Tải bản đầy đủ (.pdf) (217 trang)

Phát triển kinh tế tri thức ở việt nam trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.51 MB, 217 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ - LUẬT
******************

NGUYỄN SƠN HOA

PHÁT TRIỂN KINH TẾ TRI THỨC Ở VIỆT NAM
TRONG ĐIỀU KIỆN HỘI NHẬP KINH TẾ QUỐC TẾ

LUẬN ÁN TIẾN SỸ KINH TẾ

TP. HỒ CHÍ MINH - 2012


ĐẠI HỌC QUỐC GIA THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ - LUẬT
******************

NGUYỄN SƠN HOA

PHÁT TRIỂN KINH TẾ TRI THỨC Ở VIỆT NAM
TRONG ĐIỀU KIỆN HỘI NHẬP KINH TẾ QUỐC TẾ
Chun ngành : Kinh tế chính trị
Mã số
: 62.31.01.01
Phản biện 1 : PGS.TS Hồ Trọng Viện, Trường ĐH Kỹ Thuật Cơng nghệ Tp.HCM
Phản biện 2 : TS Nguyễn Minh Tuấn, Trường ĐH Kinh tế Tp.HCM
Phản biện 3 : TS Đinh Sơn Hùng, Viện nghiên cứu phát triển Tp.HCM
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC


PGS,TS. Nguyễn Văn Trình

Phản biện độc lập 1 : GT.TS Nguyễn Thanh Tuyền, Trường ĐH Kinh tế -Tài chính
Tp.HCM
Phản biện độc lập 2 : TS Trần Du Lịch, Phó đồn đại biểu quốc hội Tp.HCM

TP. HỒ CHÍ MINH - 2012


- ii -

LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu trong luận án là
trung thực. Những kết luận khoa học của luận án chưa được ai công bố trong bất kỳ công
trình nào trước đây.

TÁC GIẢ

NGUYỄN SƠN HOA


- iii -

MỤC LỤC
Trang
Trang phụ bìa…………………………………………………………………………...….i
Lời cam đoan………………………………………………………………………….......ii
Mục lục.…………………………………………………………………………………..iii
Danh mục các chữ viết tắt………………………………………………………………..vii
Danh mục các bảng…………………………………………………………………….....ix

Danh mục các sơ đồ, biểu đồ……………………………………………………………...x
MỞ ĐẦU………………………………………………………………………………...01
Chương 1 : CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ KINH TẾ TRI THỨC…………………………..05
1.1 Những vấn đề lý luận về tri thức…...……………………………………………08
1.1.1 Khái niệm, và đặc điểm của tri thức…………………………………….……08
1.1.2 Vai trò của tri thức đối với phát triển và vấn đề quản lý tri thức……….…….13
1.2 Kinh tế Tri thức và quá trình phát triển Kinh tế Tri thức………………….….19
1.2.1 Khái quát về sự xuất hiện và phát triển của Kinh tế Tri thức…………….......19
1.2.2 Khái niệm về Kinh tế Tri thức………………………………………….…….21
1.2.3 Những nhân tố tác động đến sự ra đời và phát triển kinh tế tri thức….……….23
1.2.4 Đặc trưng chủ yếu của nền kinh tế tri thức…………………………………..30
1.3 Đo lường mức độ phát triển Kinh tế Tri thức………………………………….45
1.3.1 Hệ thống chỉ tiêu đo lường kinh tế tri thức của Ngân hàng thế giới (WB)……45
1.3.2 Hệ thống chỉ tiêu đo lường kinh tế tri thức của APEC………………….……46
1.3.3 Hệ thống chỉ tiêu đo lường kinh tế tri thức của các nước OECD……….……46
1.3.4 Theo các tác giả chuyên đề “Nền kinh tế phi vật thể”………………….…..47
1.3.5 Theo công trình của các nhà nghiên cứu Mỹ và Bồ Đào Nha ………….……47
(P.Conceicao, M.V. Heitor, D.V. Gibson, S.S Shariq, TFSC, 1998)
1.3.6 Theo bảng chỉ số Gifford ………………………………………………….…48
1.4 Phát triển kinh tế tri thức trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế …….…...48
1.4.1 Tác động của hội nhập đến phát triển kinh tế tri thức ………………………...48
1.4.2 Hội nhập kinh tế quốc tế thúc đẩy hơn nữa quá trình công nghiệp hóa, hiện
đại hóa ở các nước đang phát triển dẫn đến tất yếu phát triển kinh tế tri thức….……57
1.5 Kinh nghiệm phát triển kinh tế tri thức ở một số nước trên thế giới………......59


- iv -

và bài học cho những nước đi sau
1.5.1 Phát triển kinh tế tri thức ở Mỹ ………………………………………...….....60

1.5.2 Phát triển kinh tế tri thức ở một số nước EU………………………….….…..63
1.5.3 Phát triển kinh tế tri thức ở Nhật Bản………………………………………...65
1.5.4 Phát triển kinh tế tri thức ở một số quốc gia điển hình khác……………….....67
1.5.5 Những bài học về phát triển kinh tế tri thức cho những nước đi sau cũng như
cho Việt Nam………………………………………………………………………...71
Tổng kết chương 1………………………………………………………………….77
Chương 2 : THỰC TRẠNH KINH TẾ XÃ HỘI VIỆT NAM TRÊN CON ĐƯỜNG
TIẾN ĐẾN NỀN KINH TẾ TRI THỨC…….…..…………………...…..78
2.1 Thực trạng phát triển kinh tế Việt Nam dưới góc độ của nền kinh tế tri thức...78
2.1.1 Những

chỉ

số

phát

triển

kinh

tế

-



hội




bản

của

Việt

Nam…………….……...78
2.1.2 Tình hình phát triển kinh tế tri thức của Việt Nam qua một số chỉ tiêu cơ bản
của Ngân hàng Thế Giới …………………………………………………………81
2.1.3 Đánh giá thực trạng phát triển kinh tế tri thức của Việt Nam qua yếu tố năng
suất tổng hợp…………………………………………………………………….106
2.2 Những điểm sáng trong quá trình tiếp cận và phát triển kinh tế trên nền tảng
kinh tế tri thức ở Việt Nam ………………………….…………………………...112
2.2.1 Những điểm sáng tiếp cận phát triển kinh tế tri thức trong lĩnh vực nông…113
nghiệp
2.2.2 Những thành tựu trong lĩnh vực công nghệ thông tin……………………...…120
2.2.3 Những đơn vị phát triển dựa vào tri thức……………………………………..121
2.2.4 Những khu công nghệ cao …………………………………………………...124
2.3 Những hạn chế trong tiếp cận và phát triển kinh tế tri thức ở Việt Nam thời
gian qua và nguyên nhân………………………………………………………123
2.3.1 Thiếu vắng một chiến lược tổng thể về xây dựng và phát triển kinh tế tri
thức tận dụng tối đa điều kiện hội nhập quốc tế……………………………...123
2.3.2 Các điều kiện vật chất - kỹ thuật để phát triển kinh tế tri thức vẫn còn thiếu
và yếu trên nhiều phương diện………………………………………………..127
2.3.3 Trình độ phát triển kinh tế thị trường còn thấp……………………………….129
2.3.4 Tính sẵn sàng cho hội nhập và phát triển chưa cao………………………..…130
Tổng kết chương 2…………………………………………………………………133



-v-

Chương 3 : QUAN ĐIỂM VÀ CÁC GIẢI PHÁP TIẾP CẬN ĐỂ PHÁT TRIỂN KINH
TẾ TRI THỨC Ở VIỆT NAM TRONG ĐIỀU KIỆN HỘI NHẬP KINH
TẾ QUỐC TẾ …………………………………………………………...135

3.1 Những thuận lợi, khó khăn, cơ hội và thách thức dưới góc độ phát triển kinh tế
tri thức ở nước ta trong điều kiện hội nhập quốc tế…………………………...135
3.1.1 Những Thuận lợi trong phát triển kinh tế tri thức ở Việt Nam.………………135
3.1.2 Những khó khăn bất lợi trong quá trình xây dựng và phát triển kinh tế tri
thức ở Việt Nam trong điều kiện hội nhập quốc tế………………………..….139
3.1.3 Những cơ hội để xây dựng và phát triển kinh tế tri thức cở Việt Nam trong điều
kiện hội nhập quốc tế……………………………….…………………..….139
3.1.4 Những thách thức trong quá trình xây dựng và phát triển kinh tế tri thức ở Việt
Nam trong điều kiện hội nhập quốc tế…………………..……………..….140
3.2 Những quan điểm chủ yếu để tiếp cận và phát triển kinh tế tri thức ở Việt Nam
trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế………………………………………141
3.2.1 Phát triển kinh tế tri thức phải bền vững và đạt được sự đồng thuận………...141
3.2.2 Tận dụng thời cơ hội nhập quốc tế, phát huy năng lực nội tại kết hợp với
nguồn lực bên ngoài cho phát triển kinh tế tri thức………………………….143
3.2.3 Phát triển kinh tế tri thức để tạo đột phá ở những vùng, miền và ngành nghề
trọng điểm có sức ảnh hưởng lớn làm động lực phát triển cho toàn ngành và
khu vực……………………………………………………………….……...144
3.2.4 Phát triển kinh tế tri thức và công nghiệp hóa hiện đại hóa là hai mục tiêu
không tách rời trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế………………….…145
3.2.5 Mô hình học hỏi và đường lối phát triển…………...………………………...148
3.3 Phương hướng, mục tiêu tiếp cận và phát triển kinh tế tri thức giai đoạn 20112020 và định hướng 2030……………………….………………………….…….152
3.3.1 Phương hướng tiếp cận và phát triển kinh tế tri thức ở Việt Nam .…………152
3.3.2 Những mục tiêu chủ yếu trên con đường tiếp cận và phát triển kinh tế tri thức
Việt Nam đến 2020 và tầm nhìn 2030…………………………………...…154

3.4 Nhóm giải pháp chủ yếu tiếp cận và phát triển kinh tế tri thức ở Việt Nam trong
giai đoạn 2011-2020 và tầm nhìn 2030………………………….………………...156
3.4.1 Nhóm giải pháp về môi trường kinh doanh và hệ thống đổi mới……..….…156
3.4.2 Giải pháp cho giáo dục và đào tạo………………………………………...162
3.4.3 Xây dựng cơ sở hạ tầng ICT phát triển và ứng dụng rộng rãi trong các lĩnh


- vi -

vực kinh tế xã hội……………………………………………………………167
3.4.4 Phát triển nền khoa học và công nghệ, đổi mới quản lý đối với khoa học
và công nghệ của quốc gia, tạo động lực phát triển kinh tế tri thức………...174
3.4.5 Tăng cường khai thác tri thức của thế giới……………..………………...…181
Tổng kết chương 3………………………………………………………………....182
KẾT LUẬN….………………………………………………………………..………..183
DANH MỤC CÔNG TRÌNH CỦA TÁC GIẢ
TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC


- vii -

DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
ADB

: Ngân hàng phát triển châu Á.

AFTA

: Khu vực mậu dịch tự do ASEAN.


APEC

: Diễn đàn hợp tác kinh tế Châu Á – Thái Bình Dương

ASEAN

: Hiệp hội các nước Đông Nam Á.

CN-XH

: Chủ nghĩa Xã hội.

CNH-HĐH

: Công nghiệp hóa - Hiện đại hóa

CNTT-TT

: Công nghệ thông tin - Truyền thông

DNNN

: Doanh nghiệp nhà nước

EU

: Liên minh Châu Âu

EC


: Ủy ban Châu Âu

FDI

: Đầu tư nước ngoài trực tiếp.

GDP

: Tổng thu nhập quốc nội

GNP

: Tổng sản phẩm quốc gia.

HDI

: Chỉ số phát triển con người.

ICOR

: Hệ số số sử dụng vốn, hay hệ số đầu tư tăng trưởng

ICT

: Công nghệ thông tin và truyền thông

IMF

: Quỹ tiền tệ quốc tế.


IT

: Công nghệ Thông tin

ILO

: Tổ chức Lao động Quốc tế

KHCN

: Khoa học - Công nghệ

KT-XH

: Kinh tế - Xã hội

KTTT

: Kinh tế Tri thức.

NICs

: Các nước công nghiệp mới.

OECD

: Tổ chức Hợp tác và Phát triển kinh tế

R&D


: Nghiên cứu và phát triển

SEV

: Hội đồng tương trợ kinh tế

SX-KD

: Sản xuất - Kinh doanh

TCTK

: Tổng cục Thống kê


- viii -

TW

: Trung ương

XHCN

: Xã hội chủ nghĩa

TFP

: Năng suất các yếu tố tổng hợp.


UNDP

: Chương trình phát triển của Liên hợp quốc.

UNESCO

: Tổ chức Giáo dục, Khoa học và Văn hóa Liên Hiệp Quốc

WEF

: Diễn đàn kinh tế thế giới.

WTO

: Tổ chức thương mại thế giới.

WB

: Ngân hàng Thế giới.

WoldBank

: Ngân hàng Thế giới.


- ix -

DANH MỤC CÁC BẢNG
TT


TÊN BẢNG

01

Bảng 1.1 Cơ cấu kinh tế trong GDP của toàn cầu

02

Bảng 1.2 Tỷ trọng chi tiêu cho giáo dục một số nước năm 2007

03

Bảng 1.3: Các tiêu chí phân biệt giữa kinh tế công nghiệp và kinh tế tri thức

04

06

Bảng 1.4 Chỉ số phát triển kinh tế tri thức của một số nước 2009
Bảng 2.1: Tăng trưởng GDP và đóng góp vào tăng trưởng GDP theo ngành giai
đoạn 2005-2009
Bảng 2.2: Bảng xếp hạng chỉ số kinh tế tri thức 2009

07

Bảng 2.3 Các thông số tính Kei của Việt Nam 2009 và 1995

08

Bảng 2.4 FDI phân theo ngành kinh tế năm 2009

Bảng 2.5 Môi trường kinh doanh và thể chế của Việt Namvà một số quốc gia, vùng
lãnh thổ - 2009
Bảng 2.6 Chỉ số chất lượng giáo dục ở một số nước châu Á 2005

05

09
10
11

13

Bảng 2.7 Chỉ số phát triển con người HDI của Việt Nam và một số nước
Bảng 2.8 Xếp hạng về đào tạo của Việt Nam và một số quốc gia, vùng lãnh thổ 2009
Bảng 2.9 Giá trị công nghiệp công nghệ thông tin Việt nam 2002-2006

14

Bảng 2.10 Tình hình sử dụng Internet của Việt Nam đến 05/2009

15

Bảng 2.11: Xếp hạng ICT Việt Nam và một số quốc gia, vùng lãnh thổ - 2009

16

Bảng 2.12 Các chỉ tiêu đánh giá hệ thống đổi mới -2009

17


Bảng 2.13 So sánh hệ thống đổi mới của Việt Nam và một số nước 2009

18

Bảng 2.14 Tốc độ tăng TFP của Việt Nam giai đoạn 2000-2007

19

Bảng 2.15 Tỷ trọng đóng góp của các yếu tố tới tăng trưởng GDP (2000-2010)
Bảng 2.16 Đóng góp của tăng TFP vào tăng trưởng GDP của Việt Nam và một số
nước thuộc OECD giai đoạn 2001 - 2006
Bảng 2.17 Thị trường công nghệ thông tin Việt Nam 2000-2007

12

20
21


-x-

DANH MỤC CÁC HÌNH VẼ, BIỂU ĐỒ, SƠ ĐỒ
TT

TÊN HÌNH VẼ BIỂU ĐỒ, SƠ ĐỒ

01

Hình 1.1 Quá trình nhận thức


02

04

Hình 1.2 Tỷ trọng thương mại /GDP Đông Á Thái bình dương và Toàn cầu
Hình 1.3 Khoảng cách phát triển do khoảng cách tri thức giữa Mexico và Hàn
Quốc
Hình 1.4 So sánh tốc độ gia tăng nhanh chóng của đầu tư R&D của một số nước

05

Hình 1.5 So sánh năng suất lao động giờ công giai đoạn 1990-2008

06

Hình 1.6 Tổng vốn đầu tư mạo hiểm của Mỹ giai đoạn 2008-2010

07

09

Hình 1.7 Chi phí giáo dục của Mỹ giai đoạn 1990-2019
Hình 1.8 Thu nhập cao và sự dich chuyển nguồn nhân lực kỹ thuật cao giữa các
quốc gia
Hình 1.9 Tỷ trọng sản xuất công nghệ cao trong nền kinh tế

10

Hình 1.10 Tỷ trọng đóng góp ITC trong GDP của EU27


11

Hình 1.11 Tỷ trọng ITC vào GDP của Nhật, EU27, Mỹ

12

Hình 2.1 Cơ cấu GDP theo giá thực tế phân theo khu vực kinh tế 2000-2009

13

Hình 2.2 Kinh tế tri thức Việt Nam-Đông Á-Thái bình dương-Tây Âu 2009

14

16

Hình 2.3 Đầu tư FDI giai đoạn 2001-2009
Hình 2.4 FDI thực hiện trong tổng đầu tư xã hội và đóng góp của khu vực có vốn
đầu tư nước ngoài trong GDP
Hình 2.5 Trình độ học vấn của lực lượng lao động 1998,2003,2008

17

Hình 2.6 Tỷ trọng lao động đã qua đào tạo 2008

18

Hình 2.7 Số máy tính và truyền hình màu/100 dân

19


Hình 2.8 Số thuê bao điện thoại cố định/100 dân

20

22

Hình 2.9 Tốc độ tăng trưởng GDP và hệ số ICOR của Việt Nam, 1991-2009
Hình 2.10 Khoảng cách phát triển do khoảng cách tri thức của Việt Nam và
Malaysia
Hình 2.11 Thị trường công nghệ thông tin Việt Nam 1996-2000

23

Hình 3.1 Các mạng lưới phân công sản xuất lưu thông quốc tế điển hình

03

08

15

21


-1-

MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Kinh tế tri thức là một khái niệm mới. Khái niệm này là nhân lõi của một hệ phạm

trù đang hình thành nhưng phát triển rất nhanh chóng trong đời sống thực tế và cả trong lý
luận. Về nội hàm, kinh tế tri thức phản ánh một trình độ rất cao trong các nấc thang phát
triển kinh tế của loài người. Đây là trạng thái mới về chất so với các trạng thái đã từng có
trong lịch sử. Trong nhiều công trình nghiên cứu, nó được coi là tương ứng với và là cơ sở
nền tảng của nền văn minh mới của nhân loại.
Lúc mới ra đời, xuất phát từ các tiêu chí đánh giá khác nhau, kinh tế tri thức cũng
như các sự kiện lớn trong đời sống nhân loại đều được nhận thức, đánh giá và có thái độ
quan điểm khác nhau. Hiện nay xu hướng phát triển kinh tế tri thức đang tác động ngày
càng sâu rộng trên mọi khía cạnh, lĩnh vực của đời sống nhân loại; có thể nói kinh tế tri
thức vừa là mục tiêu vừa là xu thế phát triển tất yếu của xã hội loài người trong tương lai
gần.
Kinh tế tri thức được xác định chính là cánh cửa mở ra cho các nền kinh tế đang
phát triển tiếp cận và rút ngắn khoảng cách với các nước phát triển nếu biết đón bắt và tận
dụng cơ hội. Ngược lại, kinh tế tri thức cũng tạo ra thách thức lớn hơn bao giờ hết đối với
các nước đang phát triển, đó là nguy cơ tụt hậu, đó là khoảng cách ngày càng gia tăng về
trình độ phát triển với các nước phát triển.
Hiện nay, mặc dù cơ sở lý luận và thực tiễn của kinh tế tri thức còn nhiều vấn đề
phải tiếp tục nghiên cứu và hoàn thiện, tuy nhiên, hầu hết các nước phát triển, nhiều nước
đang phát triển và một số nước kém phát triển đã chấp nhận kinh tế tri thức như một con
đường phát triển tất yếu. Các quốc gia này đã, đang soạn thảo xong, cũng như đang bắt tay
vào thực hiện các chiến lược nhằm đưa kinh tế tri thức trở thành mục tiêu phát triển quốc
gia.
Trong bối cảnh đó ở nước ta, sau nhiều tranh luận, đã có sự nhất trí xây dựng nền
kinh tế theo hướng tri thức hóa dần các công đoạn của quá trình sản xuất hàng hóa và dịch
vụ trên mọi lĩnh vực của đời sống kinh tế - xã hội, như Báo cáo Chính trị của Đảng lần thứ
IX đã chỉ rõ : “…Phát triển những lợi thế của đất nước, tận dụng mọi khả năng để đạt
trình độ công nghệ tiên tiến, đặc biệt là công nghệ thông tin và công nghệ sinh học, tranh
thủ ứng dụng ngày càng nhiều hơn, ở mức cao hơn và phổ biến hơn những thành tựu mới
về khoa học và công nghệ, từng bước phát triển kinh tế tri thức…”. Hơn nữa trong Báo
cáo còn xác định mục tiêu cụ thể đến năm 2020 phấn đấu GDP của Việt Nam sẽ do trên

50% tri thức tạo ra, với trên 1/3 lực lượng lao động là công nhân tri thức. Quan điểm này


-2-

cũng đã được nhấn mạnh tại đại hội Đảng X : “sớm đưa nước ta ra khỏi tình trạng kém
phát triển.... Tạo được nền tảng để đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá và phát triển
kinh tế tri thức, đưa nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại
vào năm 2020”. Một lần nữa, văn kiện đại hội Đảng lần thứ XI, một kỳ đại hội được đánh
giá là then chốt cho những bước phát triển tiếp theo của đất nước giai đoạn 2011-2020 đã
xác định bối cảnh hội nhập quốc tế và xu thế phát triển kinh tế tri thức trên thế giới và
nhấn mạnh, cụ thể hóa hơn nữa mục tiêu : ”Chú trọng phát triển các ngành, lĩnh vực khoa
học, công nghệ làm nền tảng cho phát triển kinh tế tri thức, như: công nghệ thông tin,
công nghệ sinh học, công nghệ vật liệu mới, công nghệ môi trường.... Tỷ lệ lao động nông
nghiệp khoảng 30% lao động xã hội. Yếu tố năng suất tổng hợp đóng góp vào tăng trưởng
đạt ít nhất 35%”.
Sự vận dụng và phát triển kinh tế tri thức vào một quốc gia hay một địa phương
đều có những đặc điểm riêng về kinh tế, văn hóa, chính trị, xã hội. Bởi vậy, trên bình diện
của mỗi quốc gia, cơ sở những quan điểm, mục tiêu và giải pháp trên phạm vi cả nước và
các vùng trọng điểm phải xác định phù hợp thì mới hy vọng tìm ra giải pháp cho riêng
mình nhằm đạt được hiệu quả.
Trong chiến lược phát triển nền kinh tế theo mô hình công nghiệp hóa, hiện đại
hóa rút ngắn của vài thập niên tới, làm cho nhiệm vụ xây dựng chương trình hành động
nhằm hình thành và phát triển nền kinh tế tri thức của Việt Nam trở nên đặc biệt cấp bách,
thậm chí là rất gay gắt. Hơn nữa, trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế, kinh tế tri thức
ngày càng phát triển mạnh mẽ và đóng góp vai trò quan trọng trong quá trình phát triển
của thế giới, đó là thách thức lớn đối với nước ta, song cơ hội lớn cũng nằm trong thách
thức đó. Vì thế, mặc dù vẫn còn là một nước đang phát triển, chúng ta không thể không
tính đến tìm một lối đi tiến nhanh vào nền kinh tế tri thức theo cách của mình, trong hoàn
cảnh và đặc điểm của mình, theo chiến lược và bước đi phù hợp với trình độ hiện có.

Trong điều kiện đó, trên tầm nhìn dài hạn, phát triển nền kinh tế tri thức phải được coi là
nhiệm vụ mang tính sống còn đối với tương lai của Việt Nam. Vì vậy, chúng tôi chọn đề
tài: “PHÁT TRIỂN KINH TẾ TRI THỨC Ở VIỆT NAM TRONG ĐIỀU KIỆN HỘI
NHẬP KINH TẾ QUỐC TẾ” làm đề tài luận án tiến sỹ chuyên ngành Kinh tế Chính trị.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Liên quan đến luận án, xin giới thiệu khái quát một số công trình, đề tài khoa học
đã và đang nghiên cứu có liên quan của một số nhà khoa học và các tác giả tiêu biểu như
sau :


-3-

Thứ nhất, Nghiên cứu của Thế Trường cho rằng thế kỷ XXI là thời đại của kinh tế
tri thức và mỗi con người nhất là lớp trẻ bước vào thế kỷ XXI cần phải trang bị cho mình
những kiến thức, tri thức để bước vào thời đại đó được thể hiện trong tác phẩm: Hành
trang thời đại kinh tế tri thức, xuất bản năm 2004 và tái bản năm 2005. Trong cuốn sách
này, nội dung chủ yếu nghiên cứu về những thách đố đặt ra của thế kỷ XXI, tác giả cho
rằng đây là thời đại kinh tế tri thức, những năng lực cần có để dẫn đến thành công, mỗi
con người trong thời đại đó cần phải có năng lực, tầm nhìn của thời đại và trang bị cho
mình một hành trang cần thiết để bước vào thời đại kinh tế tri thức. Như vậy, nghiên cứu
này đề cập đến xu thế thời đại kinh tế tri thức mà chưa giải quyết được vấn đề về lý luận
và thực tiễn phát triển của nền kinh tế tri thức.
Thứ hai, tác phẩm Kinh tế tri thức ở Việt Nam - Quan điểm và giải pháp, TS. Vũ
Trọng Lâm chủ biên, xuất bản năm 2004. Đây là một trong những công trình lớn nghiên
cứu về kinh tế tri thức với các cơ sở lý luận về kinh tế tri thức, kinh nghiệm phát triển kinh
tế tri thức của một số nước và đề ra các quan điểm, mục tiêu và giải pháp chủ yếu phát
triển kinh tế tri thức ở Việt Nam cũng như đề xuất xây dựng và phát triển kinh tế tri thức
trên địa bàn thủ đô Hà Nội. Tuy nhiên, do thời điểm của nghiên cứu là thời điểm mà nước
ta chưa hội nhập sâu rộng vào nền kinh tế thế giới, nên nghiên cứu ít có những dẫn chứng
số liệu lượng hóa làm cơ sở minh chứng cho những giải pháp. Những giải pháp cho Việt

Nam trong tác phẩm này phần lớn làm cơ sở cho xây dựng và phát triển kinh tế tri thức
trên địa bàn thủ đô Hà Nội. Do vậy, vấn đề phát triển kinh tế tri thức ở Việt Nam trong bối
cảnh hội nhập kinh tế quốc tế chưa được nghiên cứu một cách thấu đáo.
Thứ ba, tác phẩm Kinh tế tri thức thời cơ và thách thức đối với sự phát triển của
Việt Nam của GS.VS. Đặng Hữu, xuất bản năm 2004. Đây là một công trình nghiên cứu
lớn về sự hình thành và phát triển của kinh tế tri thức, kinh nghiệm của một số nước và từ
đó đưa ra quan điểm phát triển kinh tế tri thức là thời cơ cho kinh tế Việt Nam và rút ngắn
quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Tuy nhiên, cũng giống như các nghiên
cứu trước đó, thời điểm nghiên cứu là những năm 2003, 2004, khi mà Việt Nam chưa thực
sự hội nhập quốc tế một cách sâu rộng và nghiên cứu trên đi sâu vào mục tiêu rút ngắn
công nghiệp hóa, hiện đại hóa là một phần quan trọng nhưng chưa phải là nghiên cứu phát
triển mang tính toàn diện của nền kinh tế tri thức.
Thứ tư, tác phẩm Môi trường xã hội nền kinh tế tri thức - những nguyên lý cơ bản”
của PGS.TS Trần Cao Sơn, xuất bản năm 2004. Đây là nghiên cứu chuyên sâu về môi
trường xã hội cho phát triển kinh tế tri thức, từ đó tác giả rút ra những nguyên lý cơ bản để
kinh tế tri thức có thể hoạt động và phát triển được và đề xuất việc tạo lập môi trường nền


-4-

kinh tế tri thức ở nước ta. Đây là một nghiên cứu thuần lý luận về môi trường xã hội cho
nền kinh tế tri thức nói chung và ứng dụng cho Việt Nam nói riêng.
Thứ năm, tác phẩm Phát triển kinh tế tri thức đẩy nhanh quá trình công nghiệp
hóa hiện đại hóa ở Việt Nam, GS.TS Nguyễn Kế Tuấn chủ biên, xuất bản năm 2004. Tác
giả nghiên cứu về mối liên hệ giữa kinh tế tri thức với công nghiệp hóa, hiện đại hóa và từ
đó nghiên cứu chỉ ra những điều kiện cơ bản nhằm từng bước phát triển kinh tế tri thức ở
Việt Nam. Đây là nghiên mang tính lý luận và chỉ ra những điều kiện cơ bản cho phát
triển kinh tế tri thức của Việt Nam.
Thứ sáu, tác phẩm Hướng đến nền kinh tế tri thức ở Việt Nam của GS.TS. Nguyễn
Thanh Tuyền, xuất bản năm 2002. Tác giả nghiên cứu tổng quan về nền kinh tế tri thức,

tác động của xu thế phát triển kinh tế tri thức đối với thế giới và Việt Nam, sự phát triển
nền kinh tế tri thức trên thế giới và bài học kinh nghiệm, hiện trạng kinh tế xã hội trên con
đường tiến đến nền kinh tế tri thức ở Việt Nam. Từ đó đưa ra những quan điểm, mục tiêu
và bước đi tiến đến kinh tế tri thức ở Việt Nam, những giải pháp về nền kinh tế kỹ thuật
tạo nền móng để tiến đến nền kinh tế tri thức ở Việt Nam, giải pháp về giáo dục và đào
tạo, chính sách vĩ mô. Đây là một nghiên cứu công phu và những lý luận mang tính thực
tiễn cao, đồng thời tác giả cũng đã đưa ra những quan điểm mục tiêu khá thực tiễn nhằm
tạo nền móng để tiến đến nền kinh tế tri thức ở Việt Nam. Tuy nhiên, thời điểm nghiên
cứu là những năm 2002, khi mà Việt Nam chưa thực sự hội nhập quốc tế một cách sâu
rộng và cho đến nay cần những bổ sung mới để phù hợp với điều kiện và hoàn cảnh mới
của nước ta.
Vấn đề phát triển kinh tế tri thức ở Việt Nam trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc
tế có tính thời sự cao, có ý nghĩa sâu sắc về mặt lý luận và thực tiễn đặt ra. Những đóng
góp và nghiên cứu của các nhà khoa học về các vấn đề trên đã góp phần làm sáng tỏ hay
gợi lên những vấn đề bức xúc cần giải quyết để phát triển kinh tế tri thức ở nước ta. Tuy
nhiên, những công trình nêu trên chỉ nghiên cứu một khía cạnh phát triển kinh tế tri thức,
gợi lên những cơ hội, thách thức cho phát triển kinh tế tri thức hay chỉ là những vấn đề lý
luận minh chứng cho việc Việt Nam cần thiết phải phát triển kinh tế tri thức. Một phần, do
thời điểm của những nghiên cứu trước đây, khi mà nước ta chưa hội nhập sâu rộng kinh tế
quốc tế cũng như bối cảnh toàn cầu hóa như ngày nay, nên những nghiên cứu trên chưa đề
cập một cách toàn diện về phát triển kinh tế tri thức trong bối cảnh hội nhập quốc tế.
3. Mục đích nghiên cứu
Luận án tập trung nghiên cứu và giải quyết các vấn đề sau:


-5-

Thứ nhất, các tiêu chí đo lường mức độ phát triển của kinh tế tri thức, sự cần thiết
và những tác động của việc chuyển đổi sang nền kinh tế tri thức trong điều kiện hội nhập
kinh tế quốc tế.

Thứ hai, nghiên cứu thực trạng phát triển kinh tế của nước ta trong thời gian qua
dưới giác độ của của kinh tế tri thức, hàm lượng tri thức đóng góp cho nền kinh tế trong sự
so sánh với khu vực và thế giới, từ đó rút ra những mặt mạnh và yếu của Việt Nam trên
con đường phát triển kinh tế tri thức, đồng thời khẳng định về mặt lý luận và thực tiễn
rằng, phát triển kinh tế tri thức là xu thế tất yếu đối với Việt Nam trong điều kiện hội nhập
kinh tế quốc tế.
Thứ ba, đánh giá những thuận lợi, khó khăn trên con đường xây dựng và phát triển
kinh tế của Việt Nam, từ đó đề ra những quan điểm, xác định định hướng, tầm nhìn và từ
đó đưa ra nhóm giải pháp phát triển kinh tế tri thức ở Việt Nam trong điều kiện hội nhập
kinh tế quốc tế.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu: Luận án nghiên cứu phát triển kinh tế tri thức ở Việt
Nam trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế ở hai mặt:
Thứ nhất, đánh giá nền kinh tế tri thức của Việt Nam đang phát triển ở mức nào
trong mức thang phát triển kinh tế tri thức của khu vực và thế giới, những mặt nào mạnh
cần phát huy và những điểm yếu cần khắc phục.
Thứ hai, phát triển kinh tế tri thức của Việt Nam trong điều kiện hội nhập kinh tế
quốc tế là con đường tất yếu của nền kinh tế nước ta nếu như không muốn tụt hậu.
- Phạm vi nghiên cứu:
+ Về không gian: Luận án nghiên cứu về phát triển kinh tế tri thức ở Việt Nam
trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế, bối cảnh mà mọi quốc gia đều phát triển theo xu
thế toàn cầu hóa và hội nhập kinh tế quốc tế.
+ Về thời gian: Thời gian những năm 2000 trở lại đây, khi mà hầu hết các quốc gia
đều nhận thấy phát triển kinh tế tri thức là cơ hội phát triển đất nước trong thế kỷ XXI,
thời điểm mà Đảng và Chính phủ biến chủ trương, mong muốn, trở thành hành động được
thể hiện tại văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX. Thời gian định hướng của luận
án được đề ra cho giai đoạn 2011-2020, khi mà những định hướng của luận án theo sát
chiến lược tổng thể phát triển Việt Nam đến 2015, định hướng 2020.
+ Giới hạn của nghiên cứu:
Thứ nhất, luận án nghiên cứu phát triển kinh tế tri thức của Việt Nam đặt trong bối

cảnh hội nhập kinh tế quốc tế, do đó, luận án chỉ đánh giá mức độ phát triển kinh tế tri


-6-

thức, tỷ trọng đóng góp của tri thức vào nền kinh tế trên bình diện quốc gia từ đó làm cơ
sở so sánh mức độ phát triển kinh tế tri thức với khu vực và thế giới, luận án không đi sâu
vào đánh giá mức độ phát triển kinh tế tri thức của các ngành hay khu vực kinh tế bởi lý
do số liệu cho đánh giá kinh tế tri thức trên bình diện toàn quốc gia còn thiếu, số liệu cho
đánh giá ở cấp ngành và khu vực kinh tế thì không thể có đủ.
Thứ hai, luận án chỉ dùng tiêu chí đánh giá kinh tế tri thức của Ngân hàng Thế giới
mà không so sánh tiêu chí này với tiêu chí của các tổ chức khác vì lý do, tiêu chí đánh giá
kinh tế tri thức của Ngân hàng Thế giới đưa ra được áp dụng trên toàn cầu, từ đó chúng ta
dễ có được cái nhìn tổng thể về trình độ phát triển kinh tế tri thức ở Việt Nam so với các
nước.
5. Phương pháp nghiên cứu và nguồn số liệu sử dụng
- Phương pháp nghiên cứu
Đề tài nghiên cứu của luận án thuộc về lĩnh vực kinh tế chính trị. Do đó, việc
nghiên cứu để phân tích và giải quyết các vấn đề trong luận án sử dụng nhiều phương
pháp khác nhau. Trong đó những phương pháp chủ yếu được sử dụng là phương pháp trừu
tượng hóa khoa học, phương pháp duy vật lịch sử, phương pháp phân tích tổng hợp, so
sánh đối chiếu, thống kê, phương pháp suy luận logic, phương pháp chuyên gia, phương
pháp quy nạp và diễn dịch…
Phương pháp trừu tượng hóa khoa học: Đây là phương pháp luận cơ bản của kinh
tế chính trị học Mác – Lênin nên luận án sử dụng phương pháp này là chủ yếu. Trên cơ sở
phương pháp trừu tượng hoá luận án nghiên cứu bản chất của kinh tế tri thức để làm sáng
tỏ kinh tế tri thức là sự phát triển về chất của các hoạt động kinh tế của xã hội loài người.
Nó là nấc thang cao nhất trong quá trình phát triển các hoạt động sản xuất, khi tất cả của
cải vật chất được sáng tạo ra đều do tri thức con người thực hiện. Phương pháp này cho
phép luận án tiếp cận nghiên cứu kinh tế của nước ta dưới giác độ của nền kinh tế tri thức

qua các tiêu chí đánh giá nền kinh tế tri thức của Ngân hàng Thế giới, từ đó thấy được
thực trạng những mặt yếu kém và những thành tựu của kinh tế tri thức của nước ta thông
qua những lĩnh vực: giáo dục đào tạo, công nghệ thông tin và truyền thông, môi trường
kinh doanh và thể chế cũng như hệ thống đổi mới, đóng góp của yếu tố tri thức cho nền
kinh tế, từ đó chúng ta mới tìm các giải pháp phát huy và khắc phục.
Phương pháp duy vật lịch sử: Phương pháp này cũng là một trong những phương
pháp luận cơ bản của kinh tế chính trị học Mác – Lênin, phương pháp này cho phép luận
án xác định quá trình phát triển kinh tế tri thức là quá trình phát triển lâu dài, từ thấp lên


-7-

cao theo từng nấc thang của lịch sử loài người. Qua quá trình phát triển đó, không ít những
thành công và thất bại trong quá trình phát triển kinh tế tri thức đã được đúc kết.
Phương pháp phân tích tổng hợp, so sánh đối chiếu, thống kê: cơ sở lý luận được
soi sáng bởi những phân tích và tổng hợp so sánh qua những số liệu thống kê của các quốc
gia trên thế giới và của Việt Nam. Qua đó, chúng ta thấy được Việt Nam đang ở đâu của
nấc thang phát triển kinh tế tri thức, những chiến lược thành công của các quốc gia qua
những số liệu thống kê, so sánh sẽ minh chứng cho việc lựa chọn giải pháp nào, chiến
lược nào,…cho phát triển kinh tế tri thức của đất nước trong thời đại kinh tế tri thức.
Ngoài ra, phương pháp suy luận logic, phương pháp chuyên gia, phương pháp quy
nạp và diễn dịch…cũng ít nhiều được sử dụng để giải quyết các nội dung của luận án.
- Nguồn số liệu sử dụng trong luận án: Luận án dùng các số liệu thứ cấp từ các
tổ chức lớn trên thế giới như: IMF, OECD, WTO, WorldBank, UNDP, Niên giám thống
kê của Tổng cục Thống kê….Việc thu thập số liệu sơ cấp gặp khó khăn để có được độ tin
cậy cao, do đó không giải quyết được vấn đề đặt ra trong luận án này.
6. Đóng góp mới của luận án
Những điểm mới của luận án được khái quát như sau:
Thứ nhất, nêu bật bản chất hay nội hàm của kinh tế tri trức, trên cơ sở nhận thức có
phê phán các quan điểm kinh tế tri thức của các nhà lý luận kinh tế trong và ngoài nước.

Thứ hai, đúc kết kinh nghiệm phát triển kinh tế tri thức của các nước trên thế giới
làm bài học phát triển kinh tế tri thức cho những nước đi sau, trong đó có Việt Nam.
Thứ ba, lượng hóa phần đóng góp của tri thức vào nền kinh tế Việt Nam.
Thứ tư, đưa ra những quan điểm phát triển, định hướng, nhóm giải pháp mang tính
đặc thù cho Việt Nam và có tính khả thi cao nhằm tiếp cận để phát triển kinh tế tri thức
giai đoạn 2015, định hướng 2020 và tầm nhìn 2030.
7. Kết cấu của luận án
Ngoài phần mở đầu, kết luận và tài liệu tham khảo, nội dung chính của luận án
được trình bày trong ba chương như sau:
Chương 1: Luận án tập trung nghiên cứu những vấn đề lý luận về kinh tế tri thức
dưới tác động của xu thế hội nhập kinh tế quốc tế.
Chương 2: Luận án tập trung phân tích thực trạng kinh tế xã hội Việt Nam trên con
đường tiến tới nền kinh tế tri thức.
Chương 3: Luận án đưa ra những quan điểm, định hướng và các giải pháp tiếp cận
để phát triển kinh tế tri thức ở Việt Nam trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế giai đoạn
2011 - 2020 và tầm nhìn 2030.


-8-

CHƯƠNG 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ KINH TẾ TRI THỨC
1.1 NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ TRI THỨC
1.1.1 Khái niệm, và đặc điểm của tri thức
1.1.1.1 Các khái niệm tri thức
Do quan điểm và thời điểm lịch sử khác nhau, cách tiếp cận khác nhau nên có rất
nhiều quan niệm về tri thức, có thể liệt kê một số quan niệm chủ yếu dưới đây:
Thứ nhất, quan điểm của K. Marx, trên cơ sở lý thuyết giá trị - lao động, K. Marx
đã quan niệm: “tri thức là sản phẩm của lao động, là kết quả của mức độ tích cực của con
người với tự nhiên” [2, tr. 538]. Theo quan điểm này, tri thức là phương thức tồn tại của ý

thức. Cùng với tri thức, con người còn có ý chí. Tri thức là sản phẩm của hoạt động lao
động xã hội và tư duy của con người, làm tái hiện trong tư tưởng, dưới hình thức ngôn ngữ,
những mối liên hệ khách quan, hợp quy luật của thế giới khách quan được cải biến trên
thực tế….Điều đó cho thấy chỉ có con người mới là đối tượng được xét đến, chỉ có con
người là sinh vật cao cấp có tư duy, có hoạt động lao động. Tri thức phản ánh một cách
trung thực thế giới quan xung quanh lên tư duy của con người, đó là sự hiểu biết của con
người về thế giới vật chất xung quanh mình.
Thứ hai, theo quan điểm của OECD thì: “Tri thức là toàn bộ kết quả của trí lực
của loài người sáng tạo ra từ trước đến nay, trong đó tri thức về khoa học, về kỹ thuật, về
quản lý là các bộ phận quan trọng nhất” [128]. Quan điểm này hàm ý tri thức là tập hợp,
là kho tàng sáng tạo của loài người được lưu giữ lại, phát huy trong suốt lịch sử phát triển
của loài người. Tri thức ở các khía cạnh khác nhau đều quan trọng nhưng những tri thức
về khoa học, kỹ thuật và quản lý là bộ phận quan trọng nhất, đặc biệt là trong phát triển
kinh tế.
Thứ ba, Peter Howit thì cho rằng: "Tri thức là khả năng của một cá nhân hay một
nhóm thực hiện hoặc chỉ dẫn, xui khiến những người khác thực hiện các quy trình nhằm
tạo ra các sự chuyển hóa có thể dự báo được của các vật liệu” [18, tr. 9]. Định nghĩa này
tiếp cận tri thức theo khía cạnh công nghệ. Theo cách hiểu này thì tri thức là khả năng hiểu
biết của một người hay một nhóm người được mang áp dụng vào sản xuất theo một quy
trình nhất định nào đó để chuyển hóa vật liệu đầu vào thành đầu ra theo ý muốn. Khả năng
hiểu biết này cũng phải là kết quả vân dụng trí lực của loài người được một người, hay
nhóm người tích lũy, tiếp thu, học hỏi và sáng tạo. Theo Ông, tri thức công nghệ nghĩa là
sự hiểu biết về tác động của các biến đầu vào đối với đầu ra.


-9-

Thứ tư, từ những quan niệm trên, Từ điển Bách khoa Toàn thư Việt Nam đã đưa ra
định nghĩa khá đầy đủ về tri thức: “Tri thức là kết quả của các quá trình nhận thức của
con người về đối tượng được nhận thức, làm tái hiện trong tư tưởng con người những thuộc

tính, những mối quan hệ, những quy luật vận động, phát triển của đối tượng và được diễn
đạt bằng ngôn ngữ tự nhiên hay hệ thống kí hiệu khác”.
Tiến trình của nhận thức bắt đầu từ các giác quan của con người tiếp nhận các tín
hiệu của đối tượng nhận thức (quan hệ vật chất và ý thức), từ đó chúng ta có được dữ liệu
(data). Sau khi thu thập dữ liệu, não bộ sẽ xử lý những dữ liệu này và bắt đầu quá trình tư
duy nhận thức để biến từ dữ liệu đã xử lý thành thông tin (information), quy luật (law), tri
thức (knowledge), trí tuệ (intellect), mức cao hơn nữa là trí khôn (wisdom) xem Hình 1.1
Đối
tượng

Tín
hiệu

Dữ
liệu

Thông
tin

Tri
thức

Trí
tuệ

Trí
khôn

Hình 1.1 Quá trình nhận thức
Dữ liệu là các con số, chữ viết, hình ảnh, tín hiệu âm thanh, hình ảnh…là nguồn

gốc, là vật mang tin và cấu thành sản xuất ra thông tin. Tri thức là quá trình biến thông tin
là “cái của người” thành “cái của mình” thông qua quá trình thu thập, xử lý để nhận thức.
Nó bao gồm tất cả những hiểu biết của con người và tồn tại dưới nhiều hình thức : biết,
biết cái gì, biết như thế nào và biết làm thế nào.
Tóm lại, trên cơ sở những khái niệm không hẳn là giống nhau ở trên, ta có thể thấy
được những điểm chung và đưa ra khái niệm tri thức sử dụng trong luận án này là: Tri
thức là toàn bộ những sự hiểu biết của loài người được hình thành trong lịch sử phát triển
của mình thông qua kinh nghiệm hay thông qua quá trình học hỏi. Khái niệm này cho thấy
tri thức là khối lượng thông tin tích lũy trong quá trình phát triển của lịch sử nhân loại, sự
hiểu biết này có được là cả quá trình tích lũy kinh nghiệm, học hỏi và sáng tạo, sau khi đã
thu thập và được xử lý, đồng hóa, đưa vào trở thành sự hiểu biết của con người. Tri thức
thông thường được hình thành do hoạt động hàng ngày của mỗi cá nhân và mang tính chất
cảm tính trực tiếp, bề ngoài và rời rạc. Tri thức khoa học phản ánh trình độ cao hơn của con
người đi sâu nhận thức đối tượng nhằm vạch ra bản chất của đối tượng. Tri thức khoa học
được chia thành tri thức kinh nghiệm và tri thức lý luận. Tri thức kinh nghiệm do quan sát,
mô tả, thực nghiệm mang lại. Tri thức lý luận là kết quả của sự khái quát hoá những tri thức
kinh nghiệm (những tài liệu kinh nghiệm, kết quả thực nghiệm) để xây dựng các hệ thống lý
luận phản ánh những mối liên hệ tất yếu, cơ bản của sự vật, hiện tượng hay lớp sự vật, hiện
tượng.


- 10 -

Cần lưu ý rằng, tri thức cần cho một xã hội là tri thức có phạm vi và ý nghĩa rộng
hơn rất nhiều so với tri thức về kỹ thuật, về công nghệ; nó bao gồm cả tri thức về kinh tế,
về chính trị, về văn hoá, về xã hội, về quản lý.... Tri thức của một tổ chức là một khái niệm
rất rộng. Tri thức của một tổ chức bao gồm văn hoá, cách thức làm việc, giao tiếp giữa
những con người trong tổ chức, tri thức về tìm kiếm thông tin và tri thức mới thu nhận
được từ bên ngoài. Tri thức của một tổ chức còn thể hiện ở chỗ họ biết kết hợp thông tin
với kinh nghiệm và năng lực để đi đến hành động có hiệu quả ngày càng cao hơn.

1.1.1.2 Phân loại tri thức
Có nhiều cách phân loại khác nhau về tri thức tùy thuộc vào mục đích, ý đồ, năng
lực nhận biết.
Thứ nhất, Phân loại theo B.Lundvall, B.Johnson, D.foray: Phân loại theo đối
tượng và phương pháp thực hiện, tri thức có các loại :
Một là, Tri thức về sự vật : Biết cái gì? (Know - what)
Hai là, Tri thức về giới tự nhiên, xã hội và suy nghĩ của con người : Biết tại sao?
(Know - Why)
Ba là, tri thức về thế giới quan, các quan hệ xã hội để biết ai về cái gì và ai có thể
làm được điều gì nhằm tìm ra các nguyên tắc khoa học: Biết ai, người nào đó? (Know Who)
Bốn là, tri thức về các diễn biến của tình hình thị trường và nền kinh tế: Biết nơi
chốn, địa điểm và biết thời gian (Know - Where, Know - When)
Năm là, tri thức về các kỹ năng, khả năng thực hiện công việc ở mức độ thực hành:
Biết cách làm (Know - How). Hiện nay, người ta thường sử dụng thuật ngữ này để chỉ kỹ
năng về quy trình xử lý một hệ thống hay một thiết bị, một phương pháp mới nào đó khi
cần chuyển giao công nghệ, gọi là “bí quyết kỹ thuật” hay “chìa khóa trao tay”. Đây là tri
thức về công nghệ.
Trong các loại tri thức trên, hai loại đầu có thể thu nhận thông qua việc truy cập cơ
sở dữ liệu, đọc tài liệu, tham gia các hội nghị hội thảo. Các loại sau thu thập và có được
thông qua kinh nghiệm thực tế.
Thứ hai, Phân loại theo R.Bohn : Trong quá trình quá trình nghiên cứu tài sản của
doanh nghiệp Ông cho rằng, tri thức được chia thành ba loại :
Một là, tri thức về môi trường : Thông tin về thị trường, công nghệ, v.v…
Hai là, tri thức về doanh nghiệp : Danh tiếng, nhãn mác, v.v…
Ba là, tri thức nội bộ : Văn hóa doanh nghiệp, đạo đức, cơ sở dữ liệu doanh nghiệp,
bí quyết của doanh nghiệp, bí quyết của người lao động.


- 11 -


Thứ ba, Phân loại theo Theo R.R. Nelson và P.Romer : Theo công trình nghiên
cứu của hai Ông vào năm 1996, tri thức là tất cả những gì không vật chất, vô hình và có
tính chất con người, nó bao gồm :
Một là, phần mềm của tri thức (Software): là các tri thức có thể được diễn đạt
trong các kho thông tin lưu trữ bên ngoài não người để có thể phổ biến rộng rãi dưới dạng
thương mại hóa : sách, báo, thiết bị lưu trữ dùng cho máy tính, báo cáo, tài liệu, hướng dẫn
kỹ thuật, v.v..
Hai là, Phần ướt của tri thức (Wetware): là các tri thức chỉ có thể được lưu trữ
trong não người, bao gồm : niềm tin, kỹ năng, kỹ xảo, thủ thuật làm việc, v.v…
Tóm lại : có không ít cách phân loại tri thức nhưng nhìn chung cách phân loại cho
rằng tri thức có hai loại là tri thức kinh nghiệm và tri thức khoa học phù hợp với hướng
nghiên cứu và mục tiêu đề tài và mang tính đúc kết đó là :
Một là, tri thức ngầm : được hình thành trực tiếp trong hoạt động hàng ngày của
con người, là phần tiềm ẩn, phần ướt của tri thức, là tri thức không bộc lộ chứa trong đầu
con người. Trong quá trình chuyển giao từ người có tri thức sang người cần tri thức, thì tri
thức ngầm cần được điển chế hóa để chuyển nó thành tri thức hiện. Trong quá trình điển
chế hóa tri thức thì một phần tri thức ngầm vẫn còn lại. Nhờ sự phát triển mạnh mẽ của
Công nghệ Thông tin và truyền thông mà tri thức điển chế hóa đã trở lên dễ có hơn và
cũng rẻ hơn. Trong việc lựa chọn và khai thác tri thức để phát triển kinh tế, tăng khả năng
cạnh tranh quốc gia thì tri thức ngầm có vai trò cực kỳ quan trọng.
Hai là, tri thức khoa học : được hình thành trên cơ sở nghiên cứu khái quát các
kinh nghiệm, thực tiễn mà tìm ra các mối liên hệ của bản chất, tất yếu, các quy luật vận
động và phát triển của sự vật (Tri thức khoa học còn gọi là “tri thức hiện” vì có được
thông qua đào tạo chính quy). Với tri thức khoa học, con người không ngừng vươn tới cái
mới, hướng về tương lai và sáng tạo ra “thế giới mới”. Đó là các phát minh, sáng chế, phát
triển mới. Hầu hết những phát minh, sáng chế đều do tri thức khoa học tạo nên qua nhiều
thời gian dày công nghiên cứu, phát hiện và thử nghiệm.
1.1.1.3 Đặc điểm tri thức
Từ những phân tích trên có thể thấy rằng, tri thức như ánh sáng, âm thanh không
có trọng lượng và không sờ mó được nhưng nó có thể dễ dàng lan truyền khắp thế giới.

Sau đây là những đặc điểm của tri thức:
Thứ nhất, tri thức là sản phẩm của lao động (kinh nghiệm, sự học hỏi), nó là biểu
hiện của thái độ tích cực của con người trước tự nhiên. Điều này đã được K.Marx đề cập
rất chi tiết.


- 12 -

Thứ hai, tri thức không phải là vật chất nhưng tồn tại dưới cái vỏ vật chất (giá
đựng, vật mang): chính nhờ điều này mà tri thức có thể nhân rộng tác dụng của nó. Giá
đựng tri thức sẽ tương ứng với hai loại tri thức (tri thức ngầm và tri thức hiện); để có tri
thức hiện thì dễ, nhưng để có tri thức ngầm thì khó (liên quan đến việc đào tạo, sử dụng,
thu hút chất xám của các nhà quản lý, các quốc gia). Đối với tri thức hiện, người mua tri
thức chỉ có được cái giá đựng nó (đây cũng là một điều rất quí); nhưng để khai thác nó lại
là cần có con người biết sử dụng nó, điều này phụ thuộc vào trình độ của người mua, hoặc
lao động của chính người bán tri thức đó. Đối với tri thức ngầm người mua bắt buộc phải
có người bán, người chủ sở hữu tri thức. Điều này giải thích cho cái gọi là lợi thế của
người đi sau muốn phát huy tác dụng thì vấn đề cốt lỗi là ở chỗ phải có con người có khả
năng tư duy.
Thứ ba, tri thức dưới dạng sản phẩm khi đem sử dụng đòi hỏi phải có cả một quá
trình học hỏi và nghiên cứu: Đối với tri thức hiện (máy móc, thiết bị…) trước khi vận
hành thì người sử dụng phải được học hỏi, hướng dẫn để được nắm vững kỹ thuật sử dụng.
Quá trình này với ngưòi sáng tạo còn có thể suy nghĩ tìm tòi để tiếp tục hoàn thiện tri thức
(dưới dạng các sản phẩm vật chất hóa). Ngoài ra, trong quá trình tiêu dùng, nhiều khi
người tiêu dùng còn phát hiện ra những tính năng mà chính tác giả của nó cũng không ngờ
tới.
Thứ tư, tri thức dưới dạng sản phẩm trong nền kinh tế thị trường trở thành một loại
hàng hóa có tính phổ cập: sản phẩm tri thức được mua bán trên thị trường mà biểu hiện
của nó là các bằng phát minh, các sáng chế đã được chính phủ các nước, các tổ chức của
Liên Hiệp Quốc thừa nhận và bảo hộ bằng các đạo luật về quyền sở hữu công nghiệp hay

quyền sở hữu trí tuệ. Ai cũng có thể bỏ tiền ra mua một sản phẩm tri thức, một sáng chế,
giải pháp kỹ thuật…, điều này thể hiện tính toàn cầu hóa trong sử dụng. Việc phổ biến trên
còn lệ thuộc chủ yếu vào mức độ, qui định của cơ chế thị trường, sự ràng buộc quản lý vĩ
mô của Nhà nước về sở hữu trí tuệ, qui chế nhập cư, định cư, mức độ bảo hộ sản xuất,
mức độ hội nhập và mở cửa giao lưu quốc tế, tri thức bản lĩnh của các nhà lãnh đạo….
Thứ năm, tri thức là một trong các yếu tố quan trọng nhất của sản xuất và đời sống
xã hội. Tri thức sẽ trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp và quan trọng hàng đầu nếu nó
gắn liền với cuộc sống thực tế của xã hội, tức là khi nó được đem sử dụng vào thực tế
nhằm phục vụ nhu cầu, lợi ích cho con người, khi đó tri thức trở thành hiện thực. Như vậy,
việc sử dụng tri thức gắn liền với thể chế, mục đích, ý đồ của con người (cá nhân, doanh
nghiệp, nhà nước). Tri thức sẽ đem lại những điều tốt đẹp cho con người nếu nó đúng đạo
lý và vì con người, còn ngược lại nó chỉ đem tai họa đến cho con người (vũ khí giết người,


- 13 -

sản phẩm độc hại, lối sống suy đồi…). Tri thức lệ thuộc khá nhiều vào thể chế của mỗi xã
hội, tuy nó mang tính toàn cầu, nhưng tính địa phương, khu vực, quốc gia vẫn còn chiếm
vị trí khống chế rất lớn đối với tri thức.
Thứ sáu, tri thức có tốc độ thay đổi nhanh chóng. Đặc điểm này của tri thức thể
hiện rất rõ trong thời đại ngày nay khi mà tri thức có tốc độ gia tăng nhanh chóng, đổi mới
liên tục. Với tác động của của cuộc cách mạng khoa học công nghệ ngày nay, các tri thức
mới xuất hiện liên tục, các bằng phát minh, sang chế, paten được đăng ký rất nhiều trên
thế giới. Đặc điểm này đòi hỏi phải luôn luôn cập nhật tri thức mới nếu không muốn lạc
hậu trước sự biến đổi nhanh chóng của tri thức nhân loại.
1.1.2 Vai trò của tri thức đối với phát triển và vấn đề quản lý tri thức
1.1.2.1 Vai trò của tri thức đối với tăng trưởng và phát triển kinh tế
Ngày nay, các doanh nghiệp xuất phát từ nhu cầu phát triển đã và đang phải trở
thành những tổ chức học tập để thường xuyên nâng cao năng lực quản lý, cải tiến tổ chức,
nâng cao kỹ năng thích nghi với công nghệ mới. Nhờ kết nối vào mạng thông tin, việc học

tập, trao đổi thông tin, chia sẻ kinh nghiệm giữa người sản xuất và người tiêu dùng trở nên
thuận lợi, tri thức được nhân lên, thúc đẩy sự sáng tạo, đổi mới và phát triển. Sự thành đạt
của các doanh nghiệp cũng như sự hưng thịnh của các quốc gia phụ thuộc nhiều nhất vào
việc thu nhận, tạo ra và sử dụng có hiệu quả nhất nguồn lực tri thức. Của cải làm ra, sự
giàu có chủ yếu là nhờ vào tri thức. Lần đầu tiên trong lịch sử loài người, người giàu nhất
hành tinh lại là người do sở hữu tri thức, đó là Bill Gates.
Vai trò của tri thức ngày càng quan trọng đối với sự phát triển của loài người dẫn
đến “cuộc cách mạng tri thức”. Cuộc cách mạng tri thức hiện nay có các đặc điểm sau đây:
Thứ nhất, công nghệ mới và tri thức đã được mã hoá ngày càng được gia tăng
mạnh mẽ;
Thứ hai, sự gắn kết giữa khoa học với đổi mới công nghệ, với sản xuất và thị
trường ngày càng chặt chẽ hơn; với đặc điểm là chu kỳ sống của công nghệ ngày càng
ngắn đi.
Thứ ba, tầm quan trọng của giáo dục và đào tạo kỹ năng cho lực lượng lao động,
nhất là thông qua chế độ học tập suốt đời ngày càng nổi bật và gia tăng nhanh.
Thứ tư, đầu tư vô hình, gồm đầu tư vào nghiên cứu và phát triển, vào giáo dục, đào
tạo, vào sản xuất các sản phẩm thông tin, truyền thông... ngày càng tăng và lớn hơn so với
đầu tư vào vốn hữu hình; sự đổi mới làm sản sinh giá trị gia tăng càng ngày càng có tính
quyết định hơn đối với năng lực cạnh tranh và tăng trưởng GDP.


- 14 -

Thứ năm, quá trình toàn cầu hoá đang gia tăng rất mạnh mẽ, mà một đặc trưng cơ
bản của nó là sự tăng trưởng thương mại thế giới tăng nhanh hơn nhiều so với tăng trưởng
GDP; tỷ lệ giữa thương mại trên GDP năm 1950 là 12% thì đến năm 2000 là 46% và 2006
là 56% [157]. Tỷ trọng này của Việt Nam năm 2009 là trên 150%, điều này cho thấy mức
độ phụ thuộc về phát triển thương mại của Việt Nam trong điều kiện hội nhập ngày nay.
Hình 1.2 Tỷ trọng thương mại /GDP Đông Á
Thái bình dương và Toàn cầu


Nguồn : Ngân hàng Phát triển Châu Á 04/2010 - Dr. Donghyun PARK [130]
Tri thức là động lực của sự phát triển xã hội. Lịch sử phát triển của xã hội loài
người đã chứng minh điều này. Trong thời tiền sử, con người mới tiến hóa để có những
bước đi trên hai chân của mình, khi ấy có quá ít tri thức, rất chậm phát triển, phải chịu
chìm đắm trong đêm dài tăm tối hàng chục nghìn năm. Bằng lao động sản xuất, đấu tranh
với thiên nhiên, con người dần dần tích luỹ tri thức; với tri thức có được, con người từng
bước cải tiến và đổi mới công cụ lao động, nâng cao năng suất lao động, ngày càng tạo ra
nhiều của cải, ngày càng có điều kiện học tập, nghiên cứu, nâng cao vốn tri thức, do đó lực
lượng sản xuất không ngừng phát triển, kèm theo đó là sự cải cách, phát triển xã hội.
Trước đây, các nhà kinh tế học thường coi lao động và vốn là hai yếu tố của sản xuất. Tri
thức, giáo dục, vốn trí tuệ... tuy được coi là rất quan trọng nhưng chưa được thừa nhận là
những yếu tố nội sinh, có vai trò quyết định đối với sự tăng trưởng. Sự phát triển mạnh mẽ
của khoa học - công nghệ hiện đại và tác động to lớn của nó đến phát triển kinh tế, xã hội
đã và đang đặt ra nhiều vấn đề mới, đòi hỏi phải nghiên cứu để đưa ra lời giải và cách


×