Tải bản đầy đủ (.doc) (17 trang)

SKKN tích hợp giáo dục bảo vệ môi trường trong dạy học vật lý

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.34 MB, 17 trang )

1

KINH NGHIỆM TÍCH
HỢP GIÁO DỤC MÔI
TRƯỜNG
TRONG DẠY HỌC VẬT LÍ


2
I. ĐẶT VẤN ĐỀ:
1.Tấm quan trọng của vấn đề:
Chúng ta biết môi trường là không gian sinh sống của con người và sinh vật, là nơi
chứa đựng các nguồn tài nguyên cần thiết cho đời sống và sản xuất, là nơi chứa đựng
và phân hủy các chất thải do con người tạo ra trong cuộc sống và hoạt động sản
xuất…Môi trường có vai trò cực kì quan trọng đối với đời sống con người. Đó
không chỉ là nơi tồn tại, sinh trưởng và phát triển mà còn là nơi lao động, nghỉ ngơi,
hưởng thụ và trau dồi những nét đẹp văn hóa thẩm mĩ…Vậy nhưng chúng ta thấy
hiện nay vấn đề môi trường đang là vấn đề bức xúc mang tính toàn cầu, nó đang là
mối quan tâm hàng đầu của toàn nhân loại, và sự sống của con người đang ngày
càng bị đe dọa nghiêm trọng, bởi môi trường bị suy thoái… Đặc biệt ở Việt nam, với
sự phát triển nhanh chóng về kinh tế – xã hội trong những năm qua đã làm đổi mới
xã hội, chỉ số tăng tưởng kinh tế không ngừng được nâng cao. Tuy vậy, sự phát triển
kinh tế chưa đảm bảo cân bằng với việc bảo vệ môi trường. Vì thế môi trường Việt
nam đã xuống cấp, nhiều nơi môi trường bị ô nhiễm nghiêm trọng. Trước tình hình
đó Đảng và Nhà nước ta đã đề ra nhiều chủ trương, biện pháp nhằm giải quyết các
vấn đề môi trường. Hoạt động bảo vệ môi trường được các cấp các ngành và đông
đảo tầng lớp nhân dân quan tâm và bước đầu đã thu được một số thành quả đáng
khích lệ. Tuy nhiên, việc bảo vệ môi trường ở nước ta vẫn chưa đáp ứng được yêu
cầu của quá trình phát triển kinh tế xã hội trong thời kì đổi mới. Nhìn chung môi
trường của nước ta vẫn tiếp tục bị xuống cấp nhanh, có lúc có nơi đã bị báo động.
Chính vì vậy, mà ngày 31/1/2005 Bộ trưởng bộ Giáo Dục và Đào Tạo đã chỉ thị về


việc tăng cường công tác giáo dục bảo vệ môi trường, xác định trọng tâm đến năm
2020 cho giáo dục phổ thông là trang bị cho học sinh kiến thức, kĩ năng về môi
trường bằng nhiều hình thức phù hợp trong các môn học. Riêng đối với bộ môn Vật
lý thì việc giáo dục môi trường là rất quan trọng, vì Vật lý là cơ sở của nhiều ngành
kỹ thuật và công nghệ quan trọng.Từ đó tôi nhận thấy cần phải nâng cao hơn nữa
việc giáo dục môi trường trong môn Vật lý. Tôi chọn Vật lý khối 9 cho việc đẩy
mạnh tích hợp giáo dục môi trường nhằm nâng cao ý thức bảo vệ môi trường sống
dưới góc nhìn bộ môn.
2.Tóm tắt thực trạng liên quan đến vấn đề nghiên cứu:
Bảo vệ môi trường hiện nay đang là nhiệm vụ của toàn xã hội, trong
đó có học sinh. Tuy nhiên, rất nhiều học sinh không mấy quan tâm, thậm chí thờ ơ
đối với việc bảo vệ môi trường. Vì vậy, trong quá trình dạy học giáo viên cần giáo
dục học sinh biết cách bảo vệ môi trường, trước hết là môi trường sống xung quanh
các em.Trong quá trình dạy học Vật lí, tôi chắc rằng các giáo viên đã đề cập đến các
biện pháp giáo dục bảo vệ môi trường. Tuy nhiên việc làm này còn chưa thường
xuyên, đôi khi còn mang tính sách vở, thiếu sự gần gũi với đời sống thực tế học sinh.
Trong khi đó,Vật lí là môn khoa học mang tính thực tiễn cao, chúng ta hoàn toàn có
thể vừa đưa ra các biện pháp giáo dục bảo vệ môi trường liên quan đến từng nội
dung trong các bài học cụ thể lại vừa gần gũi với sự hiểu biết của học sinh. Chính
điều này sẽ có tác dụng kích thích óc tò mò, sáng tạo, hứng thú học tập, mở rộng sự


3
hiểu biết của học sinh, đặc biệt là hướng sự quan tâm của các em tới môi trường để
từ đó biết cách bảo vệ môi trường.
3. Lí do chọn đề tài:
Không ai có thể phủ nhận vai trò đặc biệt quan trọng của môi trường đối với đời
sống con người. Bởi môi trường không chỉ là nơi tồn tại, sinh trưởng và phát triển
mà còn là nơi chứa đựng các nguồn tài nguyên, các chất thải của đời sống và sản
xuất, đồng thời là nơi lưu trữ và cung cấp thông tin cho con người. Nhưng môi

trường hiện nay đang xuống cấp, nhiều nơi bị ô nhiễm nghiêm trọng. Vì vậy, môi
trường cần được bảo vệ, bảo vệ môi trường hiện nay đang là vấn đề mang tính toàn
cầu. Ở nước ta, đó cũng là vấn đề được quan tâm sâu sắc của tất cả các ngành, các
cấp. Năm 2005, ngành giáo dục đã có Chỉ thị về việc tăng cường giáo dục bảo vệ
môi trường, trong đó nhiệm vụ trọng tâm là trang bị cho học sinh kiến thức, kĩ năng
về môi trường và bảo vệ môi trường bằng nhiều hình thức phù hợp như thông qua
các môn học và hoạt động ngoại khoá...
Vì vậy, để đáp ứng những yêu cầu đề ra, cùng với các môn học khác, trong quá
trình giảng dạy Vật lí việc lồng ghép, tích hợp nội dung giáo dục bảo vệ môi trường
là vấn đề không thể thiếu.Qua thực tế mà tôi tạm gọi là “Vấn nạn môi trường” tại địa
phương, cũng như sự ảnh hưởng do ô nhiễm môi trường đến sức khỏe, cuộc sống
của con người. Qua đợt học tập về tích hợp giáo dục môi trường cho môn học Vật lý
theo chủ trương của Đảng và Nhà nước, của ngành GD-ĐT về công tác bảo vệ môi
trường . Tôi nhận thấy việc giáo dục ý thức bảo vệ môi trường đến với học sinh là
cần thiết và rất quan trọng. Các em là những người chủ của tương lai, những người
sẽ trực tiếp quản lý, chịu ảnh hưởng của môi trường sống. Vì thế các em hãy có ý
thức bảo vệ môi trường và phải có trách nhiệm với môi trường mình đang sống.
Đối với bộ môn Vật lý khối lớp 9 việc tích hợp để giáo dục môi trường là vấn đề
không đơn giản. Nếu giáo dục không phù hợp, thiếu lô gíc, rất có thể gây phản tác
dụng, ảnh hưởng không tốt đến tâm lý và nhận thức về việc bảo vệ môi trường của
các em. Hơn nữa với thực tại hầu hết giáo viên chỉ chú trọng quan tâm truyền đạt
kiến thức khoa học trong tiết dạy là chủ yếu, giáo dục môi trường chỉ là vấn đề thứ
yếu , không được xem trọng. Tôi đã nhiều lần trăn trở để tìm ra cách tích hợp giáo
dục môi trường vào môn Vật lý 9 sao cho nhẹ nhàng mà đem lại hiệu quả cao nhất
Với tâm lý của các em thì dường như việc bảo vệ môi trường là của người lớn. Làm
thay đổi được suy nghĩ này đã khó, tạo nhận thức và thói quen bảo vệ môi trường
trong các em còn khó hơn nhiều.
Tôi lấy việc môi trường ở xung quanh em: Ở nhà, ở lớp học … để hướng các em đến
với việc bảo vệ môi trường là không của riêng ai. Trực nhật, vệ sinh lớp học, vệ sinh
cá nhân có tạo cho em cảm giác thoải mái, tự tin trong các hoạt động.

Từ những bước cơ bản và tranh thủ giáo dục ý thức bảo vệ môi trường từ cha mẹ,
ông bà và từ những môn học khác. Tôi đưa các em vào giáo dục môi trường lồng
ghép trong các bài học Vật lý lớp 9 một cách nhẹ nhàng, không gây nhàm chán, gò
ép.
4.Phạm vi thực hiện đề tài:


4
Với mong muốn từng bước làm thay đổi nhận thức của học sinh góp phần nhỏ vào
việc cải thiện môi trường sống của con người trong đề tài này tôi chỉ đề cập một
khía cạnh nhỏ “ Kinh nghiệm tích hợp giáo dục môi trường trong dạy học vật lí
9”
III. CƠ SỞ LÍ LUẬN:
Môi trường được hiểu là bao gồm các yếu tố tự nhiên và vật chất nhân tạo bao
quanh con người có ảnh hưởng đến đời sống và sự tồn tại, phát triển của con người
và sinh vật. Vậy nhưng môi trường – lá phổi xanh, nguồn máu-đó của con người
đang ngày càng bị tổn thương nghiêm trọng. Những hiểm họa suy thoái môi trường
đang ngày càng đe dọa cuộc sống của loài người, cụ thể như: trái đất đang ngày bị
nóng lên, tầng ô dôn bị thủng, các nguồn tài nguyên khác đang ngày bị cạn kiệt, thu
hẹp…Hậu quả là thiên tai, lũ lụt xảy ra khắp nơi; hạn hán kéo dài, nhiều sinh vật quý
hiếm có nguy cơ tuyệt chủng, băng tan nước mặn tràn ngập khiến ngành nông
nghiệp bị tổn thất nặng nề… Mà một trong những nguyên nhân dẫn đến tình trạng
trên là ý thức của người dân về vấn đề môi trường còn kém. Họ nghĩ môi trường là
của chung, ai lo được thì lo còn đó không phải việc của họ, cho nên trái đất đang lên
tiếng kêu cứu… Nhận thấy tầm quan trọng của việc bảo vệ môi trường trong công
cuộc xây dựng và phát nước, Đảng và Nhà nước chủ trương phát triển kinh tế đi đôi
với bảo vệ môi trường và phát triển xã hội, đảm bảo sự phát triển bền vững của quốc
gia. Vì vậy, nhiều văn bản được ban hành để thể chế hóa bảo vệ môi trường
(BVMT), trong đó có công tác giáo dục bảo vệ môi trường, cụ thể:
Ngày 17/10/2001 Thủ tướng kí quyết định 1363/QĐ-TTG về việc phê duyệt đề án:

“Đưa nội dung BVMT vào hệ thống giáo dục quốc dân” với mục tiêu: “Giáo dục
học sinh, sinh viên các cấp học, bậc học trình độ đào tạo trong hệ thống giáo dục
quốc dân có hiểu biết về pháp luật và chủ trương, chính sách của Đảng về BVMT”.
Ngày 15/11/2004 Bộ chính trị đã ra NQ 41/NQ /TƯ về: “Bảo vệ môi trường trong
thời kì xây dựng công nghiệp hóa –hiện đại hóa đất nước” – nghị quyết đã coi tuyên
truyền giáo dục nâng cao nhận thức là giải pháp số một trong bảy giải pháp BVMT
của nước ta và chủ trương: “Đưa nội dung giáo dục BVMT vào chương trình Sách
Giáo Khoa của hệ thống giáo dục quốc dân tăng dần thời lượng và tiến tới hình
thành môn học chính khóa đối với các cấp học phổ thông”…
Cụ thể hóa và triển khai các chủ trương của Đảng và Nhà nước, ngày 31 tháng 1 năm
2005, Bộ trưởng Bộ giáo dục và Đào tạo ra chỉ thị “ về việc tăng cường công tác
giáo dục bảo vệ môi trường”. Chỉ thị đã xác định nhiệm vụ trọng tâm từ nay đến năm
2010 cho giáo dục phổ thông là “ trang bị cho học sinh kiến thức và kĩ năng về môi
trường bằng hình thức phù hợp trong các môn học …”
Trên tinh thần đó, Bộ giáo dục và Đào tạo đã chính thức đưa nội dung tích hợp giáo
dục BVMT vào các môn học thực hiện từ năm học 2008- 2009. Sở Giáo dục và Đào
tạo sẽ lựa chọn một số trường áp dụng thí điểm để tiến tới nhân rộng áp dụng đại trà
cho những năm học sau. Và Bộ Giáo dục cũng xác định rõ mục tiêu, nguyên tắc giáo
dục môi trường trong nhà trường THCS như sau:
- Về mục tiêu:
- Nhận thức:


5
+ Có ý thức cao trong việc bảo vệ sức khỏe, bảo vệ thiên nhiên, giữ gìn cảnh quan
sử dụng nguồn năng lượng.
+ Nhận thức được tầm quan trọng của môi trường và các tác động của vấn đề môi
trường và các tác động của vấn đề môi trường đối với bản thân, gia đình và địa
phương.
- Kỹ năng:

+ Có kỹ năng sống phát hiện vấn đề môi trường và xử lý kịp thời, dự đoán và cảnh
báo các vấn đề môi trường.
- Thái độ:
+ Bảo vệ, cải tạo và phát triển môi trường.
+ Tham gia, hành động vì môi trường vận động những người xung quanh cùng hành
động.
-Về nguyên tắc tích hợp:
+ Chỉ tích hợp những bài thực sự có liên quan đến môi trường, không gượng ép,
không tích hợp tràn lan, …, đảm bảo khai thác nội dung giáo dục môi trường một
cách tự nhiên, hợp lí đạt hiệu quả cao.
+ Đảm bảo được đặc trưng bộ môn, không biến giờ học thành giờ trình bày về giáo
dục môi trường. Giáo dục môi trường chỉ là nội dung tích hợp một cách tự nhiên,
hợp lí, hòa đồng với kiến thức bộ môn.
+ Không làm tăng nội dung học tập dẫn đến quá tải. Các phương tiện về môi trường
cần nghiên cứu kĩ, chọn lọc cẩn thận gia công về cách thức dẫn dắt liên hệ, đảm bảo
cho học sinh vừa nắm vững kiến thức chuyên môn, vừa tăng thêm kiến thức về môi
trường, có ý thức giữ gìn, bảo vệ môi trường và tuyên truyền cho người khác.
+ Chia nhỏ rãi đều vấn đề môi trường vào bài một cách hợp lí.
+ Đảm bảo tính hấp dẫn các hoạt động thực tiễn về môi trường
Như vậy , giáo dục BVMT trong trường học có ý nghĩa vô cùng quan trọng nhằm
thực hiện chiến lược toàn cầu về bảo vệ Trái Đất ddeerddamr bảo cho sự phát triển
bền vững của mỗi quốc gia, đông thời qua đó ta thấy tầm quan trọng của việc giáo
dục BVMT nhằm nâng cao nhận thức cho học sinh về môi trường và BVMT.
IV. CƠ SỞ THỰC TIỄN:
Bảo vệ môi trường hiện nay đang là nhiệm vụ của toàn xã hội, trong đó có học sinh.
Tuy nhiên, rất nhiều học sinh không mấy quan tâm, thậm chí thờ ơ đối với việc bảo
vệ môi trường. Vì vậy, trong quá trình dạy học giáo viên cần giáo dục học sinh biết
cách bảo vệ môi trường, trước hết là môi trường sống xung quanh các em.
Trong quá trình dạy học Vật lí chắc rằng các giáo viên đã đề cập đến các biện pháp
giáo dục bảo vệ môi trường. Tuy nhiên việc làm này còn chưa thường xuyên, đôi khi

còn mang tính sách vở, thiếu sự gần gũi với đời sống thực tế học sinh. Trong khi đó,
Vật lí là môn khoa học mang tính thực tiễn cao, chúng ta hoàn toàn có thể vừa đưa ra
các biện pháp giáo dục bảo vệ môi trường liên quan đến từng nội dung trong các bài


6
học cụ thể lại vừa gần gũi với sự hiểu biết của học sinh. Chính điều này sẽ có tác
dụng kích thích óc tò mò, sáng tạo, hứng thú học tập, mở rộng sự hiểu biết của học
sinh, đặc biệt là hướng sự quan tâm của các em tới môi trường để từ đó biết cách bảo
vệ môi trường.
- Thời lượng của một tiết học còn hạn chế (45ph) do đó giáo viên giảng dạy ngại đi
sâu vào việc tích hợp nội dung bảo vệ môi trường.
- Do điều kiện phục vụ dạy học, cơ sở vật chất trang thiết bị còn thiếu, tài liệu, sách
báo cho GV và HS tham khảo chưa được phong phú, chưa đáp ứng được nhu cầu và
hấp dẫn học sinh.
- Kĩ năng sử dụng các phương tiện phục vụ việc dạy học hiện đại của giáo viên còn
hạn chế. Như việc sử dụng máy vi tính để chuẩn bị bài, cập nhật lưu trữ thông tin; sử
dụng máy chiếu projecter để giảng dạy, sưu tầm các tư liệu điện tử, tranh ảnh, phim
liên quan đến môi trường .
V. NỘI DUNG NGHIÊN CỨU:
1. Cơ sở đề xuất giải pháp:
Hiện nay chúng ta đang đứng trước tình trạng môi trường bị suy thoái nghiêm trọng.
Nguyên nhân do sự phát triển mạnh mẽ của các ngành công nghiệp đã thải ra môi
trường một lượng khí thải rất lớn, làm ô nhiễm nghiêm trọng đến môi trường sống.
Tuy nhiên việc tích hợp giáo dục bảo vệ môi trường như trên sẽ không đem lại hiệu
quả, học sinh sẽ không hiểu biết về tác động của môi trường đối với loài người, như
thế sẽ làm môi trường ngày càng mất cân bằng về sinh thái, đe dọa nghiêm trọng đến
cuộc sống con người. Để cho nội dung tích hợp giáo dục bảo vệ môi trường có hiệu
quả tôi mạnh dạn trình bày một số phương pháp tích hợp.
2. Các giải pháp chủ yếu:

2.1.Xác định mục tiêu giáo dục môi trường:
Nghiên cứu chương trình, SGK để xây dựng mục tiêu dạy học, trong đó có các mục tiêu
GDMT. Việc nghiên cứu chương trình, nội dung SGK cho phép GV xây dựng kế họach dạy
học phù hợp cho toàn bộ chương trình bộ môn, cho từng phần của môn học, từng chương
cũng như từng bài học. Nhờ việc phân tích chương trình SGK, GV có được cái nhìn tổng thể
về các đơn vị kiến thức, kĩ năng, thấy được mối liên hệ giữa chúng và dễ phát hiện các cơ hội
tích hợp nội dung GDMT vào từng đơn vị kiến thức một cách hợp lí, từ đó lập kế hoạch khai
thác các nội dung GDMT trong suốt quá trình dạy học mà không sa vào tình huống ngẫu
nhiên, tuỳ tiện làm quá tải bài học, hoặc trùng lặp, hoặc không đưa ra được các tình huống
GDMT thực sự có ý nghĩa thuyết phục. Kết thúc quá trình này GV có thể đưa ra một sơ đồ
lôgic xây dựng kiến thức một cách phù hợp. Việc làm này sẽ cho cái nhìn trực quan về mối
liên hệ giữa các kiến thức, cho phép xác định hợp lí các tình huống sử dụng phương pháp và
phương tiện dạy học thích hợp. Nó cũng cho phép xác định hợp lí các cơ hội tích hợp nội
dung GDMT vào bài học.
2.2.Xây dựng nội dung tích hợp phù hợp với nội dung bài học:
Căn cứ vào mối liên hệ giữa kiến thức bộ môn và nội dung GDMT, GV cần làm rõ sẽ tích
hợp nội dung GDMT nào là hợp lí, thời lượng dành cho nó là bao nhiêu. Theo các nguyên tắc


7
chung về GDMT thì các nội dung môi trường càng gần với kinh nghiệm sống của HS thì
càng tốt, đặc biệt có ý nghĩa là các nội dung đề cập tới vấn đề môi trường sinh thái của địa
phương. Vì vậy, với cùng một nội dung tri thức vật lí trong SGK, song khi dạy cho HS ở các
vùng miền khác nhau, GV cần có cách khai thác nội dung GDMT khác nhau. Nói một cách
khác, căn cứ vào đối tượng HS khác nhau, GV sẽ xây dựng các tình huống tích hợp nội dung
GDMT khác nhau.Để học sinh nhận thức đúng về vai trò của môi trường đối với cuộc
sống, từ đó có những hành động cụ thể phù hợp thì trước hết cần đưa học sinh đến
những vấn đề gần gũi hoặc phù hợp với nhận thức của các em. Đối với bộ môn Vật
lí, việc giáo dục bảo vệ môi trường cho học sinh cần thông qua các nội dung của
từng bài học cụ thể trong chương trình học.

Ví dụ: Bài 12: Công suất điện
- Số oát ghi trên một dụng cụ điện cho biết công suất định mức của dụng cụ đó,
nghĩa là công suất điện của dụng cụ này khi nó hoạt động bình thường.
- Khi sử dụng các dụng điện trong gia đình cần thiết sử dụng đúng công suất định
mức.
Để sử dụng đúng công suất định mức cần đặt vào dụng cụ điện đó hiệu điện thế đúng
bằng hiệu điện thế định mức.
- Biện pháp GDBVMT:
+ Đối với một số dụng cụ điện thì việc sử dụng hiệu điện thế nhỏ hơn hiệu điện thế
định mức không gây ảnh hưởng nghiêm trọng, nhưng đối với một số dụng cụ khác
nếu sử dụng dưới hiệu điện thế định mức có thể làm giảm tuổi thọ của chúng.
+ Nếu đặt vào dụng cụ hiệu điện thế lớn hơn hiệu điện thế định mức, dụng cụ sẽ đạt
công suất lớn hơn công suất định mức. Việc sử dụng như vậy sẽ làm giảm tuổi thọ
của dụng cụ hoặc gây ra cháy nổ rất nguy hiểm.
+ Sử dụng máy ổn áp để bảo vệ các thiết bị điện.
Ví dụ: Bài 16: Định luật Jun-Len xơ
- Công thức tính nhiệt lượng tỏa ra trên dây dẫn:
Q = I2Rt.
Đối với các thiết bị đốt nóng như: bàn là, bếp điện, lò sưởi việc tỏa nhiệt là có ích.
Nhưng một số thiết bị khác như: động cơ điện, các thiết bị điện tử gia dụng khác việc
tỏa nhiệt là vô ích
- Biện pháp GDBVMT: Để tiết kiệm điện năng, cần giảm sự tỏa nhiệt hao phí đó
bằng cách giảm điện trở nội của chúng
Bài 19: Sử dụng an toàn và tiết kiệm điện
- Cần phải thực hiện các biện pháp đảm bảo an toàn khi sử dụng điện, nhất là với
mạng điện dân dụng, vì mạng điện này có hiệu điện thế 220V nên có thể gây nguy
hiểm tới tính mạng.
Sống gần các đường dây cao thế rất nguy hiểm, người sống gần các đường dây cao
thế thường bị suy giảm trí nhớ, bị nhiễm điện do hưởng ứng. Mặc dù ngày càng được



8
nâng cấp nhưng đôi lúc sự cố lưới điện vẫn xảy ra. Các sự cố có thể là: chập điện, rò
điện, nổ sứ, đứt đường dây, cháy nổ trạm biến áp, … Để lại hậu quả nghiêm trọng.
- Biện pháp an toàn: Di dời các hộ dân sống gần các đường điện cao áp và tuân thủ
các quy tắc an toàn khi sử dụng điện.
- Cần lựa chọn sử dụng các dụng cụ và thiết bị điện có công suất phù hợp và chỉ sử
dụng chúng trong thời gian cần thiết.
Các bóng đèn sợi đốt thông thường có hiệu suất phát sáng rất thấp: 3%, các bóng đèn
neon có hiệu suất cao hơn: 7%. Để tiết kiệm điện, cần nâng cao hiệu suất phát sáng
của các bóng đèn điện.
Biện pháp GDBVMT: Thay các bóng đèn thông thường bằng các bóng
đèn tiết kiệm năng lượng.
Bài 22: Tác dụng từ của dòng điện-Từ trường
- Không gian xung quanh nam châm, xung quanh dòng điện tồn tại một từ trường.
Nam châm hoặc dòng điện có khả năng tác dụng lực từ lên nam châm đặt gần nó.
- Các kiến thức về môi trường:
+ Trong không gian, từ trường và điện trường tồn tại trong một trường thống nhất là
điện từ trường. Sóng điện từ là sự lan truyền của điện từ trường biến thiên trong
không gian.
+ Các sóng radio, sóng vô tuyến, ánh sáng nhìn thấy, tia X, tia gamma cũng là sóng
điện từ. Các sóng điện từ truyền đi mang theo năng lượng. Năng lượng sóng điện từ
phụ thuộc vào tần số và cường độ sóng.
- Biện pháp GDBVMT:
+ Xây dựng các trạm phát sóng điện từ xa khu dân cư.
+ Sử dụng điện thoại di động hợp lý, đúng cách, không sử dụng điện thoại di động
để đàm thoại quá lâu (hàng giờ) để giảm thiểu tác hại của sóng điện từ đối với cơ
thể, tắt điện thoại khi ngủ hoặc để xa người.
+ Giữ khoảng cách giữa các trạm phát sóng phát thanh truyền hình một cách thích
hợp.

+ Tăng cường sử dụng truyền hình cáp, điện thoại cố định, chỉ sử dụng
điện thoại di động khi thật cần thiết.
Bài 40: Hiện tượng khúc xạ ánh sáng
Hiện tượng tia sáng truyền từ môi trường trong suốt này sang môi trường trong suốt
khác bị gãy khúc tại mặt phân cách giữa hai môi trường, được gọi là hiện tượng khúc
xạ ánh sáng.
- Các chất khí NO, NO2, CO, CO2,… khi được tạo ra sẽ bao bọc Trái Đất. các chất
khí này ngăn cản sự khúc xạ của ánh sáng và phản xạ phần lớn các tia nhiệt trở lại
mặt đất. Do vậy chúng là những tác nhân làm cho Trái Đất nóng lên.


9
- Tại các đô thị lớn việc sử dụng kính xây dựng đã trở thành phổ biến. Kính xây
dựng ảnh hưởng đối với con người thể hiện qua:
+ Bức xạ mặt trời qua kính: Bên cạnh hiệu ứng nhà kính, bức xạ mặt trời còn nung
nóng các bề mặt nội thất luôn trao đổi nhiệt bằng bức xạ với con người.
+ Ánh sáng qua kính: Kính có ưu điểm hơn hẳn các vật liệu khác là lấy được ánh
sáng phù hợp với thị giác của con người. Chất lượng của ánh sáng trong nhà được
đánh giá qua độ rọi trên mặt phẳng làm việc, để có thể nhìn rõ được chi tiết vật khi
làm việc. Độ rọi không phải là càng nhiều càng tốt. Ánh sáng dư thừa sẽ gây ra sáng
chói dẫn đến sự căng thẳng, mệt mỏi cho con người khi làm việc, đây là ô nhiễm ánh
sáng.
- Các biện pháp giảm thiểu ảnh hưởng của kính xây dựng:
+ Mở cửa thông thoáng để có gió thổi trên bề mặt kết cấu do đó nhiệt độ trên bề mặt
sẽ giảm, dẫn đến nhiệt độ không khí giảm.
+ Có biện pháp che chắn nắng có hiệu quả khi trời nắng gắt.
2.3.Lựa chọn và vận dụng các phương pháp và phương tiện dạy học phù hợp:
ở đây, trước hết phải vận dụng các phương pháp dạy học tích cực trong đó cần thực hiện các
công việc sau:
2.3.1. Thu thập tài liệu sinh động và có sức thuyết phục.

- Hiện nay với sự phát triển mạnh mẽ của công nghệ thông tin, việc tìm kiếm bất cứ
tư liệu nào trên mạng internet cũng trở nên dễ dàng. Đây là một điều kiện thuận lợi
cho việc đổi mới phương pháp dạy học nói chung và việc tích hợp bảo vệ môi trường
nói riêng.
- Sau khi xây dựng được nội dung tích hợp giáo viên tìm và lựa chọn những hình ảnh
sinh động, ấn tượng phù hợp với yêu cầu để đưa vào bài giảng.
2.3.2. Sử dụng máy chiếu projecter để dạy nội dung tích hợp.
Việc sử dụng máy vi tính kết hợp với máy chiếu để dạy học sẽ phát huy cao
tính trực quan của bài dạy. Đặc biệt phần tích hợp bảo vệ môi trường đòi hỏi không
chỉ cung cấp kiến thức, kĩ năng mà quan trọng là hình thành ở học sinh thái độ trước
các vấn đề về môi trường, điều này sẽ đạt được hiệu quả cao khi các em được chứng
kiến những hình ảnh về thực trạng cũng như hậu quả của ô nhiễm môi trường.
2.4.Tổ chức triển khai thực hiện:
: Xây dựng tiến trình dạy học dạy học cụ thể: ở hoạt động này GV thiết kế cụ thể các yêu
cầu đối với HS, các hoạt động trợ giúp của GV đối với HS và phối hợp các hoạt động đó để
đạt được mục đích dạy học.
2.4.1. Chuẩn bị nội dung trước mỗi bài dạy
Trước hết giáo viên tìm hiểu vấn đề cần tích hợp, chọn lựa chủ đề thật gần gũi,
thiết thực và sát với nội dung bài học.
VD1: Bài 19: Sử dụng an toàn và tiết kiệm điện


10
Trong SGK đưa ra một số lợi ích do tiết kiệm điện năng mang lại nhưng không
nhắc tới lợi ích bảo vệ môi trường do tiết kiệm điện mang lại.
Ở đây tôi cho học sinh thấy rằng: Tiết kiệm điện thì việc khai thác tài nguyên để sản
xuất điện sẽ ít đi do đó tài nguyên nước, nhiên liệu được bảo vệ phục vụ đời sống
làm giảm thiểu thiệt hại về môi trường. Qua đó học sinh thấy được rằng tiết kiệm
điện không những giảm chi tiêu cho gia đình các dụng cụ và thiết bị điện được sử
dụng lâu bền hơn, giảm bớt sự cố… thì tiết kiệm điện còn đóng vai trò to lớn trong

việc bảo vệ môi trường sống của chúng ta.
* Đối với mỗi nội dung cần tích hợp, giáo viên có thể yêu cầu học sinh:
Tìm hiểu nguyên nhân dẫn đến tình trạng hao phí điện năng.
Học sinh tự đưa ra biện pháp bảo vệ môi trường thông qua đó góp phần bảo vệ môi
trường hoặc giáo viên đưa ra để học sinh tìm hiểu.
Nêu một số biện pháp tiết kiệm điện năng mà các em thường áp dụng?
3.2. Thu thập thông tin và hình ảnh trên mạng internet
Cách thông dụng nhất để tìm kiếm hình ảnh trên mạng là vào trang web
www.google.com.vn , gõ từ khoá liên quan đến chủ đề ta đang cần tìm. Khi chọn
được hình ảnh thích hợp nên lưu lại trong một tập tin với định dạng cỡ ảnh to nhất
(khi đưa vào giáo án điện tử hình ảnh sẽ đạt chất lượng cao hơn)
3.3. Lựa chọn thời điểm thích hợp trong tiến trình giảng dạy để tích hợp
Việc lựa chọn thời điểm và nội dung để tích hợp hết sức quan trọng. Một mặt
nó làm cho bài dạy trở nên sinh động và có ý nghĩa, mặt khác nếu lựa chọn không
phù hợp sẽ làm cho bài dạy bị đứt quãng và xa rời trọng tâm kiến thức. Ý thức được
điều này giáo viên cần phải nghiên cứu kĩ lưỡng các phương án tích hợp để vừa đảm
bảo dạy đúng, dạy đủ vừa đạt được mục tiêu giáo dục bảo vệ môi trường.
VD1: Bài 25. Sự nhiễm từ của sắt, thép - nam châm điện.
Ở Việt Nam đã ngày một nhiều hơn những rác thải công nghiệp. Đặc biệt rác thải là
những kim loại, việc phân kim loại để tái chế là rất quan trọng. Dựa vào đặc tính kim
loại từ của nam châm điện thì việc phân loại kim loại trong rác thải công nghiệp là
rất quan trọng. Từ đó làm giảm thiểu tác hại gây ô nhiễm môi trường từ rác thải công
nghiệp gây ra.
VD2: Bài 26. Ứng dụng của nam châm :
Sản phẩm ứng dụng độc đáo là tàu chạy trên đệm từ, giảm thiếu tối đa tiếng
ồn, hạn chế gây ô nhiễm tiếng ồn.


11


VD 3: Bài 28: Động cơ điện một chiều
Ứng dụng trong việc chế tạo: xe đạp điện, tàu điện… khi hoạt động ít gây tiếng ồn,
giảm tối đa lượng khí thải ra môi trường. Từ đó tránh làm ô nhiễm tiếng ồn, không
gây ô nhiễm khí quyển.
VD 4: Bài 53. Sự phân tích ánh sáng trắng.
Sống trong môi trường ánh sáng nhân tạo (ánh sáng màu) khiến thị lực suy
giảm, sức đề kháng của cơ thể bị giảm sút.
Tại các thành phố lớn, do sử dụng quá nhiều đèn màu trang trí đã khiến cho
môi trường bị ô nhiễm ánh sáng. Sự ô nhiễm này dẫn đến giảm tầm nhìn ảnh hưởng
đến khả năng quan sát thiên văn. Ngoài ra chúng còn lãng phí điện năng.
VD 5: Bài 61. Sản xuất điện năng


12

Sản xuất điện .


13
- Với nhiệt điện thì để sản xuất điện người ta phải sử dụng đến các nhiên liệu
như: than đá, dầu mỏ, khí đốt… từ đó các nguồn tài nguyên bị khai thác sẽ làm ảnh
hưởng tới cấu trúc sinh thái.
- Thủy điện: Vì điều kiện công tác tại địa phương có thủy điện A Vương nên
việc giáo dục thủy điện đến môi trường là rất cụ thể. Khi thủy điện An Điềm được
xây dựng. Một đoạn sông dài trơ đáy chỉ thấy là những tảng đá lớn. Rõ ràng thủy
điện đã làm thay đổi sinh thái của cả một vùng, làm ảnh hưởng rất lớn đến hệ sinh
thái.
Từ những ví dụ thiết thực tại địa phương học sinh đã nhìn nhận chính xác hơn về ý
thức phải bảo vệ môi trường quan trọng như thế nào.
Trên đây là các biện pháp để tích hợp nội dung giáo dục BVMT. Những ví dụ trên

không phải là duy nhất . Nghã là phải lựa chọn và vận dụng các phương pháp sao
cho phù hợp với nội dung bài dạy và đặc biệt là phù hợp với đối tượng học sinh,
trong đó cần phải khai thác kĩ thuật dạy học nhằm tích cực hóa hoạt động của học
sinh thông qua các phương tiện dạy học nhằm phát triển nhận thức và tư duy, hình
thành cho các em khả năng độc lập, năng động sáng tạo, trong việc tiếp thu và sử lí
thông tin. Qua đó các em tiếp thu bài học tốt hơn và có cách ứng xử đúng đắn về môi
trường
2.4. Vận dụng linh hoạt các phương pháp dạy học giáo dục môi trường trong Vật lí.
Hiện nay có nhiều phương pháp dạy học giáo dục môi trường, trong môn Vật lí sử dụng một
số phương pháp sau:
a. Nghiên cứu.
Đây là phương pháp hướng các em làm quen với quá trình tìm tòi, sáng tạo
dưới các dạng bài tập. Có nhiều dạng bài tập khác nhau đối với học sinh : Bài tập giải quyết
nhanh tại lớp, bài tập đòi hỏi có thời gian dài.
b.Làm việc nhóm.
Đây là phương pháp dạy học có nhiều khả năng tốt trong quá trình giáo dục môi trường vì
nó đề cao sự hợp tác trên cơ sở hoạt động tích cực của mỗi các nhân.
c. Đóng vai.
Đây là phương pháp được đặc trưng bởi một hoạt động với các nhân vật giả định, mà trong
đó các tình thế trong thực tiễn cuộc sống được thể hiện tức thời thành những hành động có
tính kịch. Trong vở kịch này, các vai khác nhau do chính học sinh đóng và trình diễn. Các
hành động kịch được xuất phát từ chính sự hiểu biết óc tưởng tượng và trí sáng tạo của học
sinh.
d. Quan sát, phỏng vấn.
Là phương pháp thường dùng, có mục đích thu thập các thông tin về một vấn đề nào đó,
hoạt động cơ bản là quan sát phỏng vấn.
e. Thuyết trình.
Là phương pháp trong đó học sinh thu thập thông tin tư liệu qua báo chí và tư liệu các
phương tiện truyền thông khác, xây dựng một bản báo cáo và trình bày....
g. Giáo dục môi trường thông qua hoạt động ngoại khoá Vật lí.

Ngoại khoá là hình thức tổ chức dạy học ngoài giờ lên lớp, không quy định bắt buộc trong
chương trình hoạt động dựa trên sự tự nguyện tham gia của một số đông học sinh có hứng


14
thú, yêu thích bộ môn và ham muốn tìm tòi, sáng tạo nôi dung học tập địa lí, dưới sự hướng
dẫn của giáo viên.
Hoạt động ngoại khoá có tác dụng rất lớn trong việc nâng cao hiệu quả dạy học địa lí ở nhà
trường góp phần tích cực vào việc nâng cao, mở rộng vốn tri thức của các em, rèn luyện kĩ
năng địa lí, hình thành tăng cường hứng thú học tập và giáo dục lòng yêu thiên nhiên quê
hương, đất nước.
Nhờ vào hoạt động ngoại khoá, các em được mở rộng kiến thức, bổ sung cập nhật các kiến
thức vật lí, các kĩ năng vật lí của học sinh có được trong học tập ở lớp học có điều kiện để
củng cố và rèn luyện vững chắc....
Các hoạt động ngoại khoá vật lí với nhiều hình thức phong phú, diễn ra ở nhiều địa điểm
khác nhau, đòi hỏi các cách thức hoạt động khác nhau sẽ rèn luyện cho học sinh đức tính
thích nghi , chủ động hứng thú học tập.
h. Đánh giá trong giáo dục môi trường.
Việc đánh giá không chỉ nhằm mục đích ghi nhận thực trạng mà còn làm cơ sở cho những
hoạt động giáo dục tiếp theo, đề xuất những quyết định làm thay đổi thực trạng. Do vậy việc
đánh giá phải khách quan, chính xác trên cơ sở đó làm sáng tỏ thực trạng để điều chỉnh quá
trình dạy học hợp lí, và cuối cùng là thông tin kết quả này đến địa chỉ có nhu cầu.
Như vậy việc đánh giá người học phải đảm bảo các yêu cầu:
+ Khách quan chính xác, toàn diện, hệ thống, công khai kịp thời, vừa sức, bám sát yêu cầu
của chương trình.
+Việc đánh giá trong giáo dục nhằm cung cấp cho học sinh những phản hồi thông tin giúp
cho học sinh điều chỉnh hoạt động học của mình.
+Việc giáo dục đánh giá không chỉ đơn giản là công cụ mà có uốn nắn, tạo dựng tính cách
học sinh.
+Về mặt giáo dưỡng, đánh giá trong giáo dục môi trường giúp học sinh thấy được

mình đã tiếp thu những điều vừa học vận dụng kiến thức đó vào môi trường như thế nào.
VI. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU:
Việc tích hợp giáo dục BVMT là rất cần thiết trong dạy học, đây có thể xem là
mục tiêu cần đạt tới nhiệm vụ GDMT. Từ khi có chỉ đạo của Bộ Giáo dục và Đào
tạo về việc tích hợp giáo dục môi trường trong dạy học môn vật lí , bản thân cảm
thấy lúng túng trong quá trình tích hợp. Vì vậy bản thân luôn ý thức tìm tòi cách thức
tích hợp phù hợp mang lại hiệu quả cao. Trên cơ sở thực tế giảng dạy năm qua, dù
thời gian còn hạn chế nhưng đã có sự thay đổi nhận thức về môi trường của học sinh.
Các em có những hiểu biết sâu sắc hơn, có động cơ tốt trong việc bảo vệ môi trường.
Nhận thức được hành động của mình các em góp phần tiết kiệm được năng lượng,
tránh xa những tác động không mong muốn, có những hành vi đúng hơn về cách ứng
xử với môi trường. Góp phần xây dựng môi trường sống ngày càng tốt hơn.
Tuy không phải hầu hết các em đều có ý thức tốt về bảo vệ môi trường, nhưng chắc
chắn rằng với sự kiên trì trong việc vận dụng các phương pháp tích hợp thì hiệu quả
giáo dục môi trường sẽ được nâng lên.
VII. KẾT LUẬN
Tích hợp giáo dục môi trường là vấn đề quan trọng, cấp bách và rất cần thiết.
Với bộ môn Vật lý chúng ta cần có sự kết hợp giáo dục môi trường trong các tiết dạy.
Sự kết hợp giáo dục cần nhẹ nhàng tránh gò ép gây nhàm chán phản tác dụng. Tạo nhận thức
về ý thức bảo vệ môi trường, có trách nhiệm trước môi trường sống cho mỗi học sinh. Cần


15
cho học sinh có cái nhìn chính xác về môi trường và sự ô nhiễm môi trường. Từ những suy
nghĩ tích cực đó có thể giúp các em có hành động cụ thể, thiết thực hơn với môi trường, góp
phần nhỏ bé vào công cuộc bảo vệ môi trường ngày càng tốt hơn.
Tuy nhiên để thay đổi nhận thức của con người không phải một sớm một chiều. Cho
nên giáo viên phải luôn có ý thức liên hệ và có sự phối hợp đồng bộ với các tổ chức trong nhà
trường để việc GDMT có hiệu quả hơn, góp phần cải thiện môi trường sống của con người.
Trên đây là đề tài mà tôi đã thực hiện, mong muốn góp phần vào việc thực hiện đổi

mới phương pháp dạy học môn vật lí THCS. Kính mong sự góp ý chân thành của quí thầy cô
để đề tài được hoàn thiện hơn. Xin chân thành cảm ơn.
VIII. ĐỀ NGHỊ
Việc tích hợp GDMT là một yêu cầu bắt buộc. Tuy nhiên không phải bất kì bài dạy nào cũng
có kết hợp nội dung này mà phải tùy từng nội dung phù hợp để tránh áp đặt, giáo viên có thể
sử dụng nhiều hình thức lồng ghép một cách linh hoạt, hợp lí, đúng mức, đúng lúc, tránh
nhàm chán cho học sinh, nâng cao hiệu quả giáo dục BVMT mà không xa rời mục tiêu dạy
học.
Để đạt được kết quả như trên bản thận xin có một số kiến nghị như sau:
* Đối với giáo viên:
- Giáo viên khi giảng dạy phần BVMT chúng ta không nên coi là phần phụ mà phải nghiêm
túc chuẩn bị nội dung , phương pháp, phương tiện để thực hiện tốt nhất công việc giáo dục.
- Giáo viên phải nắm bắt chương trình, mục tiêu từng bài học, mức độ tích hợp phù hợp với
từng bộ môn, đa dạng các hình thức tích hợp, đảm bảo tính khả thi.
- Trang bị kiến thức về công nghệ thông tin để tìm các tư liệu hình ảnh liên quan để vận
dụng vào bài dạy nhằm nâng cao hiệu quả tích hợp.
* Đối với nhà trường:
- Cung cấp các tài liệu liên quan đến giáo dục môi trường thường xuyên
- Trang bị nhiêu hơn nữa cơ sở vật chất thiết bị phục vụ cho việc dạy của giáo viên như máy
chiếu, máy vi tính ...
Trên đây là một số kinh nghiệm của bản thân trong việc tích hợp giáo dục môi trường trong
dạy học vật lí 9. Trong quá trình viết chắc chắn còn nhiều thiếu sót mong quí thầy cô góp ý
để đề tài được hoàn thiện hơn.


16

IX. TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Những vấn đề chung về đổi mới giáo dụcTHCS môn vật lí
(Nhà xuất bản giáo dục )

2. Phát huy tính tích cực hoạt động của học sinh ( Nhà xuất bản giáo dục )
3. Phương pháp dạy học vật lí ( Nhà xuất bản giáo dục )
4. Sách giáo khoa vât lí 9THCS( Nhà xuất bản giáo dục )
5. Giáo dục bảo vệ môi trường trong môn Vật lí THCS ( Nhà xuất bản giáo dục)


17

X. MỤC LỤC
I. Tên đề tài
II. Đặt vấn đề
1. Tầm quan trọng của vấn đề
2. Tóm tắt thực trạng liên quan đến vấn đề nghiên cứu
3. Lí do chọn đề tài
4. Phạm vi đề tài
III. Cơ sở lí luận
IV. Cơ sở thực tiễn
V. Nội dung nghiên cứu
1. Cơ sở các giải pháp
2. Các giải pháp chủ yếu
VI. Kết quả nghiên cứu
VII. Kết luận
VIII. Đề nghị

Trang
Trang
Trang
Trang
Trang
Trang

Trang
Trang
Trang
Trang
Trang
Trang
Trang
Trang

1
2
2
3
3
5
6
6
6
15
15
16

1
1



×