Tải bản đầy đủ (.doc) (59 trang)

Lý luận của C.Mác –Ph. Ăngghen về chuyên chính vô sản trong tác phẩm Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản và ý nghĩa của nó đối với cách mạng Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (350.91 KB, 59 trang )

Luận văn
Lý luận của C.Mác –Ph. Ăngghen về chun
chính vơ sản trong tác phẩm "Tuyên ngôn
của Đảng Cộng sản" và ý nghĩa của nó
đối với cách mạng Việt Nam


Tác phẩm kinh điển Mác - Lênin I

PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Cách đây đúng 163 năm, tháng 2 năm 1848, “Tuyên ngôn của Đảng cộng sản” –
do C.Mác và Ph.Ăngghen soạn thảo – ra đời là một sự kiện trọng đại trong lịch sử.
Với việc công bố tác phẩm được thừa nhận là một đỉnh cao trong sự nghiệp sáng tạo
lý luận của các nhà sáng lập chủ nghĩa Mác, là “ khúc ca tuyệt tác của chủ nghĩa
Mác”, C.Mác và Ph.Ăngghen đã đem lại cho giai cấp vơ sản cách mạng tồn thế giới
và chính đảng của nó một Cương lĩnh “ có đầy đủ chi tiết, vừa về mặt lý luận, vừa về
mặt thực tiễn”[1;127]
Với Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản, các tư tưởng xã hội chủ nghĩa đã hồn
thành về có bản q trình chuyển biến từ khơng tưởng thành khoa học.Từ đó, phong
trào cách mạng vơ sản có lý luận tiền phong và cương lĩnh cách mạng soi đường,
chuyển từ tự phát sang tự giác. Đúng như C. Mác và Ph. Ăng-ghen khẳng định
trong Tuyên ngôn: "Sự sụp đổ của giai cấp tư sản và thắng lợi của giai cấp vô sản đều
là tất yếu như nhau"[1;127]
Trải qua bao biến cố và thăng trầm lịch sử, mặc dù các thế lực thù địch, phản
động, chủ nghĩa cơ hội và xét lại luôn cấu kết với nhau tìm mọi cách chống phá, phủ
nhận, nhưng tính đúng đắn và khoa học của các nguyên lý cơ bản trong “Tun ngơn
của Đảng Cộng sản” vẫn cịn nguyên giá trị, có ý nghĩa lý luận và thực tiễn sâu sắc.
Khi bàn về giá tri của “Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản”, Lê nin viết: “Cuốn sách nhỏ
ấy, có giá trị bằng hàng bộ sách; tinh thần của nó, đến bây giờ, vẫn cổ vũ và thúc đẩy
tồn thể giai cấp vơ sản có tổ chức và đang chiến đấu của thế giới văn minh”.


Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản xuất hiện đánh dấu mốc ra đời của chủ nghĩa
cộng sản khoa học. Tuyên ngôn là tiếng chuông thức tỉnh giai cấp vô sản, quần chúng
cần lao bị đọa đầy đau khổ vùng dậy đấu tranh để giành quyền sống, quyền được làm
người, là ngọn đèn pha soi sáng con đường đấu tranh cách mạng của giai cấp công

Lê Đức Phương

2

Lớp GDCT K29A1


Tác phẩm kinh điển Mác - Lênin I

nhân, nhân dân lao động, là tiếng kèn xung trận của giai cấp vơ sản tấn cơng vào
thành trì của chủ nghĩa tư bản.
Vai trị lịch sử của chun chính vơ sản, quyền lực chính trị của giai cấp cơng
nhân dân là bộ phận quan trọng nhất của vấn đề sứ mệnh lịch sử của giai cấp cơng
nhân, vấn đề vai trị lịch sử của giai cấp đó với tư cách là người cải tạo xã hội theo
nguyên lý của chủ nghĩa cộng sản. Bởi vì, khơng thiết lập được chính quyền của
mình, giai cấp công nhân không thể bảo đảm được việc chuyển từ chủ nghĩa tư bản
lên chủ nghĩa cộng sản nhằm đạt mục tiêu giải phóng triệt để con người.
Có thể nói, những luận điểm trong Tun ngơn của Đảng Cộng sản đã soi sáng
cho con đường cách mạng của giai cấp vơ sản và đảng tiên phong của nó trong sự
nghiệp lãnh đạo quần chúng nhân dân ở nhiều nước trên thế giới thực hiện cuộc cách
mạng vô sản lật đổ giai cấp tư sản và thiết lập nền chun chính vơ sản, xây dựng xã
hội chủ nghĩa, xóa tan áp bức, bóc lột và bất cơng trong xã hội. Thành tựu của Cách
mạng Tháng Mười Nga, Cách mạng Tháng Tám của Việt Nam và những thành công
của các cuộc cách mạng vô sản cách mạng khác đã minh chứng tính đúng đắn, tính
khoa học của Tun ngơn của Đảng Cộng sản.

Hơn 80 năm qua, cách mạng Việt Nam luôn trung thành với những tư tưởng vĩ
đại của Tuyên ngôn. Cách mạng Việt Nam càng phát triển đi lên càng khẳng định
những nguyên lý cơ bản của Tuyên ngôn. Tư tưởng cách mạng của chủ nghĩa Mác –
Lênin nói chung, của Tun ngơn nói riêng, ln là ánh sáng soi đường cho cách
mạng Việt Nam.
Đó là lý do em chọn đề tài “ Lý luận của C.Mác –Ph. Ăngghen về chun
chính vơ sản trong tác phẩm "Tun ngơn của Đảng Cộng sản" và ý nghĩa của nó
đối với cách mạng Việt Nam”, làm nội dung tiểu luận kết thúc học phần mơn Các tác
phẩm kinh điển I.
Trong q trình nghiên cứu em đã cố gắng rất nhiều nhưng không tránh khỏi những
thiếu sót. Vì vậy, em mong được sự đóng góp ý kiến của thầy cơ để bài tiểu luận hoàn
Lê Đức Phương

3

Lớp GDCT K29A1


Tác phẩm kinh điển Mác - Lênin I

chỉnh hơn. Qua đây, cho em gửi lời cảm ơn đến Ban chủ nhiệm khoa và các thầy cơ trong
khoa đã tận tình giảng dạy và hướng dẫn em trong quá trình nghiên cứu.
2. Tình hình nghiên cứu
Bàn về tác phẩm Tun ngơn của Đảng Cộng sản nói chung được rất nhiều nhà
nghiên cứu đề cập đến, rất nhiều cuốn sách, bài báo, tạp chí,… Chẳng hạn như: GS.
Viện sĩ. Nguyễn Duy Quý: “Những tư tưởng Chủ nghĩa xã hội khoa học của Mác và
Ăng ghen trong “Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản”- Tạp chí Phát triển nhân lực (số 12008); Tạ Ngọc Tấn: “Từ tư tưởng giải phóng con người trong Tuyên ngơn của Đảng
Cộng sản đến mơ hình xã hội xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay” – Tạp chí Cộng
sản số 784(2 – 2008); GS. Nguyến Đức Bình: “Sống mãi tư tưởng vĩ đại của Tuyên
ngôn của Đảng Cộng sản” – Tạp chí Lý luận Chính trị (1- 2008); Ths. Trần Thị Kim

Cúc: Góp phần nghiên cứu giá trị và sức sống trong Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản
– Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2008…
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu: Trên cơ sở lý luận của các nhà kinh điển về vấn đề chun
chính vơ sản trong tác phẩm. Từ đó, đề tài đi sâu vào phân tích q trình vận dụng của
cách mạng Việt Nam qua từng giai đoạn của lịch sử.
Nhiệm vụ nghiên cứu: Đề tài xin được trình bày sơ lược về tiểu sử, sự nghiệp của
Mác – Ăngghen và làm rõ vấn đề chun chính vơ sản trong tác phẩm “Tun ngơn
Đảng Cộng sản”. Từ đó chỉ ra nghiên cứu tác phẩm có ý nghĩa gì với cách mạng Việt
Nam.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu: Lý luận của C.Mác và Ăngghen về chun chính vơ sản
trong tác phẩm “Tun ngơn Đảng cộng sản” và ý nghĩa của nó đối với cách mạng
Việt Nam hiện nay.

Lê Đức Phương

4

Lớp GDCT K29A1


Tác phẩm kinh điển Mác - Lênin I

Phạm vi nghiên cứu: Quan điểm của C. Mác – Ph. Ăngghen về chun chính vơ
sản trong tác phẩm “Tun ngơn của Đảng Cộng sản” của C.Mác và Ăngghen. Sự vận
dụng trong thực tiễn cách mạng Việt Nam.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
Cơ sở lý luận: Chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và các quan điểm
đường lối chính sách của Đảng Cộng sản Việt Nam.

Phương pháp nghiên cứu
Tiểu luận sử dụng chủ yếu các phương pháp: phương pháp duy vật biện chứng,
duy vật lịch sử, phương pháp kết hợp lý luận và thực tiễn, phương pháp nghiên cứu tài
liệu, phân tích, tổng hợp.
6. Kết cấu tiểu luận
Ngoài phần mở đầu, phần kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, phần nội dung
tiểu luận gồm: 2 chương
Chương 1: Lý luận của C. Mác – Ph.Ăngghen về chun chính vơ sản trong tác
phẩm "Tun ngơn của Đảng Cộng sản”
Chương 2: Ý nghĩa lý luận Chun chính vơ sản của C. Mác – Ph.Ăngghen
trong “Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản” đối với cách mạng Việt Nam.

Lê Đức Phương

5

Lớp GDCT K29A1


Tác phẩm kinh điển Mác - Lênin I

PHẦN NỘI DUNG
CHƯƠNG 1:
LÝ LUẬN CỦA C.MÁC – PH. ĂNGGHEN VỀ CHUYÊN CHÍNH VÔ SẢN
TRONG TÁC PHẨM “TUYÊN NGÔN CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN”
1.1 Khái quát về tác giả và tác phẩm
1.1.1 Tiểu sử C. Mác – Ph.Ăngghen
1.1.1.1 Các Mác (5/5/1818 – 14/3/1883)
Các Mác sinh ngày mồng 5 tháng 5 năm 1818 ở Tơ-ri-vơ thuộc nước Phổ. Cha
của Mác là luật sư. Sau khi tốt nghiệp trung học, Mác vào học đại học tổng hợp ở

Bon, rồi sau đó học ở trường đại học tổng hợp Béc-lanh. Mác học luật, lịch sử và triết
học. Tháng 10 năm 1842, Mác trở thành chủ bút của Báo Rê-na-ri của giai cấp tư sản
cấp tiến ở Đức hồi ấy. Trong các bài báo, Mác đã phê phán các chính phủ đương thời
ở Đức, Anh, Pháp và bênh vực quyền lợi của nông dân, phát biểu những tư tưởng triết
học của mình.Thời kỳ này, Mác đang chuyển từ chủ nghĩa duy tâm sang chủ nghĩa
duy vật, từ lập trường dân chủ cách mạng sang lập trường cộng sản.
Tháng 6-1843, Mác kết hôn với Gienni Phôn Vextơphalen, người bạn gái hồi nhỏ
của mình. Tháng 10-1843, Mác đến ở Pa-ri, thủ đô nước Pháp, tiếp tục viết báo.
Tháng 9-1844, Mác gặp Ăng-ghen ở Pa-ri. Tình bạn vĩ đại và cuộc đấu tranh chung
của hai người cho sự nghiệp của giai cấp cơng nhân bắt đầu từ đấy. Mác và Ăng-ghen
tích cực tham gia sinh hoạt với các nhóm cách mạng ở Pa-ri, hai ông đấu tranh quyết
liệt chống mọi thứ học thuyết của chủ nghĩa xã hội tư sản và tiểu tư sản và đã sáng lập
ra lý luận và sách lược của chủ nghĩa xã hội vô sản cách mạng, hay là chủ nghĩa cộng
sản. Năm 1845, Mác bị trục xuất khỏi Pa-ri vì bị coi là một nhà cách mạng nguy
hiểm. Mác sang ở Bruy-xen, thủ đô nước Bỉ.
Mùa xuân 1847, Mác và Ăng-ghen gia nhập Liên minh những người cộng sản.
Đó là tổ chức đầu tiên mang tính chất quốc tế của phong trào cơng nhân, gồm nhiều
nhà lãnh đạo của các hội công nhân ở Đức, Anh, Pháp, Bỉ, Hung-ga-ri, Ba-lan, v.v…
Lê Đức Phương

6

Lớp GDCT K29A1


Tác phẩm kinh điển Mác - Lênin I

Theo yêu cầu của Đại hội lần thứ hai của Liên minh họp tháng 11-1847 ở Luânđôn, thủ đô nước Anh, Mác và Ăng-ghen thảo bản Tuyên ngôn của Đảng cộng sản,
xuất bản tháng 2 năm 1848. Tuyên ngôn của Đảng cộng sản là văn kiện đầu tiên có
tính chất cương lĩnh của phong trào cộng sản và công nhân quốc tế.

Năm 1848, Mác bị trục xuất khỏi nước Bỉ và về ở Pa-ri, rồi về ở Đức, xuất bản tờ
Báo Rê-na-ni mới. Bị truy tố trước tòa án, Mác lại bị trục xuất và sang ở Pa-ri. Tháng
6-1849, Mác lại bị trục xuất khỏi Pa-ri và sang ở Luân-đôn cho đến khi mất. Ở Luânđôn, Mác viết các tác phẩm tổng kết kinh nghiệm các cuộc đấu tranh cách mạng ở
Pháp từ 1848 đến 1851, các tác phẩm về triết học, về chính trị kinh tế học. Năm 1867,
quyển đầu tiên của bộ Tư bản ra đời. Bộ Tư bản nêu ra lý luận về sự phát sinh, phát
triển và diệt vong của chủ nghĩa tư bản; nó chứng minh bằng lý luận hết sức chặt chẽ
và chính xác "lịch sử đẫm máu của chủ nghĩa tư bản", sự sụp đổ tất yếu của chủ nghĩa
tư bản, sự thắng lợi tất yếu của chủ nghĩa cộng sản. Bộ Tư bản xây dựng cơ sở lý luận
khoa học cho chủ nghĩa xã hội, làm cho chủ nghĩa xã hội từ chỗ là "chủ nghĩa xã hội
không tưởng" của các nhà tư tưởng trước Mác trở thành "chủ nghĩa xã hội khoa học".
Bộ Tư bản là ngọn đèn pha soi sáng cho cách mạng vô sản thế giới, vũ trang cho giai
cấp vô sản lý luận và niềm tin khơng gì lay chuyển nổi về sứ mệnh lịch sử của mình,
về sự tất thắng của chủ nghĩa cộng sản trên toàn thế giới. Cùng với Tuyên ngôn của
Đảng cộng sản bộ Tư bản là bộ sách gối đầu giường của những người vô sản giác
ngộ.
Mác không chỉ là nhà lý luận thiên tài mà trước hết, Mác là nhà cách mạng vĩ
đại. Trước phong trào công nhân đang lên, Mác ra sức hoạt động thực tiễn. Năm
1864, ở Luân-đôn thành lập Hội liên hiệp quốc tế những người lao động, tức Quốc tế
thứ nhất. Mác là người cổ vũ và lãnh đạo chủ chốt của Quốc tế thứ nhất. Mác đấu
tranh chống các thứ chủ nghĩa cơ hội trong phong trào công nhân, chống bọn vơ chính
phủ và định ra sách lược cách mạng cho cuộc đấu tranh của giai cấp công nhân.

Lê Đức Phương

7

Lớp GDCT K29A1


Tác phẩm kinh điển Mác - Lênin I


Cuộc đời chiến đấu quyết liệt và không mệt mỏi chống mọi kẻ thù của giai cấp
vô sản, chống lại các thứ trào lưu tư tưởng không vô sản và chống vô sản, sự làm việc
rất khẩn trương mà công tác lý luận đòi hỏi, sự nghèo khổ của cuộc sống lưu vong
cộng với bệnh tật và những đau thương trong gia đình làm cho sức khỏe của Mác
ngày càng suy yếu. Ngày 2 tháng 12 năm 1881, Gienni mất. Đến ngày 14 tháng 3 năm
1883, Mác yên giấc nghìn thu trên chiếc ghế bành, trước bàn làm việc. Trong bức thư
báo tin buồn cho bạn, Ăng-ghen viết: "Thế là cái trí tuệ mạnh mẽ nhất của Đảng ta đã
ngừng suy nghĩ, trái tim mạnh mẽ nhất mà tôi chưa từng thấy đã ngừng đập mất rồi".
Và khi đọc điếu văn trước mộ Mác, Ăng-ghen nói: "Con người ấy mất đi, thật khơng
sao có thể lường cho hết tổn thất đối với giai cấp vô sản chiến đấu của châu Âu và
châu Mỹ, tổn thất đối với khoa học lịch sử. Không bao lâu, chúng ta sẽ cảm thấy nỗi
trống trải sau cái chết của bậc vĩ nhân ấy".
Ca ngợi tình bạn vĩ đại, mối quan hệ khăng khít, bền lâu giữa Mác với Ăng-ghen,
Lê-nin viết: "Chuyện cổ kể lại những tấm gương rất cảm động về tình bạn. Nhưng
giai cấp vơ sản châu Âu có thể nói rằng khoa học của mình đã do hai nhà bác học và
chiến sĩ ấy sáng tạo ra, những quan hệ cá nhân giữa hai người đã vượt tất cả những
chuyện cổ cảm động nhất của người xưa nói về tình bạn" (Mác - Ăng-ghen, chủ nghĩa
Mác). Từ lúc cịn trẻ, hai người đã có sự thống nhất chặt chẽ về tư tưởng và tình cảm,
thường cùng làm việc với nhau mỗi khi ở gần nhau. Sau khi cuộc cách mạng 1848 ở
Đức bị thất bại, Ăng-ghen phải đến làm việc ở Mansextơ, một thành phố cơng nghiệp
của Anh lấy tiền giúp đỡ gia đình Mác. Cịn Mác thì ở Ln-đơn. Trong ngót hai
mươi năm trời xa nhau, mỗi ngày hai người đều viết cho nhau những ý nghĩ của mình
về những sự biến chính trị và khoa học đương thời, cùng nhau trao đổi công việc. Mác
rất tự hào về Ăng-ghen, về đạo đức và tài trí của Ăng-ghen.
Một mối tình sâu sắc đã gắn bó Mác với Gienni. Hai người biết nhau từ lúc cịn
nhỏ, cùng lớn lên bên nhau. Lúc đính hơn, Mác mới 17 tuổi. Sau bảy năm đợi chờ, hai
người lấy nhau và từ đấy không bao giờ rời nhau trong cuộc đời xông pha bão táp,
Lê Đức Phương


8

Lớp GDCT K29A1


Tác phẩm kinh điển Mác - Lênin I

trong những năm tháng lưu vong, nghèo túng. Đức dịu hiền và lòng trung thành của
Gienni đã an ủi cuộc đời sóng gió của Mác. Bà rất yêu mến phong trào công nhân.
Cho đến lúc chết, bà vẫn tin theo chủ nghĩa cộng sản.
Mác là một người cha hiền từ, dịu dàng và rộng lượng. Các con rất yêu quý
Mác. Mác có ba người con gái và hai con trai. Cái chết non của con gái đầu lòng và
hai con trai làm cho Mác đau buồn ghê gớm và mất sức đi nhiều.
Mộ của Mác, cũng là mộ gia đình Mác, ở trên một ngọn đồi phía bắc thành phố
Ln-đơn. Mác vĩnh viễn yên nghỉ ở đấy. Mác đã cống hiến cả đời mình cho sự
nghiệp giải phóng của giai cấp vơ sản và nhân dân lao động trên toàn thế giới.
Cuộc đời và sự nghiệp của Mác đã hòa hợp một cách hữu cơ những đặc điểm của
một nhà bác học vĩ đại, một nhà nghiên cứu không biết mệt mỏi, một người phát hiện
đầu tiên những chân lý khoa học, một nhà chính luận cách mạng nồng nhiệt, một nhà
chiến lược và sách lược vô sản sáng suốt, một nhà lãnh đạo cuộc đấu tranh giải phóng
quần chúng vơ sản. Mác nổi bật về đức tính cao cả của con người, giản dị, nhiệt tình
và u đời, có ý chí bất khuất và năng lực lao động khác thường, can đảm và anh
dũng. Đó là một cuộc đời đầy gian khổ nhưng vơ cùng xán lạn, một mẫu mực về tính
khoa học và tình cảm cách mạng cao cả.
Cuộc đời và hoạt động của Mác đã đi vào lịch sử nhân loại với vị trí nổi bật trong
hàng ngũ những vĩ nhân, đúng như Ăng-ghen nói: "Tên tuổi Người, sự nghiệp của
Người sống mãi nghìn thu!".
1.1.1.2 Ph. Ăngghen(28/11/1820 – 5/8/1895).
Ph.Ăng-ghen sinh ngày 28-11-1820 tại Bác-men, tỉnh Ranh của Vương quốc Phổ
(thuộc nước Đức ngày nay). Tuy xuất thân từ một gia đình tầng lớp trên, thuộc giai

cấp tư sản, nhưng Ph.Ăngghen đã dành tất cả con tim, khối óc, tình cảm và trí tuệ cho
giai cấp vơ sản, hiến dâng tồn bộ cuộc đời mình cho sự nghiệp cách mạng của giai
cấp công nhân, nhằm mục tiêu, lý tưởng cao đẹp là giải phóng giai cấp cơng nhân,
giải phóng nhân dân lao động khỏi mọi ách áp bức, bóc lột.. Từ nhỏ Ph. Ăngghen đã
Lê Đức Phương

9

Lớp GDCT K29A1


Tác phẩm kinh điển Mác - Lênin I

bộc lộ tính cách độc lập. Những lời dạy nghiêm khắc của cha và những sự đe dọa
trừng phạt không làm ông đi đến chỗ phải phục tùng mù quáng. Cho đến năm 14 tuổi,
Ph.Ăngghen học trường tại thành phố Barmen. Ph. Ăngghen sớm bộc lộ năng khiếu
về ngoại ngữ. Tháng 10/1834 ông chuyến sang học ở trường trung học Elberfelder,
một trường tốt nhất ở Phổ lúc bấy giờ. Năm 1837 theo yêu cầu của bố, ông buộc phải
rời bỏ trường trung học khi chưa tốt nghiệp để bắt đầu công việc buôn bán ở văn
phịng của bố ơng. Trong thời gian này ông tự học các ngành sử học, triết học, văn
học, ngôn ngữ và thơ ca.
Tháng 6/1838 Ph. Ăngghen đến làm việc văn phòng thương mại ở thành phố
cảng Barmen. Cuối năm 1839 ông bắt đầu nghiên cứu các tác phẩm của Hê – ghen.
Tháng 9/1841 P. Ăngghen đến Berlin và gia nhập binh đồn pháo binh ở đây ơng
được huấn luyện quân sự, mà trong những năm sau ông rất cần đến nó, nhưng ơng
vẫn lui tới trường Đại học Tổng hợp Becrlin nghe các bài giảng triết học, tham gia hội
thảo về tôn giáo. Mùa xuân 1842 Ph.Ăngghen bắt đầu cộng tác với tờ Rheinishe
Zuiting(Nhật báo tỉnh Ranh). Trong những bài báo in 1842, trên tờ báo Ph.Ăngghen
đã lên tiếng phản kháng chế độ kiểm duyệt của Chính phủ Vương quốc Phổ, trật tự
phong kiến ở Đức. Ngày 8/10/1842 ông đã mãn hạn phục vụ trong quân đội. Từ

Becrlin ông trở về Barmen, một tháng sau, ông đã sang Anh thực tập buôn bán. Trên
đường sang Anh, Ph.Ăngghen đã thăm trụ sở tờ báo Rheinishe Zuiting ở Kioln và ông
đã gặp C. Mác, tổng biên tập tờ báo. Ông đã ở lại Anh 2 năm. Tháng 2 năm 1845
cuốn sách “Gia đình và thần thánh” của C. Mác và Ph. Ăngghen ra đời đã phê phán
mạnh mẽ chủ nghĩa duy tâm và phương pháp của nó. Hai ơng cùng hợp sức viết cơng
trình nổi tiếng “Hệ tư tưởng Đức” (1845 – 1846), tiếp đó năm 1848 Đại hội II Liên
đoàn những người Cộng sản đã ủy nhiệm C. Mác và Ph. Ăngghen cùng viết “Tuyên
ngôn của Đảng Cộng sản”.
Trong thời gian sống ở Pari, Ph. Ăngghen quan tâm nhiều đến hoạt động của
BCH Trung ương Liên đoàn những người Cộng sản và trở thành Ủy viên của Ban
Lê Đức Phương

10

Lớp GDCT K29A1


Tác phẩm kinh điển Mác - Lênin I

lãnh đạo, là một trong những người lãnh đạo câu lạc bộ công nhân Đức (3/1848) do
BCH Trung ương LĐ những người Cộng sản lập ra.
Tháng 4/1848, ông cùng với C. Mác trở về Đức tham gia cuộc cách mạng Đức.
Tháng 10/1848 ông đã đi Bỉ để tránh lệnh truy nã của chính quyền Phổ nhưng khơng
được phép cứ trú chính trị, ơng đã đến Pari sau đó sang Thụy Sĩ tham gia Đại hội các
Liên đồn cơng nhân Đức, ơng được bầu vào Ủy ban Trung ương của tổ chức này.
Tháng 1/1849, ông trở vể Đức và tiếp tục hoạt động cách mạng. Khi cuộc đấu tranh
bùng nổ ở Tây và Nam nước Đức (5/1849), Ph. Ăngghen đã vạch ra một kế hoạch
hoạt động quân sự, thành lập quân đội cách mạng tiến hành cuộc khởi nghĩa. Ngày
10/5/1849, ông đến Elberfeld và được bổ sung vào Ban quân sự. Trong thời kỳ này
ông đã tham gia trực tiếp 4 trận đánh lớn, trong đó có trận Rastatt. Sau này ơng đã viết

trước tác Luận văn quân sự nổi tiếng.
Tháng 11 năm 1850, Ph. Ăngghen buộc phải chuyển đến Manchester và lại bắt
đầu làm việc ở văn phòng thương mại. Tháng 09 năm 1870, Ph. Ăngghen đến London
và được đưa vào Tổng Hội đồng của Quốc tế Cộng sản I. Năm 1871, Ph. Ăngghen
tham gia vào việc tổ chức chiến dịch bảo vệ Công xã Pari. Trong thời gian này, Ph.
Ăngghen đã viết một số tác phẩm có giá trị lý luận, đặc biệt là cuốn Chống
Duyrinh (1878) góp phần to lớn cho việc hoàn thiện chủ nghĩa Mác.
Sau khi C. Mác qua đời (1883), Ph. Ăngghen là người lãnh đạo Tổ chức những
người theo chủ nghĩa xã hội ở Châu Âu, chuẩn bị cho tập 2 và 3 của Bộ Tư bản mà
C.Mác chưa kịp hoàn thành.
Ngày 14/7/1889 ở Pari Quốc tế cộng sản II ra đời là liên minh quốc tế các đảng
công nhân. Dưới sự lãnh đạo của ông, Quốc tế cộng sản II có nhiều đóng góp quan
trọng vào việc phát triển phong trào công nhân thế giới. Năm 1895 khi ông mất những
người theo chủ thuyết chống lại học thuyết Marx như K.Kautsky, E.Bernstein dần
chiếm ưu thế trong Quốc tế II. Do không thống nhất về chiến lược, chia rẽ về tổ chức
nên Quốc tế cộng sản II tan rã khi chiến tranh thế giới I bùng nổ.
Lê Đức Phương

11

Lớp GDCT K29A1


Tác phẩm kinh điển Mác - Lênin I

Ph. Ăngghen còn viết nhiều tác phẩm nổi tiếng vào những năm cuối đời : Nguồn
gốc gia đình, Chế độ tư hữu và Nhà nước ( 1884); Biện chứng của tự nhiên
(1884); Lútvít Phoiơbăc và sự cáo chung của triết học cổ điển Đức ( 1886 – 1888);
Vấn đề nông dân ở Pháp và Đức (1894)...
1.1.2 Hoàn cảnh ra đời của tác phẩm “Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản”

Vào đầu thế kỷ XIX cuộc cách mạng cơng nghiệp đã hồn thành ở nước Anh, được
đẩy mạnh ở Pháp và các nước Tây Âu khác. Lực lượng sản xuất đã phát triển hơn giai
đoạn trước rất nhiều. Đặc biệt từ những năm 40 của thế kỷ XIX quan hệ sản xuất Tư bản
chủ nghĩa ở nhiều nước đã trở thành quan hệ sản xuất thống trị, làm cho mâu thuẫn nội tại
trong phương thức sản xuất Tư bản chủ nghĩa tăng lên không ngừng.
C.Mác là người sớm tìm đến với chủ nghĩa duy vật, từ khi đến Pháp năm 1843 trở đi,
ở C.Mác đã hình thành những quan điểm có tính hệ thống về chủ nghĩa xã hội khoa học.
Ông đã sống và tắm mình trong phong trào cơng nhân những năm 30 và 40 của thế kỉ
XIX. Bắt đầu từ giữa thế kỉ XIX trở đi, chủ nghĩa tư bản châu Âu đã có những bước tiến
đáng kể sau khi tiến cơng dinh lũy của chế độ phong kiến. Xã hội tư bản lúc ấy là xã hội tư
bản đang lên ở nước Anh, cuộc cách mạng cơng nghiệp đã hồn thành cơ bản. Tiếp đó là ở
Pháp và một số nước khác, cuộc cách mạng công nghiệp đã tác động mạnh mẽ đến tốc độ
phát triển của lực lượng sản xuất. Cơ sở kinh tế - xã hội đó làm nảy sinh một cách rõ rệt
nhất hai giai cấp đối kháng: tư sản và vô sản.
Dù là một xã hội đang lên và giai cấp tư sản có vai trị to lớn trong việc xóa bỏ
chế độ phong kiến, nhưng trong lịng xã hội đó đã chứa chất những mâu thuẫn lớn
giữa hai giai cấp nói trên. Phong trào đấu tranh của giai cấp công nhân đã nổ ra ngay
từ khi mới ra đời và dâng cao vào những năm 30 - 40 của thế kỉ XIX, tiêu biểu là
những cuộc khởi nghĩa của công nhân dệt ở thành phố Lyông (Pháp) năm 1837, cuộc
nổi dậy của công nhân dệt Xilêdi (Đức) năm 1844, phong trào Hiến chương ở Anh
kéo dài 10 năm (1838-1848). Tư tưởng của nhà dân chủ cách mạng C.Mác có điều
kiện thuận lợi khi gặp được “cốt vật chất” của phong trào công nhân. Bản thân C.Mác
Lê Đức Phương

12

Lớp GDCT K29A1


Tác phẩm kinh điển Mác - Lênin I


lại được sinh ra và lớn lên ở Đức, khi đó là một quốc gia sơi động cách mạng với
những bộ óc kiệt xuất của những nhà triết học. Tổ chức phong trào cơng nhân Đức là
Liên đồn bí mật những người dân chủ và cộng hòa được thành lập năm 1834, sau đó
một số người bị trục xuất sang Pari đã lập ra Liên đồn những người chính nghĩa năm
1836.
Ngay khi đến Pháp năm 1843, Mác đã hoạt động trong lĩnh vực tư tưởng và dần trở
thành nhà cách mạng thật sự khi chủ trương “phê phán chế độ tư bản bằng vũ khí” và phát
hiện sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân là người đào huyệt chôn chủ nghĩa tư bản.
Năm 1844, Ph.Ăng ghen đến Pari gặp C.Mác và ông đã trở thành cây vĩ cây vĩ cầm thứ hai
bên cạnh Mác”, có cùng quan điểm với C.Mác về học thuyết cách mạng. Học thuyết của
hai ơng hình thành thơng qua hoạt động của Liên đồn những người cộng sản và chính
Tun ngơn ra đời trong q trình hai ơng tham gia Liên đồn.
Liên đồn những người chính nghĩa được lập ở Pari năm 1836 và phát triển rất
nhanh nhưng lúc bấy giờ mới chỉ là một bộ phận Đức của “chủ nghĩa cộng sản công
nhân Pháp”. C.Mác và Ph.Ăngghen ln ln dõi theo hoạt động của Liên đồn, mặc
dù khơng tán thành những quan điểm chính trị - xã hội mơ hồ và những hành động
lệch lạc trong thực tế hoạt động của họ. Sau thất bại của cuộc khởi nghĩa tháng 51839, một số lãnh tụ của Liên đoàn bị bắt và trục xuất sang Anh, trung tâm của Liên
đoàn lúc này đã chuyển từ Pari sang Luân Đôn và phát triển rất nhiều chi bộ ở cả
Anh, Pháp, Đức… Liên đoàn đã trở thành một tổ chức quốc tế.
Trước năm 1847, tuy không tham gia Liên đồn những người cộng sản nhưng hai
ơng tích cực tìm cách làm cho những quan điểm của mình về chủ nghĩa cộng sản
thâm nhập vào tổ chức đó, làm cho nó đi đúng hướng. Đến năm 1845, vì bị coi là một
nhà cách mạng nguy hiểm, C.Mác bị trục xuất sang Brucxen (Bỉ), ở đây ông lại tiếp
tục hoạt động tích cực trong phong trào cơng nhân. Những hoạt động tích cực của
Mác và Ăngghen trong hồn cảnh ấy đã góp phần quan trọng vào sự chuyển biến lặng
lẽ diễn ra trong nội bộ Liên đoàn những người Cộng sản. Ban lãnh đạo Liên đoàn
Lê Đức Phương

13


Lớp GDCT K29A1


Tác phẩm kinh điển Mác - Lênin I

ngày càng thấy rằng, những quan điểm trước đây của họ về chủ nghĩa cộng sản là
khơng cịn phù hợp nữa và hệ thống lý luận mới của Mác và Ăngghen là đúng đắn.
Do vậy mùa xuân năm 1847, G.Môn - một trong những người lãnh đạo của Liên đoàn
đã đến Brucxen gặp C.Mác sau đó đến Pari gặp Ph.Ăngghen để mời hai ông gia nhập
Liên đoàn. Những người lãnh đạo Liên đoàn muốn cải tổ và cho rằng: “cần phải đưa
Liên đoàn thốt khỏi những hình thức và truyền thống hoạt động âm u cũ”. Theo họ,
điểm chủ yếu nhất là phải cải tổ nền tảng lý luận của Mác và Ăng ghen tạo điều kiện
cho hai ơng trình bày những quan điểm về chủ nghĩa cộng sản trong một đại hội của
Liên đồn dưới dạng một bản tun ngơn và coi đó như một tun ngơn chung của
Liên đồn.
Những đại hội cải tổ Liên đoàn đã diễn ra theo tinh thần cách mạng của C.Mác
và Ph.Ăngghen. Đại hội lần thứ nhất diễn ra vào mùa hè năm 1847. Cuối tháng 11 đầu
tháng 12 năm 1847, Đại hội lần thứ hai đã diễn ra, Đại hội thảo luận và thông qua
Điều lệ gồm 10 chương, 50 điều. C.Mác và Ph.Ăngghen được đại hội giao cho nhiệm
vụ soạn thảo tuyên ngôn - một văn kiện cương lĩnh. Hai ơng đã hồn thành nhiệm vụ
được giao trong hơn một tháng, gửi đi Luân Đôn để in trước mấy tuần diễn ra cuộc
cách mạng Tháng Hai năm 1848.
Như vậy, xuất phát từ nhu cầu của lịch sử, Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản đã ra
đời, đây là kết quả trí tuệ của C.Mác và Ph.Ăngghen với phong trào công nhân quốc
tế những năm 30 và 40 của thế kỉ XIX; là cái mốc mở ra thời kì mới của phong trào
cộng sản và cơng nhân quốc tế và vẫn còn giá trị lý luận - thực tiễn rất lớn đối với
hôm nay và mai sau.
1.1.3 Những tư tưởng cơ bản của tác phẩm.“Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản”
Một là, “Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản” khẳng định hai nguyên lý của chủ

nghĩa Mác: Phương thức sản xuất và trao đổi kinh tế cùng với cơ cấu xã hội của
phương thức đó quyết định sự sự hợp thành nền tảng của xã hội; Lịch sử phát triển
của xã hội có giai cấp là lịch sử của đấu tranh giai cấp.
Lê Đức Phương

14

Lớp GDCT K29A1


Tác phẩm kinh điển Mác - Lênin I

Hai là, “Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản” khẳng định giai cấp vô sản chỉ có thể
tự giải phóng khỏi tình trạng bị áp bức bóc lột, nếu đồng thời và vĩnh viễn giải phóng
tồn bộ xã hội khỏi tình trạng bị áp bức bóc lột, phân chia giai cấp và đấu tranh giai
cấp.
Ba là, “Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản” công khai trình bày trước tồn bộ thế
giới về chiến lược, sách lược của Đảng Cộng sản và đập tan những hư truyền về
“bóng ma cộng sản” mà các thế lực chính trị phản động đang loan truyền ở châu Âu
lúc bấy giờ.
Bốn là, Từ khi ra đời cho đến nay đã trên 156 năm, “Tuyên ngôn của Đảng
Cộng sản” luôn là nền tảng tư tưởng và là kim chỉ nam cho hành động của phong trào
cộng sản và công nhân thế giới, nó soi sáng con đường tiến lên của cách mạng thế
giới. Đồng thời, mỗi thắng lợi trong sự nghiệp đấu tranh của giai cấp công nhân và
nhân dân lao động thế giới lại càng khẳng định tính chất khoa học và cách mạng, và
làm phong phú thêm những tư tưởng thiên tài của C.Mác và Ph.Ăngghen đã nêu trong
“Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản”
1.1.4 Nội dung cơ bản của “Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản”
Các lời tựa
Các lời tựa của C.Mác và Ph.Ăngghen đề cập đến hai nội dung chính:

Một là, hai ơng khẳng định “Tun ngơn của Đảng Cộng sản” là Cương lĩnh của
‘Đồng minh những người Cộng sản’ cơng bố cơng khai với tồn thế giới những
ngun lý của Đảng Cộng sản. Bản Cương lĩnh này gọi là “Tuyên ngôn của Đảng
Cộng sản” mà không gọi là “Tuyên ngôn xã hội chủ nghĩa” là để phân biệt tính chất
giai cấp của phong trào cộng sản với các trào lưu xã hội chủ nghĩa đương thời.
Hai là, với tư cách là một cương lĩnh của Đảng Cộng sản, về mặt lý luận “Tun
ngơn của Đảng Cộng sản” trình bày thế giới quan của giai cấp vô sản về đấu tranh
giai cấp, cách mạng vơ sản và chun chính vô sản; thuyết minh sự diệt vong tất yếu
của chủ nghĩa tư bản, vai trị của giai cấp vơ sản; phân định ranh giới giữa chủ nghĩa
Lê Đức Phương

15

Lớp GDCT K29A1


Tác phẩm kinh điển Mác - Lênin I

xã hội khoa học với các trào lưu xã hội chủ nghĩa khác (chủ nghĩa xã hội không
tưởng).
Về mặt chỉ đạo thực tiễn, “Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản” nêu lên những
nhiệm vụ và những biện pháp cụ thể để thực hiện bước quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên
chủ nghĩa xã hội; những nguyên lý sách lược và thái độ của Đảng Cộng sản đối với
các Đảng Xã hội-Dân chủ. Nhiệm vụ của “Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản” là tuyên
bố sự diệt vong của chủ nghĩa tư bản cũng tất yếu như sự thắng lợi của chủ nghĩa xã
hội, giai cấp vơ sản hiện đại là người có sứ mệnh đào huyệt chôn chủ nghĩa tư bản và
xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản.
Trong lời tựa viết cho bản tiếng Đức xuất bản năm 1872, C.Mác và Ph.Ăngghen
viết: “Mặc đầu hoàn cảnh đã thay đổi nhiều trong mười lăm năm qua, nhưng cho đến
nay, xét về đại thể, những nguyên lý tổng quát trình bày trong Tun ngơn này vẫn

cịn hồn tồn đúng. Ở đơi chỗ, có một vài chi tiết cần phải xem lại. Chính ngay
Tun ngơn cũng đã giải thích rõ rằng bất cứ ở đâu và bất cứ lúc nào, việc áp dụng
những ngun lý đó cũng phải tùy theo hồn cảnh lịch sử đương thời, và do đấy,
không nên quá câu nệ những biện pháp cách mạng nêu ra ở cuối chương II...Và cũng
hiển nhiên là những nhận định về thái độ của người cộng sản đối với các đảng đối lập
(chương IV) nếu cho đến nay vẫn còn đúng trên những nét cơ bản thì trong chi tiết,
những nhận định ấy đã cũ rồi, vì tình hình chính trị đã hoàn toàn thay đổi và sự tiến
triển lịch sử đã làm tiêu tan phần lớn những đảng được kể ra trong đó.”[3;8,9]
Trong lời tựa viết cho bản tiếng Nga xuất bản năm 1882 C.Mác và Ph.Ăngghen
đã chỉ ra, nếu Tuyên ngôn được xuất bản bằng tiếng Nga vào đầu những năm 60 giỏi
lắm chỉ là một của lạ về văn chương mà thơi, thì tình hình ngày nay khơng cịn như
thế nữa. Bởi lẽ, “Trong cuộc cách mạng 1848-1849, bọn vua chúa ở châu Âu cũng hệt
như giai cấp tư sản châu Âu, đều coi sự can thiệp của nước Nga là phương tiện duy
nhất để cứu thoát chúng thoát khỏi tay giai cấp vô sản vừa mới bắt đầu giác ngộ về
lực lượng của mình. Chúng tơn Nga Hồng làm trùm phe phản động châu Âu. Hiện
Lê Đức Phương

16

Lớp GDCT K29A1


Tác phẩm kinh điển Mác - Lênin I

nay Nga Hoàng, ở Ga-tsi-na, đã là tù binh của cách mạng, và nước Nga đang đi tiên
phong trong phong trào cách mạng châu Âu”[3;11,12]. “Tuyên ngôn của Đảng Cộng
sản” ngày nay ở Nga có nhiệm vụ tun bố diệt vong khơng tránh khỏi và sắp xảy ra
của chế độ sở hữu tư sản.
Sau khi phân tích những thay đổi cơ bản của xã hội Nga, C.Mác và Ph.Ăngghen
tiên đốn tài tình rằng “nếu cách mạng Nga báo hiệu một cuộc cách mạng vô sản ở

phương Tây và nếu cả hai cuộc cách mạng ấy bổ sung cho nhau thì chế độ ruộng đất
cơng cộng ở Nga hiện nay sẽ có thể là khởi điểm của một sự tiến triển cộng sản chủ
nghĩa.”[3;12].
Trong lời tựa viết cho bản tiếng Đức xuất bản năm 1883, Ph.Ăngghen chỉ ra, do
C.Mác đã mất nên không thể nói đến việc sửa lai hay bổ sung Tun ngơn nữa.
Ph.Ăngghen khẳng định: “Tư tưởng cơ bản và chủ đạo của Tuyên ngôn là: trong mỗi
thời đại lịch sử sản xuất kinh tế và cơ cấu xã hội - cơ cấu này tất yếu phải do sản xuất
kinh tế mà ra - cả hai cái đó cấu thành cơ cấu của lịch sử chính trị và lịch sử tư tưởng
của thời đại ấy: do đó (từ khi chế độ cơng hữu ruộng đất nguyên thủy tan rã), toàn bộ
lịch sử là lịch sử các cuộc đấu tranh giai cấp, đấu tranh giữa những giai cấp bị bóc lột
và những giai cấp đi bóc lột, giữa những giai cấp bị trị và những giai cấp thống trị,
qua các giai đoạn của sự phát triển xã hội của họ; nhưng cuộc đấu tranh ấy hiện nay
đã đến một giai đoạn mà giai cấp bị bóc lột và giai cấp bị áp bức (tức giai cấp vơ sản)
khơng cịn có thể tự giải phóng khỏi tay giai cấp bóc lột và áp bức mình (tức giai cấp
tư sản) được nữa, nếu khơng đồng thời và vĩnh viễn giải phóng tồn thể xã hội khỏi
ách bóc lột, ách áp bức và khỏi những cuộc đấu tranh giai cấp.Tư tưởng chủ chốt ấy
hoàn toàn và tuyệt đối là của C.Mác”[3;13,14[.
Trong lời tựa viết cho bản tiếng Anh xuất bản năm 1888, sau khi chỉ ra sự ra đời
và sức sống của Tuyên ngôn trên thế giới, Ph.Ăngghen giải thích, sở dĩ tên gọi của
Tun ngơn là “Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản” mà không gọi là “Tuyên ngôn xã
hội chủ nghĩa” là để phân biệt đây là tuyên ngôn của giai cấp vô sản giác ngộ chứ
Lê Đức Phương

17

Lớp GDCT K29A1


Tác phẩm kinh điển Mác - Lênin I


không là khát vọng không tưởng của giai cấp tư sản và tiểu tư sản về xã hội chủ
nghĩa. Ông cũng lại khẳng định, tuy Tuyên ngôn là tác phẩm viết chung, nhưng luận
điểm chủ yếu làm hạt nhân cho sách là của C.Mác.
Trong lời tựa viết cho bản tiếng Đức xuất bản năm 1890, Ph.Ăngghen viết: “Vơ
sản tất cả các nước dồn kết lại!”. Chỉ có một vài tiếng đáp lại chúng tôi, khi chúng
tôi tung lời kêu gọi ấy với thế giới, cách đây bốn mươi hai năm, ngay trước ngày cuộc
cách mạng đầu tiên nổ ra ở Pa Ri, trong đó giai cấp vơ sản đã xuất hiện với những u
sách của chính mình. Nhưng ngày 28 tháng 9 năm1864, những người vô sản trong
phần lớn các nước Tây Âu đã liên hợp lại để lập ra Hiệp hội lao động quốc tế, một hội
mà tên tuổi vẻ vang được ghi nhớ mãi mãi. Thật ra bản thân Quốc tế chỉ sống có Chín
năm. Nhưng sự đồn kết bất diệt do Quốc tế đã xây dựng được giữa những người vô
sản tất cả các nước vẫn tồn tại và càng mạnh hơn bao giờ hết. Bởi vì ngày hơm nay,
khi tơi viết những dịng này, giai cấp vơ sản châu Âu và châu Mỹ đang điểm lại lực
lượng chiến đấu của mình, lực lượng lần đầu tiên được huy động thành một đạo quân
duy nhất, dưới cùng một ngọn cờ và nhằm cùng một mục đích trước mắt là địi pháp
luật quy định ngày làm việc bình thường là tám giờ, yêu sách đã được tuyên bố từ
1866 tại Đại hội của Quốc tế ở Giơ-ne-vơ và sau này lại được tuyên bố lần nữa tại Đại
hội công nhân ở Pa ri năm 1889. Cảnh tượng ngày hôm nay sẽ chỉ cho bọn tư bản và
bọn địa chủ tất cả các nước thấy rằng những người vô sản tất cả các nước đã thật sự
đoàn kết với nhau.”[3;31,32]
Trong lời tựa viết cho bản tiếng Ba Lan xuất bản năm 1892, Ph.Ăngghen chỉ ra
ảnh hưởng to lớn và rộng rãi của Tuyên ngôn trong công nhân châu Âu và sự in mới
của Tuyên ngôn bằng tiếng Ba lan là bằng chứng chứng tỏ yêu cầu ngày càng tăng sự
phổ biến về Tuyên ngôn trong công nhân công nghiệp Ba lan. Ph.Ăngghen cũng chỉ
rõ: “Chỉ có thể có được sự hợp tác quốc tế thành thực giữa các dân tộc châu Âu khi
nào mỗi dân tộc đó là người chủ tuyệt đối trong nhà mình... Chỉ có giai cấp vơ sản Ba

Lê Đức Phương

18


Lớp GDCT K29A1


Tác phẩm kinh điển Mác - Lênin I

Lan trẻ tuổi mới có thể giành được nền độc lập đó, và nắm trong tay họ, nền độc lập
đó sẽ được bảo vệ chắc chắn.”[3;34,35]
Trong lời tựa viết cho bản tiếng Ý xuất bản năm 1893, Ph.Ăngghen viết: “nếu
cách mạng 1848 không phải là một cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa thì ít ra nó cũng
dọn đường, chuẩn bị địa bàn cho cách mạng xã hội chủ nghĩa. Chế độ tư sản đã làm
cho đại công nghiệp phát triển ở tất cả các nước thì đồng thời cũng tạo ra ở khắp nơi,
trong bốn mươi lăm năm gần đây, một giai cấp vơ sản đơng đảo, đồn kết chặt chẽ và
mạnh; do đó nó đã sinh ra, như Tun ngơn đã nói, những người đào huyệt chơn nó...
Tun ngơn hồn tồn thừa nhận vai trò cách mạng mà chủ nghĩa tư bản đã đóng
trong quá khứ...Hiện nay, cũng như năm 1300, đang mở ra một kỷ nguyên lịch sử
mới. Để đời đời truyền tụng sự nảy sinh của kỷ nguyên mới này, kỷ ngun vơ sản,
liệu nước Ý có cung cấp được cho chúng ta một Đan-tơ mới chăng?”[3;37,38]
Mở đầu.
Chỉ với 26 dịng, lời mở đầu đã thể hiện tính khoa học và tính chiến đấu của
“Tun ngơn của Đảng Cộng sản”. “Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản” khẳng định
CHỦ NGHĨA CỘNG SẢN đa được tất ca các thế lực Giáo hoàng, Nga hoàng, bọn
cấp tiến Pháp, bọn cảnh sát Đức.. ở châu Âu thừa nhận là một thế lực, chứ khơng cịn
là một bóng ma đang ám ảnh châu Âu. Do đó đã đến lúc những người cộng sản phải
cơng khai trình bày trước tồn thế giới những quan điểm, mục đích và ý đồ của mình
để đập lại câu chuyện hoang đường về bóng ma cộng sản.
Chương 1: Tư sản và Vô sản
Trong chương này, “Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản” nêu lên sự đối lập giữa
giai cấp tư sản và giai cấp vô sản - hai giai cấp cơ bản trong xã hội tư bản; sự diệt
vong tất yếu của chủ nghĩa tư bản cùng với giai cấp tư sản. Hai ông đã làm rõ:

Lịch sử xã hội loài người từ khi chế độ cộng sản nguyên thuỷ tan rã cho đến nay
là lịch sử đấu tranh giai cấp giữa giai cấp bị áp bức, bóc lột với giai cấp bóc lột, thống
trị. Cuộc đấu tranh ấy diễn ra không ngừng và kết thúc bằng một cuộc cách mạng xã
Lê Đức Phương

19

Lớp GDCT K29A1


Tác phẩm kinh điển Mác - Lênin I

hội, hoặc bằng sự diệt vong của cả hai giai cấp đấu tranh với nhau. Trong xã hội tư
sản hiện đại, cuộc đấu tranh giữa giai cấp vô sản hiện đại với giai cấp tư sản dẫn đến
sự diệt vong tất yếu của chủ nghĩa tư bản và thắng lợi của chủ nghĩa cộng sản.
“Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản” đã làm rõ vai trò lịch sử của hai giai cấp tư
sản và vô sản hiện đại.
Giai cấp tư sản là sản phẩm của một quá trình phát triển lâu dài của một loạt các
cuộc cách mạng trong phương thức sản xuất và trao đổi. Khi mới ra đời giai cấp tư
sản đã đóng vai trị hết sức cách mạng trong lịch sử. Nó đại diện cho sự phát triển của
lực lượng sản xuất đang lên, đánh đổ sự thống trị của giai cấp phong kiến, thiết lập
nền chuyên chính tư sản thực hiện những tiến bộ xã hội. “Chưa đầy một thế kỷ, giai
cấp tư sản thống trị đã tạo ra được một lực lượng sản xuất nhiều và đồ sộ hơn lực
lượng sản xuất của tất cả các thế hệ trước kia gộp lại”. Đại diện cho lực lượng sản
xuất mới, giai cấp tư sản đã đập tan xiềng xích của chế độ phong kiến, thay vào đó là
chế độ tự do cạnh tranh thích hợp với sự thống trị về chính trị của giai cấp tư sản. Là
một giai cấp tư hữu bóc lột, nên vai trị của giai cấp tư sản bị hạn chế ngay từ đầu, đấu
tranh giữa giai cấp vô sản và giai cấp tư sản nổ ra ngay từ khi chủ nghĩa tư bản mới ra
đời. Giai cấp tư sản khơng những đã rèn vũ khí để giết mình, mà cịn tạo ra những
người sử dụng vũ khí ấy để đánh đổ chính bản thân giai cấp tư sản: “Những vũ khí mà

giai cấp tư sản đã dùng để đánh đổ chế độ phong kiến thì ngày nay quay lại đập vào
chính ngay giai cấp tư sản. Nhưng giai cấp tư sản không những đã rèn những vũ khí
sẽ giết mình; nó cịn tạo ra những người sử dụng vũ khí ấy - những cơng nhân hiện
đại, những người vô sản”[3;54].
Giai cấp vô sản hiên đại là người có sứ mệnh đào huyệt chơn chủ nghĩa tư bản
và và sáng tạo ra một xã hội mới tốt đẹp hơn. Sứ mệnh lịch sử thế giới của giai cấp vơ
sản do vị trí kinh tế - xã hội của giai cấp vô sản trong lịch sử quy định. Giai cấp vơ
sản hồn tồn có khả năng hồn thành sứ mệnh lịch sử thế giới của mình, do họ là giai
cấp tiên tiến gắn liền với nền đại công nghiệp, lớn lên cùng nền đại công nghiệp; là
Lê Đức Phương

20

Lớp GDCT K29A1


Tác phẩm kinh điển Mác - Lênin I

sản phẩm của nền đại công nghiệp, đại biểu cho xu hướng tiến lên của đại công
nghiêp. Họ là giai cấp thực sự cách mạng, dưới chủ nghĩa tư bản những người vô sản
bị tước hết mọi tư liệu sản xuất nên họ chẳng có gì là của riêng mình để bảo vệ cả.
Muốn giải phóng, họ phải phá huỷ hết thảy những gì từ trước đến nay vẫn bảo đảm và
bảo vệ chế độ tư hữu.
Nội dung sứ mệnh lịch sử của giai cấp vơ sản, trước hết là phải thanh tốn xong
giai cấp tư sản trong nước mình, đánh đổ tồn bộ sự thống trị của giai cấp tư sản cả về
kinh tế, chính trị, đạo đức, pháp luật... mưu lợi ích cho tuyệt đại đa số nhân dân, sau
đó tiến lên hồn thành sự nghiệp giải phóng thế giới khỏi ách áp bức bóc lột giai cấp.
Cuộc đấu tranh của giai cấp vô sản chống giai cấp tư sản diễn ra ngay tư khi giai
cấp vô sản mới ra đời và phát triển đi từ thấp đến cao, từ tự phát lên tự giác. Thắng lợi
của giai cấp vô sản trong cuộc đấu tranh chống lại giai cấp tư sản là tất yếu. Cuộc đấu

tranh này sẽ dẫn đến bùng nổ cách mạng công khai, giai cấp vô sản thiết lập sự thống
trị của mình bằng cách dùng bạo lực cách mạng lật đổ giai cấp tư sản. “Sự sụp đổ của
giai cấp tư sản và thắng lợi của giai cấp vô sản đều tất yếu như nhau”[3;65]. Kết luận
này của hai ông trong “Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản” khơng những vững vàng và
khoa học mà cịn sâu sắc về chính trị.
Chương 2: Những người vơ sản và những người cộng sản.
Trong chương này hai ơng tập trung trình bày về tính giai cấp của Đảng Cộng
sản, mối quan hệ giữa Đảng và giai cấp, những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa cộng
sản khoa học, một số nguyên lý chiến lược và sách lược cách mạng của cách mạng xã
hội chủ nghĩa.
Tính chất giai cấp của Đảng Cộng sản và quan hệ giữa Đảng với giai cấp: Đảng
là đội quân tiên phong, bộ phận giác ngộ nhất của giai cấp vơ sản.
Về mặt lý luận Đảng có ưu thế hơn bộ phận cịn lại của giai cấp vơ sản ở chỗ có
nhận thức sáng suốt về điều kiện, tiến trình và kết quả chung của phong trào vơ sản.

Lê Đức Phương

21

Lớp GDCT K29A1


Tác phẩm kinh điển Mác - Lênin I

Về mặt thực tiễn, Đảng là bộ phận kiên quyết nhất bao giờ cũng cổ vũ phong trào
vô sản tiến lên giành thắng lợi; Đảng là bộ phận không tách rời giai cấp, ln bảo vệ
lợi ích của giai cấp và đại biểu cho lợi ích của tồn bộ phong trào vơ sản. Phải có
Đảng lãnh đạo giai cấp vơ sản mới là trịn sứ mệnh lịch sử của mình. Nhiệm vụ của
Đảng trước hết là tổ chức những người vô sản thành giai cấp, lật đổ sự thống trị của
giai cấp tư sản, giành lấy chính quyền.

Tóm lại, Đảng là bộ phận gắn liền với giai cấp vô sản, là bộ phận tiên tiến nhất
và kiên quyết cách mạng nhất của giai cấp vơ sản, Có sự lãnh đạo của Đảng, giai cấp
vơ sản mới hồn thành được sứ mệnh lịch sử thế giới của mình.
Những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa cộng sản khoa học:
Về sở hữu: hai ông cho rằng, tư bản vận động được là nhờ sự hoạt động chung
của xã hội. Do đó việc biến tư bản thành sở hữu chung chỉ có nghĩa là thay đổi tính
chất giai cấp của nó - giải phóng lực lượng sản xuất có trình độ xã hội hố cao. Hai
ơng tuyên bố xoá bỏ mọi chế độ tư hữu và thiết lập chế độ công hữu về tư liệu sản
xuất.
Về vấn đề tự do cá nhân, hai ông tuyên bố phải xố bỏ cá tính tư sản, tính độc lập
tư sản và tự do tư sản, thứ tự do buôn bán và bóc lột sức lao động của người khác.
Về vấn đề gia đình, hai ơng khẳng định những người cộng sản chủ trương xố bỏ
gia đình tư sản, bởi lẽ quan hệ gia đình tư sản dựa trên tư bản, lợi nhuận cá nhân nhà
tư sản, người phụ nữ bị coi như là một công cụ sản xuất, cha mẹ bóc lột con cái, cộng
thê, mãi dâm chính thức và khơng chính thức. Chưa thỏa mãn với việc phá hoại hạnh
phúc của những người vơ sản, họ cịn lấy việc cắm sừng lẫn nhau làm thú vui đặc biệt.
Về vấn đề giáo dục: Người cộng sản không bịa ra tác động của xã hội đối với
giáo dục, vì nó là cái vốn sẵn có, mà chỉ thay đổi tính chất của sự tác động ấy và kéo
giáo dục ra khỏi ảnh hưởng của giai cấp tư sản mà thôi.
Về vấn đề dân tộc, tổ quốc và quốc tế: “Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản” khẳng
định dưới chủ nghĩa tư bản giai cấp vô sản và nhân dân lao động khơng có tổ quốc,
Lê Đức Phương

22

Lớp GDCT K29A1


Tác phẩm kinh điển Mác - Lênin I


bởi mọi quyền đại diện tổ quốc, dân tộc và tất cả các lợi ích khác đều do giai cấp tư
sản nắm giữ. Chính thế, giai cấp vơ sản mỗi nước trước hết phải tự mình thành giai
cấp dân tộc, phải tự mình thành dân tộc nhưng không phải theo kiểu như giai cấp tư
sản hiểu. “Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản” cũng khẳng định: “Khi mà sự đối kháng
giữa các giai cấp trong nội bộ dân tộc khơng cịn nữa thì sự thù địch giữa các dân tộc
cũng đồng thời mất theo”. Khơng có độc lập, thống nhất cho từng dân tộc thì khơng
thể thực hiện được sự liên hợp quốc tế của giai cấp vô sản.
Về vấn đề tôn giáo, triết học và những quan điểm ý thức tư tưởng nói chung,
“Tun ngơn của Đảng Cộng sản” quan niệm đó là công cụ thống trị về tinh thần của
các giai cấp bóc lột thống trị, dưới chủ nghĩa tư bản nó nói lên thời kỳ thống trị của
cạnh tranh tự do trong lĩnh vực tri thức mà thôi. “Cách mạng cộng sản chủ nghĩa là sự
đoạn tuyệt triệt để nhất với chế độ sở hữu cổ truyền, khơng có gì đáng lấy làm lạ khi
thấy rằng trong tiến trình phát triển của nó, nó đoạn tuyệt một cách triệt để nhất với
những tư tưởng cổ truyền”.
Những nguyên lý chiến lược và sách lược cách mạng:
Cách mạng CSCN phải trải qua hai giai đoạn: Giai đoạn 1, Phải xây dựng giai
cấp vô sản thành giai cấp thống trị. Sau khi nắm được chính quyền giai cấp vơ sản
phải dùng thế lực chính trị của mình tập trung phát triển lực lượng sản xuất đồng thời
với việc phát triển sự nghiệp văn hoá, giáo dục... “Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản”
cũng đã nêu ra 10 biện pháp cụ thể mà C.Mác và Ph.Ăngghen cho rằng có thể áp
dụng ở những nước tư bản phát triển nhất lúc bấy giờ nhằm cải tạo xã hội cũ xây
dựng xã hội mới. Trong đó, sáu biện pháp đầu nói về cách mạng quan hệ sản xuất như
tước đoạt sở hữu ruộng đất, đánh thuế luỹ tiến, xố bỏ quyền thừa kế, tập trung tín
dụng vào ngân hàng nhà nước, tập trung phương tiện vận tải quan trọng vào tay nhà
nước... Ba biện pháp tiếp theo nói về phát triển lực lượng sản xuất như tăng cường các
xí nghiệp quốc doanh, tiến hành khai hoang cải tạo ruộng đất, thi hành nghĩa vụ lao
động, kết hợp lao động nơng nghiệp với lao động cơng nghiệp, xố dần khoảng cách
Lê Đức Phương

23


Lớp GDCT K29A1


Tác phẩm kinh điển Mác - Lênin I

giữa thành thị với nơng thơn... Biện pháp thứ mười nói về giáo dục công cộng và kết
hợp giáo dục với sản xuất. Trong mười biện pháp trên, cho đến nay nhiều biện pháp
cịn mang đầy đủ tính hiện thực phổ biến của nó đối với con đường lên chủ nghĩa xã
hội ở nhiều nước, trong đó có Việt Nam.
Giai đoạn 2, “Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản” đã phác hoạ ra xã hội Cộng sản
trong tương lai. Ở đó khơng cịn giai cấp và khơng cịn đấu tranh giai cấp. Nhà nước
với tư cách là bộ máy thống trị giai cấp cũng khơng cịn nữa. Một thế liên hợp của
người lao động phát triển tồn diện xuất hiện, trong đó “sự phát triển tự do của mỗi
người là điều kiện cho sự phát triển tự do của tất cả mọi người”.
Về Cách mạng phát triển khơng ngừng: Điều này có liên quan đến lời tựa hai
ông viết năm 1882 “Nếu cách mạng Nga báo hiệu một cuộc cách mạng vô sản ở
phương Tây và nếu cả hai cuộc cách mạng ấy bổ sung cho nhau thì chế độ ruộng đất
cơng cộng ở Nga hiện nay sẽ có thể là khởi điểm của một sự tiến triển cộng sản chủ
nghĩa”.
Về vấn đề chính quyền nhà nước “Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản” coi nó là vấn
đề cơ bản của mọi cuộc cách mạng. Trong “Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản”, hai ông
chưa dùng đến thuật ngữ chun chính vơ sản, nhưng tư tưởng về chun chính vơ
sản đã được diễn đạt một cách rõ ràng qua các thuật ngữ “Giai cấp vô sản nắm chính
quyền”, “giai cấp vơ sản tự xây dựng thành giai cấp thống trị”. Sau này, trong thư gửi
Vây-ơ-đờ-mây-e ngày 5/3/1852 C.Mác đã sử dụng khái niệm “chun chính vơ sản” một trong những nguyên lý cơ bản nhất của chủ nghĩa cộng sản khoa học.
Chương 3: Văn học xã hội chủ nghĩa và cộng sản chủ nghĩa.
Trong chương này, “Tun ngơn của Đảng Cộng sản” tập trung phân tích, phê
phán những trào lưu xã hội chủ nghĩa phi vô sản nhằm bảo đảm thắng lợi cho việc
truyền bá học thuyết chủ nghĩa cộng sản khoa học vào phong trào cơng nhân. Tinh

thần, thái độ, phương pháp phân tích, phê phán của hai ông đối với các trào lưu văn
học xã hội chủ nghĩa và cộng sản chủ nghĩa phi mac-xít ln là cơ sở khoa học giúp
Lê Đức Phương

24

Lớp GDCT K29A1


Tác phẩm kinh điển Mác - Lênin I

chúng ta phân biệt ranh giới giữa chủ nghĩa cộng sản khoa học với các trào lưu xã hội
chủ nghĩa phản động, phản bội, cải lương, xét lại, không tưởng hiện nay.
Hai ông vạch rõ tính chất phản động kéo lùi lịch sử, chống lại phong trào cộng
sản của các trào lưu xã hội chủ nghĩa phong kiến và tiểu tư sản:
Chủ nghĩa xã hội phong kiến là thứ văn học của bọn quý tộc phong kiến bị gạt
khỏi địa vị thống trị bởi giai cấp tư sản. Bọn này một mặt giơ cái bị ăn mày lên làm cớ
để lôi kéo nhân dân, mặt khác lại “không bỏ qua cơ hội để lượm lấy những quả táo
bằng vàng và đem lòng trung thành, tình yêu và danh dự mà đổi lấy việc buôn bán
len, củ cải đường và rượi mạnh.”[3;83]
Chủ nghĩa xã hội của Cơ đốc giáo là thứ chủ nghĩa xã hội đi sát với chủ nghĩa xã
hội phong kiến, nó là thứ nước thánh mà bọn thầy tu dùng để xức cho nỗi giận hờn
của bọn quý tộc phong kiến và phủ lên chủ nghĩa khổ hạnh một lớp sơn xã hội chủ
nghĩa.
Chủ nghĩa xã hội tiểu tư sản tuy phân tích sâu những mâu thuẫn của nền sản xuất
tư bản chủ nghĩa, nhưng nó có tính chất khơng tưởng và có tính chất phản động. Tính
chất phản động tiêu biểu của nó là muốn đem nền sản xuất đại công nghiệp đặt vào
trong chiếc áo chật hẹp của chủ nghĩa phường hội, và về sau trào lưu này chỉ cịn là
những lời ốn thán hèn nhát.
Chủ nghĩa xã hội chân chính Đức chỉ là sự cưỡng hơn giữa tư tưởng xã hội chủ

nghĩa Pháp với Triết học Đức. Nó là loại văn học bẩn thỉu và khó chịu. Một mặt nó là
thứ ngáo ộp mà giai cấp tiểu tư sản hằng mơ ước để dọa lại giai cấp tư sản. Mặt khác
nó là thứ vũ khí trong tay chính phủ chuyên chế Đức để chống lại giai cấp tư sản non
trẻ và đem “cái lối giả nhân giả nghĩa đường mật của nó bổ sung cho roi vọt và súng
đạn mà những chính phủ ấy đã dùng để trấn áp những cuộc khởi nghĩa của công nhân
Đức”[3;89,90]
Hai ông phân tích và phê phán chủ nghĩa xã hội bảo thủ (chủ nghĩa xã hội tư
sản). Hai ông coi tư tưởng xã hội chủ nghĩa của giai cấp tư sản là bảo thủ, bởi lẽ nó
Lê Đức Phương

25

Lớp GDCT K29A1


×