Tải bản đầy đủ (.doc) (14 trang)

NỘI DUNG ÔN TẬP MÔN CHÍNH TRỊ HỌC LỚP CCLLCT KHU VỰC IIHỆ TẬP TRUNG

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (196.53 KB, 14 trang )

Câu 1: Vận dụng lý luận về quyền lực Ctrị và thực tiễn đổi mới ở nước ta hiện nay để phân tích và
chứng minh : quyền lực Ctrị trong chủ nghĩa XH là thuộc về nhân dân lao động ?
Bài làm
Ctrị học là khoa học đấu tranh cho quyền lực Ctrị và khoa học về giành, giữ và thực thi quyền lực
Ctrị. Quyền lực Ctrị trở thành trung tâm xuất phát của Ctrị học. Song quyền lực Ctrị chỉ xuất hiện và tồn
tại khi XH có sự phân chia giai cấp, còn quyền lực đã xuất hiện cùng với loài người được tổ chức thành
XH và sẽ tồn tại cùng với đời sống XH. Theo quan điểm của CN Mác-Lênin “quyền lực Ctrị theo đúng
nghĩa của nó, là bạo lực có tổ chức của một giai cấp để trấn áp một giai cấp khác”. Với khái niệm này, ta
thấy rằng quyền lực Ctrị luôn gắn liền với giai cấp, gắn liền với bản chất nhà nước. “Quyền lực Ctrị trong
CNXH cơ bản thuộc về nhân dân lao động”. Bằng lý luận về quyền lực Ctrị và thực tiễn cách mạng ở
nước ta, chúng ta đi vào phân tích làm rõ luận điểm trên.
1. Quyền lực Ctrị :
a. Khái niệm : Trong XH có giai cấp, các giai cấp thể hiện ý chí của giai cấp mình đối với XH. Ý chí đó
chỉ thực sự có hiệu lực khi giai cấp nắm lấy được quyền điều hành quyền lực công, họ sử dụng quyền lực
công cho mục đích giai cấp, biến quyền lực công thành quyền lực giai cấp, đồng thời biến ý chí của giai
cấp thành quyền lực công. Cả 2 quyền lực ấy hợp thành một chỉnh thể quyền lực Ctrị của giai cấp cầm
quyền để trấn áp giai cấp đối lập. Vậy, “Quyền lực Ctrị, theo đúng nghĩa của nó là bạo lực có tổ chức
của một giai cấp để trấn áp một giai cấp khác”.
Kế thừa và phát huy khái niệm về quyền lực Ctrị như trên, Hồ Chí Minh khẳng định “nhân dân ta phải
giành lấy chính quyền, là vấn đề tiên quyết, là phải xây dựng một Đảng cách mạnh để lãnh đạo nhân dân
đấu tranh giành lấy chính quyền.” Việc đấu tranh giành chính quyền, gìn giữ và củng cố chính quyền ấy là
điều quan trọng, có ý nghĩa cốt tử nhất.
b. Đặc trưng (đặc điểm) :
Một là, quyền lực Ctrị bao giờ cũng mang tính giai cấp. Hình thức tổ chức quyền lực Ctrị có thể là thế
chế Ctrị chỉ một giai cấp hoặc của sự liên minh giữa các giai cấp hay của nhân dân. Nhưng thực chất của
quyền lực đó bao giờ cũng thuộc về một giai cấp nhất định, giai cấp thực thụ cầm quyền (đây là đặc điểm
hết sức khác nhau giữa quyền lực Ctrị và quyền lực XH);
Hai là, quyền lực Ctrị biểu hiện ra bên ngoài là thống nhất nhưng trong quan hệ nội tại thường hàm
chứa sự khác biệt và thậm chí chứa đựng mâu thuẫn đối kháng;
Ba là, sức mạnh của quyền lực Ctrị là sức mạnh của giai cấp.
c. Quyền lực nhà nước và chức năng của nhà nước


Quyền lực Ctrị tiêu biểu tập trung ở quyền lực nhà nước.
Quyền lực NN là quyền lực của giai cấp thống trị (giai cấp cầm quyền). Là một bộ phận quyền lực
Ctrị, quyền lực nhà nước cũng mang đầy đủ tính chất và đặc trưng của quyền lực Ctrị. Nhà nước không
chỉ biểu hiện tập trung và mạnh mẽ nhất, quyền lực của giai cấp cầm quyền mà còn nhân danh quyền lực
công, quyền lực XH đối với mọi giai cấp và tầng lớp khác.
Ngoài ra, quyền lực nhà nước cũng có tính đặc thù riêng. Điểm khác nhau căn bản giữa quyền lực
nhà nước với quyền lực Ctrị là quyền lực nhà nước có khả năng vận dụng các công cụ, các lực lượng,
các phương tiện nhà nước để buộc các giai cấp, các tầng lớp phải phục tùng ý chí của giai cấp thống
trị. Còn quyền lực Ctrị không chỉ là quyền lực nhà nước mà còn bao gồm các yếu tố khác của kiến trúc
thượng tầng Ctrị như : quyền lực của Đảng cầm quyền, của các tổ chức Ctrị nhân dân phi nhà nước
Quyền lực của nhà nước có 2 chức năng :
- Chức năng thống trị giai cấp để đảm bảo sự thống trị về mặt Ctrị của giai cấp cầm quyền đối với các
giai cấp và các tầng lớp khác trong XH nhằm bảo vệ và phát triển nền kinh tế mà giai cấp cầm quyền là
người đại diện cho quan hệ sản xuất thống trị; bảo đảm sự xác lập hệ tư tưởng cùa giai cấp cần quyền
trong toàn bộ nền văn hoá XH; chống lại mọi lực lượng thù địch từ bên trong hay từ bên ngoài để giữ
vững toàn bộ quyền lực Ctrị trong tay giai cấp cầm quyền.
- Chức năng XH để thực hiện nghĩa vụ công quyền nhằm bảo đảm cho nhà nước quản lý XH trên mọi


lĩnh vực, làm cho XH tồn tại và phát triển ổn định trong trật tự; làm dịu sự xung đột giai cấp bằng điều hoà
lợi ích giữa các giai cấp, các tầng lớp… trong XH; đảm đương trách nhiệm xây dựng những công trình
công cộng , cơ sở vật chất kỹ thuật cho sự phát triển chung của XH; hình thành môi trường ổn định cho sự
phát triển mọi mặt của đất nước; thực hiện sự bang giao quốc tế, thay mặt cho quốc gia, dân tộc trong mọi
quan hệ đối ngoại ở cấp nhà nước.
Xét trên ý nghĩa cơ bản, chức năng thống trị của giai cấp được thực hiện thông qua nghĩa vụ công
quyền và những vấn đề thuộc chức năng XH cũng chỉ để củng cố chức năng giai cấp; trong đó, thống trị
giai cấp thuộc về bản chất của mọi quyền lực Ctrị được thực hiện bằng nhà nước.
Khi giai cấp cách mạng nắm chính quyền thì 2 chức năng ấy thống nhất ở sự nhất trí về cơ bản giữa
lợi ích của giai cấp cầm quyền và lợi ích quốc gia dân tộc và ngược lại.
2. Hình thức của quyền lực Ctrị:

Điều kiện kinh tế Ctrị XH khác nhau luôn qui định hình thức biểu hiện của quyền lực Ctrị khác nhau.
Ở thời cổ đại, theo ông Arixtốt quyền lực Ctrị phải được tổ chức theo nguyên tắc tập trung thống nhất; ở
thời cận đại theo ông Môngtexkiơ, quyền lực Ctrị được tổ chức theo kiểu phân lập quyền lực, mà cụ thể
thành 3 quyền chính: quyền lập pháp, quyền tư pháp, quyền hành pháp. Ở cuối thế kỷ 18, Rútxô lại nêu
lên hình thức biểu hiện của quyền lực Ctrị là tập trung thống nhất. Ngày nay hình thức biểu hiện của
quyền lực Ctrị được thể hiện 2 hình thức sau:
Một là : Tuyệt đại bộ phận của các nước tư bản, hình thức biểu hiện của quyền lực Ctrị được tổ chức theo
2 kiểu phân lập quyền lực, gắn liền với chế độ đang đảng đối lập, đa nguyên Ctrị.
Hai là : Các nhà nước XHCN và một số nước tư bản hình thức biểu hiện của quyền lực Ctrị lại được tổ
chức theo kiểu tập trung thống nhất, gắn liền với chế độ nhất nguyên Ctrị.
Dù quyền lực nhà nước tổ chức dưới hình thức “tập quyền”, “tản quyền” hay “phân quyền” hay hỗn
hợp các hình thức ấy thì quyền lực nhà nước vẫn mang bản chất của giai cấp cầm quyền và là sự thống trị
của giai cấp đối với toàn XH.
3. Cơ chế thực thi quyền lực Ctrị :
Quyền lực Ctrị của giai cấp cầm quyền được thực hiện trong một cơ chế gồm 2 mặt : “Mặt nội dung”
với trật tự của cương lĩnh-đường lối, hệ thống pháp luật, hệ thống những nguyên tắc tổ chứcvà vận hành
của hệ thống Ctrị; được thực hiện và thể hiện qua “Mặt thực thể” với những thành tố tương ứng như:
Đảng Ctrị, nhà nước, các tổ chức Ctrị-XH của quần chúng. Hiệu quả thực thi quyền lực phụ thuộc vào
mức độ chuẩn xác và vận hành có hiệu quả của các nhân tố cấu thành 2 mặt của cơ chế. Hai mặt của cơ
chế thực chất là hệ thống Ctrị của giai cấp thống trị cầm quyền
4. Nội dung của quyền lực Ctrị ở các chế độ XH:
Trong các chế độ có bản chất Ctrị - XH khác nhau thì nội dung quyền lực Ctrị cũng biểu hiện khác nhau
vì cơ sở xuất phát của quyền lực Ctrị là xuất phát từ nền tảng chế độ kinh tế-XH và xuất phát từ lợi ích giai
cấp và bảo vệ giai cấp.
Trong chế độ TBCN, sau khi lật đổ chế độ phong kiến thiết lập nên nhà nước tư sản của giai cấp tư sản.
Về phương thức sản xuất có tiến bộ hơn trước tuy nhiên phương thức sản xuất TBCN là bóc lột giá trị
thặng dư do quan hệ sản xuất dựa trên cơ sở chiếm hữu tư nhân TBCN về tư liệu sản xuất (tức là giai cấp
tư sản nắm giữ tư liệu sản xuất chủ yếu). Do giai cấp tư sản chiếm giữ tư liệu sản xuất nên giai cấp tư sản
nắm quyền lực Ctrị. Vì thế trong chế độ TBCN quyền lực Ctrị không thuộc về nhân dân lao động. Đặc
biệt để duy trì bản chất bóc lột, CNTB sử dụng quyền lực Ctrị bảo vệ giai cấp tư sản là thiểu số và trấn áp

đa số nhân dân lao động. Vậy trong chủ nghĩa TB quyền lực Ctrị thuộc vê một số ít người (giai cấp tư sản)
chứ không thuộc về đa số nhân dân lao động. Quan niệm quyền lực Ctrị ”thuộc về nhân dân lao động “ đã
xuất hiện từ thời cổ đại và được tuyên bố, ghi nhận một cách phổ biến trong hiến pháp của các nước cộng
hoà dân chủ tư sản nhưng trên thực tế cũng chỉ là hình thức rất hạn chế.
Xét chung cho các chế độ XH có giai cấp đối kháng thì giai cấp bóc lột không ngừng củng cố và xây
dựng quyền lực nhà nước để quyền lực nhà nước có đầy đủ sức mạnh trấn áp các giai cấp khác. Do vậy,
trong các chế độ XH có giai cấp đối kháng, quyền lực Ctrị cơ bản thuộc về giai cấp bóc lột, còn nhân dân


lao động về cơ bản không nắm được quyền lực Ctrị.
Trong CHXH xét về mặt lợi ích thì quyền lực Ctrị cơ bản thuộc về giai cấp công nhân, giai cấp nông
dân, tầng lớp trí thức (hay nói khái quát là thuộc về nhân dân lao động) vì nó xuất phát từ 2 cơ sở :
Một là, xuất phát từ bản thân của chế độ XHCN mà nét đặc trưng nhất là chế độ công hữu về tư liệu
sản xuất,nhân dân lao động là người nắm giữ TLSX chủ yếu nên nắm quyền lực kinh tế, Ctrị, văn hoá,
XH từ đó nắm được quyền lực nhà nước làm công cụ xây dựng XH mới;
Hai là, xuất phát từ lợi ích của giai cấp cầm quyền. Giai cấp công nhân là giai cấp cầm quyền; lợi ích
của giai cấp công nhân trong chế độ XHCN là cơ bản thống nhất với lợi ích của nhân dân lao động
Quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân lao động, chỉ thực sự có được khi xuất hiện cơ sở khách quan
cho sự thống nhất giữa tính giai cấp và tính nhân dân. Nhà nước trong các chế độ bóc lột dựa trên sự thống
trị của chế độ sở hữu tư nhân, giai cấp cầm quyền bao giờ cũng là giai cấp bóc lột, một giai cấp có lợi ích
căn bản đối lập với lợi ích của nhân dân lao động. Hơn nữa trong XH dựa trên chế độ sở hữu tư nhân
không có sự bình đẳng về kinh tế do đó không thể có sự bình đẳng về Ctrị-XH. Đặc biệt trong XH TBCN
ngày nay, giai cấp tư sản nắm toàn bộ tư liệu sản xuất hình nên những công ty độc quyền, đa quốc gia,
xuyên quốc gia chi phối nền kinh tế thế giới thì càng chứng minh rõ ràng quyền lực Ctrị thuộc về giai cấp
tư sản chứ không phải thuộc về nhân dân lao động
5. Quyền lực Ctrị của nhân dân lao động ở nước ta:
Ở nước ta, quyền lực Ctrị của nhân dân mang tính đặc trưng được bắt nguồn từ tính lịch sử. Nhân
dân là tập hợp động đảo những bộ phận người thuộc các giai cấp, tầng lớp XH khác nhau, chủ yếu là
những người lao động. Những biểu hiện cụ thể về nội dung thực hiện quyền lực Ctrị của nhân dân lao
động ở nước ta hiện nay có 4 biểu hiện sau đây:

+ Mọi công dân đều bình đẳng trước pháp luật.
+ Mọi công dân có quyền tự do ứng củ, bầu cử vào cơ quan lãnh đạo nhà nước các cấp (đối với
Đảng viên phải chấp hành theo điều lệ Đảng).
+ Mọi công dân có quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí nhưng phải trong khuôn khổ của của pháp
luật hiện hành.
+ Mọi công dân có nghĩa vụ và quyền lợi trong việc xây dựng và bảo vệ tổ quốc
- Nhân dân thực hiện quyền lực Ctrị (thông qua Hệ thống Ctrị) của mình cũng như quyền làm chủ
không phải với tư cách riêng lẻ, từng nhóm rời rạc mà là trong các tổ chức Ctrị, cao nhất là Đảng Cộng
sản, nhà nước CHXHCN VN, Mặt trận tổ quốc VN và các tổ chức Ctrị XH. Hệ thống Ctrị XH ở nước ta
mang bản chất của giai cấp công nhân, mà toàn bộ quyền lực thuộc về nhân dân, chuyên chính với bất lỳ
ai xâm phạm đến quyền lực của nhân dân. lợi ích quốc gia, dân tộc và chế độ XHCN mà nhân dân ta đang
xây dựng, có sứ mệnh lãnh đạo, tổ chức và động viên nhân dân nổ lực xây dựng cuộc sống ấm no, hạnh
phúc theo định hướng XHCN, là công cụ thực hiện quyền lực Ctrị, lợi ích của nhân dân. Trong hệ thống
đó, Đảng cộng sản VN là hạt nhân lãnh đạo toàn bộ hệ thống và XH, nhà nước pháp quyền XHCN VN
“của dân, do dân, vì dân” – là trung tâm của toàn bộ hệ thống – cơ quan quyền lực của nhân dân, các tổ
chức Ctrị - XH của quần chúng là cơ sở Ctrị XH của Đảng, của nhà nước mà mỗi tổ chức là một tổ chức
trực tiếp thể hiện và thực hiện quyền lực và quyền tự do dân chủ của nhân dân.
- Đảng lãnh đạo là nhằm xây dựng một nhà nước “của dân, do dân, vì dân”. Đảng không thể trao quyền
lực nhà nước cho bất cứ lực lượng nào khác đã không cùng nhân dân đấu tranh để giành chính quyền và
xây dựng CNXH. Sự lãnh đạo của Đảng – theo Bác – có nghĩa là làm đầy tớ cho nhân dân.
- Nói quyền lực Ctrị của nhân dân trước hết là nói quyền lực của Nhà nước thuộc về toàn dân mà
nòng cốt là bộ phận nhân dân trung tâm. Việc xây dựng bộ máy đến cơ chế hoạt động, việc ban hành
hiến pháp, pháp luật đến các kế hoạch phát triển KT-XH, văn hóa, giáo dục, các chủ trương, chính sách
đều phải nhằm đem lại lợi ích cho nhân dân. Nói về vấn đề quyền lực trong chế độ mới, Bác đã nhiều lần
khẳng định : “Tất cả quyền lực trong nhà nước Việt Nam dân chủ Cộng hòa đều thuộc về nhân dân.”
“Nhà nước là nhà nước dân chủ, địa vị cao nhất là dân, vì dân là chủ”. Hiến pháp năm 1946 đã ghi rõ nhà
nước ta “Nhà nước là nhà nước dân chủ, bao nhiêu lợi ích đều vì dân, bao nhiêu quyền hạn đều của dân.


Chính quyền từ xã đến chính phủ, trung ương đều do dân bầu ra”. Trung thành với tư tưởng đó, Đảng ta

luôn coi Nhà nước ta là của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân. Hiến pháp 1992 xác định : Tất cả
quyền lực Nhà nước thuộc về nhân dân. Cơ quan nhà nước, các cấp chỉ là người chấp hành mệnh lệnh của
quốc dân, chấp hành ý chí của nhân dân. Bộ máy chính quyền nhà nước là do nhân dân bầu ra, vì vậy phải
do nhân dân kiểm soát. Cũng như Lênin, Chủ tịch HCM khẳng định “Nhà nước phải được tổ chức theo
nguyên tắc tập trung dân chủ thì nhân dân mới làm chủ được quyền lực của mình”. Bên cạnh bản chất vừa
nêu trên ta còn thấy rằng nhà nước CHXHCNVN không chỉ đơn thuần là công cụ chuyên chính đối với
kẻ thù của CNXH mà còn vừa là phương tiện để nhằm tổ chức và xây dựng các mục tiêu XH. Điều này
còn chứng minh thêm nhà nước ta là nhà nước của chế độ nhân dân lao động làm chủ XH, làm chủ quyền
lực Ctrị nhà nước thông qua nhà nước của mình. Trong chế độ ta, quyền lực nhà nước do khối đại đoàn
kết toàn dân quyết định mà nòng cốt là khối liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và
tầng lớp trí thức, dưới sự lãnh đạo của Đảng. .
- Mặt trận tổ quốc VN và các đoàn thể nhân dân là thành tố của thiết chế dân chủ có vai trò trong
xây dựng hệ thống Ctrị, phát huy dân chủ, nâng cao trách nhiệm công dân của mỗi hội viên, đoàn viên,
bênh vực quyền lợi của dân, góp phần giữ gìn kỷ cương phép nước, thắt chặt mối quan hệ giữa nhân dân
với Đảng và nhà nước. Thông qua mặt trận và các đoàn thể, nhân dân thực hiện quyền làm chủ của mình.
Là cơ sở Ctrị của nhà nước dân chủ, mặt trận và các tổ chức thành viên là nơi thể hiện ý chí, nguyện vọng
của nhân dân, nơi nhân dân phát huy quyền làm chủ, thực hiện vai trò tư vấn và phản biện, góp phần xây
dựng chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách pháp luật của nhà nước và bầu ra các cơ quan nhà nước.
Mặt trận và các đoàn thể tham gia xây dựng chỉnh đốn Đảng. Thực hiện giám sát XH đối với sự lãnh đạo
của Đảng và hoạt động của nhà nước, giám sát đối với công tác, đạo đức, lối sống của cán bộ, công chức
đại biểu dân cử và các cơ quan nhà nước, đồng thời giải quyết những mâu thuẩn trong nội bộ nhân dân.
Trong chế độ XH chủ nghĩa, bằng những cơ sở kinh tế – Ctrị - XH và việc bảo vệ lợi ích của giai cấp
công nhân với những dẫn chứng thực tiễn ở các nước và cách mạng Việt Nam đã chứng minh rằng chỉ có
chủ nghĩa XH thì quyền lực Ctrị mới thuộc về nhân dân lao động.
* Thực trạng việc thực thi quyền lực Ctrị ở nước ta :
Thành tựu như : đã từng bước xây dựng mối khối đại đoàn kết dân tộc, xóa bỏ dần những mặc cảm
do chiến tranh để lại, giữ vững chính quyền nhân dân trên cơ sở đổi mới, bảo đảm vai trò lãnh đạo duy
nhất của Đảng, dân chủ hóa một bước trong đời sống XH.
Hạn chế về năng lực và hiệu quả lãnh đạo của Đảng, hiệu lực quản lỳ và điều hành của Nhà nước,
kết quả hoạt động của các tổ chức Ctrị XH chưa ngang tầm với tình hình nhiệm vụ mới. Bộ máy

Đảng,Nhà nước và đoàn thể còn chậm sắp xếp, còn có các biểu hiện quan liêu, tham nhũng, vi phạm
quyền dân chủ ..
* Các giải pháp để tăng cường và phát huy quyền lực Ctrị
Hiện nay, để phát huy quyền lực Ctrị thuộc về nhân dân lao động, đảng ta luôn đề ra đường lối, chủ
trương đổi mới nhằm củng cố bộ máy nhà nước thật sự vững chắc phục vụ cho lợi ích thiết thực của nhân
dân. Do đó, các nghị quyết của Đảng trong suốt thời kỳ đổi mới đều nhấn mạnh việc thực thi quá trình cải
cách, đổi mới hệ thống Ctrị thể hiện trên các lĩnh vực.
- Về Đảng, phải trở thành vị trí của người lãnh đạo Ctrị của toàn XH, phải đưa ra được cương lĩnh,
đường lối định hướng trong các chủ trương công tác lớn. Chủ trương, đường lối của Đảng đưa vào quần
chúng bằng phương pháp đặc thù: nêu gương tuyên truyền, giáo dục, thuyết phục, kiểm tra và đào tạo cán
bộ... Đảng phải được tổ chức hoạt động trong khuôn khổ của pháp luật, đồng thời Đảng là người lãnh đạo
hiến pháp, pháp luật, quan hệ giữa Đảng và nhà nước là quan hệ qua lại trên cơ sở khoa học.
- Về Nhà nước, phải quản lý mọi mặt XH bằng pháp luật, đưa pháp luật trở thành công cụ chủ yếu để
điều hành các quan hệ XH, nhà nước phải thể chế hoá quyền công dân và quyền con người.
- Về các tổ chức Ctrị - XH của công dân, phải đa dạng hoá hơn nữa các hình thức tổ chức để làm cho
mọi nhân tố XH đều có tổ chức đại diện cho mình. Đổi mới nhận thức, xác định rõ chức năng của các tổ
chức Ctrị XH của nhân dân. Phải xem chức năng bảo vệ lợi ích chính đáng của các thành viên trong tổ


chức mình là một trong những chức năng quan trọng nhất.
Đổi mới hệ thống Ctrị trong giai đoạn hiện nay là điều kiện để thực hiện quyền lực Ctrị của nhân dân
lao động. Mặt khác, quyền lực Ctrị của nhân dân lao động từng bước phát huy là cơ sở đảm bảo vững
chắc cho việc củng cố và đổi mới hệ thống Ctrị, đó cũng là mối quan hệ phổ biến giữa việc củng cố tăng
cường cơ chế thực hiện, nhằm thực thi quyền lực Ctrị của giai cấp cầm quyền trong chế độ XHCN.
* Phương hướng đổi mới hoàn thiện các nhân tố trong hệ thống Ctrị của Đảng ta bao gồm 3 yếu tố
sau:
Một là : Đảng phải đổi mới Đảng theo những nội dung sau :
- Giữ vững và tăng cường bản chất giai cấp công nhân của Đảng. Đây là nhiệm vụ có ý nghĩa quan
trọng hàng đầu đối với Đảng ta trong giai đoạn hiện nay.
- Nâng cao bản chất Ctrị, phẩm chất năng lực cán bộ đảng viên. Mọi các bộ đảng viên trước hết là cán

bộ lãnh đạo chủ chốt phải có kế hoạch thường xuyên học tập nâng cao trình động lý luận Ctrị, kiến thức và
năng lực hoạt động thực tiễn.
- Củng cố đảng về tổ chức thực hiện nghiêm nguyên tắc tập trung dân chủ.
- Chăm lo xây dựng đội ngủ cán bộ. Đảng phải là nơi đào tạo cán bộ cho cả hệ thống Ctrị, trên tất cả
các lĩnh vực.
- Nâng cao sức chiến đấu của các tổ chức cơ sở Đảng.
Xây dựng chỉnh đốn Đảng là nhiệm vụ thường xuyên có ý nghĩa cực kỳ quan trọng đối với sự
nghiệp cách mạng của Đảng. Đại hội đại biểu lần thứ IX của Đảng đã khẳng định “trong những năm tới
toàn Đảng tiếp tục thực hiên nghị các quyết về xây dựng Đảng, nhất là nghị quyết TW 6 (lần2) khoá 8”.
Đảng ta cần tập trunglàm tốt những công tác quan trọng sau : Giáo dục tư tưởng Ctrị, rèn luyện đạo đức
cách mạng, chống chủ nghĩa cá nhân, tiếp tục đổi mới công tác cán bộ, xây dựng và củng cố tổ chức cơ sở
đảng. Kiện toàn tổ chức đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng.
Hai là: Về nhà nước phải quán triệt các quan điểm sau:
- Xây dựng nước XHCN của dân, do dân và vì dân, lấy liên minh giai cấp công nhân, nông dân, tầng
lớp trí thức là nền tảng, do Đảng cộng sản lãnh đạo.
- Quyền lực nhà nước thống nhất, có sự phân công và phối hợp giữa các cơ quan nhà nước trong việc
thực các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp.
- Thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ trong tổ chức và hoạt của nhà nước.
- Tăng cường pháp chế XHCN, xây dựng nhà nước pháp quyền VN. Quản lý XH bằng pháp luật,
đồng thời coi trọng giáo dục và nâng cao đạo đức.
- Tăng cường vai trò lãng đạo của Đảng đối với nhà nươc.
Từ những quan điểm trên đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng đã nêu lên 5 nội dung cải cách
chức năng và hoạt động của nhà nước trong tình hình hiện nay là:. Xây dựng nhà nước pháp quyền
XHCN dưới sự lãng đạo của Đảng; Cải cách thể chế và phướng thức hoạt động của nhà nước; Phát huy
dân chủ giữ vững kỷ luật kỷ cương tăng cường pháp chế, xây dựng đội ngũ cán bộ công chức có năng lực;
. Đấu tranh chống tham nhũng.
Ba là : Đổi mới hoàn thiện các tổ chức Ctrị XH, phải thực hiện 2 nội dung cơ bản sau:
- Phải xác định rõ chức năng nhiệm vụ của từng tổ chức Ctrị XH, trong điều kiện thực hiện kinh tế thị
trường ở nước ta hiện nay. Tứ đó đưa ra được phương thức hoạt động phù hợp.
- Xây dựng các tổ chức Ctrị XH phải tuân thủ theo nguyên tắc: một mặt, bản thân từng thành viên

phải chăm lo xây dựng các tổ chức của mình; mặt khác, các tổ chức phải chăm lo lợi ích chính đáng của
từng thành viên.
Tóm lại, chúng ta đã và đang sống trong chế độ XH chủ nghĩa, nhiệm vụ của chúng ta là phát huy quyền
lực Ctrị của nhân dân lao động, để đảm bảo vững chắc cho việc củng cố và đổi mới hệ thống Ctrị ở nước
ta hiện nay. Muốn vậy chúng ta cần ra sức quán triệt tinh thần nghị quyết Đại hội Đảng và thực hiện có
hiệu quả di huấn của Chủ tịch Hồ Chí Minh : “Nước ta là nước dân chủ, bao nhiêu lợi ích đều vì dân”.


Câu 2: Vận dụng quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin về mối quan hệ Ctrị với kinh tế để phân
tích luận điểm sau: “không có lập trường Ctrị đúng đắn thì một giai cấp nhất định nào đó không
thể giữ được sự thống trị của mình và do đó cũng không thể hoàn thành được nhiệm vụ của mình
trong lĩnh vực sản xuất”?
Bài làm:
Ctrị và kinh tế là 2 lĩnh vực quan trọng trong đời sống XH. Mối quan hệ của chúng là mối quan hệ
biện chứng và có tác động trực tiếp đến quá trình phát triển của lịch sử XH loài người từ khi có sự phân
chia giai cấp nói chung cũng như của từng quốc gia, dân tộc nói riêng. Trong mối quan hệ đó, kinh tế là
nhân tố quyết định toàn bộ lịch sử vận động của đời sống Ctrị nhưng vai trò của Ctrị lại có tác động mạnh
mẽ đối với kinh tế và ảnh hưởng đến sự tồn vong cả chế độ XH. Nói đến sự tác động của Ctrị đến kinh tế,
Lênin cho rằng : “không có lập trường Ctrị đúng đắn thì một giai cấp nhất định nào đó không thể giữ được
sự thống trị của mình và do đó cũng không thể hoàn thành được nhiệm vụ của mình trong lĩnh vực sản
xuất”. Để có quan điểm đúng đắn, xử lý tốt mối quan hệ giữa Ctrị với kinh tế trong quá trình xây dựng đất
nước, giữ vững định hướng XHCN trong quá trình phát triển kinh tế, chúng ta hãy phân tích làm rõ luận
điểm trên.
1. Khái niệm Ctrị, kinh tế:
Ctrị là những công việc nhà nước hay XH. Phạm vi hoạt động gắn với những quan hệ giữa các giai
cấp, giữa các dân tộc và các nhóm XH khác nhau mà hạt nhân của nó là vấn đề giành, giữ và sử dụng
quyền lực nhà nước. Về thực chất, Ctrị là quan hệ về lợi ích (trước hết và cơ bản là lợi ích kinh tế) giữa các
giai cấp, các lực lượng XH, các quốc gia, dân tộc mà việc thực hiện lợi ích đó phải thông qua quyền lực
nhà nước. Trong Ctrị, vấn đề quyền lực Ctrị (mà trọng tâm là quyền lực nhà nước) luôn là mục tiêu của
các giai cấp. Khi nắm được quyền lực Ctrị, quyền lực nhà nước tức là nắm được công cụ cơ bản nhất để

giải quyết các vấn đề lợi ích của các giai cấp. Do vậy, xét từ góc độ quan hệ với kinh tế thì vấn đề Ctrị
thực chất cũng chính là vấn đề kinh tế bởi vì giải quyết vấn đề quyền lực Ctrị sẽ trực tiếp tác động đến
động lực của sự phát triển kinh tế. Mác Lênin đã rút ra kết luận : quan hệ Ctrị xét về bản chất là do quan hệ
kinh tế, chính sự ra đời và tồn tại của giai cấp, chính nhu cầu của các giai cấp quyết định nội dung của các
lợi ích Ctrị.
Kinh tế được hiểu là toàn bộ các lĩnh vực, các ngành khác nhau của một nền kinh tế quốc dân, mà cơ
sở của nó là các quan hệ cơ bản : quan hệ sở hữu về tư liệu sản xuất, quan hệ tổ chức và quản lý lao động
XH, quan hệ phân phối sản phẩm làm ra. Phạm vi kinh tế là cơ sở cần thiết và sâu xa nhất của XH loài
người, gần như toàn bộ các mối quan hệ khác trong XH đều được quy định bởi lĩnh vực kinh tế, vì vậy nó
quyết định chế độ Ctrị và quyết định quyền lực nhà nước
2. Mối quan hệ Ctrị với kinh tế:
Quan hệ giữa Ctrị với kinh tế là mối quan hệ biện chứng luôn có sự tác động qua lại lẫn nhau.
a. Vai trò kinh tế đối với Ctrị:
Kinh tế là nền tảng của Ctrị, kinh tế bao giờ cũng quyết định Ctrị và điều này được khẳng định hoàn
toàn trong lý luận cũng như trong thực tiễn. Về mặt lý luận, theo chủ nghĩa Mác - Lênin thì cơ sở hạ tầng
quy định cấu trúc, tính chất của kiến trúc thượng tầng và tồn tại XH quyết định ý thức XH. Kinh tế là nhân
tố cơ bản thuộc cơ sở hạ tầng, trong khi Ctrị là nhân tố chủ yếu của kiến trúc thượng tầng, vì vậy các quan
hệ kinh tế quy định các quan hệ Ctrị. Về mặt thực tiễn: ở hình thái kinh tế XH chiếm hữu nô lệ thì với
quan hệ sản xuất của chế độ chiếm hữu nô lệ, thể chế Ctrị thuộc về giai cấp chủ nô, ở hình thái kinh tế XH
TBCN thì với quan hệ sản xuất của chế độ tư bản chủ nghĩa, thể chế Ctrị thuộc về giai cấp tư sản và ở
CNXH thì thể chế Ctrị thuộc về giai cấp công nhân
Kinh tế thay đổi sẽ kéo theo sự thay đổi của Ctrị, thậm chí một vấn đề kinh tế không lớn nhưng có
thể trở thành một vấn đề Ctrị phức tạp, có thể làm đảo lộn đời sống Ctrị, XH. Lực lượng nào, giai cấp nào
nắm kinh tế thì lực lượng đó, giai cấp đó nắm quyền lực Ctrị, chi phối đời sống XH. Ngược lại, nếu một
giai cấp, lực lượng XH đã làm chủ về quyền lực Ctrị mà không xây dựng và giữ được địa vị chủ đạo về
kinh tế thì sớm muộn cũng sẽ không thể duy trì được quyền lực Ctrị. Chính vì vậy, Lênin viết “Ctrị là sự


biểu hiện tập trung của kinh tế”. Luận điểm này chỉ rõ nguồn gốc Ctrị là từ kinh tế, Ctrị chỉ hình thành tồn
tại và phát triển trên cơ sở đòi hỏi khách quan bởi sự phát triển kinh tế. Từ thực trạng kinh tế, kết cấu giai

cấp XH, mà hình thành nên một chế độ tương ứng. Nền Ctrị của một nước bao giờ cũng là sản phẩm trực
tiếp của khuynh hướng kinh tế chủ đạo , quan hệ sản xuất thống trị. Tính quy định của kinh tế đối với Ctrị
còn thể hiện ở chỗ nền Ctrị của một nước tuy là phản ánh tổng thể các xu hướng kinh tế nhưng bao giờ
cũng là sản phẩm trực tiếp của xu hướng kinh tế chủ đạo.
Khẳng định tính quyết định của kinh tế đối với Ctrị, chúng ta càng nhận thức rõ rằng trong quá trình
đổi mới ở nước ta hiện nay đang tồn tại một nền kinh tế nhiều thành phần, trong đó có cả thành phần kinh
tế XHCN lẫn TBCN và nền kinh tế này sẽ duy trì suốt thời kỳ quá độ; nếu như trong nền kinh tế nhiều
thành phần đó chúng ta không củng cố, xây dựng thành phần kinh tế XHCN trở thành một thành phần
kinh tế mạnh, chủ đạo, có khả năng chi phối các thành phần kinh tế khác thì khó đảm bảo được định
hướng XH chủ nghĩa. Đây cũng là vấn đề nguyên tắc trong sự nghiệp đổi mới ở nước ta hiện nay cũng
như trong suốt thời kỳ quá độ, bởi vì thành phần kinh tế XHCN đóng vai trò chủ đạo trong nền kinh tế sẽ
là cơ sở cho tồn tại vững chắc của hệ thống Ctrị XHCN.
b. Vai trò Ctrị đối với kinh tế: Kinh tế có vai trò quyết định đến Ctrị, tuy nhiên Ctrị luôn mang tính
độc lập của nó và có tác động trở lại đến kinh tế một cách toàn diện. Biểu hiện của sự tác động của Ctrị với
kinh tế có thể khái quát một số nội dung sau:
Thứ nhất: Ctrị định hướng cho kinh tế phát triển dựa trên quy luật khách quan, nhận thức được quy luật
khách quan. Bất cứ một nền kinh tế nào cũng đều có sự định hướng Ctrị, bởi nếu không định hướng thì
mục tiêu kinh tế, lợi ích kinh tế của giai cấp sẽ không được thực hiện, cũng như kinh tế sẽ phát triển tự do,
vô tổ chức sẽ ảnh hưởng tiêu cực đến đời sống XH. Do đó, bất cứ Ctrị của giai cấp cầm quyền nào cũng
phải làm nhiệm vụ định hướng kinh tế.Tuy nhiên, muốn định hướng thì chủ thể Ctrị phải có kiến thức, tri
thức, trình độ nhất định để nhận thức đúng quy luật, để định hướng đạt mục tiêu kinh tế phục vụ cho giai
cấp
Thứ hai: Ctrị lựa chọn mô hình phát triển kinh tế. Một mô hình kinh tế được xác định đúng, phù hợp là
điều kiện hết sức quan trọng cho sự phát triển XH và tăng trưởng kinh tế, phù hợp với lợi ích của giai cấp.
Ctrị có khả năng nhận thức đầy đủ điều kiện thực trạng kinh tế, tài nguyên, con người lao động và các điều
kiện Ctrị, XH, lịch sử...có khả năng xây dựng một mô hình kinh tế thích hợp.
Thứ ba: Ctrị điều tiết tốc độ phát triển kinh tế : Tốc độ phát triển kinh tế phù hợp là điều hết sức cần thiết
cho sự phát triển chung của một chế độ XH. Nếu kinh tế trì trệ, chậm phát triển, Ctrị phải tác động thông
qua đường lối, chủ trương, chính sách kinh tế hoặc các biện pháp kích cầu khác để kinh tế có độ tăng
trưởng hợp lý. Trong trường hợp kinh tế tăng trưởng quá nhanh không phù hợp với sự phát triển XH thì

Ctrị phải có sự điều tiết , sự phát triển không phù hợp giữa kinh tế với XH thường dẫn đến sự bất ổn về
Ctrị. Vì vậy, Ctrị can thiệp vào kinh tế là tốc độ phát triển hết sức cần thiết.
Thứ tư: Vai trò của Ctrị tác động đến các chủ thể kinh tế: Ctrị của giai cấp cầm quyền không thể không
tác động đến chủ thể kinh tế. Bởi sự tác động này sẽ tạo điều kiện cho các chủ thể kinh tế phát triển và
trong đó sẽ góp phần mang lại lợi ích nhất cho giai cấp cầm quyền. Hiện nay, mỗi thành phần kinh tế được
coi là chủ thể kinh tế. Vậy Ctrị phải tác động lên các chủ thể, để đảm bảo tất cả các chủ thể này đều phát
triển tốt, trên cơ sở phát huy mặt tích cực và hạn chế của từng chủ thể kinh tế. Tạo điều kiện cho chủ thể
thực hiện lợi ích riêng, đồng thời góp phần thực hiện lợi ích chung của quốc gia, dân tộc trên cơ sở định
hướng Ctrị, vì vậy không thể không có sự tác động của Ctrị vào các chủ thể kinh tế.
Thứ năm: Vai trò của Ctrị trong việc quản lý Ctrị-XH, con người trong các cơ sở sản xuất: Nói đến vấn
đề quản lý sản xuất, quản lý kinh tế tức là là quản lý con người, quản lý XH, Ctrị. Quản lý này nhằm đem
lại điều kiện tốt nhất để kinh tế phát triển. Đặc biệt, đối với nền kinh tế nhiều thành phần trong điều kiện
đổi mới ở nước ta hiện nay, mà hệ thống Ctrị của chúng ta không thể không chi phối, kiểm soát đến tất cả
các thành phần kinh tế, đặc biệt là các thành phần kinh tế tư bản tư nhân. Vì vậy, để quản lý XH, quản lý
con người của nước ta hiện nay, các doanh nghiệp nhà nước hoặc doanh nghiệp tư nhân phải có tổ chức
Đảng, các tổ chức quần chúng trong các doanh nghiệp để phát huy được vai trò của nhân tố con người.


Sự tác động của Ctrị đối với kinh tế có thể theo hai hướng : một là nếu Ctrị tác động cùng chiều với sự
phát triển kinh tế, khi đó Ctrị có vai trò tích cực, thúc đẩy phát triển lực lượng sản xuất và phân công lao
động XH theo hướng chuyên môn hóa, hợp tác hóa. Hai là nếu Ctrị tác động ngược chiều với sự phát triển
kinh tế, khi đó Ctrị là vật cản đối với sự phát triển kinh tế
Từ những tác động trên của Ctrị đến kinh tế, Lênin cho rằng “Ctrị không thể không giữ địa vị ưu tiên
so với kinh tế”. Luận điểm này khẳng định tính ưu tiên cho Ctrị so với kinh tế, là hợp lý vì ưu tiên cho Ctrị
là ưu tiên cho vấn đề cơ bản nhất, quyết định đến sự phát triển của bản thân kinh tế. Theo luận điểm này,
kết quả đạt được về phát triển kinh tế phải tính đến việc bảo vệ củng cố và phát triển thành quả Ctrị đạt
được (củng cố và phát triển hệ thống Ctrị) bởi vì có ổn định Ctrị thì kinh tế mối phát triển. Luận điểm này
cũng cho thấy phải có quan điểm Ctrị khi giải quyết các vấn đề kinh tế và phải bảo đảm sự lãnh đạo của
Đảng và sự quản lý của nhà nước đối với phát triển kinh tế là tất yếu khách quan. Ctrị phải được ưu tiên và
giữ hàng đầu so với kinh tế vì Ctrị có khả năng can thiệp một cách tự giác vào quá trình kinh tế khách

quan. Ưu tiên cho Ctrị thì vấn đề đặt ra là khi giải quyết các vấn đề kinh tế cụ thể phải đứng trên quan
điểm, lập trường Ctrị đúng đắn, tức là phải trả lời cho câu hỏi : xuất phát từ lợi ích của ai ? phải thấy rằng
việc giải quyết các vấn đề kinh tế phải góp phần duy trì và củng cố quyền lực Ctrị của chủ thể trong quá
trình phát triển kinh tế.
Đối với điều kiện nước ta thì việc giải quyết xử lý các vấn đề kinh tế cụ thể phải xuất phát từ lợi ích
của giai cấp công nhân và đông đảo quần chúng nhân dân lao động. Chính điều đó đảm bảo tính định
hướng Ctrị trong quá trình phát triển kinh tế. Thiếu quan điểm Ctrị trong việc giải quyết các vấn đề kinh tế
thì kinh tế có thể vẫn tăng trưởng cao nhưng lúc đó trung tâm quyền lực Ctrị có thể không còn nằm trong
tay giai cấp thống trị đương thời mà sẽ nằm trong tay thành phần kinh tế đang đóng vai trò chủ đạo trong
nền kinh tế. Như vậy, ưu tiên cho Ctrị ở đây chính là ưu tiên cho vấn đề quyền lực Ctrị của một giai cấp.
Lênin viết “Không có lập trường Ctrị đúng đắn thì một giai cấp nhất định nào đó không thể giữ được sự
thống trị của mình và do đó cũng không thể hoàn thành được nhiệm vụ của mình trong lĩnh vực sản xuất”.
Mặt khác, trong kinh tế dù cải tổ hay đổi mới như thế nào cũng phải luôn giữ vững hệ tư tưởng Ctrị vì hệ
tư tưởng Ctrị quy định phương hướng mục tiêu, bản chất của chế độ XH. Trong điều kiện cách mạng
XHCN, sự ưu tiên của Ctrị so với kinh tế là tất yếu để xây dựng CNXH : đó chính là giành, giữ và sử
dụng quyền lực Ctrị và xây dựng nền kinh tê mới.
Cần lưu ý rằng trong mối quan hệ Ctrị với kinh tế, nhiều trường hợp đã có chính sách Ctrị đúng đắn
nhưng trình độ năng lực, tổ chức, chỉ đạo thực tiễn, phương thức hoạt động hệ thống Ctrị không vươn tới
ngang tầm nhiệm vụ Ctrị đề ra, thì Ctrị vẫn có thể cản trở kinh tế hoặc để kinh tế phát triển chệch hướng,
trái với đường lối Ctrị đã lựa chọn. Vì thế Ctrị phải tự đổi mới, phải có cơ cấu tổ chức, phương thức hoạt
động, thiết chế vận hành phù hợp với cơ sở kinh tế. Từ những phân tích trên cho thấy rằng các Đảng Ctrị
không thể sai lầm về đường lối Ctrị. Trong những điều kiện nhất định, có thể hy sinh kinh tế cục bộ để
đảm bảo sự phát triển kinh tế bền vững lâu dài theo sự định hướng của Ctrị.
3. Ctrị với kinh tế trong công cuộc đổi mới ở nước ta hiện nay:
Thực tế ở nước ta đã khẳng định rằng những thay đổi lớn kinh tế, thường bắt đầu từ những quyết sách
Ctrị mang tính bước ngoặc.
Nhìn lại quá trình Đảng lãnh đạo đất nước từ trước năm 1986, chúng ta thấy rằng tình hình nước ta nói
riêng và các nước XHCN nói chung đã có thời gian khá dài do tuyệt đối hóa vai trò của đường lối Ctrị,
duy trì quá lâu cơ chế tập trung quan liêu bao cấp đã dẫn đến sự kiềm hãm sự phát triển kinh tế và dẫn đến
khủng hoảng trầm trọng. Chúng ta đã hành động trái quy luật “kinh tế quyết định Ctrị” khi cho rằng mâu

thuẫn nổi lên ở đầu thời kỳ quá độ là mâu thuẫn giữa chế độ Ctrị tiên tiến với quan hệ sản xuất lạc hậu, do
đó phải đẩy mạnh cải tạo quan hệ sản xuất (mà trong đó chủ yếu là cải tạo xóa bỏ các thành phần kinh tế
phi XHCN) nhằm làm cho quan hệ sản xuất phù hợp với chế độ Ctrị tiên tiến. Từ đó nảy sinh ra mâu
thuẩn chủ yếu giữa quan hệ sản xuất với lực lượng sản xuất , nhiệm vụ công nghiệp hóa được đẩy lên một
cách duy ý chí trong khi chưa có đủ các tiền đề cần thiết. Từ những sai lầm về đường lối chỉ đạo này, dẫn
đến nền kinh tế chậm phát triển, XH rơi vào khủng hoảng


Trên cơ sở đánh giá đúng những nguyên nhân sai lầm trên, Đảng và Nhà nước ta đã có những quyết
sách quan trọng để cải cách đổi mới toàn diện tất cả các lãnh vực của đời sống KT-XH, đưa đất nước ra
khỏi khủng hoảng và phát triển ngày càng vững chắc. Để tiếp tục đưa công cuộc đổi mới tiến lên, làm cho
đất nước ta phát triển nhanh, vững bền theo định hướng XHCN trong thời kỳ đổi mới đòi hỏi phải nâng
cao hơn nữa tính tự giác trong sự lãng đạo Ctrị đối với kinh tế. Xử lý mối quan hệ Ctrị với kinh tế trong
công cuộc đổi mới ở nước ta hiện nay, cần chú ý một số vấn đề sau:
Thứ nhất : Xác định mối quan tương quan giữa đổi mới kinh tế với đổi mới Ctrị. Chủ trương của
Đảng là lấy đổi mới kinh tế làm trọng tâm. Thực hiện quan điểm đó, chúng ta chuyển từng bước nền kinh
tế tự nhiên sang nền kinh tế tự cấp, tự túc, ưu tiên công ngiệp nặng sang nền kinh tế hàng hoá và hình
thành một hệ thống kinh tế mở. Trên cơ sở của những thành tựu mà Đảng ta thực hiện từng bước đổi mới
về Ctrị, để đáp ứng yêu cầu lãnh đạo; Nhà nước đổi mới để đảm bảo vai trò quản lý nền kinh tế có hiệu
quả nhất. Các tổ chức Ctrị-XH của quần chúng nhân dân từng bước hoàn thiện để góp phần tích cực vào
công việc quản lý Nhà nước, quản lý XH,
Thứ hai : Định hướng XHCN với nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần. Đại hội Đảng toàn quốc
lần thứ IX đã chỉ rõ “Đảng và Nhà nước ta chủ trương thực hiện nhất quán và lâu dài chính sách phát triển
kinh tế hàng hoá nhiều thành phần vận động theo cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước theo định
hướng XHCN, đó là nền kinh tế thị trường XHCN. Đó là mô hình kinh tế tổng quát của nước ta trong thời
kỳ quá độ lên CNXH”. Phát triển kinh tế hàng hoá nhiều thành phần như Đảng ta khẳng định là hoàn toàn
phù hợp với quy luật vận động khách quan của lịch sử, phù hợp với thực trạng và trình độ của nền kinh tế
ở nước ta hiện nay.
Thứ ba : Kinh tế hàng hóa nhiều thành phần dưới sự lãnh đạo duy nhất của Đảng CSVN. Đảng ta
không chấp nhận đa nguyên, đa đảng. Ở nước ta, mặc dù kinh tế nhiều thành phần nhưng kinh tế nhà

nước là chủ đạo thì sẽ không dẫn đến đối kháng giai cấp. Như vậy, vịêc duy trì một Đảng, nhất nguyên
Ctrị là tất yếu khách quan, là điều kiện đảm bảo sự ổn định Ctrị để phát triển kinh tế. Song, để lãnh đạo tốt
kinh tế cũng như các lĩnh vực khác của đời sống XH, Đảng phải tự đổi mới vươn lên ngang tầm nhiệm vụ.
NQ TW6 (lần 2) khoá VIII chủ trương tăng cường công tác phê bình, tự phê bình, chỉnh đốn Đảng là
nhằm làm trong sạch phẩm chất, đạo đức, lối sống của cán bộ, Đảng viên để nâng cao năng lực và sức
chiến đấu của Đảng. Đây là yêu cầu bắt buộc của Đảng trong tình hình mới hiện nay.
Thứ tư: Kinh tế hàng hoá nhiều thành phần vận động theo cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà
nước. Kinh tế hàng hoá nhiều thành phần bao giờ cũng có hai mặt: tích cực và tiêu cực. Mặt trái của cơ
chế thị trường là khoảng cách giàu nghèo trong nội bộ nhân dân có xu hướng ngày càng lớn, tình trạng
thất nghiệp khá lớn, tính chất bóc lột theo kiểu TBCN đang có xu hướng trở thành phổ biến trong các đơn
vị kinh tế tư nhân, TB nhà nước, TB nước ngoài, lối sống phi văn hóa đang gia tăng trong một bộ phận
dân cư, thậm chí xâm nhập vào các cơ quan nhà nước. Do đó nguy cơ chệch hướng XHCN vẫn còn. Để
đạt được hiệu quả cao trong quá trình tác động phải xuất phát từ thực trạng kinh tế của đất nước và nhận
thức đúng, đầy đủ các quy luật khách quan của kinh tế. Nhà nước tác động vào kinh tế còn phải thể hiện rõ
vai trò của mình trong việc tạo môi trường, điều tiết chính sách XH, quản lý, phân phối nguồn tài nguyên
quốc gia.
Bên cạnh đó, sự quản lý nhà nước đối với kinh tế vẫn còn nhiều hạn chế. Đó là sự thiếu đồng bộ của cơ
chế và chính sách kinh tế, sự yếu kém của cán bộ trực tiếp quản lý kinh tế, kém về trình độ năng lực, sa sút
về đạo đức, bản lĩnh yếu trong quan hệ kinh tế đối ngoại, nhiều cán bộ do thiếu bản lĩnh nên bị mắc lừa.
Việc thực hiện đường lối chủ trương của Đảng và pháp luật của nhà nước về kinh tế chưa nghiêm, tình
trạng tự do, tuỳ tiện, bất chấp pháp luật, tự đặt ra quy định mà chỉ có lợi cho việc quản lý ... Vì vậy, tăng
cường sự lãnh đạo Ctrị đối với nền kinh tế thị trường theo định hướng XHCN ngày càng trở nên vấn đề
trọng yếu trong sự nghiệp CNH-HĐH đất nước .
Thứ năm: Đổi mới hệ thống Ctrị cho phù hợp với đổi mới kinh tế. Trong thời kỳ quá độ tiến lên CNXH
ở nước ta hệ thống Ctrị XHCN do ĐCS VN lãnh đạo. Để đảm bảo Ctrị là động lực, là mở đường cho kinh
tế phát triển, thì hệ thống Ctrị phải tiến hành đổi mới. Không làm được điều đó hệ thống Ctrị sẽ không thể


định hướng cho kinh tế và như thế nguy cơ chệch hướng kinh tế hoàn toàn có thể xảy ra. Nghị quyết Đại
hội VII đã chỉ rõ nguy cơ chệch hướng kinh tế có thể bắt đều từ chính hình thái Ctrị. Chính là yếu tố quyết

định đảm bảo thắng lợi của sự nghiệp đổi mới ở nước ta. Đổi mới hệ thống Ctrị và từng bước xây dựng,
hoàn thiện nền dân chủ XHCN có quan hệ biện chứng với nhau. Thực chất đổi mới và kiện toàn hệ thống
Ctrị ở nước ta là xây dựng nền dân chủ XHCN. Dân chủ là quy luật hình thành, phát triển và tự hoàn thiện
hệ thống Ctrị XHCN. Làm tốt việc này chính là góp phần tạo ra động lực tổng hợp cho sự nghiệp xây
dựng đất nước trong thời kỳ quá độ ở nước ta
* Để nền kinh tế thị trường ở nước ta ngày càng thật sự là phương thức thực hiện sự nghiệp “Dân
giàu, nước mạnh, XH công bằng, dân chủ và văn minh”, sự lãnh đạo của Ctrị phải giải quyết tốt
những vấn đề sau :
Một là sự lãnh đạo về Ctrị phải đảm bảo lợi ích của giai cấp và dân tộc trong sự phát triển của kinh tế.
Ctrị phải tập trung lãnh đạo việc xây dựng quan hệ sản xuất XHCN, xác lập cho được vai trò chủ đạo của
kinh tế nhà nước, kinh tế tập thể làm nền tảng cho nền kinh tế quốc dân, phải làm cho hình thức quản lý
tập thể trở thành phổ biến, phải làm cho hình thức phân phối theo lao động là chính. Ctrị phải lãnh đạo giải
quyết tốt những mâu thuẩn phổ biến khi phát triển kinh tế thị trường (mâu thuẫn giữa phát triển kinh tế với
công ăn việc làm, phân hóa giàu nghèo, giữa sự phát triển kinh tế trước mắt với sự phát triển kinh tế lâu
dài của đất nước, giữa phát triển kinh tế với công bằng XH. Ctrị phải giải quyết tốt mối quan hệ giữa hợp
tác và đấu tranh trong quan hệ quốc tế : vừa tranh thủ được vốn, kỹ thuật, kinh nghiệm tiên tiến của thế
giới, đồng thời chống chủ nghĩa thực dân kinh tế của các đế quốc dưới mọi hình thức, xây dựng nền kinh
tế độc lập tự chủ
Hai là Ctrị phải làm cho kinh tế nâng cao hiệu quả KTXH : Ctrị phải đảm bảo tốt phát triển KT với phát
triển XH, phải là cho sự phát triển kinh tế đem lại lợi ích cho mọi người, làm cho sự phát triển đồng đều
giữa các vùng, các miền trong địa phương cả nước. Ctrị phải lãnh đạo việc đổi mới quan hệ, phải đảm bảo
công nghệ hiện đại phù hợp với điều kiện Việt Nam, công nghệ phải đảm bảo khôi phục tính chỉnh thể
của môi trường, chỉnh thể của người lao động. Phải lãnh đạo tốt việc phát triển kinh tế gắn liền với bảo vệ
tổ quốc, chiến lược kinh tế gắn liền với chiến lược an ninh quốc phòng và phòng thủ quốc gia
Ba là sự lãnh đạo của Ctrị nhằm thúc đẩy nhanh tiến trình khách quan thúc đẩy sự phát triển của kinh tế.
Ctrị phải tạo ra môi trường cho các quy luật kinh tế phát huy tác dụng, phải vận dụng những quy luật nhân
tố ngoài kinh tế tác động vào KT. Ctrị phải chủ động tạo ra sự gần gũi giữa các chủ thể Ctrị với các chủ
thể KT, làm cho kinh tế quán triệt ngày càng đầy đủ hơn quan niệm, đường lối của Đảng về kinh tế Ctrị.
Ngược lại các nhà Ctrị nắm vững hơn thực trạng xu hướng phát triển của đất nước.
Bốn là Ctrị phải hạn chế đến mức tối thiểu mặt trái của kinh tế thị trường : Ctrị phải giải quyết tốt các

vấn đề kinh tế, phải trong sạch hóa đội ngũ cán bộ, nâng cao trình độ năng lực, nâng cao bản lĩnh và đạo
đức. Ctrị phải đấu tranh có hiệu quả với hoạt động kinh tế bất chính, đồng thời trừng trị nghiêm những
hoạt động kinh tế phi pháp, phê phán mạnh mẽ những hoạt động kinh tế bất chính. Hạn chế đến mức tối
thiểu sự phân hóa XH, phải rút ngắn khoảng cách thu nhập giữa các tầng lớp, trước hết là thu nhập kinh tế,
phải làm cho mọi người hiểu hết nến kinh tế thị trường.
Tóm lại: Ctrị với kinh tế là những lĩnh vực cơ bản trong đời sống XH, vì vậy giải quyết đúng đắn mối
quan hệ Ctrị-kinh tế sẽ tạo ra những động lực lớn quyết định đến quá trình phát triển của chế độ XH. Đối
với nước ta hiện nay, việc nắm vững mối quan hệ biện chứng giữa Ctrị với kinh tế và vận dụng đúng đắn
mối quan hệ giữa chúng trong thực tiễn sẽ là động lực quan trọng để thực hiện định hướng XHCN với
mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, XH công bằng, dân chủ văn minh”. Đồng thời sẽ góp phần trong việc
thực hiện chiến lược phát triển kinh tế-XH mà Đại hội toàn quốc lần thứ IX đã khẳng định “Đẩy mạnh
công nghiệp hoá, hiện đại hoá, xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ, đưa nước ta trở thành một nước công
nghiệp, ưu tiên phát triển LLSX, đồng thời xây dựng QHSX phù hợp theo định hướng XHCN; phát huy
cao độ nội lực, đồng thời tranh thủ nguồn lực bên ngoài và chủ động hội nhập kinh tế quốc tế, phát triển
nhanh có hiệu quả và bền vững; tăng trưởng kinh tế đi liền với phát triển văn hoá, từng bước cải thệin đời


sống vật chất và tinh thấn của nhân dân, thực hiện tiến bộ và công bằng XH, bảo vệ và cải thiện môi
trường; kết hợp phát triển kinh tế-XH với tăng cường quốc phòng an ninh”./.
Câu 3: Đồng chí hãy dùng lý luận về mối quan hệ giữa Ctrị với kinh tế và thực tiễn của đổi mới của
cách mạng Việt Nam để làm sáng tỏ bài học sau: “Kết hợp chặt chẽ ngay từ đầu đổi mới kinh tế với
đổi mới Ctrị, lấy đổi mới kinh tế làm trọng tâm, đồng thời từng bước đổi mới Ctrị” ?
Bài làm:
Ctrị và kinh tế là 2 lĩnh vực quan trọng trong đời sống XH. Mối quan hệ của chúng là mối quan hệ biện
chứng và có tác động trực tiếp đến quá trình phát triển của lịch sử XH loài người từ khi có sự phân chia
giai cấp nói chung cũng như của từng quốc gia, dân tộc nói riêng. Trong mối quan hệ đó, kinh tế là nhân
tố quyết định toàn bộ lịch sử vận động của đời sống Ctrị nhưng vai trò của Ctrị lại có tác động mạnh mẽ
đối với kinh tế và ảnh hưởng đến sự tồn vong cả chế độ XH
1. Khái niệm Ctrị, kinh tế:
Ctrị là những công việc nhà nước hay XH. Phạm vi hoạt động gắn với những quan hệ giữa các giai cấp,

giữa các dân tộc và các nhóm XH khác nhau mà hạt nhân của nó là vấn đề giành, giữ và sử dụng quyền
lực nhà nước. Về thực chất, Ctrị là quan hệ về lợi ích (trước hết và cơ bản là lợi ích kinh tế) giữa các giai
cấp, các lực lượng XH, các quốc gia, dân tộc mà việc thực hiện lợi ích đó phải thông qua quyền lực nhà
nước. Trong Ctrị, vấn đề quyền lực Ctrị (mà trọng tâm là quyền lực nhà nước) luôn là mục tiêu của các
giai cấp. Khi nắm được quyền lực Ctrị, quyền lực nhà nước tức là nắm được công cụ cơ bản nhất để giải
quyết các vấn đề lợi ích của các giai cấp. Do vậy, xét từ góc độ quan hệ với kinh tế thì vấn đề Ctrị thực
chất cũng chính là vấn đề kinh tế bởi vì giải quyết vấn đề quyền lực Ctrị sẽ trực tiếp tác động đến động lực
của sự phát triển kinh tế. Mác Lênin đã rút ra kết luận : quan hệ Ctrị xét về bản chất là do quan hệ kinh tế,
chính sự ra đời và tồn tại của giai cấp, chính nhu cầu của các giai cấp quyết định nội dung của các lợi ích
Ctrị.
Kinh tế được hiểu là toàn bộ các lĩnh vực, các ngành khác nhau của một nền kinh tế quốc dân, mà cơ sở
của nó là các quan hệ cơ bản : quan hệ sở hữu về tư liệu sản xuất, quan hệ tổ chức và quản lý lao động
XH, quan hệ phân phối sản phẩm làm ra. Phạm vi kinh tế là cơ sở cần thiết và sâu xa nhất của XH loài
người, gần như toàn bộ các mối quan hệ khác trong XH đều được quy định bởi lĩnh vực kinh tế, vì vậy nó
quyết định chế độ Ctrị và quyết định quyền lực nhà nước
2. Mối quan hệ Ctrị với kinh tế:
Quan hệ giữa Ctrị với kinh tế là mối quan hệ biện chứng luôn có sự tác động qua lại lẫn nhau.
a. Vai trò kinh tế đối với Ctrị:
Kinh tế là nền tảng của Ctrị, kinh tế bao giờ cũng quyết định Ctrị và điều này được khẳng định hoàn
toàn trong lý luận cũng như trong thực tiễn. Về mặt lý luận, theo chủ nghĩa Mác - Lênin thì cơ sở hạ tầng
quy định cấu trúc, tính chất của kiến trúc thượng tầng và tồn tại XH quyết định ý thức XH. Kinh tế là nhân
tố cơ bản thuộc cơ sở hạ tầng, trong khi Ctrị là nhân tố chủ yếu của kiến trúc thượng tầng, vì vậy các quan
hệ kinh tế quy định các quan hệ Ctrị. Về mặt thực tiễn: ở hình thái kinh tế XH chiếm hữu nô lệ thì với
quan hệ sản xuất của chế độ chiếm hữu nô lệ, thể chế Ctrị thuộc về giai cấp chủ nô, ở hình thái kinh tế XH
TBCN thì với quan hệ sản xuất của chế độ tư bản chủ nghĩa, thể chế Ctrị thuộc về giai cấp tư sản và ở
CNXH thì thể chế Ctrị thuộc về giai cấp công nhân
Kinh tế thay đổi sẽ kéo theo sự thay đổi của Ctrị, thậm chí một vấn đề kinh tế không lớn nhưng có thể
trở thành một vấn đề Ctrị phức tạp, có thể làm đảo lộn đời sống Ctrị, XH. Lực lượng nào, giai cấp nào
nắm kinh tế thì lực lượng đó, giai cấp đó nắm quyền lực Ctrị, chi phối đời sống XH. Ngược lại, nếu một
giai cấp, lực lượng XH đã làm chủ về quyền lực Ctrị mà không xây dựng và giữ được địa vị chủ đạo về

kinh tế thì sớm muộn cũng sẽ không thể duy trì được quyền lực Ctrị. Chính vì vậy, Lênin viết “Ctrị là sự
biểu hiện tập trung của kinh tế”. Luận điểm này chỉ rõ nguồn gốc Ctrị là từ kinh tế, Ctrị chỉ hình thành tồn
tại và phát triển trên cơ sở đòi hỏi khách quan bởi sự phát triển kinh tế. Từ thực trạng kinh tế, kết cấu giai
cấp XH, mà hình thành nên một chế độ tương ứng. Nền Ctrị của một nước bao giờ cũng là sản phẩm trực


tiếp của khuynh hướng kinh tế chủ đạo , quan hệ sản xuất thống trị. Tính quy định của kinh tế đối với Ctrị
còn thể hiện ở chỗ nền Ctrị của một nước tuy là phản ánh tổng thể các xu hướng kinh tế nhưng bao giờ
cũng là sản phẩm trực tiếp của xu hướng kinh tế chủ đạo.
Khẳng định tính quyết định của kinh tế đối với Ctrị, chúng ta càng nhận thức rõ rằng trong quá trình đổi
mới ở nước ta hiện nay đang tồn tại một nền kinh tế nhiều thành phần, trong đó có cả thành phần kinh tế
XHCN lẫn TBCN và nền kinh tế này sẽ duy trì suốt thời kỳ quá độ; nếu như trong nền kinh tế nhiều thành
phần đó chúng ta không củng cố, xây dựng thành phần kinh tế XHCN trở thành một thành phần kinh tế
mạnh, chủ đạo, có khả năng chi phối các thành phần kinh tế khác thì khó đảm bảo được định hướng XH
chủ nghĩa. Đây cũng là vấn đề nguyên tắc trong sự nghiệp đổi mới ở nước ta hiện nay cũng như trong suốt
thời kỳ quá độ, bởi vì thành phần kinh tế XHCN đóng vai trò chủ đạo trong nền kinh tế sẽ là cơ sở cho tồn
tại vững chắc của hệ thống Ctrị XHCN.
b. Vai trò Ctrị đối với kinh tế:
Kinh tế có vai trò quyết định đến Ctrị, tuy nhiên Ctrị luôn mang tính độc lập của nó và có tác động trở
lại đến kinh tế một cách toàn diện. Ctrị thực hiện khả năng nhận thức các qui luật kinh tế khách quan, nhận
thức được thực trạng kinh tế của đất nước và từ đó định hướng các qui luật vận động, phát triển nhằm đạt
đến mục đích lợi ích giai cấp.
Ctrị với kinh tế là một khái niệm chỉ sự tác động của quyền lực Ctrị mà trước hết và trực tiếp là quyền
lực nhà nước đến các quá trình kinh tế XH. Sự tác động này thực hiện bằng đường lối kinh tế, thể chế Ctrị
với kinh tế, các chủ thể Ctrị với kinh tế. Nó tác động đến mục đích phát triển kinh tế, cơ cấu và cơ chế
kinh tế, hiệu quả kinh tế XH, phương thức vận hành và phân phối sản phẩm. Phạm vi tác động trên toàn
bộ nền kinh tế, các lĩnh vực kinh tế cơ bản, các đơn vị kinh tế, các kỹ thuật kinh tế-XH, các chủ thể kinh
tế; từ quan hệ của các lĩnh vực cơ bản Ctrị như: đường lối, chính sách, tổ chức, thiết chế Ctrị...đến toàn bộ
nền kinh tế nói chung hoặc tác động đến các lĩnh vực kinh tế cơ bản của nền kinh tế quốc dân. Biểu hiện
của sự tác động của Ctrị với kinh tế có thể khái quát một số nội dung sau:

Thứ nhất: Ctrị định hướng cho kinh tế phát triển dựa trên quy luật khách quan, nhận thức được quy luật
khách quan. Bất cứ một nền kinh tế nào cũng đều có sự định hướng Ctrị, bởi nếu không định hướng thì
mục tiêu kinh tế, lợi ích kinh tế của giai cấp sẽ không được thực hiện, cũng như kinh tế sẽ phát triển tự do,
vô tổ chức sẽ ảnh hưởng tiêu cực đến đời sống XH. Do đó, bất cứ Ctrị của giai cấp cầm quyền nào cũng
phải làm nhiệm vụ định hướng kinh tế.Tuy nhiên, muốn định hướng thì chủ thể Ctrị phải có kiến thức, tri
thức, trình độ nhất định để nhận thức đúng quy luật, để định hướng đạt mục tiêu kinh tế phục vụ cho giai
cấp
Thứ hai: Ctrị lựa chọn mô hình phát triển kinh tế. Một mô hình kinh tế được xác định đúng, phù hợp là
điều kiện hết sức quan trọng cho sự phát triển XH và tăng trưởng kinh tế, phù hợp với lợi ích của giai cấp.
Ctrị có khả năng nhận thức đầy đủ điều kiện thực trạng kinh tế, tài nguyên, con người lao động và các điều
kiện Ctrị, XH, lịch sử...có khả năng xây dựng một mô hình kinh tế thích hợp.
Thứ ba: Ctrị điều tiết tốc độ phát triển kinh tế : Tốc độ phát triển kinh tế phù hợp là điều hết sức cần thiết
cho sự phát triển chung của một chế độ XH. Nếu kinh tế trì trệ, chậm phát triển, Ctrị phải tác động thông
qua đường lối, chủ trương, chính sách kinh tế hoặc các biện pháp kích cầu khác để kinh tế có độ tăng
trưởng hợp lý. Trong trường hợp kinh tế tăng trưởng quá nhanh không phù hợp với sự phát triển XH thì
Ctrị phải có sự điều tiết , sự phát triển không phù hợp giữa kinh tế với XH thường dẫn đến sự bất ổn về
Ctrị. Vì vậy, Ctrị can thiệp vào kinh tế là tốc độ phát triển hết sức cần thiết.
Thứ tư: Vai trò của Ctrị tác động đến các chủ thể kinh tế: Ctrị của giai cấp cầm quyền không thể không
tác động đến chủ thể kinh tế. Bởi sự tác động này sẽ tạo điều kiện cho các chủ thể kinh tế phát triển và
trong đó sẽ góp phần mang lại lợi ích nhất cho giai cấp cầm quyền. Hiện nay, mỗi thành phần kinh tế được
coi là chủ thể kinh tế. Vậy Ctrị phải tác động lên các chủ thể, để đảm bảo tất cả các chủ thể này đều phát
triển tốt, trên cơ sở phát huy mặt tích cực và hạn chế của từng chủ thể kinh tế. Tạo điều kiện cho chủ thể
thực hiện lợi ích riêng, đồng thời góp phần thực hiện lợi ích chung của quốc gia, dân tộc trên cơ sở định
hướng Ctrị, vì vậy không thể không có sự tác động của Ctrị vào các chủ thể kinh tế.


Thứ năm: Vai trò của Ctrị trong việc quản lý Ctrị-XH, con người trong các cơ sở sản xuất: Nói đến vấn
đề quản lý sản xuất, quản lý kinh tế tức là là quản lý con người, quản lý XH, Ctrị. Quản lý này nhằm đem
lại điều kiện tốt nhất để kinh tế phát triển. Đặc biệt, đối với nền kinh tế nhiều thành phần trong điều kiện
đổi mới ở nước ta hiện nay, mà hệ thống Ctrị của chúng ta không thể không chi phối, kiểm soát đến tất cả

các thành phần kinh tế, đặc biệt là các thành phần kinh tế tư bản tư nhân. Vì vậy, để quản lý XH, quản lý
con người của nước ta hiện nay, các doanh nghiệp nhà nước hoặc doanh nghiệp tư nhân phải có tổ chức
Đảng, các tổ chức quần chúng trong các doanh nghiệp để phát huy được vai trò của nhân tố con người.
* Phân tích làm sáng tỏ bài học: Kết hợp chặt chẽ ngay từ đầu đổi mới kinh tế với đổi mới Ctrị,
lấy đổi mới kinh tế làm trọng tâm, đồng thời từng bước đổi mới Ctrị:
Bắt đầu từ những năm 70 của thế kỷ 20, kinh tế các nước XH chủ nghĩa lâm vào tình trạng trì trệ
khủng hoảng. Các nước XH chủ nghĩa Đông Au và Liên Xô đi vào thực hiện cải tổ, một mặt do sai lầm
về đường lối Ctrị, mặt khác do sự phản bội của một số người giữ vị trí lãnh đạo trong Đảng và Nhà nước,
sự phá hoại của các lực lượng thù địch chống chủ nghĩa XH dẫn đến chủ nghĩa XH ở Đông Au và Liên
Xô bị sụp đổ; Liên bang Xô Viết tan rã, Đảng cộng sản mất quyền lãnh đạo, nền kinh tế phát triển theo
con đường tư bản.
Song một số Đảng cầm quyền ở một số nước XH chủ nghĩa đã tiến hành công cuộc cải tổ đổi mới
giành được những thành tựu quan trọng bước đầu trên con đường cải tổ đổi mới XH chủ nghĩa như Trung
Quốc, Việt Nam…
Qua thành công và thất bại trong quá trình cải tổ đổi mới chủ nghĩa XH đã giúp cho các Đảng
cộng sản và công nhân quốc tế đã rút ra được những bài học kinh nghiệm bước đầu để tiếp tục quá trình
cải tổ đổi mới chủ nghĩa XH giành được thắng lợi. Qua thực tiễn công cuộc đổi mới của cách mạng Việt
Nam, Đại hội Đảng lần thứ VIII đã nêu ra bài học: “Kết hợp chặt chẽ ngay từ đầu đổi mới kinh tế với đổi
mới Ctrị, lấy đổi mới kinh tế làm trọng tâm, đồng thời từng bước đổi mới Ctrị”.
Từ bài học Đảng ta đã nêu ta thấy rõ Đảng ta khẳng định: lấy đổi mới kinh tế làm trọng tâm: là vì
theo quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin cơ sở hạ tầng qui định cấu trúc và tính chất của kiến trúc thượng
tầng, vì thế kinh tế có vai trò rất quan trọng trong đời sống XH. Kinh tế là nền tảng của mọi hình thái kinh
tế-XH. Cơ cấu kinh tế hiện thực qui định cấu trúc và tính chất của nhiều lĩnh vực khác phụ thuộc vào nó
như: kiến trúc thượng tầng, cơ cấu XH. Kinh tế qui định tính chất và kiểu quan hệ giữa các lĩnh vực khác
nhau trong đời sống XH.
Đồng thời từng bước đổi mới Ctrị: là vì, trong khi nhấn mạnh vai trò của cơ sở hạ tầng đối với kiến
trúc thượng tầng, quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin cũng khẳng định rằng kiến trúc thượng tầng có tính
độc lập tương đối và có sự tác động trở lại rất mạnh mẽ đối với cơ sở hạ tầng. Do nhận thức được qui luật
kinh tế-XH, kiến trúc thượng tầng Ctrị có vai trò định hướng hoạt động thực tiễn, đưa lại phương án phát
triển tối ưu cho kinh tế-XH. Với ý nghĩa đó, Ctrị ra đời tồn tại, phát triển trên cơ sở kinh tế.

Ctrị có vai trò tác động mạnh mẽ đối với kinh tế. Xét theo khía cạnh đặc trưng bản chất chi
phối bên trong vì những hình thức tác động của Ctrị đối với kinh tế thực chất là giải quyết những lợi ích
giữa các giai cấp nhóm XH với tính hiệu quả của sản xuất kinh doanh.
Từ đặc trưng bản chất trên, Ctrị tác động đối với kinh tế thể hiện trên nhiều mặt, song có thể khái
quát lại thành ba vấn đề lớn:
Một là sự định hướng Ctrị đối với mô hình chiến lược phát triển kinh tế.
Hai là tác động của chủ thể Ctrị đối với các chủ thể kinh tế. Ba là vai trò cơ cấu tổ chức và
phương thức tổ chức, quản lý con người- XH đối với kinh tế.
Sự tác động của Ctrị đối với kinh tế trong lịch sử cho thấy có thể theo hai hướng: Tác động cùng
chiều với sự phát triển kinh tế, khi đó Ctrị có vai trò tiêu cực, thúc đẩy phát triển lực lượng sản xuất và
phân công lao động XH theo hướng chuyên môn hóa, hợp tác hóa. Tác động ngược chiều với sự phát
triển kinh tế, khi đó Ctrị là vật cản đối với sự phát triển kinh tế.
Vai trò tác động của Ctrị đối với kinh tế không chỉ dừng lại ở đó. Trong nhiều trường hợp dù đã có
quyết sách Ctrị đúng đắn (phản ánh đúng thực trạng và qui luật khách quan của kinh tế), nhưng trình độ


năng lực tổ chức chỉ đạo thực tiễn phương thức hoạt động của hệ thống Ctrị không vươn tới ngang tầm
với nhiệm vụ Ctrị đề ra, thì Ctrị vẫn có thể cản trở kinh tế hoặc để cho kinh tế phát triển chệch hướng, trái
với đường lối Ctrị đã lựa chọn. Vì thế Ctrị cũng phải tự đổi mới, phải có cơ cấu tổ chức, phương thức hoạt
động, thiết chế vận hành phù hợp với cơ sở kinh tế.
Thực hiện đổi mới kinh tế và đổi mới Ctrị Đảng ta khẳng định phải “Kết hợp chặt chẽ ngay từ đầu
đổi mới kinh tế với đổi mới Ctrị” bởi vì: theo quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin thì giữa kinh tế và Ctrị
có mối quan hệ biện chứng. Phải giải quyết tốt mối quan hệ giữa đổi mới kinh tế với đổi mới Ctrị. Đổi
mới kinh tế nhằm giải phóng lực lượng sản xuất, phát huy mọi tiềm năng trong XH để tạo ra năng suất
cao, hàng hóa nhiều đáp ứng nhu cầu cần thiết của nhân dân, tạo ra cơ sở vững chắc để đổi mới Ctrị.
Ngược lại đổi mới Ctrị sẽ củng cố và phát huy những thành tựu của đổi mới về kinh tế. Tuy nhiên bước đi
của từng lĩnh vực có khác nhau, nhưng trong bất kỳ trường hợp nào cũng phải đảm bảo sự ổn định về Ctrị,
tránh tình trạng hỗn loạn như đã xảy ra ở một số nước trong thời gian qua.
Đổi mới kinh tế và Ctrị , đây là hai mặt cơ bản nhất của XH, là sự nghiệp đầy khó khăn và phức
tạp, là quá trình vừa làm vừa tìm tòi sáng tạo. Do vậy, phải thấy rõ mối quan hệ giữa hai lĩnh vực đó để có

những bước đi thích hợp, tác động hỗ trợ lẫn nhau.
Qua phân tích trên ta thấy rằng bài học do Đảng ta nêu “Kết hợp chặt chẽ ngay từ đầu đổi mới kinh tế với
đổi mới Ctrị, lấy đổi mới kinh tế làm trọng tâm, đồng thời từng bước đổi mới Ctrị” đó chính là nắm vững
và vận dụng đúng đắn mối quan hệ biện chứng giữa Ctrị với kinh tế theo chủ nghĩa Mác-Lênin vào trong
thực tiễn. Đây là vấn đề có ý nghĩa rất quan trọng trong công cuộc đổi mới đất nước ta hiện nay và cụ thể
hóa bài học đó ra như sau:
- Trước hết, phải kiên trì đường lối đổi mới và đổi mới có nguyên tắc. Kiên trì đường lối đổi mới chủ
nghĩa XH và đây là con đường duy nhất đúng để chủ nghĩa XH tồn tại và phát triển, nhưng phải giữa
nguyên tắc trong quá trình tiến hành đổi mới đó là: giữ vững định hướng, mục tiêu XH chủ nghĩa, giữ
vững chủ nghĩa Mác-Lênin, giữ vững vai trò lãnh đạo của Đảng cộng sản, phát huy dân chủ XH chủ
nghĩa.
- Thứ hai, là phải tiến hành đổi mới toàn diện, đồng bộ giữa các lĩnh vực đời sống XH, nhưng phải có
bước đi thích hợp trong mỗi thời kỳ. Phải giải quyết tốt mối quan hệ biện chứng giữa đổi mới kinh tế với
đổi mới Ctrị.
- Thứ ba, là mở rộng và phát huy dân chủ XH chủ nghĩa cùng với cải cách kinh tế. Đây là một khâu
trọng yếu của công cuộc đổi mới, trong đó dân chủ trên lĩnh vực kinh tế phải được coi là mắt khâu trọng
yếu trong quá trình dân chủ hóa vì kinh tế là nền tảng của đời sống XH.
- Thứ tư, là đổi mới phải bắt đầu từ Đảng. Xét đến cùng điều kiện quyết định để giành thắng lợi là
Đảng phải tự đổi mới, vì Đảng là người khởi xướng và lãnh đạo công cuộc đổi mới và là lãnh tụ Ctrị của
toàn XH.
Thứ năm là phải hết sức khách quan và thận trọng trong khi phân tích, đánh giá lịch sử, trong quá trình đổi
mới.
Tóm lại, bài học trên yêu cầu chúng ta phải nắm vững mối quan hệ biện chứng giữa Ctrị với kinh tế,
vận dụng đúng đắn mối quan hệ đó trong thực tiễn là một trong những vấn đề có ý nghĩa quan trọng trong
công cuộc đổi mới đất nước ta hiện nay./.



×