Tải bản đầy đủ (.docx) (7 trang)

LUẬN ĐIỂM “XÓA BỎ CHẾ ĐỘ TƯ HỮU” TRONG TUYÊN NGÔN CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (158.94 KB, 7 trang )

LUẬN ĐIỂM “XÓA BỎ CHẾ ĐỘ TƯ HỮU” TRONG TUYÊN NGÔN
CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN - QUÁ TRÌNH NHẬN THỨC VÀ VẬN DỤNG
CỦA ĐẢNG TA
Th.s Huỳnh Văn Thuấn
Khoa lý luận Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh

Từ khi ra đời (năm 1848) cho đến nay, “Tuyên ngôn của Đảng cộng sản” do
C.Mác và Ph.Ăngghen viết có ý nghĩa như là cương lĩnh đầu tiên của đảng vô sản,
với mục đích lật đổ chủ nghĩa tư bản xây dựng xã hội mới tốt đẹp hơn đó là xã hội
cộng sản chủ nghĩa, vẫn giữ nguyên giá trị và sức sống. Nhiều luận điểm được
“Tuyên ngôn” đưa ra đã soi sáng cho con đường cách mạng vô sản nhiều nước trên
thế giới đi đến thành công, trong đó có Việt Nam. Tuy nhiên, có luận điểm trong quá
trình nghiên cứu do chưa nhận thức đầy đủ, không đúng với tinh thần của C.Mác và
Ph.Ăngghen nên khi vận dụng đã mắc sai lầm, gây trở ngại không nhỏ trên con
đường cách mạng. Luận điểm tôi muốn nhắc tới ở đây đó là “xóa bỏ chế độ tư hữu”.
Vì vậy, việc nghiên cứu để hiểu thấu đáo hơn luận điểm theo đúng tinh thần của
C.Mác và Ph.Ăngghen là thực sự cần thiết, có ý nghĩa cả về mặt lý luận lẫn thực
tiễn.
Trước đây, các nước xã hội chủ nghĩa đã quá nhấn mạnh cải tạo xã hội chủ
nghĩa đối với chế độ tư hữu, nên đã nóng vội xóa bỏ ngay chế độ tư hữu, xác lập chế
độ công hữu khi lực lượng sản xuất còn lạc hậu để tiến nhanh lên chủ nghĩa xã hội.
Cơ sở lý luận vững chắc được giải thích rằng các nhà kinh điển chủ nghĩa Mác –
Lênin khẳng định trong “Tuyên ngôn của Đảng cộng sản”: “ …những người cộng
sản có thể tóm tắt lý luận của mình thành một luận điểm duy nhất là: xóa bỏ chế độ
tư hữu”(1). Nếu chỉ viện dẫn như vậy, mà không chú ý những lập luận mà C.Mác và
Ph.Ăngghen đã làm rõ trong “Tuyên ngôn”, cũng như trong các tác phẩm trước đó,
thì rõ ràng sẽ dẫn đến hiểu một cách giản đơn, phiến diện về xóa bỏ chế độ tư hữu
trong “Tuyên ngôn”.
Để đúc kết thành luận điểm trên, C.Mác và Ph.Ăngghen nghiên cứu và phân
tích sự vận động các hình thái kinh tế - xã hội, chỉ rõ mục đích cuối cùng của những
người cộng sản là xây dựng thành công chủ nghĩa cộng sản. Để đi đến mục đích đó


phải trải qua hai giai đoạn khác nhau: Giai đoạn thứ nhất là giai cấp vô sản dùng bạo
lực giành lấy chính quyền và giai đoạn thứ hai là giai cấp vô sản tiến hành công
cuộc cải tạo xã hội cũ vừa giành được, xây dựng xã hội mới tiến bộ hơn. Công cuộc
trong giai đoạn thứ hai phải được giải quyết từ nền tảng là vấn đề sở hữu và “tóm
tắt” thành luận điểm: “xóa bỏ chế độ tư hữu”. Hai Ông cũng đã làm rõ luận điểm
của mình ở nhiều khía cạnh như sau:
Trước hết, Phân biệt sở hữu tư sản với sở hữu của người tiểu tư sản, của người
tiểu nông. Sở hữu tư sản là cái sở hữu bóc lột lao động làm thuê, “cái sở hữu chỉ có

1


thể tăng thêm với điều kiện là phải sản xuất ra lao động làm thuê mới để lại bóc lột
lao động làm thuê đó”(2), là đặc trưng của phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa;
còn sở hữu của người tiểu tư sản, của người tiểu nông có trước sở hữu tư sản, là sở
hữu do cá nhân mỗi người làm ra, kết quả lao động của cá nhân, không là đặc trưng
của phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa.
Thứ hai, Chủ nghĩa cộng sản xóa bỏ sở hữu nào? C.Mác và Ph.Ăngghen
khẳng định: “Đặc trưng của chủ nghĩa cộng sản không phải là xóa bỏ chế độ sở hữu
nói chung, mà là xóa bỏ chế độ sở hữu tư sản” (3). Vậy chế độ sở hữu tư sản là gì mà
phải xóa bỏ nó? Hai ông giải thích: “chế độ tư hữu tư sản hiện thời, lại là biểu hiện
cuối cùng và đầy đủ nhất của phương thức sản xuất và chiếm hữu sản phẩm dựa trên
những đối kháng giai cấp, trên cơ sở những người này bóc lột những người kia”, tức
không chủ trương xóa bỏ quyền tư hữu nói chung mà mà xóa bỏ chế độ tư hữu dựa
trên sự chiếm đoạt kết quả lao động, nô dịch lao động của người khác. Theo đó, sở
hữu do cá nhân mỗi người làm ra tức là sở hữu của người tiểu tư sản, của người tiểu
nông, người công nhân làm thuê chiếm hữu được bằng hoạt động của mình, việc xóa
bỏ nó không phải là đặc trưng của chủ nghĩa cộng sản. C.Mác và Ph.Ăngghen chỉ rõ:
“Chúng tôi tuyệt nhiên không muốn xóa bỏ sự chiếm hữu cá nhân ấy về những sản
phẩm của lao động, cần thiết để tái sản xuất ra đời sống, vì sự chiếm hữu ấy không

đẻ ra một khoản dư nào có thể đem lại một quyền lực chi phối lao động của người
khác”(4).
Thứ ba, Việc xóa bỏ chế độ tư hữu được thực hiện như thế nào? Theo C.Mác
và Ph.Ăngghen, việc xóa bỏ chế độ tư hữu là một quá trình lâu dài. Đối với tư hữu
nhỏ, sẽ diễn ra một cách khách quan, cũng không phải là vấn đề của những người
cộng sản, mà “sự phát triển của công nghiệp đã xóa bỏ và hàng ngày vẫn tiếp tục xóa
bỏ cái đó rồi”; còn đối với tư hữu tư sản, sau khi giai cấp vô sản giành lấy chính
quyền “sẽ dùng sự thống trị chính trị của mình để từng bước một đoạt lấy toàn bộ tư
bản trong tay giai cấp tư sản”(5). Nói về vấn đề này, trong tác phẩm “Những nguyên
lý của chủ nghĩa cộng sản” viết trước “Tuyên ngôn”, khi trả lời câu hỏi liệu có thể
thủ tiêu chế độ tư hữu ngay lập tức được không? Ph.Ăngghen cho rằng: “Không,
không thể được, cũng y như không thể làm cho lực lượng sản xuất hiện có tăng lên
ngay lập tức đến mức cần thiết để xây dựng một nền kinh tế công hữu. Cho nên,
cuộc cách mạng của giai cấp vô sản đang có tất cả những triệu chứng là sắp nổ ra, sẽ
chỉ có thể cải tạo xã hội hiện nay một cách dần dần, và chỉ khi nào đã tạo nên được
một khối lượng tư liệu sản xuất cần thiết cho việc cải tạo đó thì khi ấy mới thủ tiêu
được chế độ tư hữu”(6).
Thứ tư, Mục đích của việc xóa bỏ quyền tư hữu tư sản là “để tập trung tất cả
những công cụ sản xuất vào trong tay nhà nước, tức là trong tay giai cấp vô sản đã
được tổ chức thành giai cấp thống trị, và để tăng thật nhanh số lượng những lực
lượng sản xuất”(7). Đó là con đường tất yếu để xây dựng nền tảng của xã hội cộng
sản.

2


Cuối cùng, C.Mác và Ph.Ăngghen đưa ra 10 biện pháp (*) có thể áp dụng khá
phổ biến đối với những nước tiên tiến nhất mà giai cấp vô sản sẽ dùng quyền thống
trị của mình để từng bước tước đoạt tư bản trong tay giai cấp tư sản, nhưng cũng
không quên lưu ý: “Trong những nước khác nhau, những biện pháp ấy dĩ nhiên sẽ

khác nhau rất nhiều”(8).
Như vậy, chúng ta thấy rằng, lời khẳng định trong “Tuyên ngôn”: “…những
người cộng sản có thể tóm tắt lý luận của mình thành một luận điểm duy nhất là: xóa
bỏ chế độ tư hữu” là cách nói tóm tắt, tổng quát nhất về việc cải tạo toàn bộ xã hội,
xác định rõ tiêu chuẩn cơ bản để phân biệt xã hội cộng sản chủ nghĩa với các chế độ
xã hội khác, chỉ có xóa bỏ chế độ tư hữu mới thủ tiêu chế độ người bóc lột người.
Nhưng, C.Mác và Ph.Ăngghen không quên nhắc nhở những người cộng sản sau khi
giành chính quyền, phải thực hiện từng bước, tùy thuộc vào hoàn cảnh của mỗi
nước, làm sao quan hệ sản xuất phải phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng
sản xuất, bởi vì để tiến lên chủ nghĩa cộng sản là một quá trình phát triển lâu dài.
Điều đáng tiếc rằng, sinh thời C.Mác và Ph.Ăngghen chưa chứng kiến được
thời khắc giai cấp vô sản giành được chính quyền trong tay giai cấp tư sản, để thực
hiện tư tưởng của mình. Chỉ đến thời Lênin, ông là người đã hiện thực hóa những
những quan điểm của C.Mác và Ph.Ăngghen, luôn nhất quán với việc xóa bỏ chế độ
tư hữu, ông khẳng định: “Để thực sự giải phóng giai cấp công nhân, cần phải có
cuộc cách mạng xã hội, xuất phát một cách tự nhiên từ toàn bộ sự phát triển của
phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa, tức là phải thủ tiêu chế độ tư hữu về tư liệu
sản xuất, chuyển các tư liệu đó thành sở hữu công cộng và thay thế nền sản xuất
hàng hóa tư bản chủ nghĩa bằng việc tổ chức sản xuất sản phẩm theo lối xã hội chủ
nghĩa...”(9). Nhưng việc thủ tiêu chế độ tư hữu phải phù hợp với những điều kiện và
khả năng nhất định, có nghĩa là trong những hoàn cảnh lịch sử cụ thể việc sử dụng
sở hữu tư nhân cũng là cần thiết. Trong “Chính sách kinh tế mới”, Lênin chủ trương
phát triển kinh tế nhiều thành phần, các hình thức kinh tế quá độ, khuyến khích phát
triển kinh tế cá thể, kinh tế tư bản tư nhân, sử dụng chủ nghĩa tư bản nhà nước, …;
trong tác phẩm “Bệnh ấu trĩ tả khuynh và tính tiểu tư sản”, ông đã phê phán mạnh
mẽ tư tưởng nóng vội muốn xác lập ngay chế độ công hữu.
Sau khi Lênin mất, những người kế nhiệm thực hiện trái ngược với tư tưởng
của Người, đưa nền kinh tế sang một mô hình tập trung quan liêu cao độ, mọi
phương tiện sản xuất đều nằm trong tay nhà nước thông qua chỉ hai hình thức sở hữu
toàn dân và sở hữu tập thể, và bất cứ một quốc gia nào sau này theo chủ nghĩa xã hội

thì cũng đều đi theo mô hình kinh tế này, trên thực tế là không phù hợp.

(*) Xem trong C.Mác và Ph.Ăngghen, Toàn tập, NXB CTQG Sự Thật, H, 1995, Tập 4, tr.627.

3


Đối với Việt Nam, tư duy kinh tế của Đảng và Nhà nước ta về cải tạo quan hệ
sản xuất cũ, xây dựng quan hệ sản xuất mới xã hội mới cũng đã trải qua nhiều bước
thăng trầm.
Trong mô hình xây dựng chủ nghĩa xã hội trước đây, vì nhiều lý do khách
quan và chủ quan đã dẫn tới việc xóa bỏ một cách nhanh chóng các loại hình tư hữu,
xác lập công hữu một cách hình thức, áp đặt, nhanh chóng thực hiện quốc doanh hóa
và tập thể hóa. Đại hội III của Đảng xác định một trong năm nhiệm vụ trong kế
hoạch 5 năm (1961 – 1965) là: “Hoàn thành công cuộc cải tạo xã hội chủ nghĩa đối
với nông nghiệp, thủ công nghiệp, thương nghiệp nhỏ và công thương nghiệp tư bản
chủ nghĩa tư doanh…tăng cường mối quan hệ sở hữu toàn dân và sở hữu tập thể, mở
rộng quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa trong toàn bộ nền kinh tế” (10). Việc thực hiện
nhiệm vụ trên được triển khai một cách rất tích cực.
Kết quả đến Đại hội IV, Đảng ta nhận định: “Trên mặt trận cải tạo xã hội chủ
nghĩa và xây dựng nền kinh tế quốc dân, miền Bắc đã đạt được những thành tựu
đáng tự hào. Thành tựu to lớn nhất là đã thủ tiêu chế độ người bóc lột người, chế độ
xã hội chủ nghĩa dưới hai hình thức toàn dân và tập thể được xác lập một cách phổ
biến. Đến năm 1975 trong khu vực sản xuất vật chất, 99,7% tài sản cố định đã thuộc
về kinh tế xã hội chủ nghĩa, phần lớn thu nhập quốc dân cũng như sản lượng công
nghiệp, nông nghiệp do kinh tế xã hội chủ nghĩa tạo ra”(11).
Đó là đường lối trong thời gian đặc biệt, đất nước có chiến tranh phần nào đã
có những hiệu quả nhất định. Tuy nhiên, sau ngày thống nhất đất nước (30/4/1975),
chúng ta vẫn say sưa với kinh nghiệm cũ, vẫn sử dụng một cách máy móc tiến trình
cải biến quan hệ sở hữu đã làm trong hoàn cảnh trong nước và thế giới có nhiều thay

đổi. Từ nhận định trên, Đại hội IV chủ trương tiếp tục cải tạo quan hệ sản xuất cũ,
củng cố và hoàn thiện quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa với nhiều nội dung nhằm
mở rộng nhanh chóng thành phần kinh tế dựa trên công hữu, xóa bỏ triệt để tư hữu
về tư liệu sản xuất: “Xóa bỏ triệt để quyền chiếm hữu phong kiến về ruộng đất và
những tàn tích bóc lột phong kiến, quốc hữu hóa những cơ sở công thương nghiệp tư
sản mại bản, của bọn phản quốc và bọn tư sản bỏ chạy ra nước ngoài; tiến hành cải
tạo xã hội chủ nghĩa đối với tư bản tư doanh, đối với nông nghiệp, thủ công nghiệp,
tiểu công nghiệp và thương nghiệp nhỏ”(12).
Đến năm 3/1982, Đại hội Đảng lần thứ V đánh giá thành tựu đạt được như
sau: “Quan hệ sản xuất mới ở miền Bắc tiếp tục được củng cố một bước. Ở miền
Nam, công cuộc cải tạo xã hội chủ nghĩa đạt được kết quả bước đầu. Giai cấp tư
sản mại bản đã bị xoá bỏ; một bộ phận công thương nghiệp tư bản chủ nghĩa đã
được cải tạo. Tiểu công nghiệp, thủ công nghiệp và thương nghiệp nhỏ đang được
sắp xếp và tổ chức lại. Một bộ phận nông dân các tỉnh Nam Bộ đã được tổ chức vào
các tập đoàn sản xuất; các tỉnh Nam Trung Bộ đã cơ bản hoàn thành đưa nông dân
vào con đường làm ăn tập thể”(13).

4


Tuy nhiên, bên cạnh những mặt đạt được về cải tạo quan hệ sản xuất cũ xây
dựng quan hệ sản xuất mới xã hội chủ nghĩa như trên đã nhận định, đất nước ta đang
đứng trước những khó khăn gay gắt. Trong những năm 70 và đầu những năm 80 của
thế kỷ XX, nền kinh tế nước ta bước vào cuộc khủng hoảng trầm trọng và kéo dài,
nền sản xuất bị kìm hãm, tình trạng mất cân đối trong nền kinh tế vẫn tiếp tục diễn
ra, sản xuất không đáp ứng được nhu cầu tiêu dùng, đời sống nhân dân ngày càng
giảm sút (**). Chúng ta chủ trương xóa bỏ triệt để sở hữu tư nhân nhưng không xóa bỏ
được, vì trên thực tế nó vẫn tồn tại. Tất cả những hạn chế trên cho thấy, quá trình cải
tạo quan hệ sản xuất cũ và xây dựng quan hệ sản xuất mới chưa phù hợp, chưa là
động lực mà còn là cản trở cho nền kinh tế phát triển. Mãi cho đến Đại hội Đảng lần

thứ VI, cơ chế kinh tế nước ta vẫn còn tập trung quan liêu, bao cấp; chưa thừa nhận
nhiều hình thức sở hữu và cơ cấu kinh tế nhiều thành phần.
Như vậy, trước đổi mới chúng ta có tư tưởng chủ quan, nóng vội, duy ý chí
muốn xóa bỏ kinh tế tư nhân trong một thời gian ngắn, cho rằng quốc doanh hóa và
tập thể hóa càng nhanh, càng mạnh, càng nhiều thì càng mau chóng có xã hội chủ
nghĩa, nhưng trên thực tế không phải như vậy. Đại hội VI phân tích rõ: “Mười năm
qua, hai kỳ đại hội Đảng đều ghi vào nhiệm vụ căn bản hoàn thành cải tạo xã hội chủ
nghĩa trong nhiệm kỳ đại hội đó, song đều chưa thực hiện được. Cuộc sống cho ta
một bài học thấm thía là không thể nóng vội làm trái qui luật. Nay phải sửa lại cho
đúng như sau: “đẩy mạnh cải tạo xã hội chủ nghĩa là nhiệm vụ thường xuyên, liên
tục trong suốt thời kỳ quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội, với những hình thức và bước đi
thích hợp, làm cho quan hệ sản xuất phù hợp với tính chất và trình độ của lực lượng
sản xuất”(14).
Công cuộc đổi mới của Đảng ta diễn ra từ năm 1986 cho đến nay, chúng ta đã
khắc phục chế độ công hữu hình thức, sử dụng đúng đắn các thành phần kinh tế dựa
trên sở hữu tư nhân nhằm thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển.
Đại hội VI của Đảng đánh dấu bước đột phá đầu tiên của tư duy lý luận về nền
kinh tế thị trường, Đại hội xác định xây dựng quan hệ sản xuất mới xã hội chủ nghĩa
là một công việc to lớn, không thể làm xong trong một thời gian ngắn, không thể
nóng vội làm trái quy luật và khẳng định "Nền kinh tế có cơ cấu nhiều thành phần là
một đặc trưng của thời kỳ quá độ". Đến Đại hội VII, Đảng ta khẳng định: Nền kinh
tế nước ta tồn tại nhiều hình thức sở hữu trong đó có ba hình thức cơ bản đó là: sở
hữu toàn dân, sở hữu tập thể, sở hữu tư nhân. Trên cơ sở ba hình thức sở hữu cơ bản
này mà hình thành nhiều hình thức tổ chức và nhiều thành phần kinh tế.
(**) Trong giai đoạn những năm 1976 – 1985, tốc độ tăng trưởng kinh tế nước ta bình quân
hằng năm chỉ đạt 2,0%, trong đó những năm như 1979, 1980 mức tăng GDP < 0%; tuy trong 5 năm
(1981-1985) sản xuất nông nghiệp, công nghiệp có tăng lên một bước, nhưng khó khăn về kinh tế vẫn
không giảm bớt mà còn gay gắt hơn. Giá cả tăng đến mức phi mã: nếu năm 1976 là 100% thì năm 1981
là 313% và năm 1985 còn cao hơn nhiều (xem: Việt Nam đổi mới và phát triển, nxb. CTQG, HN, 2010,
tr.125).


5


Đến Đại hội X, Đảng ta tiếp tục có những bổ sung và phát triển về sở hữu và
các thành phần kinh tế cho phù hợp hơn với thực tiễn của đất nước. Đại hội đã xác
định: Trên cơ sở ba chế độ sở hữu (toàn dân, tập thể, tư nhân), hình thành nhiều hình
thức sở hữu và nhiều thành phần kinh tế: kinh tế nhà nước, kinh tế tập thể, kinh tế tư
nhân, kinh tế tư bản nhà nước, kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài. Và, Đại hội lần này
cũng đã đưa ra một quan điểm rất mới về kinh tế tư nhân, đó là: kinh tế tư nhân có
vai trò quan trọng, là một trong những động lực của nền kinh tế, đồng thời, tiến một
bước xa hơn là xác định đảng viên được làm kinh tế tư nhân.
Đại hội XI của Đảng vừa qua, tiếp tục khẳng định “Phát triển các hình thức sở
hữu, các thành phần kinh tế, các loại hình doanh nghiệp”, trong đó kinh tế tư nhân
rất được chú trọng, Văn kiện Đại hội xác định: “Hoàn thiện cơ chế, chính sách để
phát triển mạnh kinh tế tư nhân trở thành một trong những động lực của nền kinh tế.
Phát triển mạnh kinh tế tư nhân ở hầu hết các ngành, lĩnh vực theo quy hoạch và quy
định của pháp luật. Tạo điều kiện hình thành một số tập đoàn kinh tế tư nhân và tư
nhân góp vốn vào các tập đoàn kinh tế nhà nước”(15).
Có thể khẳng định, thành tựu mà chúng ta đạt được trong hơn 25 năm đổi mới
vừa qua có một phần đóng góp không nhỏ của các loại hình kinh tế tư nhân.
Tóm lại, qua nghiên cứu trên, chúng ta càng nhận thức rõ và đầy đủ hơn về
luận điểm “xóa bỏ chế độ tư hữu” trong “Tuyên ngôn” và từ thực tiễn đã chứng
minh rằng giá trị của luận điểm này là bất diệt. Còn đối với nước ta, nghiên cứu luận
điểm trên giúp chúng ta một lần nữa nhìn nhận lại sai lầm chủ quan, duy ý chí, vi
phạm quy luật khách quan, vội vàng xóa bỏ mọi hình thức kinh tế dựa trên tư hữu
mà ta mắc phải; và cũng cho chúng ta thấy rằng, không nên áp dụng một cách rập
khuôn, máy móc một mô hình kinh tế đã có sẵn, mà phải thật sự tìm tòi, nghiên cứu
và vận dụng một cách sáng tạo từng luận điểm của chủ nghĩa Mác vào điều kiện cụ
thể riêng của mình; đồng thời, qua đó cũng khẳng định việc Đảng ta tạo điều kiện

cho sở hữu tư nhân có một vị trí thích đáng trong nền kinh tế thị trường định hướng
xã hội chủ nghĩa là chiến lược đúng đắn và phù hợp với quy luật phát triển, khẳng
định sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng ta.

(1) (2) C.Mác và Ph.Ăngghen, Toàn tập, NXB CTQG Sự Thật, H, 1995, Tập 4, tr.616.
(3) Sđd, tr. 615.
(4) Sđd, tr. 617.
(5) , (6) Sđd, tr. 626.
(7) Sđd, tr. 469.
(8) Sđd, tr. 627.

(9) V. I. Lê-nin,Toàn tập, Nxb Tiến bộ, Mát-xcơ-va, 1978, t 6, tr 518.
(10) Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đảng toàn tập, t. 21, nxb. CTQG, HN, 2005, tr. 836.
(11), (12) Sđd, t. 37, tr. 490-491, tr. 558.
(13) Sđd, t. 43, tr. 42.

6


(14) Sđd, t. 47, tr. 391.
(15) Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, nxb. CTQG, HN, 2011, tr.
209.

7



×