Tải bản đầy đủ (.docx) (26 trang)

Lý luận của chủ nghĩa Mac-Lenin về kinh tế hàng hóa-kinh tế thị trường và sự vận dụng ở Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (187.81 KB, 26 trang )

MỤC LỤC
Danh mục viết tắt ………………………………………………………… ……….… 4
Danh mục bảng biểu …………………………………………………….………… ….4
LỜI NÓI ĐẦU ……………………………………………………………………… 5
PHẦN I: LÝ LUẬN CỦA CHỦ NGHĨA MAC-LÊNIN VỀ KINH TẾ
HÀNG HÓA-KINH TẾ THỊ TRƯỜNG …………………………………….…… … 6
1. Sản xuất hàng hóa ……………………………………………………………… 6
1.1. Khái niệm sản xuất hàng hóa …………………………………… ………….…6
1.2. Đặc trưng cửa sản xuất hàng hóa ……………………………………….….….7
1.2.1. Đặc trưng của sản xuất hàng hóa ……………………………………………….7
1.2.2. Ưu, nhược điểm của sản xuất hàng hóa…………………………………………7
1. Hàng hóa …………………………………………….………………………… 7
1.1. Khái niệm ………………………………………………………………….……7
1.1.1. Giá trị sử dụng ………………………………………………………………… 7
1.1.2. Giá trị ……………………………………………………………………………7
1.2. Hai thuộc tính của hàng hóa …………………………………………… ….… 7
1.3. Tính hai mặt của lao động sản xuất hàng hóa …………………………… ……7
2. Kinh tế hàng hóa ……………………………………… ……………………….….8
3. Thị trường và cơ chế thi trường ………………………………….…………….… 9
3.1. Khái niệm thị trường ……………………………………………………….… 9
3.2. Phân loại ………………………………………… ……………………….……9
3.3. Xu hướng và chức năng …………………………………………………….… 9
3.4. Cơ chế thị trường ………………………………………………………………10
PHẦN II: SỰ VẬN DỤNG LÝ LUẬN CỦA CHỦ NGHĨA MAC-LÊNIN
VỀ KINH TẾ HÀNG HÓA- KINH TẾ THỊ TRƯỜNG Ở VIỆT NAM …… …… 11
1. Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa
là xu hướng phát triển tất yếu ………………………………………… …… …11
2. Đặc điểm kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam … …… 12
3. Thực trạng kinh tế thị trường nước ta hiện nay ………………… ………………14
1
3.1. Những thành tựu ……………………………………………… …… ….….14


3.1.1. Thị trường hàng hóa và dịch vụ ………………………………… ….….… 14
3.1.2. Thị trường lao động ……………….……………………………….…….… 16
3.1.3. Thị trường bất động sản …………………………………………… ….… 16
3.1.4. Thị trường tài chính ………………………………………………… … … 16
3.1.5. Thị trường khoa học công nghệ … ………………………………………… 17
3.2. Những hạn chế ảnh hưởng phát triển kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam ………………………………… ….…17
4. Những giải pháp cụ thể …………………………………………………….… 19
4.1. Đẩy mạnh quá trình đa dạng hoá các chế độ sở hữu
tạo điều kiện pháp triển mạnh nền kinh tế hàng hoá ở nước ta ….……… …19
4.2. Đẩy mạnh quá trình phân công lại lao động xã hội ở nước ta ………… … 20
4.3. Tạo lập và phát triển đồng bộ các yếu tố thị trường …………………….……20
4.4. Đẩy mạnh cách mạng khoa học công nghệ, nhằm phát triển
nền kinh tế theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá ………………… ….21
4.5. Tiếp tục đổi mới và nâng cao vai trò quản lý vĩ mô của Nhà nước ….…….…21
4.6. Giữ vững ổn định chính trị, hoàn thiện hệ thống pháp luật
đổi mới chính sách tài chính tiền tệ giá cả ……………………………….……22
4.7. Đào tạo đội ngũ cán bộ quản lý kinh doanh giỏi ………………………… ….22
4.8. Mở rộng quan hệ kinh tế đối ngoại để phát triển kinh tế thị trường ……… …22
KẾT LUẬN ……… …………………………………………………………… 24
TÀI LIỆU THAM KHẢO … ……………………………………………… …27
2
DANH MỤC VIẾT TẮT
KTTT: Kinh tế thị trường.
LLSX: Lực lượng sản xuất.
XHCN: Xã hội chủ nghĩa.
SXHH: Sản xuất hàng hóa.
TBCN: Tư bản chủ nghĩa.
TLSX: Tư liệu sản xuất.
DANH MỤC BẢNG BIỂU

Bảng 3.1 Tốc độ tăng trưởng GDP và CPI bình quân từ năm 2007 đến năm 2013.
Bảng 3.2 Tốc độ tăng tỉ trọng bình quân các ngành từ năm 2007 đến năm 2013 .
Bảng 3.3 Tổng mức bán lẻ hàng hóa và dịch vụ các năm .
3
LỜI NÓI ĐẦU
Trong quá trình phát triển kinh tế - xã hội, loài người không ngừng tìm kiếm những
mô hình thể chế kinh tế thích hợp để đạt hiệu quả kinh tế - xã hội cao. Một trong những
mô hình thể chế kinh tế như thế là mô hình kinh tế thị trường có sự quản lý của Nhà nước.
Kinh tế thị trường là nấc thang phát triển cao hơn kinh tế hàng hóa, khi mà các yếu tố
“đầu vào” và “đầu ra” của sản xuất đều được thực hiện thông qua thị trường. Sự phát triển
của sản xuất hàng hóa làm cho phân công lao động xã hội ngày càng sâu sắc, chuyên môn
hóa, hợp tác hóa ngày càng tăng, mối liên hệ giữa các ngành, các vùng ngày càng chặt
chẽ. Hơn nữa, những nhà sản xuất kinh doanh muốn chiếm được ưu thế trên thị trường
phải năng động, nhạy bén, không ngừng cải tiến kỹ thuật và hợi lý hóa sản xuất. Từ đó
làm tăng năng xuất lao động xã hội, thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển. Phát triển sản
xuất hàng hóa với quy mô lớn sẽ thúc đẩy quá trình tích tụ và tập trung sản xuất, mở rộng
giao lưu kinh tế ở trong nước và ngoài nước, hội nhập nên kinh tế thế giới.
Việt Nam đang trong thời kỳ quá độ lên CNXH bỏ qua giai đoạn phát triển tư bản
chủ nghĩa nên cơ sở vật chất kỹ thuật còn yếu kém, lạc hậu, khả năng cạnh tranh hạn chế.
Trong khi đó thị trường thế giới và khu vực đã được phân chia bởi hầu hết các nhà sản
xuất và phân phối lớn; ngay cả thị trường nội địa cũng chịu sự phân chia này. Xuất phát từ
nhu cầu thực tế của đời sống kinh tế xã hội, để ổn đinh kinh tế trong nước và hội nhập
quốc tế ta phải xây dựng một nên kinh tế mới, một nền kinh tế nhiều thành phần, đa dạng
hóa các hình thức sở hữu. Phát triển kinh tế thị trường có vai trò rất quan trọng, đối với
nước ta muốn chuyển từ sản suất nhỏ lên sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa thì phải phát triển
kinh tế thị trường là một tất yếu khách quan. Do đó, em xin chọn đề tài: “Lý luận của chủ
nghĩa Mac-Lênin về kinh tế hàng hóa-kinh tế thị trường và sự vận dụng ở Việt Nam”.
Do trình độ và hiểu biết còn nhiều hạn chế nên trong quá trình làm bài không thể
tránh khỏi thiếu sót. Em rất mong được sự chỉ bảo của cô. Em xin chân thành cảm ơn.
4

PHẦN I
LÝ LUẬN CỦA CHỦ NGHĨA MAC-LÊNIN VỀ KINH TẾ HÀNG HÓA-KINH TẾ
THỊ TRƯỜNG
1. Sản xuất hàng hóa
1.1. Khái niệm sản xuất hàng hóa
Sản xuất hàng hóa là kiểu tổ chức kinh tế mà trong đó sản phẩm được sản xuất ra để
trao đổi hoặc mua bán trên thị trường.
Sản xuất hàng hóa chỉ ra đời khi đủ hai điều kiện sau đây:
a. Phân công lao động xã hội
Phân công lao động xã hội là sự phân chia lao động xã hội ra thành các ngành, nghề
khác nhau của nền sản xuất xã hội. Phân công lao động xã hội tạo ra sự chuyên môn hoá
lao động, do đó dẫn đến chuyên môn hoá sản xuất thành những ngành nghề khác nhau.
Do phân công lao động xã hội nên mỗi người sản xuất chỉ tạo ra một hoặc một vài loại
sản phẩm nhất định. Song, cuộc sống của mỗi người lại cần đến rất nhiều loại sản phẩm
khác nhau. Để thoả mãn nhu cầu đòi hỏi họ phải có mối liên hệ phụ thuộc vào nhau, trao
đổi sản phẩm cho nhau.
b. Sự tách biệt tương đối về mặt kinh tế của những người sản xuất
Sự tách biệt này do các quan hệ sở hữu khác nhau về tư liệu sản xuất, mà khởi thuỷ là
chế độ tư hữu nhỏ về tư liệu sản xuất, đã xác định người sở hữu tư liệu sản xuất là người
sở hữu sản phẩm lao động. Như vậy, chính quan hệ sở hữu khác nhau về tư liệu sản xuất
đã làm cho những người sản xuất độc lập, đối lập với nhau, nhưng họ lại nằm trong hệ
thống phân công lao động xã hội nên họ phụ thuộc lẫn nhau về sản xuất và tiêu dùng.
Trong điều kiện ấy người này muốn tiêu dùng sản phẩm của người khác phải thông qua
sự mua - bán hàng hoá, tức là phải trao đổi dưới những hình thái hàng hoá.
Sản xuất hàng hoá chỉ ra đời khi có đồng thời hai điều kiện nói trên, nếu thiếu một
trong hai điều kiện ấy thì không có sản xuất hàng hoá và sản phẩm lao động không mang
hình thái hàng hoá.
5
1.2. Đặc trưng của sản xuất hàng hóa
1.2.1. Đặc trưng của sản xuất hàng hóa

Sản xuất hàng hóa là sản xuất để trao đổi mua bán.
Lao động của người sản xuất hàng hóa vừa có tính tư nhân, vừa có tính xã hội.
Mục đích của sản xuất hàng hóa là giá trị, lợi nhuận chứ không phải giá trị sử dụng.
1.2.2. Ưu, nhược điểm của sản xuất hàng hóa
Ưu điểm
Thúc đẩy sự phân công lao động và phát triển kinh tế.
Kích thích cải tiến khoa học-kĩ thuật, thúc đẩy LLSX phát triển nhanh.
Thúc đẩy tính năng động của người sản xuất, nâng cao năng suất , chất lượng, hiệu
quả kinh tế.
Nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của xã hội.
Nhược điểm: phân hóa giàu nghèo, tiềm ẩn những khả năng khủng hoảng, phá hoại
môi trường sinh thái…
2. Hàng hóa
2.1. Khái niệm
Hàng hóa là sản phẩm của lao động, có thể thỏa mãn nhu cầu nào đó của con người
thông qua trao đổi, mua bán.
2.2. Hai thuộc tính của hàng hóa
2.2.1. Giá trị sử dụng
Giá trị sử dụng là công dụng của vật phẩm có thể thỏa mãn nhu cầu nào đó của con
người. Là phạm trù vĩnh viễn.
2.2.2. Giá trị
Giá trị trao đổi là một tỷ lệ theo đó những giá trị sử dụng của loại này được trao đổi
với những giá trị sử dụng loại khác.
Giá trị là lao động xã hội của người sản xuất hàng hóa kết tinh trong hàng hóa. Là
phạm trù lịch sử.
2.3. Tính hai mặt của lao động sản xuất hàng hóa
Lao động cụ thể là lao động có ích dưới một hình thức cụ thể của những nghề nghiệp
chuyên môn nhất định.
Lao động trừu tượng là lao động hao phí đồng nhất của con người.
6

- Thời gian lao động xã hội cần thiết.
Thời gian lao động xã hội cần thiết là thời gian cần thiết để sản xuất ra hàng hóa trong
nhưng điều kiện sản xuất trung bình xã hội với một trình độ trung bình, cường độ lao
động trung bình của người sản xuất.
Thông thường thời gian lao động xã hội cần thiết để sản xuất ra một loại hàng hóa có
xu hướng nghiêng về thời gian lao động cá biệt của người sản xuất mà họ cung cấp phần
lớn loại hàng hóa đó trên thị trường.
Hai nhân tố ảnh hưởng đến thời gian lao động cần thiết là năng suất lao động và
cường độ lao động.
Năng suất lao động là năng lực sản xuất của người lao đông hay sức sản xuất của lao
động. Giá trị của hàng hóa thay đổi tỷ lệ nghịch với năng suất lao động xã hội.
Cường độ lao động là mức độ tiêu hao về lao động trong một đơn vị thời gian. Nó cho
biết mức độ khẩn trương của lao động.
- Lao động giản đơn và lao động phức tạp.
Lao động giản đơn là sự tiêu hao sức lực giản đơn mà bất kỳ một người bình thường
nào, không cần biết đến tài nghệ đặc biệt đều có thể tiến hàng được để sản xuất ra hàng
hóa.
Lao động phức tạp là loại lao động phải đòi hỏi đào tạo tỷ mỉ, công phu và có sự khéo
léo, tài nghệ, phải có sự tích lũy lao động. Trong cùng một đơn vị thời gian, lao động
phức tạp sang tạo ra nhiều giá trị hơn lao động giản đơn. Vì vậy lao động phức tạp là bội
số của lao động giản đơn.
Lượng giá trị của hàng hóa được đo bằng thời gian lao động xã hội cần thiết.
3. Kinh tế hàng hóa
Kinh tế hàng hóa là kiểu tổ chức kinh tế xã hội mà trong đó hình thái phổ biến của sản
xuất là sản xuất ra sản phẩm để bán để trao đổi trên thị trường. Kinh tế hàng hóa ra đời
sau kinh tế tự nhiên và có thể chia làm hai giai đoạn là kinh tế hàng hóa giản đơn và kinh
tế hàng hóa phát triển hay còn gọi là kinh tế thị trường.
Kinh tế hàng hóa đối lập với kinh tế tự nhiên và kinh tế chỉ huy. Khi sản xuất hàng
hóa, lượng sản phẩm hàng hóa lưu thông trên thị trường ngày càng dồi dào, phong phú,
thị trường được mở rộng, khái niệm thị trường được hiểu ngày càng đầy đủ hơn. Đó là

7
lĩnh vực trao đổi hàng hóa thông qua tiền tệ làm môi giới. Ở đây người mua và người bán
tác động qua lại lẫn nhau để xác định giá cả và số lượng hàng hóa lưu thông trên thị
trường.
4. Thị trường và cơ chế thi trường
4.1. Khái niệm thị trường
Thị trường là lĩnh vực trao đổi trên đó các chủ thể kinh tế tác động với nhau nhằm xác
định giá cả và sản lượng hàng hóa.
4.2. Phân loại
Trong quá trình hình thành và phát triển của nền kinh tế thị trường, thị trường đã xuất
hiện từ thấp đến cao, từ giản đơn đến phức tạp, bao gồm nhiều loại thị trường khác nhau.
Hiện nay trên thế giới cũng như ở nước ta đang có nhiều cách phân chia thị trường khác
nhau. Nhìn chung, có ba cách phân chia chủ yếu sau:
Dựa vào thuộc tính hàng hóa.
Dựa vào khu vực lưu thông hàng hóa.
Dựa vào trình tự thời gian lưu thông hàng hóa.
Trên cơ sở phân chia thị trường theo thuộc tính hàng hóa, trong nền kinh tế thị trường
hiện đại có các loại thị trường cơ bản như sau:
Thị trường hàng hóa và dịch vụ.
Thị trường lao động.
Thi trường bất động sản.
Thị trường tài chính.
Thị trường khoa học công nghệ.
4.3. Xu hướng và chức năng
Xu hướng
Thị trường phát triển cùng với sự phát triển của SXHH.
Sự phát triển của thị trường do SXHH quyết định.
Thị trường tác động trở lại đối với SXHH (thúc đẩy hoặc kìm hãm SXHH)
Chức năng của thị trường
8

Chức năng thừa nhận.
Chức năng cung cấp thông tin.
Chức năng kích thích hoặc hạn chế sản xuất và tiêu dùng.
4.4. Cơ chế thị trường
Cơ chế thị trường là một hình thức tổ chức kinh tế trong đó các vấn đề kinh tế được
giải quyết thông qua thị trường (mua bán và trao đổi hàng hóa), cơ chế thị trường hoàn
toàn đối lập với nền kinh tế tự nhiên. Trong cơ chế thị trường người sản xuất và người
tiêu dùng thường tác động lẫn nhau để giải quyết ba vấn đề trung tâm của một tổ chức
kinh tế: Sản xuất ra cái gì? Sản xuất như thế nào? Sản xuất cho ai?
Trong thị trường có 3 yếu tố chính: hàng hóa, tiền tệ, người mua bán. Động lực hoạt
động của con người trong cơ chế thị trường là lợi nhuận, nó bị chi phối bởi một số quy
luật như: quy luật giá trị, quy luật cung cầu, quy luật lưu thông tiền tệ.
9
PHẦN II
SỰ VẬN DỤNG LÝ LUẬN CỦA CHỦ NGHĨA MAC-LÊNIN VỀ KINH TẾ HÀNG
HÓA - KINH TẾ THỊ TRƯỜNG Ở VIỆT NAM
1. Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là xu hướng phát triển tất yếu
Việt Nam- một dân tộc giàu truyền thống văn hiến, những còn là một quốc gia nghèo
nàn và lạc hậu, lại liên tục bị các thế lực ngoại bang gây chiến tranh xâm lực tàn phá nặng
nề. Kể từ khi có Đảng, nhân dân ta đã đoàn kết dưới ngọn cờ giải phóng dân tộc đánh
thắng hai đế quốc to là Pháp và Mĩ. Nhưng cũng từ đây, chúng ta càng hiểu sâu sắc hơn
hai hiểm họa thường trực đối với đất nước là hiểm họa nghèo nàn, lạc hậu và hiểm họa
giặc ngoại xâm. Hơn nữa, giữa chúng lại có mối liên hệ tương hỗ với nhau: vì nghèo nàn,
lạc hậu mà giặc ngoại xâm luôn rình rập, đe dọa và cũng vì chiến tranh mà nước ta càng
chìm đắm trong tình trạng chậm phát triển. Và, để thoát khỏi tình trạng đó thì đất nước ta
phải tiến lên xây dựng thành công CNXH. Nhưng đang là một quốc gia nghèo nàn và lạc
hậu làm thế nào Việt Nam mơi có thể xây dựng thành công CNXH phát triển và giàu
mạnh? Bởi những lý do lịch sử nhất định, Việt Nam đã từng xây dựng mô hình kinh tế kế
hoạch hóa tập trung quan liêu, bao cấp. Đó là sự vận dụng chủ nghĩa Mac-Lênin có phần
giáo điều, cứng nhắc, thiếu tôn trọng quy luật khách quan, xa rời thực tiễn Việt Nam. Tuy

nhiên, mô hình kinh tế này đã góp phần đáp ứng được các yêu cầu huy động tập chung
mọi nguồn lực của toàn dân tộc cho cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc. Nhưng cũng chiến
tranh đã chep lấp và làm trầm trọng thêm những nhược điểm vốn có của mô hình này, nó
tiếp tục được duy trì trong suốt thời gian dài hòa bình xây dựng đất nước sau chiến tranh.
Điều này đã gây lên những hậu quả không lường, tạo ra một cuộc khủng hoảng vô cùng
sâu sắc.
Qua nhiều lần nghiên cứu đổi mới. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng
Cộng Sản Việt Nam (4-2001) lần đầu tiên đưa ra mô hình kinh tế tổng quá của nước ta
trong thời kỳ quá độ lên CNXH là nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
Đây là kết quả của sự tổng kết thực tiến ở nước ta qua hơn 20 năm đổi mới kết hợp với
tham khảo có chọn lọc kinh nghiệm phát triển kinh tế thị trường quốc tế. Đây còn là kết
quả của sự phát triển và vận dụng sáng tạo những nguyên lý của học thuyết Mac-Lênin,
quy luật chung của phát triển kinh tế thị trường vào hoàn cảnh cụ thể Việt Nam. Đây là
10
nền kinh tế tuân theo những quy luật thị trường, đồng thời lại dựa trên cơ sở và được dẫn
dắt, chi phối bởi những nguyên tắc mang bản chất CNXH nhằm mục tiêu “dân giàu, nước
mạnh, xã hội dân chủ, công bằng, văn minh”.
2. Đặc điểm kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam
Thứ nhất, về chế độ sở hữu. Cơ chế thị trường trong nền kinh tế tư bản chủ nghĩa luôn
hoạt động trên nền tảng của chế độ tư hữu về tư liệu sản xuất, trong đó các công ty tư bản
độc quyền giữ vai trò chi phối sự phát triển của toàn bộ nền kinh tế. Cơ chế thị trường
trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN lại hoạt động trong môi trường của sự đa
dạng các quan hệ sở hữu, trong đó chế độ công hữu giữ vai trò là nền tảng của nền kinh tế
quốc dân, với vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước. Tính định hướng XHCN đòi hỏi trong
khi phát triển kinh tế thị trường nhiều thành phần phải củng cố và phát triển kinh tế nhà
nước và kinh tế tập thể trở thành nền tảng của nền kinh tế có khả năng điều tiết, hướng
dẫn sự phát triển của các thành phần kinh tế khác. Kinh tế nhà nước phải được củng cố và
phát triển ở các vị trí then chốt của nền kinh tế, ở lĩnh vực an ninh - quốc phòng, ở các
lĩnh vực dịch vụ xã hội cần thiết mà các thành phần kinh tế khác không có điều kiện
hoặc không muốn đầu tư vì không sinh lời hoặc ít lãi.

Thứ hai, về tính giai cấp của nhà nước và mục đích quản lý của nhà nước. Trong cơ
chế thị trường TBCN, sự can thiệp của nhà nước luôn mang tính chất tư sản và trong
khuôn khổ của chế độ tư sản với mục đích nhằm bảo đảm môi trường kinh tế - xã hội
thuận lợi cho sự thống trị của giai cấp tư sản, cho sự bền vững của chế độ bóc lột TBCN.
Trong cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng XHCN, thì sự can
thiệp của Nhà nước xã hội chủ nghĩa vào nền kinh tế lại nhằm bảo vệ quyền lợi chính
đáng của toàn thể nhân dân lao động, thực hiện mục tiêu, dân giàu, nước mạnh, dân chủ,
công bằng, văn minh.
Thứ ba, về cơ chế vận hành. Cơ chế vận hành nền kinh tế thị trường định hướng
XHCN là cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng
sản Việt Nam. Cơ chế đó bảo đảm tính hướng dẫn, điều khiển nền kinh tế nhiều thành
phần hướng tới đích XHCN theo phương châm: Nhà nước điều tiết vĩ mô, thị trường
hướng dẫn doanh nghiệp. Cơ chế đó thể hiện ở các mặt cơ bản: Một là, Nhà nước XHCN
11
là nhân tố đóng vai trò “nhân vật trung tâm” và điều tiết nền kinh tế vĩ mô. Hai là, cơ chế
thị trường là nhân tố trung tâm của nền kinh tế, đóng vai trò “trung gian” giữa Nhà nước
và doanh nghiệp.
Thứ tư, về mối quan hệ giữa tăng trưởng, phát triển kinh tế với công bằng xã
hội. Trong sự phát triển của kinh tế thị trường TBCN, vấn đề công bằng xã hội chỉ được
đặt ra khi mặt trái của cơ chế thị trường đã làm gay gắt các vấn đề xã hội, tạo ra nguy cơ
bùng nổ xã hội, đe dọa sự tồn tại của chủ nghĩa tư bản. Song, vấn đề đó không bao giờ và
không thể nào giải quyết được triệt để trong chế độ TBCN. Mục đích giải quyết các vấn
đề xã hội của các chính phủ tư sản chỉ giới hạn trong khuôn khổ của chủ nghĩa tư bản, chỉ
được xem là phương tiện để duy trì chế độ TBCN. Trong nền kinh tế thị trường định
hướng XHCN, Nhà nước chủ động ngay từ đầu việc giải quyết mối quan hệ giữa tăng
trưởng kinh tế với công bằng xã hội. Vấn đề công bằng xã hội không chỉ là phương tiện
để phát triển nền kinh tế thị trường mà còn là mục tiêu của chế độ xã hội mới. Sự thành
công của nền kinh tế thị trường định hướng XHCN không chỉ biểu hiện ở tốc độ tăng
trưởng cao mà còn ở chỗ mức sống thực tế của mọi tầng lớp dân cư đều được nâng lên, y
tế, giáo dục đều phát triển, khoảng cách giàu nghèo được thu hẹp, đạo đức, truyền thống,

bản sắc văn hóa dân tộc được giữ vững, môi trường sinh thái được bảo vệ.
Thứ năm, về phân phối thu nhập. Sự thành công của nền kinh tế thị trường định hướng
XHCN không chỉ dừng lại ở tốc độ tăng trưởng kinh tế mà còn không ngừng nâng cao đời
sống nhân dân, bảo đảm tốt các vấn đề xã hội và công bằng, bình đẳng trong xã hội. Đặc
trưng xã hội trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN thể hiện: Một là, xác định
các chỉ tiêu hiệu quả cần đạt được, như tốc độ tăng GDP/người; các chỉ tiêu về phát triển
giáo dục, y tế, việc làm; về xóa đói, giảm nghèo; về văn hóa - xã hội; bảo vệ môi trường
sinh thái, Hai là, nâng cao chức năng xã hội của Nhà nước XHCN trong chế độ bảo
hiểm xã hội, trong chính sách phân phối thu nhập, đồng thời có chính sách bảo đảm xã
hội đối với những đối tượng đặc biệt (gia đình có công với cách mạng, thương binh,
người tàn tật, ).
3. Thực trạng kinh tế thị trường nước ta hiện nay
12
3.1. Những thành tựu
3.1.1. Thị trường hàng hóa và dịch vụ
Bằng đường lối đổi mới, mà một trong những đổi mới quan trọng là thực hiện cơ chế
thị trường, đất nước ta đã ra khỏi khủng hoảng kinh tế - xã hội. Đó là một thành tựu rất
quan trọng, cho phép đất nước mở ra một thời kỳ mới, một thời kỳ mà con đường tiến lên
Xã Hội Chủ Nghĩa dễ dàng hơn, lòng tin của nhân dân vào Đảng ngày càng được củng cố.
Nhịp độ tăng trưởng kinh tế cao, liên tục ổn định.
Bảng 3.1 Tốc độ tăng trưởng GDP và CPI bình quân từ năm 2007 đến năm 2013
(Đơn vị %)
Năm 2007 2008 2009 2010 2011 2012 2013
Tốc độ tăng GDP bình quân 8,48 6,32 5,32 6,78 5,89 5,03 5,42
Tốc độ tăng CPI bình quân 12,6 22,97 6,88 11,75 18,13 6,81 6,04
(Nguồn: Tổng cục thống kê)
Các số liệu thống kê cho thấy, GDP nước ta trong giai đoạn 2007-2013 tốc độ tăng
trung bình là 7,21%, Cao nhất năm 2007 đạt mức 8,48% sau đó sụt giảm năm 2008 ở mức
6,32% và 2009 là 5,32%, năm 2010 lại tăng lên 6,78%, hai năm tiếp theo 2011 và 2012 lại
tiếp tục sụt giảm và ở mức 5,89% và 5,03%. Sau đó năm 2013 tăng nhẹ và ở mức 5,42%.

Các tỷ lệ nợ công, nợ nước ngoài và nợ công nước ngoài, theo đánh giá của Bộ Tài chính,
trong giai đoạn từ 2007 đến 2013 tiếp tục gia tăng nhưng vẫn ở ngưỡng an toàn.
CPI nước ta trong giai đoạn 2007-2013 có tốc độ tăng trung bình là 14,2%. Cao nhất
vào năm 2008, trong giai đoạn từ 207-2012 CPI nước ta biến động theo chu kì “hai năm
cao một năm thấp”. Năm 2013 là năm đầu tiên CPI phá vỡ chu kỳ “hai năm cao, một năm
thấp” đã diễn ra trong 9 năm trước đây đó thành công nổi bật của năm 2013, điều đó lại
càng có ý nghĩa khi tăng trưởng kinh tế cũng cao hơn năm 2012, theo mục tiêu tổng quát
mà Nghị quyết của Quốc hội đề ra (lạm phát thấp hơn, tăng trưởng cao hơn năm trước).
Bảng 3.2 Tốc độ tăng tỉ trọng bình quân các ngành từ năm 2007 đến năm 2013
(Đơn vị: %)
13
Năm 2007 2008 2009 2010 2011 2012
201
3
Tăng GDP ngành nông nghiệp 3,40 3,79 1,83 2,78 4,01 2,72 2,71
Tăng GDP ngành công nghiệp 10,60 6,33 5,52 7,70 5,53 4,52 4,27
Tăng GDP ngành dịch vụ 8,68 7,20 6,63 7,52 6,99 6,42 7,14
(Ngồn: Tổng cục thống kê)
Nhìn chung, GDP từng ngành tăng theo các năm. Tuy nhiên, mức độ tăng trưởng theo
các ngành không đều, cao nhất là ngành dịch vụ, sau đó là công nghiệp và nông nghiệp,
đó là kết quả của quá trình chuyển đổi cơ cấu thành phần các ngành kinh tế theo hướng
công nghiệp hóa. Mặc dù, các nguồn lực sản xuất nông nghiệp đang bị chuyển dần sang
các ngành công nghiệp và dịch vụ nhưng do khoa học kĩ thuật phát triên, nhà nước có các
chính sách khuyến khích hợp lý nên ngành nông nghiệp vẫn tăng trưởng tương đối nhanh
và bền vững. Điển hình là Việt Nam đã trở thành nước xuất khẩu gạo đứng đầu thế giới.
Bảng 3.3 Tổng mức bán lẻ hàng hóa và dịch vụ các năm
(Đơn vị: nghìn tỷ đồng)
Năm 2007 2008 2009 2010 2011 2012 2013
Tổng mức bán lẻ hàng
hóa và dịch vụ

726,1 968,1 1197,5 1561,6 2004,4 2324,4
2617,
3
(Nguồn: Tổng cục thống kê)
Dựa vào bảng số liệu, ta thấy từ năm 2007 đến năm 2013, tổng mức bán lẻ hàng hóa
và dịch vụ đều tăng so với năm trước. Năm 2007, tổng mức bán lẻ hàng hóa và dịch vụ là
726,1 nghìn tỷ đồng. Năm 2013 tăng đến 2617,3 nghìn tỷ đồng.
3.1.2. Thị trường lao động
Do Việt Nam đang trong thơi kì “dân số vàng” nên thị trường lao động Việt Nam là
một thị trường lớn và đang trên đà phát triển về cả chất và lượng. Cục thể, tính đến
14
01/01/2014 lực lượng lao động từ 15 tuổi trở lên là 53,65 triệu người, tăng 864,3 nghìn
người so với cùng thời điểm năm trước, trong đó lao động nam chiếm 51,5%; lao động nữ
chiếm 48,5%. Lực lượng lao động trong độ tuổi lao động là 47,49 triệu người, tăng 409,2
nghìn người so với cùng thời điểm năm 2013, trong đó nam chiếm 53,9%; nữ chiếm 46,1%.
Lao động từ 15 tuổi trở lên đang làm việc trong các ngành kinh tế năm 2013 ước tính 52,40
triệu người, tăng 1,36% so với năm 2012. Lao động từ 15 tuổi trở lên đang làm việc năm
2013 của khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản chiếm 46,9% tổng số, giảm 0,5 điểm phần
trăm so với năm trước; khu vực công nghiệp và xây dựng chiếm 21,1%, giảm 0,1 điểm
phần trăm; khu vực dịch vụ chiếm 32,0%, tăng 0,6 điểm phần trăm.
3.1.3. Thị trường bất động sản
Thời điểm trước năm 2011 thị trường bất động sản phát triển rất mạnh mẽ, có những
thời điểm “sốt” của thị trường bất động sản. Sau đó, do các nguyên nhân chủ quan và
khác quan như khủng hoảng kinh tế thế giới nên thị trường bất động sản bị “đóng bang”.
Tính đến cuối năm 2013, thị trường BĐS còn tồn kho gần 30.000 căn hộ và hơn 1 triệu
m2 đất nền, tập trung chủ yếu ở Hà Nội và TP. Hồ Chí Minh với giá trị tồn kho ước tính
trên hàng chục ngàn tỷ đồng.
3.1.4. Thị trường tài chính
Thị trường tài chính Việt Nam trong những năm qua tương đối ổn định, lãi suất ngân
hàng được điểu chỉnh phù hợp với điều kiện của nền kinh tế. Trong năm 2013, là một năm

thành công về ổn định tỷ giá khi chung cuôc NHNN chỉ phải tăng 1% tỷ giá bình quân
liên ngân hàng, đặc biệt là nguồn lực dự trữ ngoại hối tiếp tục được củng cố ước tính đạt
trên 25 tỷ USD, tăng khoảng 6 tỷ USD so với năm 2012 và 16 tỷ USD so với năm 2011.
Tính đến thời điểm ngày 31/12/2013, NHNN đã đấu thầu thành công 69,9 tấn vàng qua
đó góp phần bình ổn giá vàng, không còn những cơn “sốt” vàng ngay cả khi giá vàng thế
giới liên tục biến động, tình trạng “vàng hóa” trong hệ thống ngân hàng đã chấm dứt, mức
độ chênh lệch giá vàng thế giới với giá vàng trong nước đã giảm.
3.1.5. Thị trường khoa học công nghệ
15
Thị trường khoa học công nghệ ở Việt Nam chưa được phát triển mạnh mẽ nhưng
cũng đã đạt một số thành công nhất định. Trong tương lai với các chính sách khuyến
khích của nhà nước như sửa đổi luật khoa học công nghệ (có hiệu lực từ 1/1/2014), đầu tư
nhiều dự án, chương trình nhằm thúc đẩy nguồn cung sản phẩm KHCN do các viện
nghiên cứu, trường đại học hoặc doanh nghiệp tạo ra. Đặc biệt, việc chuyển đổi các tổ
chức KHCN công lập sang hoạt động theo cơ chế tự chủ, tự chịu trách nhiệm… Thị
trường khoa học công nghệ nước ta sẽ có triển vọng hơn.
3.2. Những hạn chế ảnh hưởng phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa ở Việt Nam
Thứ nhất, vẫn chậm trễ và tồn tại sự bảo thủ trong đổi mới tư duy lý luận về kinh tế thị
trường và chủ nghĩa xã hội, mang nặng tư duy lý luận của thời kỳ kinh tế kế hoạch hóa
tập chung và chủ nghĩa xã hội phi thị trường. Nhiều tư duy theo lối mòn vẫn được duy trì
mang tính áp đặt như: muốn phát triển kinh tế thị trường hội nhập vào kinh tế quốc tế
nhưng lại muốn tạo ra một thị trường có sự khác biệt tương đối; lấy nguyện vọng chính trị
thay cho quy luật kinh tế thị trường; vẫn tồn tại tâm lý trì trệ và thỏa mãn, thiếu quyết
tâm, lúng túng để tiếp tục đi tới con đường đổi mới, trước hết là đổi mới tư duy lý luận về
kinh tế thị trường và chủ nghĩa xã hội.
Thứ hai, thể chế mới của nền kinh tế thị trường còn chưa được xác lập hoàn chỉnh và
vững chắc, mà cơ chế quan liêu vẫn còn tồn tại dai dẳng và tái lập lại dưới nhiều hình
thức khác nhau. Vẫn chưa tách bạch rạch ròi giữa chức năng quản lý nhà nước về kinh tế
với chức năng quản lý kinh doanh, dẫn đến sự can thiệp quá sâu, mang tính hành chính-

quan liêu của các cơ quan nhà nước vào hoạt động kinh doanh của cơ sở. Không hiếm
trường hợp cán bộ công quyền năng lực, phẩm chất kém và thiếu công tâm, lạm dụng
chức quyền để “hành dân” hơn là phục vụ nhân dân. Đây là nguyên nhân làm suy yếu vai
trò và sức mạnh của nhà nước pháp quyền, phát triển tệ nạn tham nhũng và cửa quyền
đang làm nhức nhối xã hội và mất lòng tin của nhân dân.
Thứ ba, duy trì khu vực kinh tế nhà nước cồng kềnh, yếu kém. Tuy khối doanh nghiệp
nhà nước và sở hữu nhà nước đã qua nhiều lần cải tổ và cơ cấu lại, nhưng vẫn còn cồng
kềnh, chiếm tỷ trọng tương đối lớn trong nền kinh tế quốc dân. Hơn nữa khu vực doanh
nghiệp nhà nước đang chưa nhiều căn bệnh nan y như: quản lý yếu kém, vô trách nhiệm,
16
làm ăn thua lỗ… đây là miếng đất màu mỡ cho tệ nạn tham nhũng, quan liêu và cơ chế
xin- cho tiếp tục bám rễ và phát triển.
Thứ tư, hệ thống các thị trường trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa chưa được hiện diện rõ nét và chưa được xây dựng đồng bộ. Trình độ phát triển của
nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa còn hết sức thấp không chỉ xét về
những mặt lực lượng sản xuất, quy mô thị trường và dung lượng trao đổi; mà xét cả về
mặt xây dựng các thể chế thị trường cơ bản và nền tảng của chúng cũng còn thiếu vắng.
Các loại hình thị trường riêng chưa phát triển đồng bộ. Các bộ phận và khu vực còn yếu
và chưa gắn bó với nhau trong hệ thống thị trường quốc gia thống nhất, lại càng chưa gắn
kế và hội nhập với hệ thống thị trường quốc tế.
Thứ năm, hạ tầng của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa còn yếu kém
và lạc hậu. Đây là nguyên nhân làm cho môi trường kinh doanh và đầu tư kém hấp dẫn,
nền kinh tế vận hành kém hiệu quả. Ví dụ, thủ tục hải quan chậm trễ và dịch vụ cảng biển
khó tiếp cận đã làm tăng các chi phí, có chi phí không chính thức cũng như đánh mất cơ
hội kinh doanh. Giá điện cao và các chi phí do cắt điện, mất điện gây ra cũng làm tăng các
chi phí đầu vào của sản xuất doanh nghiệp.
Thứ sáu, tuy có tốc độ tăng trưởng kinh tế khá cao, nhưng nền kinh tế Việt Nam vẫn
chưa đảm bảo chất lượng, hiệu quả, sự phát triển thiếu bền vững và năng lực cạnh tranh
còn yếu. Chất lượng tăng trưởng được phản ánh chủ yếu thông qua các chỉ tiêu giá trị gia
tăng của nền kinh tế và năng suất tổng hợp.

4. Những giải pháp cụ thể
4.1. Đẩy mạnh quá trình đa dạng hoá các chế độ sở hữu, tạo điều kiện phát
triển mạnh nền kinh tế hàng hoá ở nước ta
Cơ sở tồn tại và phát triển kinh tế hàng hoá, kinh tế thị trường là sự tách biệt về kinh
tế do chế độ sở hữu khác nhau, về tư liệu sản xuất quy định. Vì vậy, để phát triển kinh tế
thị trường phải đa dạng hoá các hình thức sở hữu trong nền kinh tế. Đối với nước ta quá
trình đa dạng hoá được thể hiện bằng việc phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành
phần như các nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI, VII, VIII đã chỉ ra.
17
Đó là phát triển kinh tế Nhà nước, kinh tế hợp tác xã, kinh tế sản xuất hàng hoá nhỏ,
kinh tế tư nhân và tư bản nước ngoài.
Thành phần kinh tế Nhà nước đóng vai trò chủ đạo trong nền kinh tế nước ta. Khu vực
kinh tế Nhà nước cần phải sắp xếp lại, đổi mới công nghệ và tổ chức quản lý, kinh doanh
có hiệu quả, liên kết và hỗ trợ các thành phần kinh tế khác, thực hiện vai trò chủ đạo và
chức năng của một công cụ quản lý vĩ mô của Nhà nước. Đối với những cơ sở không cần
giữ hình thức kinh tế Nhà nước cần chuyển sang hình thức sở hữu khác hoặc giải thể,
đồng thời giải quyết việc làm và đời sống cho người lao động.
Đối với kinh tế hợp tác, cần phải có sự tổng kết, rút kinh nghiệm về bài học hợp tác xã
kiểu cũ và xây dựng mô hình kinh tế hợp tác và hợp tác xã kiểu mới đang được phát triển
hiện nay, đổi mới tổ chức và phương thức hoạt động có hiệu quả thiết thực, phát triển
rộng rãi và đa dạng trong các ngành nghề, với quy mô hợp tác hoá khác nhau để huy động
nguồn lực vào phát triển kinh tế hàng hoá, kinh tế thị trường ở nước ta.
Đối với loại hình sản xuất hàng hoá nhỏ của nông dân, thợ thủ công, người buôn bán
nhỏ. Một mặt, thông qua cơ chế, chinh sách và hướng dẫn phát triển của Nhà nước
khuyến khích sự phát triển của thành phần kinh tế này. Mặt khác cần tăng cường công tác
quản lý để xây dựng nề nếp sản xuất kinh doanh theo quy định của pháp luật.
Đối với thành phần tư bản tư nhân. Cần có chính sách khuyến khích thành phần kinh
tế này để các nhà tư bản yên tâm và mạnh dạng đầu tư vào nền kinh tế, đặc biệt trong lĩnh
vực sản xuất hàng hoá tiêu dùng xuất khẩu.
Đối với thành phần kinh tế Nhà nước. Nhà nước cần phải có chính sách khuyến khích

thành phần kinh tế này phát triển kể cả với tư bản Nhà nước trong nước và tư bản nhà
nước nước ngoài. Vận dụng các hình thức kinh tế tư bản Nhà nước là phương thức để
chúng ta huy động sức mạnh dân tộc của các thành phần kinh tế khác.
Muốn vậy ta phải tăng cường sự lãnh đạo của Đảng cộng sản, vai trò điều tiết, quản lý
của Nhà nước pháp quyền XHCN và nhân tố quyết định vận động thành công KTTBCN ở
Việt Nam. Cần xây dựng hệ thống pháp luật rõ ràng, nhất quán, phù hợp với tập quán
quốc tế, đủ sức hẫp dẫn nhưng công bằng nghiêm minh.
18
Thực tế nước ta hiện nay ở vùng nông thôn và đặc biệt là vùng núi còn tồn tại khá
nặng nền sản xuất tính chất của nền kinh tế tự nhiên, tự cấp tự túc. Vì vậy, cần có chính
sách thúc đẩy sự phát triển mạnh mẽ của sản xuất hàng hoá ở các vùng này, đặc biệt phải
chú ý tới việc xây dựng các cơ sở hạ tầng, đẩy mạnh lưu thông hàng hoá với các vùng
phát triển trong nước.
4.2. Đẩy mạnh quá trình phân công lại lao động xã hội ở nước ta
Phân công lao động xã hội là điều kiện của sản xuất hàng hoá, của phát triển KTTT.
Vì vậy, quá trình phát triển KTTT ở nước ta đòi hỏi phải đẩy mạnh phân công lại lao động
xã hội. Muốn khai thác mọi nguồn lực cần phải phát triển nhiều ngành nghề, sử dụng có
hiệu quả cơ sở vật chất kỹ thuật hiện có và tạo việc làm cho người lao động. Phân công lại
lao động giữa các ngành theo hướng chuyên môn hoá sản xuất, hợp tác hoá, lao động
công nghiệp và dịch vụ tăng tuyệt đối và tương đối, lao động nông nghiệp giảm tuyệt đối
giữa lao động và tài nguyên, bảo vệ và phát triển môi trường sinh thái. Cùng với mở rộng
phân công lao động trong nước tiếp tục mở rộng phân công và hợp tác lao động quốc tế.
4.3. Tạo lập và phát triển đồng bộ các yếu tố thị trường
Đây là biểu hiện và tiền đề quan trọng nhất để phát triển KTTT. Thị trường là sản
phẩm tất yếu của sản xuất và lưu thông hàng hoá. Sản xuất và lưu thông hàng hoá phát
triển thị trường càng mở rộng. Sản xuất, lưu thông hàng hoá quyết định thị trường, song
thị trường cũng tác động trở lại, thúc đẩy sản xuất và lưu thông hàng hoá. Để mở rộng thị
trường và tạo lập đồng bộ các yếu tố thị trường cần tôn trọng quyền tự chủ sản xuất, kinh
doanh của các doanh nghiệp, đảm bảo sự cạnh tranh bình đẳng giữa các thành phần kinh
tế, xây dựng thị trường thống nhất và thông suốt cả nước; phát triển mạnh thị trường hàng

hoá và dịch vụ, trên cơ sở tìm hiểu nhu cầu mà tăng quy mô, chủng loại, nâng cao chất
lượng, tăng sức cạnh tranh của hàng tiêu dùng để thoả mãn nhu cầu trong nước và mở
rộng kim ngạch xuất khẩu.
Ngoài ra phải đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước để tăng năng suất lao
động, hạ giá thành sản phẩm, tạo điều kiện giảm giá cả hàng hoá, tăng thu nhập, tăng sức
mua, làm cho dung lượng thị trường nhất là thị trường nông thôn tăng lên.
19
Hình thành và phát triển thị trường sức lao động, vốn, tiền tệ, chứng khoán. Để các thị
trường này phát triển cần triệt để xoá bỏ bao cấp, thực hiện nguyên tắc tự do hoá giá cả,
tiền tệ hoá tiền lương, mở rộng cao loại thị trường, thực hiện giao lưu hàng hoá thông suốt
cả nước, lành mạnh hoá thị trường, khắc phục tình trạng kinh tế ngầm, kiểm soát và xử lý
nghiêm minh các vi phạm thị trường.
4.4. Đẩy mạnh cách mạng khoa học công nghệ, nhằm phát triển nền kinh tế
theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá
Trong kinh tế thị trường, các doanh nghiệp chỉ có thể đứng vững trong cạnh tranh nếu
thường xuyên tổ chức lại sản xuất, đổi mới thiết bịi, công nghệ nhằm tăng năng suất lao
động, hạ thấp chi phí sản xuất, nâng cao chất lượng sản phẩm. Muốn vậy, phải đẩy mạnh
công tác nghiên cứu và ứng dụng các thành tựu mới của cách mạng khoa học - công nghệ
vào sản xuất và lưu thông, đảm bảo cho hàng hoá đủ sức cạnh tranh trên thị trường
tiếnhành công nghiệp hoá, hiện đại hoá để tạo điều kiện cho kinh tế thị trường phát triển.
4.5. Tiếp tục đổi mới và nâng cao vai trò quản lý vĩ mô của Nhà nước
Để nền kinh tế phát triển theo định hướng XHCN, nhất thiết phải coi trọng vai trò -
quản lý vĩ mô của Nhà nước.
Trong xu thế hội nhập với nền kinh tế thế giới và khu vực, cần phải tiếp tục đổi mới
các công cụ, chính sách vĩ mô, đặc biệt là hệ thống tài chính tín dụng lưu thông tiền tệ,
chính sách phân phối thu nhập và kế hoạch hoá phát triển kinh tế xã hội. Việc đổi mới
này vừa phải theo quy tắc phù hợp với những phương thức quản lý của nền kinh tế thị
trường, đồng thời, đảm bảo cho nền kinh tế phát triển theo định hướng mà Đảng đã chọn.
4.6. Giữ vững ổn định chính trị, hoàn thiện hệ thống pháp luật, đổi mới chính
sách tài chính tiền tệ giá cả

Đây là những nhân tố quan trọng để phát tiển KTTT, để các nhà sản xuất kinh doanh
trong và ngoài nước yên tâm đầu tư. Nhà nước cần hạn chế can thiệp trực tiếp vào sản
xuất, kinh doanh của các doanh nghiệp, mà tập trung làm tốt các chức năng tạo môi
trường, hướng dẫn, hỗ trợ những yếu tố cần thiết để doanh nghiệp phát triển. Nhà nước
cần tăng cường kiểm soát việc sử dụng mọi nguồn lực nhằm bảo toàn và phát triển những
tài sản quốc gia. Xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật đồng bộ là công cụ rất quan
20
trọng để quản lý nền KTTT nhiều thành phần. Nó tạo hành lang pháp lý cho tất cả mọi
hoạt động sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp trong và ngoài nước. Với hệ thống pháp
luật đồng bộ, các doanh nghiệp chỉ có thể làm giàu trên cơ sở tuân thủ pháp luật.
4.7. Đào tạo đội ngũ cán bộ quản lý kinh doanh giỏi
Sự nghiệp phát triển kinh tế đặt con người vào vị trí trung tâm, thống nhất tăng trưởng
kinh tế với công bằng và tiến bộ xã hội. Con người bao giờ cũng là lực lượng sản xuất cơ
bản nhất của xã hội. Con người vừa là kết quả, vừa là điều kiện để sản xuất phát triển.
Mỗi cơ chế quản lý có đội ngũ cán bộ quản lý, kinh doanh tương ứng. Chúng ta cần đẩy
mạnh việc đào tạo và đào tạo lại đội ngũ cán bộ quản lý kinh tế, kinh doanh cho phù hợp
với mục tiêu phát triển kinh tế trong thời kỳ mới. Cần sử dụng bồi dưỡng, đãi ngộ đúng
đắn với đội ngũ cán bộ nhằm nâng cao nghiệp vụ của họ. Cơ cấu đội ngũ cán bộ cần chú
trọng đảm bảo cán bộ quản lý lẫn cán bộ kinh doanh cả ở phạm vi vĩ mô lẫn vi mô.
4.8. Mở rộng quan hệ kinh tế đối ngoại để phát triển kinh tế thị trường
Trong xu thế quốc tế hoá đời sống kinh tế, mọi quốc gia muốn thúc đẩy KTTT phát
triển phải hoà nhập kinh tế trong nước với nền kinh tế thế giới (mở rộng thị trường ngoài
nước, mở rộng hợp tác đầu tư với nước ngoài).
Muốn vậy phải đa dạng hoá hình thức, đa phương hoá đối tác, phải quán triệt nguyên
tắc đôi bên cùng có lợi, không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau và phân không
biệt chế độ chính trị - xã hội phải triệt để khai thác lợi thế so sánh của đất nước trong
quan hệ kinh tế nhằm khai thác tiềm năng lao động, tài nguyên thiên nhiên của đất nước,
tăng xuất khẩu để nhập khẩu, thu hút vốn kỹ thuật, công nghệ hiện đại, kinh nghiệm quản
lý.
Phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần theo định hướng XHCN là giải pháp

cơ bản để chuyển từ sản xuất nhỏ lên sản xuất lớn ở nước ta hiện nay. Việc đó không
nhằm ngoài mục tiêu giải phóng sức sản xuất, động viên tới mức cao nhất mọi nguồn lực
bên trong và ngoài nước phục vụ cho sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá, trên cơ sở
đó mà nâng cao năng suất lao động, hiệu quả kinh tế xã hội nhằm mục tiêu tối thượng là
cải thiện và nâng cao đời sống nhân dân, thực hiện mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội
21
công bằng văn minh. Thực hiện mục tiêu đó chính là giữ vững định hướng XHCN trong
công cuộc đổi mới nền kinh tế nước nhà.
22
KẾT LUẬN
Chúng ta khẳng định tính tất yếu của công cuộc đổi mới, đặc biệt là đổi mới về kinh
tế, nhưng cũng thấy mặt trái của nhiệm vụ này. Việc chuyển nền kinh tế tập trung quan
liêu bao cấp sang nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần vận động theo cơ chế thị trường
có sự quản lý của nhà nước là hoàn toàn đúng đắn và cần thiết để giải phóng và phát huy
các tiềm năng sản xuất trong xã hội. Nhưng sẽ sai lầm nếu cho rằng nền kinh tế thị trường
là liều thuốc vạn năng. Cùng với sự kích thích sản xuất phát triển, kinh tế thị trường cũng
là môi trường thuận lợi cho việc nảy sinh và phát triển nhiều loại tiêu cực xã hội. Đã xuất
hiện khuynh hướng làm giàu bằng bất cứ giá nào, kể cả lừa đảo, gây tội ác vi phạm pháp
luật sẵn sàng chà đạp lên lương tâm và nhân phẩm, lối sống trụy lạc, chạy theo những thị
hiếu thấp hèn, văn hoá không lành mạnh và những hủ tục mê tín, dị đoan đang phục hồi
và phát triển.
Trong thế hệ trẻ có một bộ phận phai nhạt lý tưởng, chạy theo lối sống thực dụng. Một
bộ phận không ít cán bộ, đảng viên có chức có quyền, trong đó có cả những người đã
từng đóng góp đáng kể cho cách mạng, cũng bị sa ngã và thoái hoá, biến chất
Tóm lại, phát triển kinh tế hàng nhiều thành phần trong nền kinh tế thị trường mở
không phải không có những hạn chế và tiêu cực nhưng những thành tựu đạt được đặc biệt
là động lực phát triển được tạo ra là không thể phủ nhận. Hơn nữa việc phát triển kinh tế
thị trường ở nước ta không phải là tự phát và sao chép cứng nhắc mà là phát triển kinh tế
thị trường theo định hướng XHCN. Có thể nói đây không phải là mô hình có sẵn trong
lịch sử mà đây là một sự khám phá mới, được xem như sự đột phá về mặt lý luận vốn

đang cần được bổ sung trong thời kỳ quá độ hiện nay.
Trong bối cảnh đó việc tăng cường nghiên cứu, tìm tòi những căn cứ khoa học và thực
tiễn làm cơ sở cho việc xác định những thành phần kinh tế và do đó là việc hoàn thiện
chính sách kinh tế nhiều thành phần ở nước ta là việc làm có ý nghĩa cả về lý luận và thực
tiễn hiện nay.
Tuy nhiên, trở ngại lớn nhất trong việc phát triển kinh tế hàng hoá nhiều thành phần ở
nước ta là thiếu hụt trong nhân tố con người. Nhân tố con người càng quan trọng bao
nhiêu thì sự yếu kém trong nhân tố con người càng gây hậu quả tiêu cực bấy nhiêu. Vì
23
vậy phải đặt con người vào vị trí trung tâm của sự phát triển, con người là mục tiêu và
người vào vị trí trung tâm của sự phát triển, con người là mục tiêu và động lực của phát
triển. Cần phải coi con người là vốn tức là coi như một thứ tài nguyên, nhưng là một thứ
tài nguyên đặc biệt, một vốn quý nhất của đất nước. Điều đặc biệt quan trọng ở đây là
phải đưa khái niệm nguồn lực con người thành một khái niệm công cụ cơ bản để điều
hành sự phát triển kinh tế xã hội, xem như sự phát triển con người là chỉ số quan trọng để
xác minh trình độ phát triển của một đất nước.
Như vậy, vấn đề con người là vấn đề trung tâm được quán xuyến và xuyên suốt và
trong toàn bộ nội dung và chiến lược phát triển kinh tế xã hội do đại hội Đảng toàn quốc
lần thứ VII đã đề ra.
Từ những điều đã nói ở trên, rút ra kết luận rằng: Việc Đảng và Nhà nước ta chủ
trương thực hiện nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, vận hành theo cơ chế thị trường
có sự quản lý của nhà nước theo định hướng XHCN hoàn toàn không phải là một kiểu
“bắt cá hai tay” hay là “một sự lựa chọn theo hệ tư tưởng do Đảng áp đặt lên toàn xã
hội” như có người bài bác. Trái lại, đó là một chủ trương đúng đắn, một sự lựa chọn có
khoa học được rút ra từ toàn bộ quá trình phát triển kinh tế hàng hoá, kinh tế thị trường
trên thế giới từ trước đến nay.
Phát triển kinh tế hàng hoá nhiều thành phần là chủ trương chiến lược lâu dài trong
thời kỳ quá độ góp phần phát huy quyền làm chủ, khơi dậy tiềm năng và sức sáng tạo của
dân, thúc đẩy sự hình thành và phát triển của kinh tế hàng hoá, tạo ra sự cạnh tranh sống
động trên thị trường.

Với chủ trương đó, chúng ta sử dụng cơ chế thị trường - một thành quả của nền văn
minh nhân loại - làm phương tiện để thúc đẩy phát triển kinh tế, tạo điều kiện cải thiện
đời sống nhân dân. Nhưng chúng ta quyết không theo mô hình kinh tế thị trường tự do tư
bản chủ nghĩa, không để cho cơ chế thị trường tự điều tiết nền kinh tế theo quy luật của
thế giới hoang dã “cá lớn nuốt cá bé”, dẫn đến chỗ “loại trừ xã hội đối với một bộ phận
ngày càng lớn nhân dân lao động”, như chính như nhiều nhà khoa học có đầu óc khách
quan ở các nước tư bản đã chỉ ra.
24
Trong hoàn cảnh cụ thể nước ta hiện nay, chúng ta coi trọng vai trò quản lý và điều tiết
vĩ mô của Nhà nước đối với kinh tế thị trường để đảm bảo định hướng XHCN của chiến
lược phát triển và mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng văn minh.
Để chuyển từ sản xuất nhỏ lên sản xuất lớn ở nước ta hiện nay thì phải phát triển nền
kinh tế hàng hoá nhiều thành phần theo định hướng XHCN là một tất yếu khách quan. Để
thực hiện tốt ta phải không ngừng phát huy nhân tố con người đồng thời áp dụng có hiệu
quả những thành tựu khoa học kỹ thuật để công nghiệp hoá và hiện đại hoá đất nước.
Chắc chắn còn nhiều khó khăn và thử thách trên con đường đi tới mục tiêu trên. Song
những thành tựu to lớn của sự nghiệp đổi mới dưới sự lãnh đạo của Đảng trong những
năm qua cho chúng ta cơ sở để tin rằng mục tiêu đó nhất định sẽ thực hiện được.
25

×