trung gian là cuộc khủng hoảng nhẹ xảy ra giữa
hai cuộc khủng hoảng lớn. Ví dụ ở Mỹ trong khoảng thời gian
từ cuộc khủng hoảng 1948- 1949 đến cuộc khủng hoảng 19571958 có một cuộc khủng hoảng trung gian là khủng hoảng
1953-1954.
Khủng hoảng cơ cấu là khủng hoảng xảy trong từng ngành,
từng lĩnh vực riêng biệt như:khủng hoảng năng lượng, nhiên
liệu, khủng hoảng dầu mỏ, khủng hoảng tiền tệ.Khủng hoảng
cơ cấu xảy ra là do tác động của khoa học công nghệ mở ra


ngành sản xuất mới đồng thời làm suy yếu những ngành nghề
truyền thống; các nước tư bản mất nguồn cung cấp nguyên
liệu khi mà các nước thuộc địa giành được độc lập; sự tăng
cường điều tiết của nhà nước tư bản độc quyền đối với các quá
trình kinh tế; dấu hiệu để nhận biết tiêu điều và phồn thịnh
không rõ ràng.
VI. Liên hệ thực tiễn đến Việt Nam:

Việt Nam là một nước định hướng xã hội chủ nghĩa, may mắn
không xảy ra cuộc khủng hoảng kinh tế chu kì như các nước phát
triển trên thế giới. Tuy nhiên nước ta đi lên từ một nền kinh tế nông
nghiệp lạc hậu , bị tàn phá nặng nề sau chiến tranh. Nền kinh tế còn
mang tính tự cung tự cấp. Trước tình hình đó Đảng và nhà nước đã
có chiến lược khuyến khích vốn đầu tư nước ngoài, phát triển các
doanh nghiệp vừa và nhỏ, tăng cường xuất khẩu. Và thực tế đã
chứng minh cách làm đó là đúng đắn khi Việt Nam đã có những
bước chuyển mình mạnh mẽ. Việt Nam từ nước nhập khẩu gạo đã
trở thành nước xuất khẩu gạo thứ hai trên thế giới, cả nước có gần
5300 công trình thủy lợi. Trong công nghiệp cả nước có 2821 xí
nghiệp trung ương, địa phương, 590246 cơ sở sản xuất ngoài quốc
doanh. Tuy nhiên do nhận được nhiều sự đầu tư của nước ngoài
nên khi khủng hoảng kinh tế nổ ra thì rõ ràng Việt Nam sẽ phải chịu
ảnh hưởng trực tiếp hoặc gián tiếp đến nền kinh tế. Những tháng
cuối năm 2008 dịch bệnh xuất phát từ một đất nước kinh tế hùng
mạnh như Mỹ, dịch lan nhanh, rất nguy hiểm, cứ thế là tràn ra khắp
thế giới. Tác động bởi sự suy thoái toàn cầu, đã đảo lộn và ảnh
hưởng đến các nước, rõ nhất vẫn là hệ thống tài chính, ngân hàng
của mỗi nước. Tại Việt nam, phần lớn hoạt động sản xuất phục vụ
cho lĩnh vực xuất khẩu gặp rất nhiều khó khăn. Trong đó các thị
trường lớn như : Mỹ, EU, Nhật là những thị trường truyền thống
nhập khẩu hàng sản xuất từ Việt nam đang bị khủng hoảng, do
mức sinh hoạt của người dân bị đảo lộn, đòi hỏi mọi người phải cắt
giảm chi tiêu, thắt lưng buột bụng, mức độ mua hàng giảm, nhu cầu
thanh toán yếu …Việt nam là một trong những nước ảnh hưởng
nặng trong hoạt động xuất khẩu hàng hóa.


STT

1
2
3
4
5
6
7
8
9
10
11
12

TIỀN(Triệu
USD)
Dầu thô
10450
Dệt May
9108
Da giầy
4697
Hải sản
4562
Lúa gạo
2902
Đồ gỗ
2779
Điện tử ,máy tính 2703
Cà phê
2022

Cao su
1597
Than đá
1444
Dây & cáp điện 1014
Khác
19622
MẶT HÀNG

Điều đó ảnh hưởng đến
tốc độ tăng trưởng kinh
tế của Việt nam bị sụt
giảm, từ mức 8,48%
năm 2007 xuống còn
6,23% năm 2008 và chỉ
còn 5,32% năm 2009.

Từ tác động của khủng
hoảng toàn cầu ảnh
hưởng đến các thị trường Mỹ, EU, Nhật…chính sự khó khăn của thị
trường, ảnh hưởng đến sản phẩm của Việt nam, có thời điểm nông
sản xuất khẩu giảm mạnh so với thời điểm giá cao nhất trong năm :
Gạo đã giảm 58%, Cao su giảm 48%, Cà phê giảm 24%... cả những
tháng đầu năm 2009 so với 2008 Tổng kim ngạch xuất khẩu Nông,
Lâm ,Thủy sản… Việt nam giảm 15%. Sự tác động khủng hoảng Thế
giới làm cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ của Việt nam gặp rất
nhiều khó khăn một phần bị từ chối hợp đồng, sản phẩm tiêu thụ
chậm, hàng tồn kho ngày càng nhiều. Phần thì chịu ảnh hưởng của
chính sách thắt chặt tiền tệ, hạn chế tăng trưởng tín dụng ngân
hàng làm lãi suất cho vay cao vượt xa khả năng kinh doanh của

doanh nghiệp.Tuy rằng ngân hàng nhà nước đã đưa mức lãi trần
nhưng đều không đạt kết quả do các ngân hàng thương mại không
thực hiện triệt để. Nợ xấu ngân hàng ngày càng có xu hướng gia
tăng. Từ những lý do trên các doanh nghiệp khó, lại càng khó hơn
và số doanh nghiệp đã tự giác đóng cửa, tuyên bố phá sản tăng
21,8% so với năm 2010 và công nhân là những nạn nhân gánh hậu
quả, thực tế là thất nghiệp ngày càng nhiều hơn. Doanh số bán lẻ và
tiêu dùng dịch vụ năm 2011 chỉ tăng 4% mức tăng thấp nhất từ
trước đến nay,


Bên cạnh đó, công tác nhập khẩu hàng hóa của các doanh nghiệp
Việt Nam cũng không tốt hơn các doanh nghiệp xuất khẩu. Người
lao động thu nhập thấp hơn chi dùng, để giảm khó khăn cho sinh
hoạt gia đình người dân phải cắt, giảm chi tiêu, thất nghiệp trong
xã hội gia tăng, …làm cho những doanh nghiệp nhập khẩu Việt Nam
ngần ngại trước cuộc sống mà mức thu nhập của người dân thấp
hơn so với mức tiêu dùng hàng hóa, vậy giới hạn nhập khẩu hàng
tiêu dùng của các doanh nghiệp nằm trong một số mặt hàng cần
thiết mà các nhà nhập khẩu Việt Nam xác định giới hạn an toàn
không bị lỗ, nhưng nhập mức độ cầm chừng hoặc co cụm, hạn chế
phát triển và mở rộng.
Từ xuất khẩu cho đến nhập khẩu hàng hóa của Việt Nam đều giảm,
gây khó khăn cho các doanh nghiệp làm dịch vụ, sản xuất các phụ
liệu đi kèm, hỗ trợ cho xuất khẩu cũng bị ảnh hưởng như: bao bì,
đóng gói, vận chuyển… đều giảm, lượng hàng tồn kho tăng...
Trước tình hình đó, nhà nước và các doanh nghiệp cần có sự phối
hợp chặt chẽ để cùng giúp cho nền kinh tế phục hồi trở lại.
Lường trước sự khó khăn, hợp tác liên kết kinh doanh và tận dụng
cơ hội khai thác thị trường mới: trong thời kỳ khủng hoảng toàn

cầu các doanh nghiệp đều cố gắng thắt lưng, buộc bụng, tiết kiệm,
kết hợp với nhau vượt qua thời điểm khó khăn này, các doanh
nghiệp thành lập câu lạc bộ, cùng có tiếng nói chung với đối tác
quốc tế, tránh tranh mua, dành bán trong nước làm thiệt hại cho
các doanh nghiệp, phải có kế hoạch, phải có chiến lược và hướng đi,
cùng hợp tác, liên kết tạo thành sức mạnh trong lợi thế so sánh.
Tăng cường vai trò của các hiệp hội ngành nghề trong việc đa dạng
hóa các hình thức liên kết. Thiết lập các quỹ hỗ trợ tài chính, quỹ
nghiên cứu khoa học nhằm thực hiện các dự án nghiên cứu chung
của các doanh nghiệp, tăng cường hợp tác thay vì cạnh tranh chia
sẻ thị trường. Trong khủng hoảng kinh tế toàn cầu vẫn có những cơ
hội đến với chúng ta nếu chúng ta biết đón bắt nó lúc nào, và như
thế nào, ngay trong lúc này các doanh nghiệp phải cùng nhau khai
thác thế mạnh của mình trên các thị trường Mỹ, EU, Nhật,( trong
cái rủi có cái may, cũng có những doanh nghiệp nước khác bị khủng
hoảng, không có khả năng bước vào thị trường này nên nó cũng là


cơ hội cho doanh nghiệp Việt Nam), ngay lúc này các doanh nghiệp
nhanh chân mở rộng, tìm kiếm thị trường mới như : Trung đông, Ai
cập… Các mặt hàng chủ lực của chúng ta như gạo, chè, thủy sản,
rau quả, may mặc…đang xâm nhập vào thị trường này nhưng vẫn
còn rất yếu, các doanh nghiệp cần nắm bắt các thông tin, nhanh
chóng, kịp thời giải quyết thông tin, đây là thị trường tiềm năng cho
các doanh nghiệp. Trong thời kỳ khủng hoảng này “Cái khó ló cái
khôn” các doanh nghiệp phải tạo cơ hội cho mình, hợp tác, xác định
làm ăn lâu dài, khẳng định tiềm năng, thương hiệu của mình trên
thị trường, trên mảnh đất mới này. Không phải chúng ta chỉ dừng
lại từ thị trường Ai Cập mà chúng ta phải vươn xa, vươn rộng trên
mảnh đất kim cương này thông qua con đường Ai Cập. Đối với thị

trường trong nước, trong những năm gần đây nông nghiệp, nông
thôn Việt Nam đang là thị trường giàu tiềm năng, còn bỏ ngõ. Vì
vậy việc đầu tư công nghệ tham gia vào khâu chế biến, bảo quản và
phân phối sau thu hoạch tại những vùng sản xuất trọng điểmcủa
đất nước. Có lẽ đây cũng là thời cơ lớn để doanh nghiệp chiếm lĩnh
thị trường nội địa, một thị trường được đánh giá thiếu tính ổn định
nhiếu năm qua. Như vậy sau cơn khủng hoảng các doanh nghiệp
vừa có thị trường truyền thống vừa mở rộng thị trường mới quốc
tế.
Nhà nước luôn theo dõi và đưa ra những định hướng hỗ trợ cho các
Doanh nghiệp :Đa dạng hóa các hình thức xuất khẩu, quan tâm hơn
các kênh phân phối tại nước nhập khẩu, tổ chức hội chợ, quảng bá
thương hiệu, quảng bá hình ảnh của các doanh nghiệp Việt Nam.
Bên cạnh đó hỗ trợ cho các doanh nghiệp lớn mở các văn phòng đại
diện ở những thị trường lớn và tốt nhằm dễ nắm thông tin, xác định
khách hàng và tìm kiếm khách hàng, theo dõi tình hình thị trường,
giảm thiểu rủi ro cho nhà xuất khẩu, tiếp cận thị trường nhanh,
khai thác các lợi thế mà các doanh nghiệp Việt Nam có lợi thế cạnh
tranh và xuất khẩu lợi thế cạnh tranh đó đến nước sở tại có lợi thế
cạnh tranh hơn.
Chính sách Nhà nước và Doanh nghiệp thắt lưng, buộc bụng, vượt
khó:Những khó khăn mà khủng hoảng toàn cầu mang lại đã làm
cho hoạt động xuất khẩu bị khó khăn, một số doanh nghiệp co cụm
sản xuất hoặc đóng cửa ngừng hoạt động và công nhân mất việc vì


Doanh nghiệp không có tiền trả lương, hàng bán chậm, vay ngân
hàng đến hạn không đáo hạn được …để các Doanh nghiệp không bị
đình đốn sản xuất, xuất khẩu, không bị vỡ hợp đồng do thiếu tài
chính, Nhà nước đã chỉ đạo các ngân hàng khoanh nợ, giãn nợ và

tiếp tục cho vay. Bên cạnh đó Nhà nước áp dụng hàng loạt biện
pháp quyết liệt nhằm kiềm chế lạm phát với chính sách tài khóa,
giảm hạn mức cho vay đầu tư bất động sản và chứng khoán, hạn
chế lưu thông tiền mặt, cho tạm hoãn, giãn tiến độ thi công một số
công trình đầu tư xây dựng cơ bản kém hiệu quả, tập trung vốn cho
các công trình mang lại hiệu quả kinh tế thấy được như: Nhà máy
điện, Nhà máy lọc dầu…đồng thời hạn chế thất thu thuế, tích cực
thu thuế , nợ tồn đọng
Ngoài ra, Chính phủ điều hành chính sách tiền tệ, linh hoạt, hiệu
quả : tạo điều kiện cho các Doanh nghiệp tiếp cận nguồn vốn, điều
chỉnh thuế suất thuế xuất khẩu, cũng như thuế suất thuế nhập khẩu
một số mặt hàng nhằm tránh những hiện tượng tiêu cực đổ bể
mang tính dây chuyền với thị trường trong nước và có giải pháp
ngăn chặn, xử lý kịp thời không để chúng xuất hiện, Nhà nước phải
quản lý chặt việc giao dịch ngoại tệ trên thị trường tự do nhằm hạn
chế sự đầu cơ ngoại tệ và gây sức ép tỷ giá, thông qua Ngân hàng
Nhà nước tiến hành thực hiện nghiệp vụ bán ngoại tệ làm giảm và
bình ổn tỷ giá trên thị trường, tạo điều kiện cho các doanh nghiệp
có nhu cầu nhập các thiết bị,… hỗ trợ cho Doanh nghiệp mở rộng
sản xuất và xuất khẩu, kích thích cho các doanh nghiệp trong nước
cùng phát triển sản xuất, bình ổn cuộc sống. Nhà nước phải sử dụng
công cụ quản lý vĩ mô nhằm điều chỉnh thúc đẩy sản xuất trong
nước phát triển nhanh, mạnh, chất lượng, phù hợp với thị hiếu thị
trường trong thời kỳ khó khăn này, khuyến khích các doanh nghiệp
tăng cường mở rộng thị trường và thúc đẩy kinh doanh xuất khẩu.
Các Doanh nghiệp Việt Nam đừng bỏ qua sự ủng hộ của người tiêu
dùng trong nước: Ngay lúc này các doanh nghiệp phải tự cứu lấy
mình, đừng trông chờ vào phép màu nhiệm nào cả mà chúng ta
phải tự tin vào chính mình, vào chính sách chủ trương của Đảng, và
Chính phủ. Chúng ta, còn một thị trường đang bỏ ngõ mà các Doanh

nghiệp cứ chạy theo lợi nhuận xuất khẩu, bỏ quên thị trường nội
địa đầy tiềm năng 86 triệu dân, được sự tư vấn của chính phủ kêu


gọi “ Chúng ta là người Việt nam hảy dùng hàng Việt Nam” , sự
khích lệ với tinh thần dân tộc, quả thật đánh đúng vào lòng tự
trọng của người Việt Nam, người tiêu dùng sẵn sàng đón nhận sản
phẩm của mình một cách tự hào, nhìn lại thời điểm đó ( 20082010) sản phẩm Việt Nam tràn đầy các siêu thị , chợ từ nam chí bắc,
thị trường nội địa rất dễ dãi và hiểu được thời kỳ khó khăn, mỗi
người có trách nhiệm góp sức mình, dùng sản phẩm mình là yêu
nước, người tiêu dùng hiểu được điều đó thì các doanh nghiệp phải
có trách nhiệm đảm bảo tốt sản phẩm, tôn trọng người tiêu dùng.
Hỗ trợ các doanh nghiệp trong lúc khủng hoảng này đồng thời góp
sức bình ổn kinh tế, không để những biểu hiện tiêu cực xảy ra trên
thị trường.
Thông thoáng môi trường đầu tư : Kêu gọi doanh nghiệp trong
nước và doanh nhân nước ngoài thành lập doanh nghiệp và hoạt
động phải tốt hơn các doanh nghiệp đầu tư trước đó, nhằm thu hút
vốn đầu tư và nâng cao năng lực sản xuất mở rộng thị trường tiêu
thụ hàng hóa và các sản phẩm sản xuất, bình ổn thị trường, hạn chế
lạm phát. Muốn được như vậy ngay cả chính sách vĩ mô phải tạo
thuận lợi cho nhà đầu tư bên cạnh đó chính sách địa phương cũng
thông thoáng từ khâu thủ tục ban đầu, hệ thống cơ sở hạ tầng phải
được đầu tư nâng cấp và sửa chữa cho hoàn thiện, địa phương phải
tạo nguồn nhân lực có chất lượng cao trước khi kêu gọi đầu tư vào
lĩnh vực mà địa phương có thế mạnh, có chính sách hấp dẫn khuyến
khích các nhà đầu tư vào. Không đem con bỏ chợ mà thật sự hỗ trợ
các nhà đầu tư trong đó đôi bên cùng có lợi, mục đích lâu dài có sự
giới thiệu nhau trên thị trường khi các nhà đầu tư có điều kiện và
xét thấy thật sự có hiệu quả sau thời gian hoạt động (qua môi

trường đầu tư của các doanh nhân nước ngoài trên địa bàn Việt
Nam và các doanh nghiệp Việt Nam cũng có được mặt trên thị
trường nội địa, sẽ có những bài học tốt cho sản phẩm và cơ hội để
nhìn lại sản phẩm mình trên thị trường của mình) .
Sự khủng hoảng đã xảy ra trên thế giới với qui mô toàn cầu, nó đưa
một số quốc gia đứng bên bờ vực phá sản như; Hi Lạp, Pakistan …
làm cho bao nhiêu người phải thất nghiệp, bao nhiêu người không
nhà, không cửa và ly tán… với Việt Nam tuy có bị ảnh hưởng nhưng
chính sách kinh tế vĩ mô của Chính phủ với vai trò của Đảng lãnh


đạo, Nhà nước quản lý đã kịp thời điều tiết, nắm vững con thuyền,
lèo lái vược qua cơn nguy kịch (2008-2010), tuy rằng hôm nay nó
vẫn còn ê ẩm cho nền kinh tế nhưng khẳng định một lần nữa,
chúng ta đã vượt qua nạn dịch, đã dần ổn định, phát triển.
Kết luận:
Khủng hoảng kinh tế chu kì trong chủ nghĩa tư bản là điều không
thể tránh khỏi. Tuy chủ nghĩa tư bản đã có được nhiều kinh nghiệm
rút ra từ các cuộc khủng hoảng trước đó nên ngày nay các cuộc
khủng hoảng thường được khắc phục trong thời gian ngắn và mức
độ thiệt hại được khống chế nhưng khủng hoảng giống như một
loại virut đang từng bước chuyển biến để chống lại thuốc kháng
sinh. Bằng chứng chính là cuộc khủng hoảng 2008 đã làm cho nhiều
nước trên thế giới phải điêu đứng. Ít ai có thể ngờ rằng nền kinh tế
số một thế giới là Mỹ lại có thể sụp đổ nhanh đến thế và hậu quả to
lớn mà thế giới phải gánh chịu. Việt Nam cũng chịu rất nhiều ảnh
hưởng từ cuộc khủng hoảng 2008. Tuy nhiên do Nhà nước ta là
Nhà nước xã hội chủ nghĩa của dân do dân và vì dân nên việc quản
lí kinh tế xã hội đều xuất phát từ lợi ích của nhân dân. Nhà nước ta
đã làm công tác quản lí rất tốt vì vậy việc ngăn chặn và khắc phục

những hậu quả của khủng hoảng có nhiều thuận lợi. Hiện nay nền
kinh tế của nước ta đang khởi sắc và có những dấu hiệu đầy khả
quan trong một tương lai gần.
Bài làm của em đến đây là hết, xin chân thành cảm ơn thầy cô đã
lắng nghe.

THE END



×