Tải bản đầy đủ (.doc) (108 trang)

Nghiên cứu tình hình thu hút đầu tư nước ngoài vào khu công nghiệp đại an, thành phố hải dương, tỉnh hải dương giai đoạn 2004 – 2009

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (5.58 MB, 108 trang )

PHẦN I: ĐẶT VẤN ĐỀ
1.1 Tính cấp thiết của đề tài
Với mục tiêu, nhiệm vụ chủ yếu phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 2006 –
2010 do Đảng và Nhà nước ta đề ra là: “… Đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại
hóa và phát triển kinh tế tri thức, tạo nền tảng để đưa nước ta cơ bản trở thành một
nước công nghiệp theo hướng hiện đại vào năm 2020…” [1], trong khi đó, tích lũy
nội bộ của Việt Nam còn thấp, nguồn vốn đầu tư phát triển của ngân sách Nhà
nước không đủ đáp ứng phát triển các ngành công nghiệp mũi nhọn, công nghệ cao,
mà đòi hỏi cần phải huy động rất lớn các nguồn vốn đầu tư của các thành phần kinh
tế trong và ngoài nước. Một trong những nguồn vốn chính cần huy động cho đầu tư
phát triển công nghiệp nước ta hiện nay là nguồn vốn đầu tư nước ngoài FDI. Vì
vậy, để thực hiện được mục tiêu trên thì Đảng và Nhà nước phải có chủ trương,
chính sách xây dựng các KCN, KCX tập trung và thu hút các nguồn vốn đầu tư
nước ngoài vào các KCN, KCX, góp phần xây dựng cho bằng được nền tảng của
một nước công nghiệp. Bởi vì KCN, với việc tập trung đầu tư các công trình kết
cấu hạ tầng kỹ thuật và áp dụng mô hình quản lý đặc biệt, là một hình thức sản xuất
công nghiệp hiện đại, có hiệu quả, tạo sự hấp dẫn trong thu hút đầu tư nước ngoài
và là một trong những giải pháp quan trọng để đẩy nhanh tiến trình CNH, HĐH đất
nước. Phát triển KCN đã mang lại bước phát triển mới vượt bậc của công nghiệp
nước ta, tăng khả năng thu hút đầu tư, đẩy mạnh sản xuất tăng nguồn hàng xuất
khẩu, tạo việc làm và từng bước phát triển công nghiệp theo quy hoạch, tránh tự
phát, phân tán, tiết kiệm đất, sử dụng có hiệu quả vốn đầu tư phát triển hạ tầng, hạn
chế ô nhiễm do chất thải công nghiệp gây ra, làm cơ sở cho phát triển các đô thị
công nghiệp, phân bố hợp lý lực lượng sản xuất và đóng vai trò quan trọng trong
việc thực hiện đường lối phát triển của Đảng và Nhà nước.
Hải Dương là một tỉnh thuộc đồng bằng Bắc Bộ, có vị trí rất quan trọng
trong tam giác kinh tế trọng điểm Hà Nội – Hải Phòng – Quảng Ninh. Vì vậy, trong
những năm vừa qua Hải Dương đã có chủ trương, cơ chế chính sách thu hút đầu tư
thông thoáng, cởi mở, rất chú trọng đầu tư, xây dựng các KCN tập trung, đẩy mạnh
quá trình công nghiệp hóa. Đặc biệt, Hải Dương đầu tư nhiều tỷ đồng từ nguồn vốn
ngân sách địa phương, nguồn ngân sách hỗ trợ từ Trung ương vào xây dựng các


[1] Nguồn: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, năm 2006, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội, trang 186

1


công trình hạ tầng ngoài hàng rào các KCN. Ngoài ra, tỉnh còn đầu tư kinh phí để
xây dựng các đường gom cho các CCN, một trong những KCN nằm trong CCN
chiến lược của tỉnh là KCN Đại An. Với phương châm hoạt động “minh bạch, công
khai, hỗ trợ tối đa cho các nhà đầu tư” và “thành công của các nhà đầu tư chính là
sự thành công của của khu công nghiệp Đại An”, tập thể cán bộ, công nhân viên
Ban quản lý KCN Đại An với trình độ nghiệp vụ chuyên môn khá cùng tinh thần
làm việc nhiệt tình, hết mình vì “ngôi nhà chung Đại An” luôn sẵn sàng hỗ trợ
nhanh chóng, toàn diện cho các nhà đầu tư vào KCN, thực hiện các hoạt động thu
hút đầu tư vào KCN. Do đó, từ sau khi thành lập KCN Đại An đến nay, KCN đã
thu hút được 31 dự án đầu tư và lấp đầy được 76,43% diện tích khu I, diện tích đất
khu II mới được thực hiện xong công tác đền bù giải phóng mặt bằng là 210 ha và
đang thực hiện các công trình hạ tầng kỹ thuật. Hệ thống hạ tầng kỹ thuật KCN
được đầu tư xây dựng đồng bộ, hiện đại gồm hệ thống điện, nước, thoát nước, giao
thông, thông tin liên lạc, hệ thống chiếu sáng, trung tâm kho vận, an ninh, hệ thống
cây xanh… Các doanh nghiệp đang hoạt động sản xuất kinh doanh trong KCN Đại
An là các tập toàn lớn đến từ nhiều quốc gia và vùng lãnh thổ trên thế giới như Mỹ,
Nhật, Pháp, Đức, Hàn Quốc, Trung Quốc, Malayxia, Canada, Đài Loan… KCN
Đại An được xây dựng theo tiêu chuẩn của một KCN sạch, không gây ô nhiễm môi
trường. Tuy nhiên, bên cạnh các kết quả đạt được còn tồn tại một số hạn chế, chưa
tương xứng với tiềm năng và thế mạnh của KCN như chưa chú trọng đầu tư các
ngành công nghiệp phụ trợ, lao động chất lượng cao còn thiếu, các kênh thông tin
giới thiệu về KCN hoạt động kém hiệu quả… Để sớm hòa chung vào xu hướng
phát triển của các KCN trong cả nước, Ban quản lý KCN Đại An cần phải xem xét
lại công tác phát triển và thu hút đầu tư vào KCN trong thời gian qua, tìm ra các
yếu tố ảnh hưởng, nguyên nhân của những tồn tại trên, từ đó có những biện pháp

phù hợp nhằm hoàn thiện hơn công tác phát triển và môi trường thu hút đầu tư vào
khu công nghiệp Đại An trong thời gian tới.
Xuất phát từ những nhận định như trên, với hy vọng góp phần nhất định vào
việc giải quyết những vấn đề khó khăn và vướng mắc trong việc thu hút đầu tư vào
khu công nghiệp Đại An, chúng tôi chọn đề tài: “Nghiên cứu tình hình thu hút
đầu tư nước ngoài vào khu công nghiệp Đại An, thành phố Hải Dương, tỉnh Hải
Dương giai đoạn 2004 – 2009” làm khóa luận tốt nghiệp đại học.

2


1.2 Mục tiêu nghiên cứu của đề tài
1.2.1 Mục tiêu chung
Nghiên cứu thực trạng thu hút đầu tư nước ngoài vào KCN Đại An giai đoạn
2004 – 2009, từ đó đề xuất một số biện pháp nhằm tăng cường thu hút đầu tư vào
KCN Đại An, thành phố Hải Dương, tỉnh Hải Dương giai đoạn 2010 – 2015.
1.2.2 Mục tiêu cụ thể
- Góp phần hệ thống hóa một số lý luận và thực tiễn về KCN và thu hút đầu
tư nước ngoài vào KCN.
- Đánh giá thực trạng thu hút đầu tư nước ngoài vào KCN Đại An, thành phố
Hải Dương, tỉnh Hải Dương giai đoạn 2004 – 2009.
- Đưa ra định hướng và đề xuất một số biện pháp nhằm tăng cường thu hút
đầu tư nước ngoài vào KCN Đại An, thành phố Hải Dương, tỉnh Hải Dương giai
đoạn 2010 – 2015.
1.3 Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của đề tài
1.3.1 Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là KCN Đại An và các nhà đầu tư đã và
đang chuẩn bị đầu tư vào KCN Đại An, thành phố Hải Dương, tỉnh Hải Dương.
1.3.2 Phạm vi nghiên cứu
- Không gian: Nghiên cứu KCN Đại An trên địa bàn thành phố Hải Dương,

tỉnh Hải Dương.
- Thời gian: Đề tài sử dụng các thông tin, số liệu trong các năm từ 2004 đến
2009 và tăng cường thu hút đầu tư nước ngoài vào KCN giai đoạn 2010 – 2015.
- Nội dung: Đề tài nghiên cứu thực trạng thu hút đầu tư nước ngoài, môi
trường đầu tư ở KCN Đại An giai đoạn 2004 – 2009 và một số yếu tố ảnh hưởng
tới tình hình thu hút đầu tư nước ngoài vào KCN Đại An trong thời gian qua, từ đó
đề xuất một số biện pháp nhằm tăng cường thu hút đầu tư nước ngoài vào KCN
trong giai đoạn tới 2010 – 2015.

3


PHẦN II: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ THU HÚT
ĐẦU TƯ
2.1 Một số vấn đề lý luận
2.1.1 Một số vấn đề lý luận về đầu tư
2.1.1.1 Khái niệm về đầu tư
Luật Đầu tư được Quốc hội nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam
khóa XI, kỳ họp tứ 8 (từ ngày 18 tháng 10 đến ngày 29 tháng 11 năm 2005) thông
qua, quy định:
- Đầu tư là việc nhà đầu tư bỏ vốn bằng các loại tài sản hữu hình hoặc vô
hình để hình thành tài sản tiến hành các hoạt động đầu tư theo quy định của Luật
này và các quy định khác của pháp luật có liên quan.
- Đầu tư trực tiếp là hình thức đầu tư do nhà đầu tư bỏ vốn đầu tư và tham
gia quản lý hoạt động đầu tư.
- Đầu tư gián tiếp là hình thức đầu tư thông qua việc mua cổ phần, cổ phiếu,
trái phiếu, các giấy tờ có giá khác, quỹ đầu tư chứng khoán và thông qua các định
chế tài chính trung gian khác mà nhà đầu tư không trực tiếp tham gia quản lý hoạt
động đầu tư.
- Nhà đầu tư là tổ chức, cá nhân thực hiện hoạt động đầu tư theo quy định

của pháp luật Việt Nam, bao gồm:
+ Doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế thành lập theo Luật doanh
nghiệp;
+ Hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã thành lập theo Luật hợp tác xã;
+ Doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài được thành lập trước khi Luật này
có hiệu lực;
+ Hộ kinh doanh, cá nhân;
+ Tổ chức, cá nhân nước ngoài; người Việt Nam định cư ở nước ngoài;
người nước ngoài thường trú ở Việt Nam;
+ Các tổ chức khác theo quy định của pháp luật Việt Nam.
- Nhà đầu tư nước ngoài là tổ chức, cá nhân nước ngoài bỏ vốn để thực hiện
hoạt động đầu tư tại Việt Nam.

4


- Doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài bao gồm doanh nghiệp do nhà đầu
tư nước ngoài thành lập để thực hiện hoạt động đầu tư tại Việt Nam; doanh nghiệp
Việt Nam do nhà đầu tư nước ngoài mua cổ phần, sáp nhập, mua lại.
- Hoạt động đầu tư là hoạt động của nhà đầu tư trong quá trình đầu tư bao
gồm các khâu chuẩn bị đầu tư, thực hiện và quản lý dự án đầu tư.
- Dự án đầu tư là tập hợp các đề xuất bỏ vốn trung và dài hạn để tiến hành
các hoạt động đầu tư trên địa bàn cụ thể, trong khoảng thời gian xác định.
- Vốn đầu tư là tiền và các tài sản hợp pháp khác để thực hiện các hoạt động
đầu tư theo hình thức đầu tư trực tiếp hoặc đầu tư gián tiếp.
- Vốn Nhà nước là vốn đầu tư phát triển từ ngân sách Nhà nước, vốn tín
dụng do Nhà nước bảo lãnh, vốn tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước và vốn
đầu tư khác của Nhà nước.
- Chủ đầu tư là tổ chức, cá nhân sở hữu vốn hoặc người thay mặt chủ sở hữu
hoặc người vay vốn và trực tiếp quản lý, sử dụng vốn để thực hiện hoạt động đầu tư.

- Đầu tư nước ngoài là việc nhà đầu tư nước ngoài đưa vào Việt Nam vốn
bằng tiền và các tài sản hợp pháp khác để tiến hành hoạt động đầu tư.
- Đầu tư trong nước là việc nhà đầu tư trong nước bỏ vốn bằng tiền và các
tài sản hợp pháp khác để tiến hành hoạt động đầu tư tại Việt Nam.
- Lĩnh vực đầu tư có điều kiện là lĩnh vực chỉ được thực hiện đầu tư với các
điều kiện cụ thể do pháp luật quy định.
2.1.1.2 Nguồn vốn đầu tư
* Bản chất của nguồn vốn đầu tư:
Vốn đầu tư là tiền tích lũy của xã hội, của các cơ sở sản xuất kinh doanh
dịch vụ, là tiết kiệm của dân và vốn huy động từ các nguồn khác được đưa vào sử
dụng trong quá trình tái sản xuất xã hội nhằm duy trì tiềm lực sẵn có và tạo tiềm
lực mới cho nền sản xuất xã hội. Trong điều kiện nền kinh tế mở, nguồn vốn để đầu
tư ngoài tiết kiệm trong nước còn có thể huy động vốn từ nước ngoài.
* Nguồn vốn đầu tư từ trong nước
Nguồn vốn trong nước được hiểu theo nghĩa rộng bao gồm toàn bộ các
nguồn lực được đưa vào vòng chu chuyển của nền kinh tế. Nó không chỉ bao gồm
tiền vốn biểu hiện bằng tài sản hiện vật như máy móc, vật tư, lao động, đất đai, tài

5


nguyên… mà nó còn bao gồm giá trị của những tài sản vô hình như vị trí địa lý,
thành tựu khoa học công nghệ, bản quyền phát minh sáng chế. Các bộ phận cấu
thành nguồn vốn trong nước bao gồm:
- Nguồn vốn đầu tư từ ngân sách Nhà nước là nguồn vốn do Nhà nước sở
hữu và điều hành. Đây không phải là nguồn vốn sử dụng vào các mục tiêu cá nhân
nên nó mang tính xã hội rất lớn. Nguồn vốn này được hình thành từ thu thuế, phí và
lệ phí, các khoản viện trợ hoặc các khoản thu khác. Về nguyên tắc vốn tích lũy từ
ngân sách được xác định bằng cách lấy tổng thu nhập trừ đi các khoản chi tiêu. Đối
với Chính phủ đặc biệt là Chính phủ các nước đang phát triển chi cho đầu tư phát

triển là một nhiệm vụ chi quan trọng. Các khoản chi của Chính phủ qua ngân sách
Nhà nước gồm: Chi mua hàng hóa, dịch vụ, các khoản trợ cấp và chi trả lãi suất các
khoản tiền vay.
- Vốn tích lũy của các doanh nghiệp
+ Đối với doanh nghiệp Nhà nước, vốn đầu tư được hình thành từ nguồn
ngân sách đã cấp, các khoản trích khấu hao cùng lợi nhuận tích lũy được.
+ Đối với doanh nghiệp ngoài quốc doanh nguồn vốn đầu tư bao gồm: Vốn
tự có, vốn vay, vốn cổ phần, vốn liên doanh liên kết với cá nhân tổ chức trong và
ngoài nước.
- Nguồn vốn tiết kiệm của dân cư là nguồn vốn nhỏ lẻ nằm phân tán trong dân
chúng nhưng cũng chiếm một tỷ trọng không nhỏ trong tổng vốn toàn xã hội. Mức tiết
kiệm của dân cư một mặt phụ thuộc vào mức thu nhập của họ, mặt khác tùy thuộc vào
mức lãi suất tiền gửi tiết kiệm và chính sách ổn định tiền tệ của Nhà nước.
* Nguồn vốn huy động từ nước ngoài
- Vốn đầu tư gián tiếp là vốn của các Chính phủ, các tổ chức quốc tế, các tổ
chức phi Chính phủ được thực hiện dưới các hình thức khác nhau như viện trợ hoàn
lại, viện trợ không hoàn lại, cho vay ưu đãi với thời hạn dài và lãi suất thấp, kể cả
vay theo hình thức thông thường. Một hình thức phổ biến của đầu tư gián tiếp tồn
tại dưới loại hình ODA – viện trợ phát triển chính thức của các nước công nghiệp
phát triển. Vốn đầu tư gián tiếp thường lớn nên có tác dụng mạnh và nhanh đối với
việc giải quyết dứt điểm cấc nhu cầu phát triển kinh tế, xã hội của nước nhận đầu
tư. Tuy nhiên, tiếp nhận vốn đầu tư gián tiếp thường gắn với sự trả giá về mặt chính

6


trị, tình trạng nợ chống chất nếu không sử dụng có hiệu quả và thực hiện nghiêm
ngặt chế độ trả nợ vay.
- Vốn đầu tư trực tiếp (FDI) là vốn các của các doanh nghiệp và cá nhân
nước ngoài đầu tư sang các nước khác và trực tiếp quản lý hoặc tham gia quản lý

quá trình sử dụng và thu hồi vốn bỏ ra. Vốn này thường không đủ lớn để giải quyết
dứt điểm từng vấn đề kinh tế, xã hội của nước nhận đầu tư. Tuy nhiên với vốn đầu
tư trực tiếp, nước nhận đầu tư không phải lo trả nợ, lại có thể dễ dàng có được công
nghệ, học tập được kinh nghiệm quản lý, tác phong làm việc theo lối công nghiệp
của nước ngoài, gián tiếp có chỗ đứng trên thị trường thế giới.
Đối với các nước đang phát triển, một vấn đề nan giải là thiếu vốn và dẫn tới
thiếu các điều kiện cần thiết cho sự phát triển như công nghệ, cơ sở hạ tầng … để
tạo ra “cú hích” đầu tiên cho sự phát triển. Để có được tích lũy ban đầu từ trong
nước cho đầu tư phát triển kinh tế không thể không huy động vốn từ nước ngoài.
Để thu hút nhanh nguồn vốn đầu tư trực tiếp từ nước ngoài đòi hỏi các nước phải
tạo lập môi trường thuận lợi, thông thoáng, hấp dẫn cho nhà đầu tư như cung cấp
cơ sở hạ tầng, dịch vụ. tạo lập đồng bộ cơ chế chính sách, luật pháp, lập các KCN,
KCX, KCNC hướng thu hút vốn đầu tư từ nước ngoài đầu tư vào.
2.1.1.3 Phân loại đầu tư
Có thể phân loại đầu tư theo các tiêu chí cơ bản sau:
* Căn cứ vào mục đích đầu tư
- Đầu tư phi lợi nhuận là việc sử dụng các nguồn lực để thực hiện các hoạt
động không nhằm mục tiêu lợi nhuận. Đây là các hoạt động đầu tư của Nhà nước
hoặc tổ chức, cá nhân nhằm thực hiện các mục tiêu kinh tế, xã hội.
- Đầu tư kinh doanh là các hoạt động đầu tư sử dụng các nguồn lực để kinh
doanh thu lợi nhuận.
* Căn cứ vào nguồn vốn đầu tư
- Đầu tư trong nước là hoạt động đầu tư mà nguồn lực đầu tư được huy động
từ ngân sách Nhà nước và các tổ chức, cá nhân trong nước.
- Đầu tư nước ngoài: Là hoạt động đầu tư mà các nguồn lực đầu tư được huy
động từ các tổ chức cá nhân nước ngoài hoặc tư người của nước nhận đầu tư định
cư ở nước ngoài đầu tư về nước.
7



* Căn cứ vào tính chất quản lý của nhà đầu tư đối với vốn đầu tư
- Đầu tư trực tiếp là hoạt động đầu tư trong đó người bỏ vốn trực tiếp tham
gia quản lý, điều hành quá trình sử dụng các nguồn lực (vốn) đầu tư. Trong hoạt
động đầu tư trực tiếp không có sự tách bạch giữa quyền sở hữu và quyền quản lý
của nhà đầu tư đối với vốn đầu tư. Đầu tư trực tiếp có thể phân chia như sau:
+ Đầu tư trực tiếp trong nước là việc bỏ vốn của các tổ chức, cá nhân trong
nước để kinh doanh theo các hình thức do pháp luật quy định.
+ Đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) là một loại quan hệ kinh tế có nhân tố
nước ngoài, được đặc trưng bởi sự di chuyển nguồn lực đầu tư (tư bản) trên phạm
vi quốc tế với mục đích kinh doanh thu lợi.
- Đầu tư gián tiếp là hình thức đầu tư mà ở đó nhà đầu tư không trực tiếp
tham gia quản lý hoạt động đầu tư. Người đầu tư vốn và người quản lý, sử dụng
vốn là hai chủ thể khác nhau và có thẩm quyền chi phối khác nhau đối với nguồn
lực đầu tư. Những hoạt động đầu tư mà nhà đầu tư không trực tiếp nắm quyền quản
lý, kiểm soát và điều hành hoạt động kinh doanh đều có tính chất đầu tư gián tiếp.
2.1.2 Một số vấn đề lý luận về khu công nghiệp
2.1.2.1 Khái niệm khu công nghiệp, khu chế xuất
Theo Luật Đầu tư được Quốc hội nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt
Nam khóa XI, kỳ họp thứ 8 (Từ ngày 18 tháng 10 đến ngày 29 tháng 11 năm 2005)
thông qua thì:
- Khu công nghiệp là khu chuyên sản xuất hàng công nghiệp và thực hiện
các dịch vụ cho sản xuất công nghiệp, có ranh giới địa lý xác định, được thành lập
theo Quy định của Chính phủ.
- Khu chế xuất là KCN chuyên sản xuất hàng xuất khẩu, thực hiện các dịch
vụ cho sản xuất hàng xuất khẩu và hoạt động xuất khẩu, có ranh giới địa lý xác
định, được thành lập theo Quy định của Chính phủ.
2.1.2.2 Đặc điểm của KCN
- KCN có ranh giới địa lý xác định được phân cách bằng đường bao hữu
hình hoặc vô hình, không có dân cư sinh sống.


8


- Là nơi hoạt động sản xuất của các doanh nghiệp công nghiệp (hàng tiêu
dùng, hàng công nghiệp chế biến, hàng tư liệu sản xuất) và hệ thống doanh nghiệp
công nghiệp hỗ trợ và doanh nghiệp dịch vụ cho sản xuất công nghiệp. Các doanh
nghiệp này sử dụng chung hạ tầng kỹ thuật và xã hội theo một cơ chế tổ chức quản
lý thống nhất của Ban quản lý KCN.
- Được sự quản lý trực tiếp của Chính phủ (từ quyết định thành lập, quy
hoạch tổng thể, khung điều lệ mẫu, kiểm tra, kiểm soát…).
- Trong KCN có doanh nghiệp phát triển hạ tầng KCN, có trách nhiệm đảm
bảo hạ tầng kỹ thuật và xã hội của cả khu trong suốt thời gian tồn tại KCN.
2.1.2.3 Các loại hình khu công nghiệp
- Phân loại KCN theo quy mô:
+ KCN tập trung: có quy mô từ 50 ha trở lên.
+ KCN vừa và nhỏ: có quy mô nhỏ hơn 50 ha.
- Phân theo chủ đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng KCN:
+ KCN do doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài làm chủ đầu tư.
+ KCN do liên doanh giữa doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài và các
doanh nghiệp trong nước. Đặc trưng của các KCN này là được xây dựng hiện đại có
quy mô thường lớn hơn 100 ha, xuất đầu tư bình quân 1triệu USD/ha. Thường ở các
KCN này khi xây dựng hoàn chỉnh mới cho các nhà đầu tư thuê xây dựng hạ tầng.
+ KCN do doanh nghiệp trong nước làm chủ đầu tư. Đặc trưng của các KCN
này thường được xây dựng theo hình thức cuốn chiếu (xây dựng đến đâu cho các
nhà đầu tư thuê sau đó mới tiếp tục xây dựng tiếp), xuất đầu tư của các KCN này
bình quân 120.000 USD/ha
- Phân theo mục đích phát triển KCN:
+ KCN nhằm thu hút đầu tư nước ngoài: Thường tập trung ở các thành phố
lớn, các trung tâm kinh tế lớn của đất nước, quy mô thường lớn hơn 100 ha.
+ KCN nhằm di dời các cơ sở công nghiệp trong các thành phố, đô thị lớn.

Thường tập trung ở các thành phố lớn, có quy mô nhỏ hơn 100 ha.

9


+ KCN gắn với ưu thế của địa phương: Thường có quy mô nhỏ hơn 100 ha,
gắn với lợi thế của địa phương và chế biến các nông sản, thực phẩm do địa phương
đó sản xuất ra.
- Phân theo đặc điểm ngành công nghiệp:
+ KCN tập trung các ngành công nghiệp nặng và công nghiệp chế tạo.
+ KCN tập trung các ngành công nghiệp nhẹ và sản xuất hàng tiêu dùng:
Sản xuất các sản phẩm như may mặc, điện tử, da-giầy, xe máy, …
+ KCN tập trung các ngành công nghiệp dịch vụ: Chuyên sản xuất các sản
phẩm phục vụ cho các ngành công nghiệp như bao bì, đóng gói, …
+ KCN gắn với nông nghiệp, nông thôn: gồm các ngành công nghiệp
chế biến sản phẩm nông nghiệp, sản xuất các sản phẩm hỗ trợ cho nông nghiệp
và nông thôn…
- Phân theo trình độ công nghệ hoá:
+ KCN tập trung sản xuất các sản phẩm có hàm lượng công nghệ thấp và
trung bình tương đương với trình độ công nghệ của các doanh nghiệp công nghiệp
ngoài khu.
+ KCN tập trung sản xuất các sản phẩm có hàm lượng công nghệ khá so với
các ngành công nghiệp trong nước nhưng chỉ đạt mức trung bình trong khu vực.
+ KCN tập trung sản xuất các sản phẩm có hàm lượng công nghệ khá so với
khu vực.
+ KCN tập trung sản xuất các sản phẩm có hàm lượng công nghệ tiên tiến so
với khu vực và thế giới.
2.1.3 Vai trò của khu công nghiệp, khu chế xuất và thu hút đầu tư vào khu công
nghiệp, khu chế xuất
2.1.3.1 Vai trò của khu công nghiệp, khu chế xuất trong việc nâng cao trình độ

công nghệ, hiện đại hóa cách thức quản lý sản xuất
KCN, KCX là khu vực có những điều kiện thuận lợi về cơ sở hạ tầng cùng
với nhiều chính sách ưu đãi đầu tư được áp dụng. Đây chính là điểm đến lý tưởng
của các nhà đầu tư, trong đó có đầu tư nước ngoài. Một số công nghệ tiên tiến, hiện
đại trên thế giới cùng trình độ quản lý cao của đội ngũ cán bộ doanh nghiệp, trình
10


độ tay nghề của công nhân theo các chuẩn mực quốc tế đã được áp dụng tại Việt
Nam. Đây cũng là những nhân tố quan trọng góp phần để nước ta thực hiện việc
chủ động hội nhập kinh tế quốc tế.
KCN là nơi tiếp nhận công nghệ mới, tập trung những ngành nghề mới, góp
phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng CNH, HĐH. Cùng với dòng vốn đầu
tư nước ngoài đầu tư vào các dự án sản xuất kinh doanh trong KCN, các nhà đầu tư
còn đưa vào Việt Nam những dây chuyền sản xuất với công nghệ tiên tiến, hiện
đại, trong đó có cả những dự án công nghiệp kỹ thuật cao (phần lớn của Nhật Bản),
như Công ty TNHH Canon Việt Nam, Mabuchi Motor, Orion Hanel…, những lĩnh
vực mà chúng ta còn yếu kém và cần khuyến khích phát triển như cơ khí chính xác,
điện tử…
Các dự án đầu tư vào KCN tập trung vào các ngành công nghiệp nhẹ như dệt
may, da giầy, công nghiệp chế biến thực phẩm (chiếm trên 50% tổng số dự án), đây
là các dự án thu hút nhiều lao động, có tỷ lệ xuất khẩu cao và đã góp phần nâng cấp
các ngành này về dây chuyền công nghệ, chất lượng sản phẩm… Tuy nhiên, các
KCN cũng đã thu hút được các dự án có quy mô và yêu cầu vốn lớn, công nghệ cao
như dầu khí, sản xuất ô tô, xe máy, dụng cụ văn phòng, cơ khí chính xác, vật liệu
xây dựng… Mặc dù số lượng các dự án này trong KCN mới chiếm khoảng 5 – 10%
số dự án, nhưng cũng đã góp phần phát triển và đa dạng hóa cơ cấu ngành nghề
công nghiệp.
Các doanh nghiệp trong KCN, đặc biệt là các doanh nghiệp có vốn đầu tư
nước ngoài đã góp sức đào tạo được đội ngũ lao động công nghiệp sử dụng và vận

hành thành thạo các trang thiết bị phục vụ quản lý và sản xuất, nắm vững công
nghệ, có tác động lan tỏa và nâng trình độ tay nghề của đội ngũ lao động Việt Nam
lên một bước. Một lượng đáng kể người lao động Việt Nam được đảm nhận các vị
trí quản lý doanh nghiệp, được tiếp xúc với phương thức quản trị doanh nghiệp tiên
tiến, hiện đại, kỹ năng marketing, quản lý tài chính, tổ chức nhân sự… Việc được
trực tiếp làm việc trong môi trường có kỷ luật cao, yêu cầu tay nghề cao, dã rèn
luyện được những kỹ năng và bản lĩnh làm việc giúp người lao động Việt Nam
thích ứng với một nền công nghiệp tiên tiến, hiện đại.

11


2.1.3.2 Vai trò của KCN, KCX trong việc hiện đại hóa hệ thống kết cấu hạ tầng
Qua quá trình hình thành và phát triển KCN ở Việt Nam, nhiều KCN đã và
đang đóng vai trò quan trọng và tạo ra một khí thế phát triển mới cho nền kinh tế cả
nước. Tại các vùng hay địa phương có các KCN hoạt động mạnh thì mức độ tăng
trưởng kinh tế ở đó cao hơn những nơi KCN chưa phát triển.
Việc phát triển các KCN trong thời gian qua không những thúc đẩy các
ngành dịch vụ phát triển, thúc đẩy CNH – HĐH nông nghiệp nông thôn, mà còn
đẩy nhanh tốc độ đô thị hóa, góp phần đáng kể vào việc hiện đại hóa hệ thống kết
cấu hạ tầng trong và ngoài KCN. Điều này được thể hiện qua một số khía cạnh sau:
- Đẩy mạnh phát triển kết cấu hạ tầng các KCN có tác dụng kích thích sự
phát triển kinh tế địa phương, góp phần rút ngắn sự chênh lệch phát triển giữa nông
thôn và thành thị, nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân. Điều này có
thể dễ dàng nhận nhất ở những vùng có KCN phát triển mạnh như Biên Hòa, Nhơn
Trạch (Đồng Nai), Thuận An (Bình Dương), Tiên Sơn (Bắc Ninh)… cùng với quá
trình phát triển KCN, các điều kiện về kỹ thuật hạ tầng trong khu vực đã được cải
thiện đáng kể, nhu cầu về các dịch vụ gia tăng, góp phần thúc đẩy hoạt động kinh
doanh cho các cơ sở dịch vụ trong vùng.
- Cùng với các chính sách ưu đãi về tài chính và công tác quản lý thuận lợi

của Nhà nước có thể nói việc thu hút nguồn vốn để đầu tư xây dựng hoàn thiện và
đồng bộ các kết cấu hạ tầng trong KCN có vai trò quyết định trong việc thu hút đầu
tư. Việc các doanh nghiệp thuộc nhiều thành phần kinh tế (doanh nghiệp quốc
doanh, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, doanh nghiệp ngoài quốc doanh)
tham gia đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng KCN không những tạo điều kiện thuận
lợi cho các doanh nghiệp trong KCN hoạt động hiệu quả, mà còn tạo sự đa dạng
hóa thành phần doanh nghiệp tham gia xúc tiến đầu tư góp phần tạo sự hấp dẫn
trong việc thu hút các doanh nghiệp công nghiệp vào KCN.
- Việc đầu tư hoàn thiện hạ tầng kỹ thuật trong KCN không những thu hút
các dự án đầu tư mới mà còn tạo điều kiện cho các doanh nghiệp mở rộng quy mô
để tăng năng lực sản xuất và cạnh tranh, hoặc di chuyển ra khỏi các khu đông dân
cư, tạo điều kiện để các địa phương giải quyết các vấn đề ô nhiễm, bảo vệ môi
trường đô thị, tái tạo và hình thành quỹ đất mới phục vụ các mục đích khác của

12


cộng đồng trong khu vực như KCN Tân Tạo (thành phố Hồ Chí Minh), Việt Hương
(Bình Dương)…
- Quá trình xây dựng kết cấu hạ tầng trong và ngoài hàng rào KCN còn đảm
bảo sự liên thông giữa các vùng, định hướng cho quy hoạch phát triển các khu dân
cư mới, các khu đô thị vệ tinh, hình thành các ngành công nghiệp phụ trợ, dịch
vụ… các công trình hạ tầng xã hội phục vụ đời sống người lao động và cư dân
trong khu vực như: nhà ở, trường học, bệnh viện, khu giải trí…
- Tạo điều kiện cho các doanh nghiệp đón bắt và thu hút đầu tư các ngành
như điện, giao thông vận tải, hệ thống thông tin liên lạc, cảng biển, các hoạt động
dịch vụ tài chính, ngân hàng, bảo hiểm, xúc tiến đầu tư, phát triển thị trường địa
ốc… đáp ứng nhu cầu hoạt động và phát triển của các KCN.
2.1.4 Một số yếu tố ảnh hưởng đến thu hút đầu tư vào khu công nghiệp
2.1.4.1 Những yếu tố bên ngoài hàng rào khu công nghiệp

* Sự ổn định của thể chế chính trị - xã hội
Đây là một trong những điều kiện quan trọng nhất đối với nhà đầu tư, bởi
bất cứ sự bất ổn nào của thể chế chính trị - xã hội đều có thể dẫn tới rủi ro và tổn
thất, thậm chí cả nguy cơ phá sản. Ngoài các yếu tố quan trọng khác như những yếu
tố về thị trường thì sự ổn định về chính trị - xã hội cũng là một nhân tố có sức hấp
dẫn cao.
* Sự ổn định và tính minh bạch của hệ thống chính sách kinh tế, chính sách quản lý
và các chính sách có liên quan
Một hệ thống chính sách ổn định, rõ ràng sẽ giúp các nhà đầu tư hoạch định
chiến lược đầu tư và kinh doanh dài hạn trên cơ sở luận cứ khoa học. Nếu hệ thống
chính sách thường xuyên bị điều chỉnh, không ổn định chắc chắn sẽ gây lo ngại cho
nhà đầu tư do họ không thể dự báo được tương lai, do đó không hoạch định được
kế hoạch, bước đi cụ thể kể cả ngắn hạn cũng như dài hạn. Trong các hệ thống
chính sách cần được ổn định lâu dài và minh bạch thì những chính sách tài chính,
thuế khóa, chính sách thương mại quốc tế và những chính sách trực tiếp tác động
đến khả năng thu lợi nhuận của nhà đầu tư giữ vai trò quan trọng và quyết định đối
với việc thu hút đầu tư vào các KCN.

13


* Lợi thế về điều kiện tự nhiên, vị trí địa lý, đa dạng các nguồn lực của một vùng
hay một quốc gia
Những vùng hay quốc gia có nhiều tài nguyên hoặc lợi thế về điều kiện tự
nhiên, vị trí địa lý là những vùng, quốc gia thu hút được mạnh nhất dòng vốn đầu
tư, đặc biệt là các nước đang phát triển. Bản chất tìm kiếm lợi nhuận của nhà đầu tư
là khai thác được những yếu tố đầu vào với giá rẻ.
* Lợi thế về nguồn lao động dồi dào
Nguồn lực ở đây không chỉ đơn thuần hiểu về số lượng mà các nhà đầu tư
quan tâm dặc biệt tới nguồn nhân lực có trình độ tay nghề cao, ý thức kỷ luật lao

động tốt, đặc biệt đối với những ngành kinh tế có hàm lượng tri thức cao. Chỉ một
số ngành công nghiệp hoặc một số công đoạn cần nhiều nhân công lao động phổ
thông thì các nhà đầu tư quan tâm tới các nước đang phát triển có nguồn lao động
phổ thông dồi dào và giá nhân công rẻ mạt.
* Trình độ phát triển của nền kinh tế và đặc điểm phát triển của nền văn hóa xã
hội
Sự thuận lợi hay không thuận lợi về cơ sở hạ tầng kỹ thuật, chất lượng cung
cấp các dịch vụ, ngôn ngữ, tôn giáo, phong tục tập quán đều trở thành sự khuyến
khích hay kìm hãm việc thu hút các nhà đầu tư vào các KCN.
2.1.4.2 Những yếu tố bên trong hàng rào khu công nghiệp
Mục tiêu của các doanh nghiệp có cả trong ngắn hạn và dài hạn. Do vậy, bên
cạnh những yếu tố thuộc nhóm các yếu tố môi trường vĩ mô thì theo các chuyên gia
kinh tế, các nhà đầu tư lựa chọn địa điểm đầu tư dựa trên các yếu tố sau [2]:
- Sự thuận lợi về vị trí địa lý và giao thông của KCN như sự gắn kết của
KCN với hệ thống đường sắt, đường bộ, đường hàng không, đường thủy.
- Khoảng cách của KCN đến các trung tâm dân cư, trung tâm các trường đào tạo.
- Hệ thống cơ sở hạ tầng kỹ thuật của KCN như hệ thống cấp thoát nước, hệ
thống cấp điện, hệ thống đường nội bộ, hệ thống thông tin liên lạc…
- Hệ thống hỗ trợ kinh doanh như hệ thống ngân hàng, hải quan, hệ thống
bảo vệ, dịch vụ logistic và các ngành công nghiệp phụ trợ.

14


- Chính sách giá, phí của KCN về giá thuê đất, phí bảo dưỡng và duy tu hạ
tầng hàng năm, phí xử lý nước thải, cước phí vận chuyển, giá điện, giá nước, mức
lương trung bình trong KCN.
[2] Nguồn: Tổng hợp từ trang 17,18,19, “Kỹ năng xúc tiến đầu tư”, năm 2003, Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Dự án
2.2
sốcủa

vấn
tiễn
xúc
tiếnMột
đầu tư
Hoađề
Kỳthực
vào Việt
Nam, NXB Chính trị quốc gia.

2.2.1 Kinh nghiệm của một số nước trong trên thế giới về việc thu hút đầu tư
nước ngoài vào khu công nghiệp
2.2.1.1 Kinh nghiệm của Đài Loan
Đài Loan là một quần đảo nhỏ 36.000 km 2 nằm trên vịnh Bắc Bộ. Sớm
nhận thức được hạn chế của mình là đất chật, người đông, tài nguyên khoáng sản
nghèo nàn, mức độ phụ thuộc của nền kinh tế vào ngoại thương rất lớn, nên ngay từ
cuối những năm 50 của thế kỷ XX, các nhà hoạch định chính sách của Đài Loan đã
xác định muốn tồn tại và phát triển được, thì Đài Loan phải xây dựng mô hình kinh
tế theo “cơ chế hướng ngoại” và phải phát triển công nghiệp. Trong đó, mô hình
KCN được coi là chiến lược tạo thuận lợi quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa
nền kinh tế.
Năm 1960, KCN đầu tiên của Đài Loan được xây dựng tại Kulung, 31 năm
sau (năm 1991) Đài Loan đã xây dựng được 95 KCN với tổng diện tích khoảng
13.003 ha. Trong đó, 58 khu do Nhà nước trực tiếp xây dựng hệ thống kết cấu hạ
tầng, số còn lại do tư nhân và các tổ chức đoàn thể đầu tư xây dựng.
Về chính sách phát triển KCN:
- Về quy hoạch phát triển các KCN: Công tác xây dựng quy hoạch phát triển
các KCN ở Đài Loan được tổ chức rất khoa học và chặt chẽ. Trước hết, Cục Công
nghiệp thuộc Bộ Kinh tế tiến hành khảo sát, đánh giá tiềm năng, lợi thế so sánh của
từng vùng kết hợp với việc dự báo, đánh giá về xu hướng phát triển khoa học công

nghệ, triển vọng thị trường đầu tư và thương mại quốc tế trong thời gian 10 – 20
năm tới để xây dựng chiến lược và quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế quốc dân,
định hướng phát triển ngành nghề theo không gian lãnh thổ (vùng, khu vực). Sau
đó, trên cơ sở quy hoạch tổng thể định hướng phát triển của từng vùng và khu vực,
các nhà đầu tư xác định khả năng xây dựng các KCN với quy mô thích hợp và lập
quy hoạch chi tiết trình cơ quan có thẩm quyền xin phép đầu tư xây dựng KCN.
Với cách làm này, việc xây dựng các KCN vừa đảm bảo phù hợp với quy hoạch

15


tổng thể của cả nước, vừa phù hợp với thực tế của địa phương và khả năng của nhà
đầu tư nên tính khả thi của dự án cao hơn.
Để đảm bảo cho các KCN hoạt động có hiệu quả, sự phát triển các KCN ở
Đài Loan luôn gắn liền với việc xây dựng một hệ thống kết cấu hạ tầng hoàn chỉnh,
bao gồm cả hạ tầng kỹ thuật và xã hội bên trong và bên ngoài KCN như hệ thống
giao thông nội bộ, hệ thống thông tin liên lạc, cung cấp điện nước, các dịch vụ bưu
điện, ngân hàng, bảo hiểm, hệ thống xử lý chất thải tập trung… Xây dựng các khu
đô thị xung quanh, đảm bảo cung cấp nguồn nhân lực và dịch vụ tiện ích công
nghiệp và đời sống. Trong đó, đặc biệt chú trọng đến công tác bảo vệ môi trường.
Trong các KCN luôn đảm bảo một tỷ lệ kết cấu hợp lý giữa diện tích đất dành
cho sản xuất khoảng 60%, đất dành cho xây dựng khu dân cư từ 2,2 – 2,3%, đất dành
cho công trình bảo vệ môi trường 33% (trong đó, đất trồng cây xanh khoảng 10%) và
đất dành cho phát triển các công trình vui chơi giải trí khoảng 4,7 – 4,8%.
Quy hoạch xây dựng và phát triển KCN của Đài Loan không phải cố định,
mà thường xuyên được kiểm tra và đánh giá lại về tính phù hợp giữa quy hoạch và
thực tế, nhất là những vấn đề liên quan đến môi trường để kịp thời điều chỉnh, bổ
sung. Theo quy định hiện nay, việc kiểm tra, đánh giá được tiến hành 3 năm một
lần. Việc quy hoạch xây dựng các KCN của Đài Loan luôn tuân theo nguyên tắc là
khai thác và sử dụng có hiệu quả lợi thế so sánh của từng vùng và đất nước, hạn

chế sử dụng đất nông nghiệp vào việc phát triển các KCN. Vì vậy rất nhiều KCN ở
Đài Loan được xây dựng ở những vùng đất cằn cỗi hoặc đất lấn biển. Việc xây
dựng các KCN ở những nơi này không chỉ tiết kiệm được quỹ đất nông nghiệp vốn
rất khan hiếm của Đài Loan, mà còn giảm thiểu được các chi phí về đền bù, giải
phóng mặt bằng và có điều kiện để xây dựng ngay từ đầu một hệ thống kết cấu hạ
tầng đồng bộ và hiện đại theo chuẩn mực quốc tế.
- Về định hướng phát triển KCN: Các nhà hoạch định chính sách Đài Loan
xác định, để có thể bắt kịp với xu thế toàn cầu hóa nền kinh tế và sự tiến bộ vượt
bậc của khoa học công nghệ trên thế giới, trong những năm tới việc phát triển các
KCN tập trung cần được đổi mới theo hướng chuyển thành các KCN có dịch vụ kỹ
thuật, công nghệ cao, đáp ứng được nhiệm vụ là nơi tập trung chuyển và chế biến
sản phẩm cao cấp cho xuất khẩu và thị trường trong nước.

16


- Về phát triển hệ thống kết cấu hạ tầng KCN: Xây dựng hệ thống kết cấu hạ
tầng đồng bộ, hiện đại vừa tạo điều kiện cho các doanh nghiệp giảm thiểu chi phí
sản xuất, vừa có điều kiện để xử lý chất thải, bảo vệ môi trường, vừa giúp cho các
doanh nghiệp có thể sớm triển khai các dự án đầu tư. Đây là yếu tố tạo nên sự hấp
dẫn cho các KCN. Ở Đài Loan, Ban quản lý KCN đồng thời là nhà đầu tư phát triển
hệ thống kết cấu hạ tầng các KCN. Trên mảnh đất đã được quy hoạch công ty kinh
doanh hạ tầng KCN xây dựng sẵn nhà máy, cung cấp kết cấu hạ tầng đồng bộ và
phương tiện hỗ trợ cơ bản khác cho các nhà đầu tư công nghiệp thuê. Phương thức
này, giúp cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ (dưới 200 lao động) có thể triển khai
ngay được dự án đầu tư mà không phải bỏ vốn xây dựng nhà xưởng sản xuất và các
công trình phụ trợ khác.
- Về thu hút đầu tư và cơ cấu ngành nghề trong các KCN: Bên cạnh việc xây
dựng sẵn hệ thống kết cấu hạ tầng đồng bộ, Chính phủ Đài Loan còn dành cho các nhà
đầu tư vào các KCN nhiều ưu đãi, đặc biệt là chính sách thuế, với mức thuế suất Thuế

thu nhập doanh nghiệp thấp, thời gian miễn và giảm thuế dài, giá thuê đất đã phát triển
hạ tầng thấp, được hỗ trợ vốn vay, các thủ tục hành chính được giảm thiểu và đơn giản
hóa. Các doanh nghiệp KCN được Nhà nước đảm bảo quyền sở hữu đối với vốn và tài
sản, được chuyển lợi nhuận ra nước ngoài…, nên các KCN đã thực sự là địa điểm hấp
dẫn đối với các nhà đầu tư trong và ngoài nước.
Việc thu hút đầu tư, phát triển công nghiệp và đầu tư vào các KCN ở Đài
Loan được thực hiện theo phương châm: “Nhân dân có việc làm với thu nhập thỏa
đáng, Nhà nước thu được nhiều thuế và doanh nghiệp có lãi”. Khi sản xuất phát
triển, thu nhập và đời sống của người lao động nâng lên, Ngân sách Nhà nước lớn
mạnh sẽ tạo ra nội lực mới để vươn lên tự lực, tự cường. Phương châm này chi phối
việc xây dựng chính sách, pháp luật, tổ chức bộ máy quản lý nhà nước và tạo nên
một môi trường đầu tư, môi trường kinh doanh thuận lợi, thông thoáng và hấp dẫn.
Đồng thời, chính sách phát triển của Đài Loan được tiến hành từng giai đoạn:
+ Giai đoạn I, Chính phủ Đài Loan chủ trương phát triển mạnh các ngành
công nghiệp nhẹ, sản xuất hàng xuất khẩu và những ngành sử dụng nhiều lao động.
+ Giai đoạn II, bắt đầu từ năm 1965 đến cuối những năm 80 của thế kỷ XX,
giai đoạn này các chính sách của Đài Loan chủ yếu tập trung vào việc đẩy mạnh

17


thu hút đầu tư nước ngoài, bằng việc Chính phủ thành lập nhiều KCN. Đặc biệt là
Chính phủ cho xây dựng 3 KCX và ban bố luật về KCX với nhiều ưu đãi hơn cả về
tài chính và thủ tục hành chính, thực hiện cơ chế quản lý “một cửa” tại các Ban
quản lý KCX.
+ Giai đoạn III, từ năm 1990 đến nay, chính sách phát triển KCN, chuyển từ
đầu tư diện rộng sang nâng cao chất lượng các KCN bằng việc tập trung xây dựng
các KCN cao, kết hợp chặt chẽ giữa khoa học – công nghệ với công nghiệp khuyến
khích việc nghiên cứu và triển khai R - D trong các ngành công nghiệp, thành lập
và tổ chức lại nhiều viện nghiên cứu..., phát triển các KCN với nhiều hình thức đa

dạng như KCN đa ngành; KCN chuyên ngành: dầu khí, ô tô, xi măng; KCN dành
cho các doanh nghiệp trẻ mới thành lập và các KCX, KCN cao Tân Trúc.
- Về tổ chức bộ máy và cơ chế quản lý nhà nước đối với KCN: Cục Công
nghiệp trực thuộc Bộ Kinh tế là cơ quan quản lý Nhà nước, chịu trách nhiệm xây
dựng chiến lược, quy hoạch phát triển ngành công nghiệp và quản lý, điều hành
hoạt động của các KCN trong phạm vi toàn quốc; ban hành các văn bản pháp lý,
xây dựng các chuẩn mực cho việc phát triển KCN. Căn cứ vào tiến trình phát triển,
hình thức tổ chức quản lý được thay đổi cho thích hợp.
Trong thời kỳ đầu, chính quyền Trung ương thống nhất quản lý Nhà nước
đối với tất cả các KCN, KCX trên phạm vi cả nước, bao gồm từ việc xây dựng
chiến lược phát triển các KCN, hoạch định chính sách phát triển ngành công nghiệp
và các KCN, lựa chọn vị trí xây dựng KCN, phát triển hệ thống kết cấu hạ tầng
KCN, vận động xúc tiến đầu tư và triển khai các dự án đầu tư. Khi các KCN đã đi
vào hoạt động ổn định, Chính phủ tiến hành phân cấp quản lý cho chính quyền địa
phương (trừ những KCN có vị trí chiến lược, sản xuất các mặt hàng mũi nhọn, có
tác động lớn đối với nền kinh tế). Hiện tại, Cục Công nghiệp thuộc Bộ Kinh tế trực
tiếp quản lý theo hình thức lập Ban điều hành KCN, do các doanh nghiệp KCN cử
đại diện. Nhà nước không thành lập cơ quan quản lý riêng cho từng khu, hoặc cụm
KCN. Các doanh nghiệp KCN chịu sự quản lý của chính quyền địa phương và các
ngành chức năng như những doanh nghiệp ngoài KCN.
Việc giải quyết các vấn đề liên quan đến hoạt động của các KCN ở Đài Loan
như cấp phép đầu tư, hải quan, thuế… được tiến hành theo cơ chế “một cửa”. Nhà

18


nước quy định rất rõ: Người có nhu cầu giải quyết công việc chỉ cần đến một nơi, ở
đó sẽ được thông báo công khai tiến trình, thời hạn xử lý công việc. Nơi nhận hồ sơ
sẽ chịu trách nhiệm đôn đốc, xử lý công việc ở các khâu tiếp theo và trả kết quả
đúng hẹn cho người có nhu cầu.

Có thể nói, hệ thống chính sách kinh tế ở Đài Loan luôn được hoạch định và
điều chỉnh kịp thời khi tình hình kinh tế - xã hội trong nước và quốc tế thay đổi,
nên nó có tính năng động và tính khả thi cao, thực sự trở thành kim chỉ nam, đòn
bẩy kích thích sự phát triển của các KCN và nền kinh tế.
2.2.1.2 Kinh nghiệm của Thái Lan
Từ một nước phát triển nông nghiệp là chủ yếu, Thái Lan đã trở thành một
nước công nghiệp mới nhờ vai trò quan trọng của chính sách thu hút vốn nước
ngoài thích hợp và hiệu quả vào các KCN. Thái Lan phát triển mô hình KCN từ
năm 1970. Mô hình KCN của Thái Lan là mô hình KCN tập trung tổng hợp, bao
gồm KCN, KCX và các khu dịch vụ. Cho đến cuối năm 2000, Thái Lan có 55 KCN
tập trung với tổng diện tích hơn 14.000 ha. Các KCN ở Thái Lan được phân bổ
theo 3 vùng:
- Vùng I bao gồm thủ đô Băng Kok và 5 tỉnh lân cận, có 11 KCN được
thành lập với tổng diện tích gần 2.800 ha.
- Vùng II bao gồm 12 tỉnh tiếp theo, có 19 KCN được thành lập với tổng
diện tích 5.300 ha.
- Vùng III bao gồm 58 tỉnh còn lại, có 25 KCN được thành lập với tổng diện
tích 5.900 ha. Trong số các KCN thì KCN Maptaphut là KCN lớn nhất với diện tích là
1.180 ha, bên cạnh đó cũng có các KCN có quy mô diện tích nhỏ vài chục ha.
Các KCN ở Thái Lan được coi là khu vực được ưu tiên vì các nhà đầu tư
trong và ngoài nước đều được Chính phủ cho hưởng một chính sách ưu đãi để
nhằm hướng vào việc mở rộng ra ngoài Băng Kok. Có KCN ở Thái Lan giống như
một thị trấn hay là một thành phố công nghiệp. Môi trường trong các KCN được xử
lý có hệ thống và đồng bộ, công nhân làm việc trong các KCN dần dân được đào
tạo ngày càng nâng cao tay nghề, các công nghệ được tập trung ở một số KCN là
điều kiện cho sự chuyển giao khoa học và công nghệ giữa các nhà công nghiệp. Cơ
chế quản lý dịch vụ “một cửa” ở Thái Lan đối với các KCN hoạt động có hiệu quả.

19



Có đại diện của các Bộ, ngành tham gia và có cơ quan thường trú đóng tại các
vùng, các KCN để giải quyết các thủ tục liên quan cho các nhà đầu tư.
Thái Lan tập trung đầu tư kỹ thuật cao ở một số KCN, CSHT được thiết kế
và xây dựng theo công nghệ tiên tiến, hiện đại cùng với kế hoạch xúc tiến đầu tư
mang tính chiến lược nhằm thu hút phát triển các ngành công nghiệp như chế biến
thực phẩm, dệt, làm đồ trang sức…, chú trọng xây dựng các kết cấu hạ tầng như
đường xá, cầu cống, bến cảng. Trong quá trình phát triển các KCN, Thái Lan rất
chú trọng giải quyết việc ô nhiễm môi trường và hạn chế tập trung các KCN ở gần
các trung tâm du lịch.
2.2.1.3 Kinh nghiệm của Malaysia
Trong các nước đang phát triển, Malaysia được đánh giá là nước thành công
trong thu hút FDI để thực hiện công nghiệp hóa. Từ một nước nông nghiệp lạc hậu,
đa sắc tộc, tích luỹ nội địa thấp, Malaysia luôn coi trọng nguồn vốn FDI đối với sự
phát triển nền kinh tế đất nước vì đây là yếu tố then chốt đẻ thực thiện công nghiệp
hóa. Do quan điểm như vậy nên Malaysia đã luôn tích cực cải thiện môi trường đầu
tư của mình để thu hút đầu tư nước ngoài. Nhờ đó, dòng FDI đổ vào Malaysia ngày
càng tăng và đã đóng góp to lớn tạo ra sự tăng trưởng “thần kỳ” cả nền kinh tế
nước này trong nhiều năm qua.
Nhờ vào chính sách đầu tư thông thoáng, đầu tư nước ngoài của Malaysia
năm1991 đạt 6,4 tỷ USD và đến năm 1996 chiếm hơn ½ tổng số vốn đầu tư trong
cả nước. Các nước đầu tư lớn nhất vào Malaysia là Nhật Bản, Đoài Loan, tương
ứng đạt 7,02 tỷ USD và 2,29 tỷ USD.
Mới 20 năm trước đây, Malaysia vẫn còn là nước xuất khẩu dầu thô, dầu
thực vật, cao su, chì, gỗ và các nguyên liệu khác. Tỷ lệ của hàng công nghiệp trong
tổng kim ngạch xuất khẩu chỉ đạt 22% vào những năm 1980. Nhưng từ năm 1996,
tỷ lệ đó đã lên 80% và hiện nay Malaysia là một trong những trung tâm sản xuất
điện tử cao cấp trên thế giới.
Kinh nghiệm thu hút vốn đầu tư của Malaysia chủ yếu tập trung vào:
- Xây dựng hệ thống chính trị ổn định và đoàn kết dân tộc;

- Hệ thống giáo dục vững mạnh;
- Hệ thống cơ sở hạ tầng hiện đại;
- Có kế hoạch phát triển kinh tế ngắn hạn và dài hạn với mục tiêu rõ ràng;

20


- Có chương trình khuyến khích đầu tư tích cực cho cả người đầu tư trong và
ngoài nước.
2.2.2 Tình hình thu hút đầu tư nước ngoài vào các khu công nghiệp trong cả
nước và kinh nghiệm của một số tỉnh tại Việt Nam
2.2.2.1 Tình hình thu hút đầu tư nước ngoài vào các khu công nghiệp trong cả nước
Gắn liền với những thành tựu chung của đất nước, trong 20 năm qua cả nước
ta đã hình thành hơn 200 KCN, KCX, khu công nghệ cao, khu kinh tế ven biển và
khu kinh tế cửa khẩu… (gọi chung là KCN) được phân bố hợp lý và phát triển phù
hợp với điều kiện thực tế trên hầu hết các vùng kinh tế. Các KCN đã có sức lan tỏa,
thúc đẩy quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế, bước đầu mở ra những ngành kinh tế
mới, cơ cấu sản xuất nội bộ ngành công nghiệp dần chuyển biến theo hướng hiện
đại. Các KCN trên cả nước đã huy động sức mạnh tổng hợp của mọi thành phần
kinh tế, thu hút gần 7.000 dự án (trong và ngoài nước) đầu tư vào KCN, với tổng
nguồn vốn đầu tư thực hiện hơn 20 tỷ USD; hàng năm tạo ra 40% giá trị sản xuất
công nghiệp, hơn 60% giá trị xuất khẩu của cả nước; giải quyết việc làm trực tiếp
cho khoảng trên 1,5 triệu lao động.
Trong đó, vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) vào Việt Nam trong 10
tháng đầu năm 2009 tiếp tục theo chiều hướng tích cực trên cả 3 phương diện vốn
đăng ký cấp mới, tăng vốn và giải ngân.
Từ đầu năm đến cuối tháng 9 năm 2009, tổng vốn FDI đăng ký cấp mới
và tăng vốn chỉ đạt 12,54 tỷ USD nhưng tính đến 21/10/2009 thì tổng vốn FDI
cả cấp mới và tăng vốn đạt 18,92 tỷ USD. Như vậy, chỉ trong tháng 10 năm
2009, lượng vốn FDI đăng ký mới và tăng vốn vào Việt Nam đạt 6,38 tỷ. Con số

này thể hiện niềm tin của các nhà đầu tư và khả năng phục hồi mạnh mẽ của nền
kinh tế Việt Nam.
Trong 18,92 tỷ vốn FDI vào Việt Nam thì có 14,05 tỷ USD là vốn đăng ký
mới với 658 dự án. Tuy chỉ bằng 27,1% so với cùng kỳ năm 2008 nhưng 14,05 tỷ
USD đăng ký mới cũng là con số khá cao trong bối cảnh khủng hoảng kinh tế hiện
nay. Bên cạnh đó là 179 dự án đăng ký tăng vốn đầu tư với tổng vốn đăng ký tăng
thêm là 4,87 tỷ USD, bằng 95,2% so với cùng kỳ năm 2008.

21


Dịch vụ, lưu trú và ăn uống vẫn là lĩnh vực quan tâm nhất của các nhà đầu tư
với số vốn đăng ký 8,73 tỷ USD, chiếm khoảng 46% tổng vốn đăng ký. Riêng
trong tháng 10 năm 2009, có 4 dự án thuộc lĩnh vực này đăng ký mới với số vốn là
4,16 tỷ USD. Xếp thứ 2 là lĩnh vực kinh doanh bất động sản với số vốn đăng ký là
5,677 tỷ USD, chiếm khoảng 30% tổng số vốn đăng ký. Riêng trong tháng 10 năm
2009 có 3 dự án đăng ký mới với số vốn 2,02 tỷ USD. Điều này thể hiện sự nóng
lên của thị trường kinh doanh bất động sản đang diễn ra. Tiếp theo là lĩnh vực công
nghiệp, chế biến và chế tạo với số vốn đăng ký là 2,65 tỷ USD.
Trong 10 tháng đầu năm 2009, Hoa Kỳ vẫn tiếp tục là nhà đầu tư lớn nhất
vào Việt Nam với số vốn đăng ký 8,11 tỷ USD. Chiếm gần 43% tổng vốn đăng ký.
Riêng tháng 10 năm 2009, các nhà đầu tư Hoa Kỳ đã đăng ký 5 dự án mới với 4,16
tỷ USD. Điều này một lần nữa lại thể hiện niềm tin của các nhà đầu tư Hoa Kỳ với
thị trường Việt Nam. Tiếp theo là Cayman Islands và Samoa với số vốn lần lượt là
1,7 tỷ USD và 1,36 tỷ USD.
Bà Rịa – Vũng Tàu vẫn là địa phương dẫn đầu về thu hút đầu tư với số vốn
đăng ký là 6,66 tỷ USD. Tuy nhiên trong tháng 10 năm 2009, Bà Rịa – Vũng Tàu
không có dự án đăng ký mới và tăng vốn. Tiếp theo là Quảng Nam từ vị trí thứ 23
lên vị trí thứ 2 với số vốn đăng ký là 2,46 tỷ USD. Xếp thứ 3 là Bình Dương với số
vốn đăng ký là 1,23 tỷ USD.

Giải ngân vốn FDI trong 10 tháng đầu năm 2009 ước đạt 8 tỷ USD tiến gần
đến mục tiêu giải ngân của năm 2009 là 10 tỷ USD. Tổng giá trị xuất khẩu trong
khối FDI tính cả dầu thô ước đạt 24,197 tỷ USD, bằng 82 % so với cùng kỳ năm
ngoái. Nếu không tính giá trị xuất khẩu dầu thô, giá trị xuất khẩu trong khối FDI
đạt 18,821 tỷ USD, bằng 93,8% so với cùng kỳ năm ngoái. Giá trị nhập khẩu trong
khối FDI ước đạt 19,966 tỷ USD, bằng 83,8% so với cùng kỳ năm ngoái.
Trong 2 tháng cuối năm 2009, với việc tiếp tục triển khai các chương trình xúc
tiến đầu tư trong và ngoài nước thời gian qua cũng như sắp tới, nhiều khả năng vốn
FDI thu hút mới trong năm 2009 sẽ vượt trên 20 tỷ USD và tiếp tục tăng lên vào
các năm sau và hoàn thành mục tiêu giải ngân vốn FDI trong năm 2009 là 10 tỷ USD.
Để tiếp tục thu hút nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài nói riêng và phát
triển các KCN bền vững và hiệu quả, trong thời gian tới, tùy theo điều kiện hoạt

22


động cụ thể, việc xây dựng KCN phải gắn với quy hoạch và nhiệm vụ phát triển
kinh tế của địa phương, của từng vùng mà cơ quan quản lý nhà nước. Ban quản lý
các KCN cần tập trung thực hiện những nhiệm vụ trọng tâm: Xây dựng đồng bộ
các công trình hạ tầng, có chất lượng, đúng tiến độ; cải thiện môi trường đầu tư,
kinh doanh; xúc tiến đầu tư; thu hút các dự án đầu tư vào những lĩnh vực phù hợp
với mục tiêu phát triển công nghiệp, công nghệ cao của vùng; duy trì tốc độ tăng
trưởng bền vững về sản xuất công nghiệp và xuất khẩu; tích cực thực hiện những
biện pháp sử dụng hợp lý và tiết kiệm diện tích đất, nhất là đất nông nghiệp; khắc
phục ngay những yếu kém trong công tác bảo vệ môi trường và bảo đảm điều kiện
sống, làm việc cho người lao động…
2.2.2.2 Kinh nghiệm của Bắc Ninh
Bắc Ninh là một tỉnh nằm ở cửa ngõ phía bắc thủ đô Hà Nội - Trung tâm xứ
kinh Bắc cổ xưa, nơi có truyền thống khoa bảng và nền văn hóa lâu đời. Được thiên
nhiên ưu đãi, nơi đây có đất đai trù phú và hệ thống giao thông thuận lợi nằm trong

vùng kinh tế động lực tam giác tăng trưởng Hà Nội - Hải Phòng - Quảng Ninh. Với
lợi thế “thiên thời, địa lợi, nhân hòa”, mảnh đất “địa linh nhân kiệt” giàu tiềm năng
đã và đang phát huy hiệu quả trong quá trình xây dựng và phát triển kinh tế - xã hội
theo hướng CNH, HĐH. Những năm gần đây thực hiện công cuộc đổi mới, kinh tế
tỉnh Bắc Ninh tiếp tục phát triển với những bước đi vững chắc, tốc độ tăng trưởng
kinh tế nhanh trên hai con số, mang lại nguồn thu ngân sách lớn, góp phần tạo
nhiều công ăn việc làm và nâng cao đời sống cho nhân dân.
Để đẩy nhanh tốc độ thu hút đầu tư trong và ngoài nước vào tỉnh, song song
với việc triển khai Luật Đầu tư, Luật Doanh nghiệp vào cuộc sống và phát huy
những lợi thế sẵn có về con người và hệ thống cơ sở hạ tầng tốt, Bắc Ninh đã có
nhiều chính sách ưu đãi đầu tư thông thoáng, cởi mở, tạo sân chơi bình đẳng cho
các doanh nghiệp đầu tư trong và ngoài nước, đồng thời tăng cường cải cách thủ
tục hành chính “minh bạch, công khai” theo quy trình “một cửa” và làm tốt công
tác xúc tiến, thu hút đầu tư. Nhờ đó môi trường đầu tư trên địa bàn tỉnh ngày càng
được cải thiện. Kết quả là đã thu hút được nhiều nhà đầu tư đến tìm kiếm cơ hội
đầu tư, đặc biệt là đầu tư vào các KCN. Xác định phát triển các KCN chính là động
lực để đẩy nhanh thu hút nguồn vốn đầu tư vào tỉnh, vì vậy Bắc Ninh đã quan tâm

23


và chỉ đạo sát sao Ban quản lý các KCN tỉnh tập trung phát triển các KCN. Kết quả
là năm 2000 Bắc Ninh mới chỉ có một KCN được thành lập với tổng diện tích giai
đoạn I là 134 ha (KCN Tiên Sơn), đến nay trên địa bàn tỉnh đã có 10 KCN với tổng
diện tích 5.475 ha, trong đó có 4 khu đã đi vào hoạt động; 2 khu mới khởi công xây
dựng; còn lại 4 khu đang trong giai đoạn chuẩn bị đầu tư. Vừa qua Bộ Kế hoạch và
Đầu tư đã thẩm định trình Thủ tướng Chính phủ phê duyệt bổ sung thêm 6 KCN
với diện tích 1.423,9 ha đất công nghiệp. Các KCN đã tham gia vào việc phân bố,
điều chỉnh lại không gian kinh tế - xã hội của tỉnh, thể hiện rõ nhất là thúc đẩy phát
triển hệ thống cơ sở hạ tầng như điện, nước, giao thông vận tải… và tạo sự phát

triển đồng đều, hỗ trợ lẫn nhau giữa khu vực phía bắc sông Đuống (phát triển công
nghiệp và dịch vụ) và phía nam sông Đuống (phát triển nông nghiệp theo hướng
hàng hóa cao sản).
Song song với thành công trong công tác quy hoạch phát triển các KCN,
công tác xúc tiến và thu hút đầu tư vào các KCN thời gian qua đã đạt được nhiều
kết quả khá ấn tượng, làm thay đổi diện mạo mới cho ngành công nghiệp, thúc đẩy
nhanh chuyển dịch cơ cấu kinh tế và tăng trưởng kinh tế của tỉnh. Đến nay các
KCN Bắc Ninh đã thu hút được 310 dự án với tổng vốn đăng ký gần 2,5 tỷ USD,
đã cho thuê 759,78 ha đất công nghiệp, đạt 3,2 triệu USD/ha và 7,85 triệu USD/dự
án, trong đó vốn thuộc ngành điện tử chiếm tỷ lệ cao nhất (48,4%), chủ yếu là dự
án đầu tư nước ngoài của các tập đoàn kinh tế có thương hiệu khu vực và toàn cầu
trong các lĩnh vực điện, điện tử, viễn thông công nghệ cao: Canon 2 dự án,
Sumitomo, Foxconn, Samsung, Tyco Electronic, Longtech, Mitac. Đặc biệt thu hút
được một số dự án hạ tầng KCN thuộc các tập đoàn lớn: VSIP Bắc Ninh
(Singapore), tập đoàn IGS (Hàn Quốc), Foxconn (Honghai)… KCN cũng đã
chuyển hướng xúc tiến đầu tư theo chuỗi (các tập đoàn lớn và cụm các nhà đầu tư
kinh doanh hạ tầng KCN, nhà đầu tư tài chính) để kéo theo nhiều nhà đầu tư thứ
cấp khác tạo giá trị gia tăng cao, thay thế hình thức xúc tiến đơn lẻ trước đây.
Hoạt động quản lý sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp KCN có bước
tăng trưởng lớn cả về số lượng và chất lượng. Đến nay đã có 135 dự án đi vào hoạt
động, các KCN đã đóng góp trên 50% giá trị sản xuất công nghiệp; trên 70% giá trị
xuất khẩu toàn tỉnh. Kết quả trên là cơ sở để Bắc Ninh xác lập phát triển ngành

24


công nghiệp mũi nhọn trong thời gian tới, mà trọng tâm là ngành công nghiệp điện
tử và công nghệ cao.
Để đạt được mục tiêu đến năm 2015 Bắc Ninh trở thành tỉnh công nghiệp,
tỉnh sẽ tiếp tục chỉ đạo đẩy nhanh tốc độ xây dựng và phát triển các KCN, đồng

thời các KCN phải tham gia vào các chương trình hướng đến phát triển bền vững.
Theo đó giải quyết tốt các vấn đề sau:
- Quy hoạch xây dựng các KCN trước hết phải đáp ứng được yêu cầu phục
vụ sản xuất của các nhà đầu tư, tạo ra sự gắn kết hạ tầng kỹ thuật trong và ngoài
KCN; phát huy lợi thế về vị trí, đất đai và các nguồn lực.
- Thu hút các dự án đầu tư có công nghệ tiên tiến, tạo lập cho được ngành
công nghiệp mũi nhọn, đảm bảo môi trường sống trong KCN và vùng phụ cận.
- Giải quyết hài hoà các quan hệ lao động, trong đó coi trọng mối quan hệ giữa
người sử dụng lao động với người lao động, giữa lao động khu vực công nghiệp với lao
động khu vực nông nghiệp nông thôn. Đảm bảo an ninh trật tự an toàn xã hội trong
KCN góp phần tạo lập môi trường sản xuất kinh doanh lành mạnh.
- Ban quản lý các KCN Bắc Ninh cần phải tăng cường công tác tham mưu
về quy hoạch, kế hoạch phát triển các KCN, xây dựng chính sách phù hợp với xu
thế hội nhập và quy hoạch tổng thể kinh tế - xã hội của tỉnh. Chỉ đạo công ty đầu tư
xây dựng hạ tầng KCN nhằm tạo mặt bằng có hạ tầng tốt, đón bắt cơ hội, đáp ứng
yêu cầu của nhà đầu tư. Cụ thể hóa mô hình KCN - đô thị theo những tiêu chí, mục
tiêu phù hợp để xây dựng cấu trúc cho từng KCN nhằm phát huy lợi thế và hình
ảnh riêng biệt các KCN Bắc Ninh. Ưu tiên xây dựng một số KCN phía nam sông
Đuống nhằm tạo sự phát triển kinh tế đồng đều hỗ trợ lẫn nhau giữa các khu vực
trong tỉnh. Đặc biệt, Ban quản lý cần làm tốt vai trò kết nối giữa chính quyền, các
ngành và doanh nghiệp để lựa chọn nhà đầu tư, dự án tạo lập ngành công nghiệp
mũi nhọn, thiết lập hệ thống công nghiệp phụ trợ, ưu tiên ngành công nghiệp mũi
nhọn là điện, điện tử, cơ khí chính xác, vật liệu mới, chế biến lương thực, thực
phẩm, công nghệ cao… Bên cạnh đó, Ban quản lý cần tăng cường công tác quản lý
nhà nước sau cấp phép đầu tư, công tác đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực; triển
khai chương trình phát triển nhà ở cho người lao động trong KCN; tăng cường
công tác an ninh trật tự; an ninh kinh tế trong KCN góp phần tạo lập môi trường

25



×