Tải bản đầy đủ (.doc) (79 trang)

báo cáo thực tập tốt nghiệp ĐỀ TÀI: NÂNG CAO HIỆU QUẢ HUY ĐỘNG VỐN TẠI NGÂN HÀNG NÔNG NGHIỆP VÀ PHÁT TRIỂN NÔNG THÔN HUYỆN SƠN DƯƠNG, TỈNH TUYÊN QUANG.

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (428.72 KB, 79 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

NGÂN HÀNG NHÀ NƯỚC VIỆT NAM

HỌC VIỆN NGÂN HÀNG

------------

CHUYÊN ĐỀ TỐT NGHIỆP
ĐỀ TÀI:
NÂNG CAO HIỆU QUẢ HUY ĐỘNG VỐN TẠI NGÂN HÀNG
NÔNG NGHIỆP VÀ PHÁT TRIỂN NÔNG THÔN HUYỆN SƠN
DƯƠNG, TỈNH TUYÊN QUANG.

Sinh viên

: TRẦN THỊ THANH THANH

Lớp

: 38A

Mã SV

: 38A4010080

Khoa

: Ngân hàng

Chuyên ngành : Tài chính ngân hàng



HÀ NỘI – 2015


LỜI CAM ĐOAN
Em xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của bản thân em. Các số
liệu và dẫn chứng được sử dụng trung thực.
Em xin chân thành cảm ơn các thầy cô trường Học viện Ngân hàng đã
truyền đạt cho em kiến thức trong suốt những năm học ở trường.
Hà Nội, ngày
Sinh viên thực hiện

tháng

năm 2015


MỤC LỤC


DANH MỤC SƠ ĐỒ, BẢNG BIỂU
Sơ đồ 2.1: Mô hình tổ chức của Chi nhánh .....Error: Reference source not found
Bảng 2.1: Dư nợ tín dụng của Chi nhánh 2011-2014 Error: Reference source not
found
Bảng 2.2: Kết quả kinh doanh ngoại tệ của Chi nhánh giai đoạn 2011 – 2014
.............................................................................. Error: Reference source not found
Bảng 2.2 : Bảng phân tích cơ cấu nguồn vốn của Chi nhánh giai đoạn 2011 –
2014...................................................................... Error: Reference source not found
Bảng 2.3: Cơ cấu vốn huy động của Chi nhánh trong 4 năm .....Error: Reference
source not found

Bảng 2.4: Cơ cấu huy động vốn theo thời gian Error: Reference source not found
Bảng 2.5: Cân đối nguồn vốn và sử dụng vốn của Chi nhánh năm .............Error:
Reference source not found
Biểu đồ 2.1: Tốc độ tăng trưởng dư nợ tín dụng của Chi nhánh 2011-2014 Error:
Reference source not found
Biểu đồ 2.2. Doanh số kinh doanh ngoại tệ và thanh toán năm 2011-2014 Error:
Reference source not found
Biều đồ 2.3: Biểu đồ cơ cấu nguồn vồn phân theo loại nguồn vốn của Chi nhánh
giai đoạn 2011 – 2014 ......................................... Error: Reference source not found


BẢNG KÝ HIỆU VIẾT TẮT
NH
NHTM
NHNo&PTNT
NHTW
NHNN
TCKT
TCTD
TGTK
TSCĐ
CBCNV
CNH-HĐH

Ngân hàng
Ngân hàng thương mại
Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn
Ngân hàng trung ương
Ngân hàng nhà nước
Tổ chức kinh tế

Tổ chức tín dụng
Tiền gửi tiết kiệm
Tài sản cố định
Cán bộ công nhân viên
Công nghiệp hóa – hiện đại hóa


1

LỜI NÓI ĐẦU
Từ nền kinh tế bao cấp, trì trệ bị bao vây cấm vận, đời sống nhân dân
hết sức khó khăn, đến hôm nay, sau 20 năm đổi mới, dưới sự lãnh đạo của
Đảng, nền kinh tế nước ta đã có những bước phát triển vượt bậc, tốc độ phát
triển kinh tế cao, là thị trường tiềm năng thu hút rất nhiều nhà đầu tư nước
ngoài, trở thành hình tượng của khu vực Đông Nam Á song kết quả vẫn còn
rất khiêm tốn. Trong khu vực công nghiệp việc áp dụng công nghệ khoa
học, đưa thiết bị mới vào sản xuất còn rất hạn chế, khu vực nông nghiệp thì
chưa được cơ giới hóa nhiều, kỹ thuật canh tác chủ yếu là kỹ thuật truyền
thống chậm đổi mới, cơ sở hạ tầng còn nhiều yếu kém, bất cập và hạn chế.
Bên cạnh đó Việt Nam còn phải đối mặt với các cuộc khủng hoảng tài chính
lớn trong lịch sử nhân loại đặc biệt là cuộc khủng hoảng kinh tế toàn cầu
2008 và hậu quả nặng nề của nó tới nền kinh tế thế giới nói chung và nền
kinh tế Việt Nam nói riêng vẫn còn rất rõ ràng. Để đạt được sự phát triển
vượt bậc về kinh tế, tốc độ tăng trưởng cao, ổn định chính trị xã hội thì một
nguồn lực có ý nghĩa quyết định không thể thiếu được, đó chính là vốn, đặc
biệt là nguồn vốn dài hạn. Vốn là điều kiện hàng đầu của tăng trưởng và
phát triển ở mọi quốc gia. Riêng đối với các nước đang trên đà phát triển
như nước ta thì lại càng cần phải có một khối lượng vốn rất lớn.
Đối với Ngân hàng nếu như nói nguồn vốn tự có là cơ sở để tổ chức
hoạt động kinh doanh, là tiền đề cho sự khởi đầu của hoạt động kinh doanh

Ngân hàng thì nguồn vốn huy động đóng vai trò chủ đạo cho mở rộng kinh
doanh, đảm bảo cơ sở tài chính cho hoạt động kinh doanh. Vì vậy song song
chính sách, chiến lược khách hàng thì chiến lược nguồn vốn là một trong hai
chiến lược quan trọng quyết định sự thành công hay thất bại của Ngân hàng.
Mặt khác để tăng cường nguồn vốn hoạt động đòi hỏi Ngân hàng phải có
một hệ thống chiến lược sản phẩm hiệu quả nghĩa là các biện pháp huy động
vốn phải đạt hiệu quả.


2

Trong giai đoạn hiện nay các Ngân hàng đều đặt công tác huy động vốn
thành mục tiêu hoạt động cơ bản, ở đâu và khi nào có cơ hội tạo vốn thì ở
đó, lúc đó Ngân hàng có mặt. Để đáp ứng nhu cầu vốn ngày càng nhiều cho
tăng trưởng kinh tế là điều quan trọng nhưng điều quan trọng hơn là các
NHTM phải từng bước nâng cao hiệu quả công tác huy động vốn để đứng
vững trong nền kinh tế thị trường.
Trong 5 năm trở lại đây lĩnh vực chứng khoán luôn là lĩnh vực sôi động
và thu hút đầu tư nhiều nhất. Tuy nhiên dù các trung tâm giao dịch chứng
khoán và các công ty niêm yết đã đi vào hoạt động một thời gian, song việc
huy động vốn qua kênh này mới chỉ đáp ứng được một khoản nhỏ nhu cầu
vốn đầu tư hiện tại. Còn trên thực tế cho thấy hệ thống NHTM vẫn là kênh
huy động vốn chủ yếu cho đầu tư phát triển. Thấy được tầm quan trọng của
hoạt động này nên trong quá trình thực tập tại đơn vị, em đã chọn đề tài
“Nâng cao hiệu quả huy động vốn tại Ngân hàng Nông nghiệp và Phát
triển Nông thôn huyện Sơn Dương, tỉnh Tuyên Quang” làm chuyên đề
tốt nghiệp.
*) Kết cấu chuyên đề:
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục các tài liệu tham khảo, chuyên
đề bao gồm 3 chương:

- Chương 1: Lý luận cơ bản về hiệu quả huy động vốn của NHTM
- Chương 2: Thực trạng về hiệu quả huy động vốn tại Ngân hàng
No&PTNT huyện Sơn Dương, tỉnh Tuyên Quang.
- Chương 3: Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả huy động vốn tại
Ngân hàng Ngân hàng No&PTNT huyện Sơn Dương, tỉnh Tuyên Quang.


3

CHƯƠNG 1: LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ HIỆU QUẢ HUY ĐỘNG
VỐN CỦA NHTM
1.1. Khái quát về Ngân hàng thương mại (NHTM)
1.1.1. Khái niệm NHTM
Ngân hàng thương mại đã hình thành và phát triển hàng trăm năm gắn
liền với sự phát triển hàng hóa. Sự phát triển của hệ thống ngân hàng thương
mại (NHTM) đã có tác động rất lớn và quan trọng đến quá trình phát triển
của nền kinh tế, ngược lại kinh tế hàng hóa phát triển mạnh mẽ đến giai
đoạn cao nhất là nền kinh tế thị trường thì NHTM cũng ngày càng được
hoàn thiện và trở thành những định chế không thể thay thế được. Ngay nửa
đầu thế kỷ XI, ở châu Âu đã ra đời một số Ngân hàng đầu tiên mà tiền thân
là những tổ chức cho vay nặng lãi. Vào thời điểm này Ngân hàng phát triển
ở trình độ thấp, hoạt động của Ngân hàng chỉ gói gọn trong lĩnh vực giữ hộ
tiền và cho vay. Cùng với sự phát triển không ngừng của nền kinh tế, hoạt
động của NHTM cũng từng bước được củng cố và hoàn thiện, chuyển hóa
dần theo hướng đa năng. Tuy nhiên đến nay chưa có khái niệm thống nhất
về NHTM do các nhà kinh tế nhận thấy có những khó khăn trong việc định
nghĩa “Ngân hàng”, bởi quan niệm Ngân hàng thay đổi theo không gian (tập
quán và phong tục của mỗi nước) và trong thời gian (theo đà tiến triển kinh
tế-xã hội).Cho đến thời điểm này có rất nhiều khái niệm về NHTM: Ở Mỹ,
NHTM được định nghĩa là công ty kinh doanh tiền tệ, chuyên cung cấp dịch

vụ tài chính và hoạt động trong ngành công nghiệp dịch vụ tài chính. Theo
đạo luật ngân hàng của Pháp năm 1941 thì NHTM là những xí nghiệp hay
cơ sở mà nghề nghiệp thường xuyên là nhận tiền bạc của công chúng dưới
hình thức ký thác, hoặc các hình thức khác và sử dụng tài nguyên đó cho
chình họ trong các nghiệp vụ. Theo luật các tổ chức tín dụng số
47/2010/QH12 được Quốc Hội nước Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt
Nam khóa XII, kỳ họp thứ 7 thông qua ngày 16/06/2010 “Ngân hàng thương
mại là loại hình ngân hàng được thực hiện tất cả các hoạt động ngân hàng và


4

các hoạt động kinh doanh khác theo quy định của Luật này nhằm mục đích
lợi nhuận”.
Từ những nhận định trên có thể cho thấy NHTM là một trong những
định chế tài chính mà dặc trưng là cung cấp đa dạng các dịch vụ tài chính
với các nghiệp vụ cơ bản là nhận tiền gửi, cho vay và cung ứng các dịch vụ
thanh toán. Ngoài ra NHTM còn cung cấp nhiều dịch vụ khác nhằm thỏa
mãn tối đa nhu cầu về sản phẩm dịch vụ của xã hội.
1.1.2. Đặc điểm của NHTM
Trước hết về cấu trúc tài chính và tài sản: là doanh nghiệp rất lớn, có hệ
số nợ cao và cấu trúc tài sản đặc biệt. NHTM là doanh nghiệp có quy mô lớn
trên cả giác độ vốn chủ sở hữu và tổng tài sản. Ngân hàng thực hiện hai hình
thức hoạt động là kinh doanh tiền tệ và dịch vụ Ngân hàng. Ở Việt Nam,
vốn chủ sở hữu của các NHTM là hàng nghìn tỷ đồng. Còn đối với các
NHTM trên thế giới vốn chủ sở hữu lên tới nhiều tỷ đô la Mỹ. Mạng lưới
các NH thường rất lớn và phân tán rộng về địa lý. Trong khi vốn chủ sở hữu
đã rất lớn, nguồn vốn của NHTM lại chủ yếu là nợ được huy động từ bên
ngoài NH. Cấu trúc của NHTM thường rất đặc biệt hơn so với các doanh
nghiệp sản xuất kinh doanh khác là ở tỷ trọng tài sản tài chính. Phần lớn tài

sản của NHTM là tài sản mang đặc trưng trừu tượng, hình thái vật chất giản
đơn như là giấy tờ thậm chí chỉ là dữ liệu điện tử được lưu trữ trong một
thiết bị nhất định. Bên cạnh đó, NHTM thường có xu hướng liên tục phát
triển các sản phẩm, công cụ tài chính mới.
Hai là, hoạt động của NHTM luôn chứa đựng nhiều rủi ro và chịu sự
kiểm soát chặt chẽ của hệ thống luật pháp. Trên giác độ tài chính doanh
nghiệp, hệ số nợ càng cao sẽ dẫn đến rủi ro trong hoạt động cũng cao. Bên
cạnh đó, nguồn vốn nợ chủ yếu của NH là tiền gửi với đặc trưng có thể bị
rút ra trước thời hạn với khối lượng khó xác định. Sản phẩm, dịch vụ của
NH không được hưởng quy chế bảo hộ độc quyền và mang tính chất phức
tap, trực tiếp. Hơn nữa NHTM tham gia nhiều vào cam kết trong khi chưa


5

chuyển giao vốn thực sự, tức là hoạt động ngoại bảng phong phú và đa dạng;
điểm này là một đặc trưng khác biệt với các loại hình doanh nghiệp.Vì
những lý do này, hoạt động của NHTM chứa đựng nhiều rủi ro hơn các
ngành kinh doanh khác. Rủi ro trong hoạt động của NHTM gồm các loại rủi
ro đặc thù như rủi ro tín dụng, rủi ro thanh khoản, rủi ro lãi suất, rủi ro noại
hối, rủi ro vốn khả dụng, rủi ro đạo đức….Ngoài ra là doanh nghiệp có quy
mô lớn, mạng lưới rộng khắp, hoạt động chịu nhiều rủi ro, ảnh hưởng đáng
kể đến nhiều hoạt dộng kinh tế, NHTM chịu sự kiểm soát, giám sát chặt chẽ
của hệ thống pháp luật. Các quy định pháp lý đối với NHTM được phổ rộng
trên nhiều mặt của nền mặt của hoạt động kinh doanh như: điều kiện kinh
doanh, tiêu chuẩn của người lãnh đạo NH, dự trữ bắt buộc, bảo hiểm tiền
gửi, an toàn trong hoạt động, phân loại nợ và lập trích dự phòng rủi ro,……
Ba là, tính liên kết và ổn định của NH. Hệ thống NH có tính phụ thuộc
lẫn nhau rất lớn.Hơn bất cứ ngành kinh doanh nào trong nền kinh tế, rủi ro
trong hoạt động NH có tính lan tỏa rất nhanh. Hoạt động như một mắt xích

các liên kết chặt chẽ, chỉ cần một NHTM, dù yếu và nhỏ nhất gặp khó khăn
trong hoạt động, đặc biệt là hoạt động thanh khoản là có thể dẫn đến nguy
cơ phá sập hệ thống. Hệ thống NH – tài chính trong nền kinh tế nhạy cảm
với mọi biến động về kinh tế, chính trị và xã hội. Những biến động này
thường có tác động gần như tức thời đến hoạt động của thị trường tài chính,
điển hình là thị trường chứng khoán, theo đó, nó gây ảnh hưởng trực tiếp
đến hoạt dộng của hệ thống NH. Đối với công tác quản lý vĩ mô nền kinh tế,
việc nắm bắt được cơ chế hoạt động, ảnh hưởng lẫn nhau của các phần tử
trong hệ thống tài chính là một trong những vấn đề cốt yếu, quyết định
thành bại.
1.1.3. Các hoạt động cơ bản của NHTM
Ngân hàng đóng vai trò quan trọng trong việc điều hoà , cung cấp vốn
cho nền kinh tế . Với sự phát triển kinh tế và công nghệ hiện nay, hoạt động


6

NH đã có những bước tiến rất nhanh, đa dạng và phong phú hơn song NH
vẫn duy trì các nghiệp vụ cơ bản sau :
1.1.3.1. Hoạt động huy động vốn
Là hoạt động khởi đầu cho các hoạt động khác của NHTM. NHTM bản
chất là một tổ chức trung gian tài chính có đặc điểm hoạt động chủ yếu
không phải bằng nguồn vốn chủ sở hữu vì vậy để có nguồn vốn hoạt động,
cung cấp vốn cho nền kinh tế thì NHTM phải huy động những nguồn vốn
tạm thời nhàn rỗi trong nền kinh tế thông qua các hoạt động nhận tiền gửi,
phát hành kỳ phiếu, trái phiếu, đi vay từ các tổ chức tín dụng khác hay từ
NHTW.
1.1.3.2. Hoạt động sử dụng vốn
Đây là nghiệp vụ trực tiếp mang lại lợi nhuận cho ngân hàng, nghiệp vụ
sử dụng vốn của ngân hàng có hiệu quả sẽ nâng cao uy tín của ngân hàng,

quyết định năng lực cạnh tranh của ngân hàng trên thị trường . Do vậy ngân
hàng cần phải nghiên cứu và đưa ra chiến lược sử dụng vốn của mình sao
cho hợp lý nhất .
Một là, ngân hàng tiến hành cho vay
Cho vay là hoạt động quan trọng nhất của các NHTM. Theo thống phải
luôn nắm bắt được thông tin, đa dạng các nghiệp vụ để cung cấp đầy đủ kịp
thời nguồn vốn cho nền kinh tế. Ngoài hình thức phổ biến là cho vay, NH
còn sử dụng vốn để đầu tư. Có 2 hình thức chủ yếu mà các NHTM có thể
tiến hành là:
Đầu tư vào mua bán kinh doanh các chứng khoán hoặc đầu tư góp vốn
vào các kê, nhìn chung thì khoảng 60%- 75% thu nhập của NH là từ các
hoạt động cho vay. Thành công hay thất bại tuỳ thuộc chủ yếu vào việc thực
hiện kế hoạch tín dụng và thành công của tín dụng xuất phát từ chính sách
cho vay của NH. Các loại cho vay có thể phân loại bằng nhiều cách, bao
gồm: mục đích, hình thức bảo đảm, kỳ hạn, nguồn gốc và phương pháp hoàn
trả...


7

Hai là tiến hành đầu tư
Đi đôi với sự phát triển của xã hội là sự xuất hiện của hàng loạt những
nhu cầu khác nhau. Với tư cách là một chủ thể hoạt động trong lĩnh vực dịch
vụ, đòi hỏi Ngân hàng doanh nghiệp, các công ty khác.Đầu tư vào trang
thiết bị TSCĐ phục vụ cho hoạt động kinh doanh của ngân hàng.
1.1.3.3. Các hoạt động ngân quỹ của NHTM
Lợi nhuận tiêu cuối cùng mà các chủ thể khi tham gia tiến hành sản
xuất kinh doanh. Tuy nhiên, đằng sau mục tiêu quan trọng đó là hàng loạt
các nhân tố cần quan tâm. Một trong những nhân tố đó là tính an toàn. Nghề
ngân hàng là luôn là mục một nghề kinh doanh đầy mạo hiểm, trong hoạt

động của mình, NH không thể bỏ qua sự “an toàn”. Vì vậy, ngoài việc cho
vay và đầu tư để thu được lợi nhuận, NH còn phải sử dụng một phần nguồn
vốn huy động được để đảm bảo an toàn về khả năng thanh toán và thực hiện
các quy định về dự trữ bắt buộc do Trung ương đề ra.
1.1.3.4 Các nghiệp vụ khác của NHTM.
Là trung gian tài chính, ngân hàng có rất nhiều lợi thế. Một trong
những lợi thế đó là NH thay mặt khách hàng thực hiện thanh toán giá trị
hàng hoá và dịch vụ. Để thanh toán nhanh chóng, thuận tiện và tiết kiệm chi
phí, NH đưa ra cho khách hàng nhiều hình thức thanh toán như thanh toán
bằng séc, uỷ nhiệm chi, nhờ thu, các loại thẻ …cung cấp mạng lưới thanh
toán điện tử, kết nối các quỹ và cung cấp tiền giấy khi khách hàng cần . Mặt
khác ,các ngân hàng thương mại còn tiến hành môi giới, mua, bán chứng
khoán cho khách hàng và làm đại lý phát hành chứng khoán cho các công ty.
Ngoài ra NH còn thực hiện các dịch vụ uỷ thác như uỷ thác cho vay, uỷ thác
đầu tư, uỷ thác cấp phát, uỷ thác giải ngân và thu hộ…
Như vậy,các nghiệp vụ trên nếu thực hiện tốt sẽ đảm bảo cho ngân
hàng tồn tại và phát triển vững mạnh trong môi trường cạnh tranh ngày càng
gay gắt như hiện nay. Vì các nghiệp vụ trên có mối liên hệ chặt chẽ thường
xuyên tác động qua lại với nhau.Nguồn vốn huy động ảnh hưởng tới quyết


8

định sử dụng vốn, ngược lại nhu cầu sử dụng vốn ảnh hưởng tới quy mô, cơ
cấu của nguồn vốn huy động. Các nghiệp vụ trung gian tạo thêm thu nhập
cho ngân hàng nhưng mục đích chính là thu hút khách hàng, qua đó tạo điều
kiện cho việc huy động và sử dụng vốn có hiệu quả.
1.1.4. Vai trò của NHTM
Đã từ lâu vai trò của Ngân hàng trong nền kinh tế trở nên vô cùng quan
trọng nhất là khi quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đã đi vào chiều

sâu, yêu cầu cần có vốn để xây dựng cơ sở hạ tầng, tăng tốc độ đầu tư, từng
bước chuyển dịch cơ cấu kinh tế, đảm bảo nhịp độ tăng trưởng kinh tế nhanh
và bền lâu.
1.1.4.1. NHTM là nơi cung cấp vốn cho nền kinh tế
Vốn được tạo ra trong quá trình tích lũy, tiết kiệm của mỗi cá nhân,
doanh nghiệp và các tổ chức trong nền kinh tế vì vậy muốn tăng vốn phải
tăng thu nhập quốc dân, có mức độ tiêu dùng hợp lý. Tăng thu nhập quốc
dân đồng nghĩa với việc mở rộng sản xuất và lưu thông hàng hóa, đẩy mạnh
sự phát triển của các ngành trong nền kinh tế.
Thông qua hình thức cấp tín dụng Ngân hàng đã tạo điều kiện cho
doanh nghiệp trong những nấc thang cạnh tranh cao hơn, cạnh tranh càng
mạnh mẽ, doanh nghiệp càng có những tiến bộ trong cách thức sản xuất dẫn
đến cải thiện đời sống của nhân dân thông qua tạo việc làm, tăng thu nhập,
…làm cho kinh tế càng phát triển. Như vậy với khả năng cung cấp vốn
NHTM đã trở thành một trong những điểm khởi đầu cho sự phát triển kinh
tế của quốc gia.
1.1.4.2. NHTM là cầu nối giữa doanh nghiệp và thị trường
Thị trường ở đây bao gồm thị trường đầu vào và thị trường đầu ra. Để
tiến hành bất kỳ một hoạt động kinh doanh nào doanh nghiệp cần phải tham
gia vào thị trường đầu vào, nơi cung cấp các nguyên vật liệu cần thiết cho
việc sản xuất kinh doanh nhằm thực hiện thành công chiến lược 5P:


9

- Products: sản phẩm
- Price: giá cả
- Promotion: giao tiếp, khuếch trương
- Place: địa điểm
- People: con người

Từ đó tiếp cận mạnh mẽ thị trường đầu ra, đó là nơi tiêu thụ sản phẩm
để tìm kiếm lợi nhuận. Để quá trình trên diễn ra liên tục và bình thường thì
doanh nghiệp cần có “vốn”, nhưng không phải doanh nghiệp nào cũng có đủ
khả năng về tài chính và NHTM là nơi cần thiết giúp doanh nghiệp cải thiện
tình hình đó.
1.1.4.3. NHTM là cầu nối giữa nền tài chính quốc gia và nền tài chính
thế giới
Trong xu thế khu vực hóa, toàn cầu hóa như hiện nay thì vai trò này của
NHTM ngày một thể hiện rõ rệt hơn. Áp lực cạnh tranh buộc nền kinh tế
mỗi quốc gia khi mở cửa hội nhập với bên ngoài phải có tiềm lực lớn mạnh
về mọi mặt đặc biệt là tiềm lực về tài chính. Để có thể hòa nhập với các
quốc gia khác trên thế giới, hệ thống NHTM trong nước có khả năng cung
cấp nhiều loại hình dịch vụ khác nhau hỗ trợ cho việc đầu tư từ nước ngoài
vào trong nước như: thanh toán quốc tế, cho vay ủy thác đầu tư,…giúp cho
luồng vốn ra, vào một cách hợp lý. Đây là điều kiện tiên quyết cho tiến trình
hội nhập kinh tế ở các quốc gia trên thế giới.
1.1.4.4. NHTM là công cụ để Nhà Nước điều tiết vĩ mô nền kinh tế
Một trong những con đường dẫn đến lạm phát của nền kinh tế là lạm
phát qua con đường tín dụng và hoạt động của Ngân hàng góp phần chống
lạm phát: NHTM sẽ kiểm soát lạm phát thông qua các hoạt động tín dụng và
bảo lãnh còn NHTW sẽ tác động vào tỷ lệ dự trữ bắt buộc, lãi suất tái chiết
khấu hoặc tham gia vào thị trường mở để thông qua các NHTM thay đổi
lượng tiền trong lưu thông. Từ đó Ngân hàng sẽ đưa ra các biện pháp để ổn
định sức mua của đồng tiền, kiềm chế lạm phát.


10

1.1.5. Chức năng của NHTM
Tầm quan trọng của NHTM còn thể hiện ở chức năng của nó. Các nhà

kinh tế học đã ví NHTM là trái tim của nền kinh tế. Ngân hàng hút tiền về,
bơm tiền đi vì thế nguồn vốn nhàn rỗi được khơi thông đưa từ nơi thừa đến
nơi thiếu tiền thúc đẩy quá trình lưu chuyển tiền tệ một cách hiệu quả. Các
chức năng đó bao gồm:
1.1.5.1. Trung gian tín dụng
Đây là chức năng đặc trưng và cơ bản nhất của NHTM và có ý nghĩa
đặc biệt quan trọng trong việc thúc đẩy kinh tế phát triển, Ngân hàng chính
là “cầu nối” giữa cung và cầu vốn trong nền kinh tế: trong nền kinh tế có
những chủ thể có dư tiền và khoản tiền đó chưa được sử dụng một cách triệt
để (ví dụ như vẫn còn cất giấu trong nhà chưa được mang ra lưu thông)
nhưng họ cũng muốn tiền này sinh lời cho mình và họ nghĩ là cho vay và có
những chủ thể cần tiền để hoạt động kinh doanh. Nhưng những chủ thể này
không quen biết nhau và cũng có thể không tin tưởng nhau nên tiền vẫn
chưa được lưu thông. Ngân hàng thương mại với vai trò trung gian của
mình, nhận tiền từ người muốn cho vay, trả lãi cho họ và đem số tiền ấy cho
người muốn vay.
NHTM vừa là người đi vay vừa là người cho vay và với số lãi suất
chênh lệch có được nó sẽ duy trì họat động của mình.
Vai trò trung gian này trở nên phong phú hơn do sự phát triển của thị
trường tài chính làm xuất hiện các khía cạnh khác của chức năng này với việc
phát hành thêm cổ phiếu, trái phiếu,…NHTM có thể làm trung gian giữa công
ty và các nhà đầu tư, chuyển giao mệnh lệnh trên thị trường chứng khoán,
đảm nhận việc mua trái phiếu công ty…Hơn nữa tín dụng Ngân hàng là một
trong những nguồn hình thành vốn lưu động và vốn cố định của doanh
nghiệp, là cầu nối giữa tiết kiệm, tích lũy và đầu tư.
Chức năng tín dụng của NHTM được hình thành rất sớm, ngay từ lúc
hình thành các NHTM. Ngày nay thông qua chức năng trung gian tín dụng,


11


NHTM đã và đang thực hiện chức năng xã hội của mình, làm cho sản phẩm
xã hội được tăng lên, vốn đầu tư được mở rộng và từ đó góp phần thúc đẩy sự
phát triển kinh tế, cải thiện đời sống nhân dân.
1.1.5.2. Trung gian thanh toán và quản lý các phương tiện thanh toán
Ở đây NHTM đóng vai trò là thủ quỹ cho các doanh nghiệp và cá nhân,
thực hiện các thanh toán theo yêu cầu của khách hàng như trích tiền từ tài
khoản tiền gửi của họ để thanh toán tiền hàng hóa, dịch vụ hoặc nhập vào tài
khoản tiền gửi của khách hàng tiền thu bán hàng và các khoản thu khác theo
lệnh của họ.
Các NHTM cung cấp cho khách hàng nhiều phương tiện thanh toán tiện
lợi như séc, ủy nhiệm chi, ủy nhiệm thu, thẻ rút tiền, thẻ thanh toán, thẻ tín
dụng… Tùy theo nhu cầu, khách hàng có thể chọn cho mình phương thức
thanh toán phù hợp. Nhờ đó mà các chủ thể kinh tế không phải giữ tiền trong
túi, mang theo tiền để gặp chủ nợ, gặp người phải thanh toán dù ở gần hay xa
mà họ có thể sử dụng một phương thức nào đó để thực hiện các khoản thanh
toán. Do vậy các chủ thể kinh tế sẽ tiết kiệm được rất nhiều chi phí, thời gian,
lại đảm bảo thanh toán an toàn. Chức năng này vô hình trung đã thúc đẩy lưu
thông hàng hóa, đẩy nhanh tốc độ thanh toán, tốc độ lưu chuyển vốn, từ đó
góp phần phát triển kinh tế.
1.1.5.3. Nguồn tạo tiền
Tạo tiền là một chức năng quan trọng, phản ánh rõ bản chất của NHTM.
Với mục tiêu là tìm kiếm lợi nhuận như là một yêu cầu chính cho sự tồn tại và
phát triển của mình, các NHTM với nghiệp vụ kinh doanh mang tính đặc thù
của mình đã vô hình trung thực hiện chức năng tạo tiền cho nền kinh tế.
Chức năng tạo tiền được thực thi trên cơ sở hai chức năng khác của
NHTM là chức năng tín dụng và chức năng thanh toán. Thông qua chức năng
trung gian tín dụng, ngân hàng sử dụng số vốn huy động được để cho vay, số
tiền cho vay ra lại được khách hàng sử dụng để mua hàng hóa, thanh toán
dịch vụ trong khi số dư trên tài khoản tiền gửi thanh toán của khách hàng vẫn



12

được coi là một bộ phận của tiền giao dịch, được họ sử dụng để mua hàng
hóa, thanh toán dịch vụ… Với chức năng này, hệ thống NHTM đã làm tăng
tổng phương tiện thanh toán trong nền kinh tế, đáp ứng nhu cầu thanh toán,
chi trả của xã hội. Ngân hàng thương mại tạo tiền phụ thuộc vào tỉ lệ dự trữ
bắt buộc của ngân hàng trung ương đã áp dụng đối với NHTM. Do vậy, ngân
hàng trung ương có thể tăng tỉ lệ này khi lượng cung tiền vào nền kinh tế lớn
Chức năng tạo tiền không giới hạn trong hành động in thêm tiền và phát
hành tiền mới của Ngân hàng Nhà nước. Bản thân các Ngân hàng thương mại
trong quá trình thực hiện các chức năng của mình vẫn có khả năng tạo ra tiền
tín dụng (hay tiền ghi sổ) thể hiện trên tài khoản tiền gửi thanh toán của
khách hàng tại Ngân hàng thương mại. Đây chính là một bộ phận của lượng
tiền được sử dụng trong các giao dịch.
Chức năng tạo tiền được thực thi trên cơ sở hai chức năng khác của
NHTM là chức năng tín dụng và chức năng thanh toán. Thông qua chức năng
trung gian tín dụng, NH sử dụng số vốn huy động được để cho vay, số tiền
cho vay lại được khách hàng sử dụng để mua hàng hóa, thanh toán dịch vụ
trong khi số dư trên tài khoản tiền gửi thanh toán của khách hàng vẫn được
coi là một bộ phận của tiền giao dịch, được họ sử dụng để mua hàng hóa,
thanh toán dịch vụ… Với chức năng này, hệ thống NHTM đã làm tăng tổng
phương tiện thanh toán trong nền kinh tế, đáp ứng nhu cầu thanh toán, chi trả
của xã hội. Rõ ràng khái niệm về tiền hay tiền giao dịch không chỉ là tiền giấy
do Ngân hàng trung ương phát hành mà còn bao gồm một bộ phận quan trọng
là lượng tiền ghi sổ do các NHTM tạo ra.
Chức năng này cũng chỉ ra mối quan hệ giữa tín dụng Ngân hàng và lưu
thông tiền tệ. Một khối lượng tín dụng mà NHTM cho vay làm tăng khả năng
tạo tiền của Ngân hàng thương mại, từ đó làm tăng lượng tiền cung ứng.

Từ ba chức năng cơ bản trên có thể thấy được vai trò to lớn của NHTM
trong nền kinh tế. Hoạt động của NHTM đẩy nhanh quá trình thanh toán,
giảm chi phí giao dịch, và tạo môi trường thuận lợi cho quá trình lưu chuyển


13

vốn nâng cao chất lượng của quá trình tập trung và phân phối nguồn vốn.
NHTM còn là bộ máy tạo tiền, nó có vai trò quan trọng trong việc thực thi
chính sách tiền tệ và góp phần vào hoạt động điều tiết vĩ mô dưới sự tác động
của NHTW và các chính sách của Nhà nước.
1.2. HOẠT ĐỘNG HUY ĐỘNG VỐN CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI.
“Hoạt động huy động vốn của các Ngân hàng thương mại là hoạt động
mà trong đó các Ngân hàng này tìm kiếm nguồn vốn khả dụng từ các chủ thể
khác nhằm đảm bảo sự vận hành bình thường, hiệu quả của bản thân nó theo
đúng các quy định pháp luật”
Huy động vốn có thể được xem là một trong những nghiệp vụ xuất hiện
sớm nhất trong hoạt động của các NHTM. Trong giai đoạn sơ khai của hoạt
động Ngân hàng, những nghiệp vụ này chỉ đơn thuần là hoạt động cất giữ các
tài sản có giá nhằm mục đích đảm bảo an toàn, và lúc này, người phải trả phí
là người gửi tiền chứ không phải là các Ngân hàng, các khoản tiền chỉ được
xem đơn thuần là vật được kí gửi chứ hoàn toàn không đóng vai trò là nguồn
vốn đối với các Ngân hàng thương mại, tiền lúc này không được xem là tiền
tệ theo đúng nghĩa của nó, vì không có khả năng luân chuyển, không sinh ra
được lợi nhuận. Khi nhu cầu tín dụng gia tăng, nghiệp vụ Ngân hàng phát
triển, vị thế đó bị đảo ngược, Ngân hàng là người phải trả phí (lãi suất – giá
cả của tín dụng), và nguồn tiền được kí gửi thay đổi vai trò của nó, trở thành
nguồn vốn khả dụng và lớn nhất của các NHTM hiện nay. Chính vì vậy, trái
ngược với quá khứ, Ngân hàng là người phải đi nài nỉ khách hàng gửi tiền.
Nếu trước đây, Ngân hàng là người bị động trong quan hệ này thì hiện nay,

hầu hết tất cả các Ngân hàng đều có các chính sách, phương thức để lôi kéo
nguồn tiền gửi này và chính vì vậy các phương thức huy động vốn ngày càng
trở nên quan trọng, phong phú và đa dạng hơn. Có thể nói, hiện nay, hoạt
động huy động vốn là một trong những hoạt động hết sức quan trọng và liên
quan đến sự sống còn của các NHTM.


14

Xuất hiện khá lâu đời và không ngừng phát triển, thay đổi cùng với sự
phát triển của các NHTM, nội hàm của khái niệm hoạt động huy động vốn đã
có những thay đổi rất đáng kể, cả về quy mô và các hình thức thể hiện. Hơn
nữa, gần như không tìm được một định nghĩa hoàn thiện về hoạt động này
cũng như không có được sự thống nhất hoàn toàn giữa các quan điểm. Đặc
biệt, là sự khác biệt trong cách hiểu khi đề cập vấn đề này dưới các khía cạnh
khác nhau.
Phổ biến nhất là việc sử dụng thuật ngữ này trong các khía cạnh không
chuyên, đặc biệt là ngôn ngữ thường nhật của xã hội và báo chí. Khái niệm
huy động vốn được sử dụng ở đây đối với hoạt động của các NHTM có thể
nói là hẹp và không rõ ràng nhất, trong nhiều trường hợp có sự không thống
nhất trong nội hàm của bản thân khái niệm. Nhưng nhìn chung, phổ biến nhất,
khái niệm này được dùng chủ yếu đề cập đến một hoạt động đặc trưng nhất
của các NHTM, đó là nhận tiền gửi và dưới các hình thức cơ bản nhất, cụ thể
là nhận tiền gửi tiết kiệm và các loại tiền gửi có và không có kì hạn khác.
Dưới khía cạnh kinh tế cũng có khá nhiều cách tiếp cận với riêng khái
niệm này, tuy cũng khá tương đồng nhau và phạm vi thường rộng hơn khái
niệm được đề cập ở trên nhưng nội hàm của chúng thường không đồng nhất.
Cách tiếp cận thông thường nhất hiện nay trong các nghiên cứu của các
chuyên ngành kinh tế, tài chính Ngân hàng là tiếp cận khái niệm huy động
vốn từ nguồn gốc của các nguồn vốn. Chẳng hạn, nguồn vốn được chia thành

vốn tự có, vốn huy động, vốn đi vay, vốn tiếp nhận, vốn khác. Chính vì vậy,
hoạt động huy động vốn của NHTM lúc này bao gồm cả việc khởi tạo nguồn
vốn ban đầu cho sự hình thành vốn điều lệ và cả việc tạo lập nguồn vốn cấp 2
(một bộ phận của nguồn vốn tự có) của NHTM.
1.2.1. Nguồn vốn của NHTM
Vốn của NHTM là những giá trị tiền tệ do NHTM tạo lập hoặc huy động
được dùng để cho vay, đầu tư hoặc để thực hiện các dịch vụ kinh doanh khác.


15

Nó chi phối toàn bộ hoạt động của NHTM, nó quyết định sự tồn tại và phát
triển của Ngân hàng bao gồm:
1.2.1.1. Vốn chủ sở hữu
Về mặt kinh tế, vốn chủ sở hữu là vốn riêng của Ngân hàng do các chủ
sở hữu đóng góp và nó còn được tạo ra trong quá trình kinh doanh dưới dạng
lợi nhuận giữ lại. Mặc dù chỉ chiếm một tỷ trọng nhỏ trong tổng nguồn vốn
của Ngân hàng song lại là điều kiện pháp lý bắt buộc khi thành lập Ngân
hàng.
Theo quyết định số 457/2005/QĐ-NHNN ngày 19/4/1005 và quyết định
03/2007/QĐ-NHNN ngày 19/1/2007 thì vốn chủ sở hữu của NHTM bao gồm:
*) Vốn chủ sở hữu (vốn cấp 1): vốn điều lệ thực có (vốn đã được cấp,
vốn đã góp), quỹ dự trữ bổ sung vốn điều lệ, quỹ dự phòng tài chính, quỹ đầu
tư phát triển nghiệp vụ, lợi nhuận không chia. Đây là nguồn vốn tương đối ổn
định.
*) Vốn chủ sở hữu bổ sung (vốn cấp 2): đây là nguồn vốn có tính ổn
định thấp và phụ thuộc nhiều vào quy mô của nguồn vốn chủ sở hữu cơ bản,
nguồn vốn cấp 2 được hình thành thông qua các thành phần như:
+) 50% giá trị tăng thêm của tài sản cố định
+) 40% giá trị tăng thêm của các loại chứng khoán đầu tư (kể cả cổ phiếu

đầu tư, góp vốn) được định giá lại
+) Trái phiếu chuyển đổi hoặc cổ phiếu ưu đãi do tổ chức tín dụng phát
hành có kỳ hạn ban đầu, thời hạn còn lại trước khi chuyển đổi thành cổ phiếu
phổ thông tối thiểu là 5 năm
+) Các công cụ khác thỏa mãn điều kiện có kỳ hạn ban đầu tối thiểu trên
10 năm
+) Dự phòng chung tối đa bằng 1,25% tổng tài sản có rủi ro
1.2.1.2. Vốn huy động
Đây là nguồn vốn chiếm tỷ trọng lớn nhất trong Ngân hàng, Ngân hàng
chỉ có quyền sử dụng mà không có quyền sở hữu, phải có trách nhiệm hoàn


16

trả đúng hạn cả gốc và lãi khi đến hạn. Nguồn vốn này luôn biến động nên
Ngân hàng không được sử dụng hết mà phải có dự trữ với một tỷ lệ hợp lý để
đảm bảo khả năng thanh toán.
NHTM huy động vốn thông qua các hoạt động: nhận tiền gửi, phát hành
giấy tờ có giá, vay vốn giữa các tổ chức tín dụng và vay vốn ngắn hạn của
Ngân hàng nhà nước.
1.2.1.3. Vốn đi vay
Là loại vốn mà Ngân hàng chủ động đi vay với mục đích, thời hạn vay,
và đối tượng vay khác nhau bao gồm:
1.2.1.3.1. Vay từ các tổ chức tín dụng khác
Các NHTM có thể vay và cho vay lẫn nhau thông qua thị trường liên
Ngân hàng hoặc vay trực tiếp lẫn nhau không thông qua thị trường liên Ngân
hàng, phương thức này rất linh hoạt giúp các NHTM cân đối vốn một cách
kịp thời.
Nguyên tắc vay vốn từ các tổ chức tín dụng khác:
+) Các Ngân hàng phải hoạt động hợp pháp

+) Thực hiện việc cho vay và đi vay theo hợp đồng tín dụng
+) Vốn vay phải được đảm bảo bằng thế chấp, cầm cố hoặc bảo lãnh của
Ngân hàng trung ương.
1.2.1.3.2. Vay từ NHTW
Dù các NHTM thận trọng đến mấy trong việc cho vay thì cũng không thể
tránh khỏi lúc mất khả năng chi trả hoặc thiếu tiền mặt tạm thời, lúc đó
NHTW chính là vị cứu tinh của NHTM, là nguồn vay sau cùng.
Ở Việt Nam hiện nay, NHTW cho các NHTM vay dưới các hình thức:
+) Tái cấp vốn
+) Chiết khấu, tái chiết khấu thương phiếu và các giấy tờ có giá ngắn hạn
khác
+) Cho vay có đảm bảo bằng thế chấp hoặc cầm cố thương phiếu và các
giấy tờ có giá ngắn hạn khác


17

+) Cho vay theo loại hồ sơ tín dụng
Ngoài ra NHTW còn cho các NHTM vay bổ sung vốn thanh toán bù trừ,
nhờ loại cho vay này mà hệ thống thanh toán bù trừ được thực hiện một cách
thuận lợi. Trong những trường hợp đặc biệt, khi được Thủ tướng Chính phủ
chấp nhận, NHTW còn cho vay đối với các NHTM tạm thời mất khả năng chi
trả có nguy cơ gây mất an toàn cho toàn bộ hệ thống.
1.2.1.4. Vốn khác
Bên cạnh các nguồn vốn nêu trên trong quá trình hoạt động các NHTM
còn có thể tạo lập vốn cho mình từ nhiều nguồn khác:
+) Vốn trong thanh toán: Là nguồn vốn mà Ngân hàng tạo lập được
trong quá trình làm trung gian thanh toán.
+) Vốn tiếp nhận: Là số vốn ủy thác đầu tư, tài trợ của Chính phủ, của
các tổ chức tài chính tiền tệ, các tổ chức đoàn thể-xã hội trong và ngoài nước

tài trợ cho các chương trình dự án về phát triển kinh tế, xã hội, cải tạo môi
trường…và được chuyển qua NHTM làm đại lý ủy thác thực hiện.
Các nguồn vốn khác này tuy không nhiều, thời gian sử dụng lại ngắn
nhưng điều đặc biệt là đối với nguồn vốn này, Ngân hàng không những không
phải tốn kém chi phí sử dụng vốn mà đôi khi còn nhận được phí từ việc cung
cấp các dịch vụ Ngân hàng đồng thời có điều kiện mở rộng nghiệp vụ và dịch
vụ Ngân hàng làm cho hoạt động của Ngân hàng đa dạng hơn.
1.2.2. Các hình thức huy động vốn của NHTM
Các NHTM làm nhiệm vụ vay tiền (hầu hết từ những người gửi tiền) cho
vay với mục đích hưởng lợi qua lãi suất. Đây là một công việc của một trung
gian tài chính đóng vai trò trung gian giữa người cần vốn và người có vốn.
Quá trình tạo vốn của NHTM được thể hiện dưới các hình thức sau:
1.2.2.1. Huy động vốn qua tài khoản tiền gửi của khách hàng
1.2.2.1.1. Tiền gửi thanh toán
Với loại tiền này khách hàng có thể gửi tiền vào và rút tiền ra bất cứ lúc
nào có nhu cầu. Mục đích chính của người gửi tiền nhằm đảm bảo an toàn về


18

tài sản và thực hiện các khoản thanh toán qua Ngân hàng. Tài khoản này mở
cho các khách hàng cá nhân hoặc tổ chức có nhu cầu thực hiện thanh toán qua
Ngân hàng.Tuy nhiên hiện nay tại Việt Nam tỷ trọng trong thanh toán không
dùng tiền mặt còn thấp cho nên để khuyến khích việc thanh toán qua Ngân
hàng các NHTM Việt Nam đã tiến hành trả lãi cho khoản tiền này còn ở các
nước kinh tế phát triển thì không trả lãi cho khoản tiền này.
1.2.2.1.2. Tiền gửi có kỳ hạn
Đây là loại tiền gửi mà khách hàng chỉ được rút tiền khi thời hạn ấn định
kết thúc. Nếu khách hàng có nhu cầu rút trước thời hạn thì Ngân hàng sẽ
không trả lãi cho khách hàng. Tuy nhiên ở Việt Nam để khuyến khích khách

hàng gửi tiền thì Ngân hàng sẽ trả cho khách hàng với mức lãi suất của tiền
gửi không kỳ hạn.
Đây là nguồn vốn tương đối ổn định do thời gian gửi tiền đã được ấn
định trước nên Ngân hàng thường trả lãi rất cao. Nó phù hợp với những người
có khoản tiền tạm thời nhàn rỗi hoặc những người đang tìm cách quay vòng
vốn trong một thời gian để đạt hiệu quả cao nhất. Hiện tại các NHTM có các
loại tiền gửi có kỳ hạn 1 tháng, 3 tháng, 6 tháng, 9 tháng, 1 năm và 2 năm,
với mỗi kỳ hạn khác nhau thì Ngân hàng áp dụng một loại lãi suất khác nhau,
thường kỳ hạn càng dài lãi suất càng cao. Tuy nhiên ở các NHTM Việt Nam
hiện nay kỳ hạn 1 tháng là rất hãn hữu và ở nhiều Ngân hàng khác loại kỳ hạn
này không tồn tại.
1.2.2.1.3. Tiền gửi tiết kiệm của dân cư
Là loại tiền gửi mà khi khách hàng gửi tiền vào Ngân hàng thì họ được
giao một cuốn sổ tiết kiệm coi như một giấy chứng nhận tiền gửi vào Ngân
hàng. Tiền gửi tiết kiệm bao gồm:
+) Tiền gửi tiết kiệm không kỳ hạn:
Thực chất đây là loại tiền gửi thông thường, người gửi tiền có thể rút ra
một phần hoặc toàn bộ số tiền gửi bất cứ lúc nào mà không thông báo trước
nhưng khác với loại tiền gửi thanh toán, người gửi tiền không được sử dụng


19

các công cụ thanh toán để chi trả cho người khác, bên cạnh đó số dư của loại
này thường không lớn và có ưu điểm hơn tiền gửi giao dịch ở chỗ là số dư
này ít biến động nên lãi suất tiền gửi tiết kiệm thường cao hơn so với tiền gửi
thanh toán và phần lớn những người gửi tiền tiết kiệm là do chưa xác định
được nhu cầu chi tiêu cụ thể trong tương lai nhưng lại hưởng mức lãi trong
thời gian khoản tiền nhàn rỗi.
+) Tiền gửi tiết kiệm có kỳ hạn:

Là loại tiền gửi dành cho khách hàng cá nhân và tổ chức có nhu cầu gửi
tiền vì mục tiêu an toàn, sinh lợi và thiết lập được kế hoạch sử dụng tiền trong
tương lai. Loại này tương đối ổn định vì Ngân hàng xác định được thời gian
rút tiền của khách hàng. Đối với loại tiền gửi này Ngân hàng có nhiều loại
thời hạn với lãi suất cao hơn loại tiền gửi không kỳ hạn và mức lãi suất còn
thay đổi tùy theo loại đồng tiền gửi tiết kiệm (VNĐ, USD, EUR, hay vàng) và
còn tùy theo uy tín, rủi ro của Ngân hàng nhận tiền gửi.
1.2.2.2. Huy động vốn bằng phát hành giấy tờ có giá
Giấy tờ có giá là chứng nhận của tổ chức tín dụng phát hành để huy động
vốn trong đó xác nhận nghĩa vụ trả nợ một khoản tiền trong một thời hạn nhất
định, điều kiện trả lãi và các điều khoản cam kết khác giữa tổ chức tín dụng
và người mua.
Đặc điểm của loại vốn này là lãi suất cao hơn lãi suất tiền gửi tiết kiệm,
mục đích huy động dùng để đáp ứng cho các dự án đầu tư lớn, được huy động
theo nhiều thời hạn khác nhau như ngắn hạn, trung hạn và dài hạn. Hiện nay ở
các NHTM Việt Nam thường huy động nguồn vốn này dưới hình thức phát
hành kỳ phiếu có mục đích và trái phiếu trung, dài hạn.
+) Trái phiếu Ngân hàng: Là một cam kết xác nhận nghĩa vụ trả nợ (cả
gốc và lãi) của Ngân hàng phát hành đối với người chủ sở hữu trái phiếu với
mục đích là nhằm huy động vốn trung và dài hạn, lãi suất của trái phiếu
thường cao hơn lãi suất của tiền gửi tiết kiệm, kỳ phiếu. Việc phát hành trái
phiếu các NHTM chịu sự quản lý của Ngân hàng trung ương, của các cơ quan


20

quản lý trên thị trường chứng khoán và có thể bị chi phối bởi uy tín của Ngân
hàng.
+) Kỳ phiếu Ngân hàng: Đây là loại giấy tờ có giá ngắn hạn, người sở
hữu có thể chuyển nhượng cho người khác qua chứng nhận của Ngân hàng vì

trên sổ kỳ phiếu có ghi tên người hưởng.
+) Phát hành chứng chỉ tiền gửi: Nó là những giấy tờ xác nhận tiền gửi
định kỳ ở một Ngân hàng, người sở hữu giấy này sẽ được thanh toán tiền lãi
theo kỳ và nhận đủ vốn khi đến hạn. Chứng chỉ sau khi phát hành được lưu
thông trên thị trường.
1.2.2.3. Vốn vay từ các tổ chức tài chính tín dụng
Thực hiện thông qua thị trường liên Ngân hàng, giúp các NHTM giải
quyết sự mất cân đối giữa việc huy động và sử dụng vốn gây thiếu vốn đột
xuất.
1.2.2.4. Vốn vay từ NHTW
Khi các NHTM hết khả năng vay vốn của nhau mà vẫn thiếu vốn hoặc
mất khả năng thanh toán thì NHTW là cứu tinh cuối cùng nhằm bổ sung
nguồn vốn kinh doanh đảm bảo cho hệ thống Ngân hàng thương mại hoạt
động bình thường. Các hình thức chủ yếu mà NHTW sử dụng để cấp tín dụng
cho các NHTM là cho vay, mua bán, chiết khấu, tái chiết khấu đối với các
giấy tờ có giá.
1.2.2.5. Tạo vốn từ nguồn vốn khác
Đó là từ các tổ chức tài chính quốc tế, đây là nguồn vốn lớn, có thời hạn
tương đối dài từ 5 đến 50 năm với lãi suất tương đối ưu đãi tuy nhiên nó có
các điều kiện kèm theo rất chặt chẽ và việc cấp phát phải đúng nội dung
chương trình của các dự án tài trợ.
1.2.3. Vai trò của hoạt động huy động vốn
Đối với bất kỳ một doanh nghiệp nào, muốn hoạt động kinh doanh được
thì phải có vốn bởi vốn phản ánh năng lực chủ yếu để quyết định khả năng
kinh doanh . Riêng đối với Ngân hàng là một doanh nghiệp đặc biệt thì hoạt


×