Tải bản đầy đủ (.docx) (20 trang)

logistic thực trạng hoạt động của doanh nghiệp 3PL tại việt nam công ty vinafco

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (228.29 KB, 20 trang )

MỤC LỤC

1


Phần I: Cơ sở lý thuyết
I.

Các phương thức hoạt động của Logistics
Logistics bên thứ nhất( 1PL): là hoạt động Logistics do người chủ sở hữu sản

phẩm/ hàng hóa mình tổ chức và thực hiện để đáp ứng nhu cầu của bản thân doanh
nghiệp.
Logistics bên thứ 2( 2PL): chỉ hoạt động Logistics do người cung cấp dịch vụ
Logistics cho một hoạt dộng đơn lẻ trong chuỗi cung ứng để đáp ứng nhu cầu của
chủ hàng.
Logistics bên thứ 3( 3PL): là người thay mặt chủ hàng tổ chức thực hiện và quản
lý các dịch vụ Logistics cho từng bộ phận chức năng: thay mặt cho người gửi hàng
thực hiện thủ tục xuất nhập khẩu, cung cấp chứng từ giao nhận - vận tải và vận
chuyển nội địa hoặc thay mặt cho người nhập khẩu làm thủ tục thông quan hàng hóa
và đưa hàng đến điểm đến quy định... 3PL bao gồm nhiều dịch vụ khác nhau, kết hợp
chặt chẽ việc luân chuyển, tồn trữ hàng hoá, xử lý thông tin. có tính tích hợp vào dây
chuyền cung ứng của khách hàng.
3PL là các hoạt động do một công ty cung cấp dịch vụ Logistics thực hiện trên
danh nghĩa của khách hàng dựa trên các hợp đồng có hiệu lực tối thiểu là một năm
hoặc các yêu cầu bất thường.
Sử dụng 3PL là việc thuê các công ty bên ngoài để thực hiện các hoạt động
Logistics, có thể là toàn bộ quá trình quản lý Logistics hoặc chỉ là một số hoạt động
có chọn lọc.
Các công ty sử dụng 3PL và nhà cung cấp dịch vụ Logistics có mối quan hệ chặt chẽ
với nhau nhằm thực chia sẻ thông tin, rủi ro, và các lợi ích theo một hợp đồng dài hạn.


Logistics bên thứ tư( 4PL) là hình thức mà mọi hoạt động Logistics được thực
hiện bởi nhà cung ứng Logistics thứ 3 và các tổ chức này bị kiểm soát bởi 1 ông chủ
hay còn gọi là nhà cung ứng thứ 4, có quyền như 1 tổng giám sát.

2


II.

Quy trình Logistics:
Xét theo chiều vận động hàng hóa trong chuỗi cung ứng cấp từ đầu vào đến

đầu ra, tại 1 công ty có thể phân chía ra 3 quá trình chính: Logistics mua hàng, hỗ trợ
sản xuất, Logistics phân phối
Khi một sản phẩm hoặc nguyên liệu nào đó được mua, thì giá trị cộng thêm
của dòng dự trữ bắt đầu hình thành và cứ tiếp tục gia tăng qua các khâu trong chuỗi
cung ứng thể hiện việc chuyển giao quyền sở hữu cho khách hàng. Quá trình này
được nhìn nhận dưới 2 dòng là dòng dự trữ và dòng thông tin.
Dòng thông tin bắt đầu từ khách hàng đi tới công ty để hình thành nên các
hoạt động bán hàng, dự báo và đặt hàng. Các thông tin quan trọng được tinh lọc
thành kế hoạch sản xuất, trao đổi và mua sắm. Dòng dự trữ liên quan đến việc dự trữ
các nguyên liệu và sản phẩm.Từ các trao đổi ban đầu về vật liệu và bán thành phẩm,
các quá trình Logistics cộng thêm giá trị vào dòng dự trữ nhờ chúng đưa đến các vị trí
cần thiết. Nếu quá trình cung cấp tốt, các vật liệu và bán thnahf phẩm sẽ thu được giá
trị cộng thêm tại bước trao đổi cho đến khâu cuối cùng. Để hỗ trợ sản xuất, dự trữ
trong sản xuất cần được định vị tốt. Chi phí mỗi bộ phận và chi phí di chuyển nó là
một phần quá trình làm tăng giá trị. Để đạt được sự thống nhất bên trong công ty, các
dòng thông tin và dự trữ các quá trình này cần được phối hợp chặt chẽ với nhau.
III. Vai trò của Logistics
Ngành Logistics có vị trí ngày càng quan trọng trong các nền kinh tế hiện địa

và có ảnh hưởng to lớn đến sự phát triển kinh tế của quốc gia và toàn cầu. Phần giá trị
gia tăng do ngành Logistics tạo ra ngày càng lớn và tác động của nó thể hiện rõ dưới
các khía cạnh dưới đây.

3


1. Đối với nền kinh tế quốc dân:
Logistics là công cụ liên kết các hoạt động kinh tế trong một quốc gia và toàn cầu
qua việc cung cáp nguyên liệu, lưu thông, phân phối, mở rộng thị trường. Trong nền
kinh tế hiện đại, sự gia tăng của các thị trường về số lượng khách hàng đã thúc đẩy sự
gia tăng của các thị trường hàng hóa và dịch vụ trong nước và quốc tế. Hàng nghìn
sản phẩm và dịch vụ mới đã được giới thiệu, đang được bán ra và phân phối hàng
ngày đến các ngõ ngách của thế giới trong thập kỉ vừa qua. Để giải quyết các thách
thức do thị trường phải mở rộng và sự tăng nhanh của hàng hóa dịch vụ, các hãng
kinh doanh phải mở rộng quy mô và tính phức tạp, phát triển của các nhà máy liên
hợp thay thế cho các nhà máy đơn. Hệ thống Logistics hiện đại đã giúp các hãng làm
chủ được toàn bộ năng lực cung ứng của mình qua việc liên kết các hoạt động cung
cấp, sản xuất, lưu thông, phân phối kịp thời chính xác. Nhờ đó mà đáp ứng được
những cơ hội kinh doanh trong phạm vi toàn cầu.
Tối ưu hóa chu trình lưu chuyển sản xuất, kinh doanh từ khâu đầu vào đến khi sản
phẩm đến tay người tiêu dùng cuối cùng. Logistics hỗ trợ sự di chuyển và dòng chảy
của nhiều hoạt động quản lý hiệu quả, nó tạo thuận lợi cho việc bán hầu hết các loại
hàng hóa và dịch vụ. Để hiểu hơn về hình ảnh hệ thống này, có thể thấy rằng nếu
hàng hóa không đến đúng thời điểm , không đến đúng vị trí với các điều kiện mà
khách hàng yêu cầu thì khách hàng không thể mua chúng, và việc không bán được
hàng hóa sẽ làm mọi hoạt động kinh tế trong chuỗi cung ứng bị vô hiệu.
Tiết kiệm và giảm chi phí trong lưu thông phân phối. Với tư cách là tổ chức kinh
doanh cung cấp các dịch vụ Logistics chuyên nghiệp, các doanh nghiệp Logistics
mang lại đầy đủ các lợi ích của các third- party cho các ngành sản xuất kinh doanh

khác. Từ đó mang lại hiệu quả cao không chỉ ở chất lượng dịch vụ cung cấp mà còn
tiết kiệm tối đa về thời gian và tiền bạc cho các quá trình lưu thông phân phối trong
nền kinh tế.
Mở rộng thị trường buôn bán quốc tế, góp phần giản chi phí, hoàn thiện và tiêu
chuẩn hóa chứng từ trong kinh doanh đặc biệt trong buôn bán và vận tải quốc tế.
Trong thời đại toàn cầu hóa, thương mại quốc tế là sự lựa chọn tất yếu cho mọi quốc
gia trong tiến trình phát triển đất nước. Các giao dịch quốc tế chỉ thực hiện và mang
4


lại hiệu quả cho quốc gia khi thực hiện được và mang lại hiệu quả cho quốc gia khi
dựa trên hệ thống Logistics. Hệ thống này giúp cho mọi hàng hóa được lưu chuyển
thuận lợi, suôn sẻ từ quốc gia này đến quốc gia khác nhờ việc cung ứng kịp thời, phân
phối chính xác, chứng từ tiêu chuẩn, thông tin rõ ràng…
2. Đối với doanh nghiệp
Logistics nâng cao hiệu quả quản lý, giảm thiểu chi phí sản xuất, tăng cường
sức mạnh cạnh tranh cho doanh nghiệp. Quan điểm marketing cho rằng, kinh doanh
tồn tại dựa trên sự thỏa mãn nhu cầu khách hàng và cho thấy 3 thành phần chử yếu
của khái niệm này là sự phân hợp các nỗ lực marketing, thảo mãn khách hàng và
lợi nhuận công ty. Logistics đóng vai trò quan trọng với các thành phần này theo
cách thức khác nhau. Nó giúp phối hợp các biển số marketing-mix, gia tăng sự hài
lòng của khách hàng trực tiếp làm giảm tri phí, gián tiếp làm tăng lợi nhuận trong
dài hạn.
Logistics tạo ta giá trị gia tăng về thời gian và địa điểm: Mỗi sản phầm được sản
xuất ra luôn mang một hình thái hữu dụng và giá trị nhất định với con người. Tuy
nhiên đề được khách hàng tiêu thụ, hầu hết các sản phẩm này cần có hiều hơn thế.
Nó cần được đưa ra đến đúng vị trí, đúng thời gian và có khả năng trao đổi với
khách hàng. Các giá trị này cộng thêm vào sản phẩm và vượt xa phần giá trị tạo ra
trong sản xuất được gọi là lợi ích địa điểm, lợi ích thời gian và lợi ích sở hữu. Lợi
ích địa điểm là giá trị cộng thêm vào sản phẩm qua việc tạo cho nó khả năng trao

đổi hoặc tiêu thụ vị trí. Lợi ích thời gian là giá trị được sáng tạo ra bằng ttaoj ra khả
năng để sản phẩm tới đúng thời điểm mà khách hàng có nhu cầu, những lợi ích này
là kết quả của hoạt động Logistics. Như vậy Logistics góp phần tạo tra tính hữu ích
về thời gian và địa điểm cho sản phẩm, nhờ đó mà sản phẩm có thể đến đúng thị
trường tiêu thụ và nguồn cung ứng ngày càng trở nên xa cách về mặt địa thị thường
tiêu thụ và nguồn cung ứng ngày càng trở nên xa cách về mặt địa lý thì các lợi ích
về thời gian và địa điểm do Logistics mang trở nên đặc biệt cần thiết cho việc tiêu
dùng sản phẩm.
5


Logistic cho phép doanh nghiệp di chuyển hàng hóa và dịch vụ hiệu quả đến
hiệu quả khách hàng: Logistics không chỉ góp phần tối ưu hóa về vị trí mà còn tối
ưu hóa các dòng hàng hóa và dịch vụ tại doanh nghiệp nhờ vào việc phân bố mạng
lưới các cơ sở kinh doanh và điều kiện phục vụ phù hợp với yêu cầu vận động hang
hóa. Hơn thế nữa, các mô hình quan trị và phương án tối ưu trong dự trữ, vận
chuyển, mua hàng… và hệ thống thông tin hiện đại sẽ tạo điều kiện để đưa hàng
hóa đến nơi khách hàng yêu cầu nhanh nhất với chi phi thấp, cho phép doanh
nghiệp thực hiện quả các hoạt động của mình.
Logistics có vai trò hỗ trợ nhà quản lý ra quyết định chính xác trong hoạt động
sản xuất kinh doanh, là một nguồn lợi tiềm tàng cho doanh nghiệp: Một hệ thống
Logistics hiệu quả và kinh tế cũng tương tự như một tài sản vô hình cho công ty.
Nếu môt công ty có thể cung cấp sản phẩm cho khách hàng của mình một cách
nhanh chóng với chi phí thấp thì có thể thu lợi thế về thị phần so với đối thủ cạnh
tranh, điều này có thể giúp cho hiệu quả hoặc cung cấp dich vụ khách hàng với trình
độ cao hơn do đó tạo ra uy tín.

6



Phần II: Vận dụng thực tế
I.

Thực trạng ngành Logistics 3PL tại Việt Nam:
1. Tình hình hiện tại:

Theo thống kê, tổng diện tích hệ thống các trung tâm phân phối tại Việt Nam hiện
khoảng 300 ha, phân bố rải rác từ Bắc vào Nam.
Hoạt động hệ thống ICD ở phía Nam phát triển mạnh mẽ hơn phía Bắc với sản
lượng hàng hóa thông qua gấp khoảng 3.5 lần, và trung chuyển được khoảng 50% hàng
hóa cho hệ thống cảng miền Nam.

Tỷ lệ thuê ngoài Logistics tại Việt Nam
100%
90%
80%
70%
60%
50%
40%
30%
20%
10%
0%
Vận tải
Kho hàng Vận tải
hàng xuất xuất
hàng nhập

Kho hàng Quản lý dự

nhập
trữ

Cơ bản
2008

2012

Quản trị
kho hàng

Quản lý
đơn hàng

Quản lý Hỗ trợ hải
nguồn
quan
cung

Giá trị gia tăng
Nguồn: Hiệp hội Logistics Việt Nam

Trong nền kinh tế, xu hướng thuê ngoài các hoạt động Logistics ngày càng cao,
đặc biệt là trong mảng quản lý chuỗi cung ứng như quản lý hàng tồn kho, quản lý
nguồn cung. Xu hướng thuê ngoài gia tăng từ hai động lực chính: Một là, khối doanh
nghiệp nước ngoài ngày càng gia tăng đầu tư vào Việt Nam, mang theo tư duy sản
xuất chuyên môn hóa, mức độ thuê ngoài cao. Hai là, các doanh nghiệp trong nước
cũng dần chuyển hướng, tập trung vào điểm mạnh cốt lõi để phát triển trong môi
trường cạnh tranh, do đó gia tăng hoạt động thuê ngoài. Từ xu hướng này, dịch vụ
7



3PL tất yếu sẽ phát triển mạnh mẽ trong tương lai, tương quan với xu hướng thuê
ngoài.
Theo thống kê từ dữ liệu Amstrong & Associates, thị trường cung cấp 3PL tại Việt
Nam trong năm 2014 ước tính đạt 1,2 tỷ USD tỷ lệ còn rất thấp so với mức trung bình thế
giới. Bên cạnh các 3PL tên tuổi có mặt khá lâu tại Việt Nam như DAMCO, APL
Logistics, OOCL Logistics (phát triển đi lên từ hãng tàu), Schenker, DKSH, Nippon
Express, Kuehne & Nagel, DHL, TNT, Toll..( phát triển từ các công ty giao nhận )….
Thời gian gần đây họ đã tăng trưởng đầu tư mở rộng hoạt động tại Việt Nam. Bên cạnh
đó, các doanh nghiệp trong nước cũng có các chuyển động với những mô hình chiến lước
3PL đặc thù: VINAFCO, tổng công ty Tân cảng Sài Gòn, công ty CP Đầu tư Bắc Kỳ,
Transimex Saigon, ITL, Gemadept, Vinalink.. Một số cảng biển cũng phát triển dịch vụ
Logistics như Cảng Đình Vũ.. và đặc biệt gần đây tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu xây dựng
chiến lược Logistics Park bên cạnh Cảng nước sâu Cái Mép.

Tỷ trọng 3PL trong nền kinh tế
.60%
1.40%
1.20%
1.00%
0.80%
0.60%
0.40%
0.20%
0.00%

Doanh thu 3PL/GDP

Trung bình


Nguồn: Amstrong & Associates

8


Thực tế những năm gần đây đã xuất hiện các mô hình chiến lược 3PL :
Liên doanh, hợp tác với DN nước ngoài trong đó có thể sử dụng các lợi thế địa phương
của doanh nghiệp trong nước, nhằm tạo thương hiệu ban đầu hoặc cơ hội học hỏi phát
triển nghề nghiệp.
Tự dầu tư DN với sự giúp sức của các chuyên gia, tư vấn trong và ngoài nước, phục vụ
thị trường trong nước
Liên kết, hợp tác trong nước hoặc thông qua mua bán, sát nhập ( M&A) hoặc làm vệ
tinh cho các chủ hàng có quy mô chuỗi cung ứng lớn.
Tiến hành qua nhiều phân kỳ, quy mô lớn dần, chọn phân khúc thị trường phù hợp,
song song với việc đào tạo huấn luyện nâng cao năng lực nguồn nhân lực và CNTT
Nhận gia công một phần chuỗi cung ứng của các doanh nghiệp 3PL, 4PL nước ngoài
Mỗi một mô hình chiến lược 3PL trên đây sẽ đem lại cho chủ hàng, nhà sản xuất
VN nhiều giá trị gia tăng, tăng lợi thế cạnh tranh trên thị trường sẽ là chiến lược 3PL
vững chắc, hiệu quả, các bên cùng hợp tác và hưởng lợi.
Tuy vậy, cũng có DN dịch vụ Logistics tiến hành chiến lược 3PL nhằm mục tiêu
củng cố các dịch vụ truyền thống như vận tải, cảng, kho hàng… mà ở đó lợi nhuận mang
lại từ các hoạt động gia tăng giá trị (3PL) đóng góp rất ít vào hiệu quả chung, hầu như chỉ
làm tăng lợi thế cạnh tranh của DN. Điều này cho thấy một khía cạnh khác của chiến
lược 3PL

9


2. Khó khăn của ngành Logistics Việt Nam:

a) Cơ sở hạ tầng

Hiện nay hạ tầng cơ sở Logistics tại VN nói chung còn nghèo nàn, manh mún, bố
trí bất hợp lý. Các cảng đang trong quá trình container hóa nhưng chỉ có thể tiếp nhận các
đội tàu nhỏ và chưa được trang bị các thiết bị xếp dỡ container hiện đại, còn thiếu kinh
nghiệm trong điều hành xếp dỡ container. Khả năng bảo trì và phát triển đường bộ còn
thấp, đường không được thiết kế để vận chuyển container, các đội xe tải chuyên dùng
hiện đang lạc hậu, năng lực vận tải đường sắt không đựơc vận dụng hiệu quả do chưa
được hiện đại hóa. Đường hàng không hiện nay cũng không đủ phương tiện chở hàng
(máy bay) cho việc vận chuyển vào mùa cao điểm.
b) Về tổ chức quản lí và pháp luật

Về tổ chức quản lí, tổ chức quản lý còn chồng chéo. Các cơ quan chủ quản hiện
nay đang giảm dần việc quản lý doanh nghiệp Logistics trực thuộc mà tập trung vào việc
lập ra chính sách, cơ chế quản lý nhà nước. Tuy nhiên, cơ chế phân cấp quản lý theo
ngành dọc tạo ra sự chuyên biệt trong kinh doanh giao nhận và vận tải như là hai lĩnh vực
kinh doanh riêng rẽ.
Về pháp luật điều chỉnh hoạt động Logistics. Luật Thương mại VN quy định hoạt
động Logistics là hành vi thương mại, công việc chính là cung cấp các dịch vụ phục vụ
vận tải hàng hóa, tổ chức vận chuyển nhưng khi đảm nhận việc vận chuyển thì phải tuân
theo pháp luật về vận chuyển. Tuy nhiên, hiện nay luật cũng chưa cụ thể hóa quy chế của
người chuyên chở không có tàu trong pháp luật về Logistics. Việc cấp phép hoạt động
cho các công ty tư nhân của chính quyền địa phương lại được thực hiện đại trà mà không
xem xét khả năng tài chính, cơ sở vật chất của đơn vị xin phép hoạt động. Các quy định
về dịch vụ phát chuyển nhanh hiện nay còn coi là dịch vụ bưu điện chứ chưa đựơc coi là

10


một loại hình dịch vụ Logistics và còn chịu sự điều tiết của các nghị định, thông tư về

bưu chính viễn thông. Đây là điều rất bất hợp lý.
Ví dụ trong giao nhận chính quyền TW và chính quyên địa phương có nhiều
quy định làm cho việc giao nhận hàng khó khăn và tốn kém hơn: cấm xe tải hoạt động
trong thành phổ; phải có giấy phép chuyên chở hàng hóa quá tải, quá khổ, các doanh
nghiệp giao nhận vận tải phải có nhiều loại giấy phép từ các cơ quan khác nhau cho
một chuyến hành trình (Ví dụ: từ Hà Nội đến TP. Hồ Chí Minh). Các rào cản phi thuế
quan trong logstics Nhà nước chưa có chính sách mở cửa rộng hơn cho các nhà đầu tư
nước ngoài đầu tư vào hoạt động Logistics tại Việt Nam. Còn phân biệt đổi xử trong
thuế và biểu phí cảng biển. Thủ tục thông quan còn nhiều khó khăn, phức tạp, mất
nhiều thới gian và chi phí.
c) Về nguồn nhân lực

Nguồn nhân lực cho hoạt động Logistics hiện đang thiếu trầm trọng. Theo ước
tính của VIFFAS, nếu chỉ tính các nhân viên trong các công ty hội viên (khoảng 140) thì
tổng số khoảng 4.000 người. Đây là lực lượng chuyên nghiệp, ngoài ra ước tính khoảng
4.000-5.000 người thực hiện bán chuyên nghiệp. Nguồn nhân lực được đào tạo từ nhiều
nguồn khác nhau. Đội ngũ quản lý gồm các cán bộ chủ chốt điều động vào các công ty
Logistics chủ yếu. Đội ngũ này đang được đào tạo và tái đào tạo để đáp ứng nhu cầu
quản lý. Đội ngũ nhân viên nghiệp vụ, phần lớn tốt nghiệp đại học nhưng không chuyên.
Lực lượng trẻ chưa được tham gia trong hoạch định đường lôi, chính sách. Đội ngũ công
nhân lao đông trực tiếp: đa số trình độ học vấn thấp, chưa được đào tạo tác phong làm
việc chuyên nghiệp. Sự yếu kém này là do phương tiện lao động còn lạc hậu, chưa đòi
hỏi lao động chuyên môn...
d) Về quy mô và trình độ Logistics

Về quy mô của các tổ chức Logistics ở Việt Nam: nhìn lại các doanh nghiệp kinh
doanh dịch vụ vận tải, giao nhận kho vận Việt Nam hiện nay, xét về quy mô của công ty,
11



xét về tính chuyên ngành, đặc biệt các công ty TNHH hiện đang chiếm một tỷ lệ đáng kể
về số lượng các công ty kinh doanh giao nhận kho vận nhưng quy mô của họ đều là các
doanh nghiệp vừa và nhỏ. Có những công ty rất nhỏ, vốn đăng ký chỉ một vài trăm triệu
đồng, hoạt động tản mạn, manh mún. Các doanh nghiệp Nhà nước hiện đang được cổ
phẩn hóa nhưng xu thế cổ phần hóa hiện nay của các doanh nghiệp đi ngược lại quy luật
“tích tụ vốn” và quy luật phát triển doanh nghiệp. Vì vậy, kể cả những doanh nghiệp đã
có lịch sử kinh doanh trên 30 năm, những doanh nghiệp Nhà nước trước đây đã được đầu
tư vốn, trang bị kỹ thuật, đất đai nhà kho, về chính sách tài chính và nhân lực...chưa có
doanh nghiệp nào có năng lực đù mạnh để tham gia cung ứng dịch vụ Logistics hoặc
cung ứng dịch vụ vận tải tổng hợp tại nước ngoài. Điều này chứng tỏ quy mô doanh
nghiệp còn nhỏ, trình độ cạnh tranh trên thị trường dịch vụ quốc tế còn yếu, khả năng tiếp
thị quốc tế chưa có. Vì thế, không những chúng ta chưa mở rộng việc cung ứng dịch vụ
ra nước ngoài mả chúng ta mất cả thị phần dịch vụ trong nước.
e) Về trình độ công nghệ Logistics:

Theo đánh giá cùa VIFFAS thì trình độ công nghệ trong Logistics ở VN so với
Thế Giới vẫn còn yếu kém. Việc liên lạc giữa công ty giao nhận, Logistics với khách
hàng, hải quan chủ yếu vẫn là thủ công, giấy tờ. Trong khi những nước như Singapore,
Thailand, Malaysia... đã áp dụng thương mại điện tử (EDI) cho phép các bên liên quan
liên lạc với nhau bằng kỹ thuật mạng tin học tiên tiến, thông quan bằng các thiết bị điện
tử. Trong vấn đề vận tải đa phương thức, các hình thức tổ chức bận tải như biển, sông,
bộ, hàng không... vẫn chưa thể kết hợp một cách hiệu quả, chưa tổ chức tốt các điêm
chuyển tải. Phương tiện vận tải còn lac hậu, cũ kỹ nên năng suất lao động thấp. Trình độ
cơ giới hóa trong bốc dỡ hàng hóa vẫn còn yếu kém, lao động thủ công vẫn phổ biến.
Công tác lưu kho còn lạc hậu so với thế giới, chưa áp dụng tin học trong quản trị kho như
mã vạch, chương trình quản trị kho.
f) Về vốn đầu tư:

12



oạt động Logistics là hoạt động mang lại nguồn lợi vô cùng to lớn tuy nhiên nó
cũng đòi hỏi vốn đầu tư lớn. Nhất là đối với nền kinh tế Việt Nam hiện nay, tuy được
đánh gía cao và thu hút vốn đầu tư nhưng vấn đề về vốn đầu tư phát triển kinh tế vẫn luôn
là bài toán nan giải .Việc xây dựng và nâng cấp cơ sở hạ tầng giao thông đòi hỏi nguồn
vốn rất lớn. Đa phần các công trình hiện nay đều dựa trên các nguồn đầu tư nước ngoài
hoặc vốn vay.
Đối với doanh nghiệp, nhất là doanh nghiệp Việt Nam đa phần là các doanh
nghiệp nhỏ, vốn đầu tư ít thì việc đầu tư vốn để duy trì và phát triển hệ thống Logistics
như nhà kho, phương tiện vận tải,... vẫn gặp rất hiều khó khăn.
g) Cạnh tranh của doanh nghiệp nước ngoài:

Vấn đề này xảy ra khi cam kết về Logistics với WTO bắt đầu được thực hiện sau
khi Việt Nam gia nhập WTO được 1 năm. Theo đó Việt Nam sẽ cho phép các doanh
nghiệp nước ngoài có thể liên doanh với doanh nghiệp trong nước hoặc đầu tư 100% vốn
vào Việt Nam. Thị trường Logitics Việt Nam là một thị trường giàu tiềm năng, vì thế đây
là mục tiêu hấp dẫn được các tập đoàn Logistics thế giới ngắm tới. Với thực trạng như
hiện nay, khi các doanh nghiệp Logistics Việt Nam còn manh mún, nhỏ lẻ, tổ chức doanh
nghệp đơn giản không chuyên sâu, không có văn phòng đại diện nước ngoài. Thêm vào
đó, xảy ra tình trạng cạnh tranh không lành mạnh giữa các doanh nghiệp như tranh giành
đơn hàng, hạ giá thành dịch vụ, trong khi đó chất lượng dịch vụ chưa thật sự tốt thì khó
có thể cạnh tranh với các tập đoàn Logistics quốc tế có thế mạnh về vốn, kinh nghiệm và
hoạt động toàn cầu.

13


3. Xu hướng phát triển ngành Logistics:
Theo thông tin của Cục hàng hải Việt Nam:
Khối lượng hàng hóa qua cảng biển Việt Nam dự kiến đạt 634-678 triệu tấn vào

năm 2020. Năm 2013 hàng hóa xuất nhập khẩu của Việt Nam được vận chuyển bằng
đường biển, hàng container qua cảng biển Việt Nam năm 2015 đạt từ 11,22-12,06 triệu
TEU. Tiềm năng và xu thế phát triển Logistics của Việt Nam sẽ tập trung ở 4 vùng kinh
tế trọng điểm, 15 khu kinh tế ven biển, 289 khu công nghiệp và 3 hành lang kinh tế khu
vực Tiểu vùng sông Mekong. Trong khi đó, theo Thứ trưởng Bộ Công thương Trần Tuấn
Anh, năm 2012, tổng kim ngạch xuất khẩu hàng hóa của Việt Nam đạt 228,3 tỉ USD,
tăng 12,4% so với năm 2011. Trong năm 2013, kim ngạch xuất khẩu tăng 14,3% so với
năm 2012. Những con số nói trên cho thấy, tiềm năng của ngành Logistics tại Việt Nam
là rất lớn.
Phải phát triển hệ thống kết cấu hạ tầng một cách đồng bộ, hợp lý để kết nối các
phương thức giao thông vận tải. Doanh nghiệp Logistics, các doanh nghiệp vận tải biển
của Việt Nam phải liên kết, đứng cùng chiến tuyến với các doanh nghiệp xuất nhập khẩu,
nỗ lực tư vấn cung cấp giải pháp tối ưu, tin cậy đảm bảo chuỗi cung ứng hiệu quả, nâng
cao tính cạnh tranh cho hàng hóa, dịch vụ Việt Nam. Đây chính là bước chuẩn bị quan
trọng để củng cố và gia tăng thị phần vận tải biển, Logistics đối với hàng hóa xuất nhập
khẩu của Việt Nam khi thực hiện các hiệp định thương mại tự do song phương và đa
phương sắp tới cũng như việc mở rộng thị trường này theo cam kết của WTO.
Theo ông Bùi Thiên Thu, Phó Cục trưởng Cục Hàng hải Việt Nam: Dịch vụ
Logistics có mối liên hệ mật thiết đến sự phát triển hạ tầng gia thông vận tải, cảng biển,
các phương thức vận tải. Do vậy cần phát triển dịch vụ Logistics tại các nhóm cảng biển
nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động của các cảng biển, đặc biệt là các cảng cửa ngõ quốc
tế và các cảng có lợi thế phát triển trung chuyển.

14


Ông Bùi Thiên Thu cũng cho rằng, Nhà nước cần đầu tư, nâng cấp các tuyến
đường trên các tuyến hành lang như tuyến hành lang Hà Nôi – Tp. Hồ Chí Minh – Mộc
Bài, Biên Hòa – Vũng Tàu; điện khí hóa toàn tuyến đường sắt Hà Nội – Hải Phòng, Đà
Nẵng – Kon Tum…; hoàn thiện giao thông vận tải nội địa khu vực phía Bắc và phía Nam

như tuyến Quảng Ninh – Hải Phòng – Hà Nội – Việt Trì, tuyến Tp. Hồ Chí Minh đi các
tỉnh miền Tây Nam Bộ. Đặc biệt cần phát triển trung tâm Logistics tập trung cấp toàn
cầu, cấp quốc gia tại Hải Phòng – Bà Rịa Vũng Tàu, Đà Nẵng, Hà Nội và Tp Hồ Chí
Minh. Từ những trung tâm gốc này sẽ phát triển kiểu nan quạt các trung tâm Logistics
cấp II, cấp vùng, tiểu vùng phục vụ dòng vận động của hàng hóa bám theo các vành đai,
hành lang kinh tế và chuỗi đô thị, xuyên qua các vùng và tiểu vùng, kết nối các cảng, các
cửa khẩu, các khu công nghuệp với các mạng lưới phân phối tại các trung tâm tiêu dùng.
Dưới góc nhìn doanh nghiệp, ông Đỗ Hà Nam cho rằng, cần quy hoạch vận tải đa
phương thức để thúc đẩy phát triển nhanh hơn các phương thức vận tải hàng hóa có chi
phí thấp, đặc biệt chú trọng phát triển vận tải đường sông tại khu vực miền Tây Nam Bộ.
Nhà nước cần hỗ trợ, khuyến khích, mở rộng mô hình hợp tác công tư trong lĩnh vực phát
triển hệ thống thông tin, viễn thông; gắn công nghệ thông tin trong Logistics, đặc biệt là
khâu thủ tục hải quan và tại biên giới.
II.

Đại diện cho doanh nghiệp 3PL tại Việt Nam:

1. Giới thiệu công ty:

Công ty cổ phần VINAFCO, tiền thân là Công ty dịch vụ vận tải trung ương thành
lập năm 1987 thuộc sở hữu Nhà nước. Công ty này được cổ phần hóa năm 2002, và chính
thức niêm yết trên sàn giao dịch chứng khoán năm 2006 (mã giao dịch VFC).
Với các công ty con cấp 1 :
- Công ty cổ phần vận tải biển VINACFO chuyên kinh doanh dịch vụ vận tải hàng hóa
vên biển và viễn dương
15


- Công ty TNHH Tiếp vận VINACFO kinh doanh dịch vụ cho thuê , vận hành , quản lý
kho bãi và vận tải hàng hóa đường biển

- Công ty TNHH Vận tải và Dịch vụ VINACFO kinh doanh dịch vụ vận tải hàng hóa
đường bộ , dịch vụ hải quan và nhập khẩu ủy thác
- Công ty TNHH Đầu tư VINAFCO Hà Nội kinh doanh vận tải đa phương thức bao gồm
vận tải đường bộ đường sông và đường biển , dịch vụ hỗ trợ vận tải
- Công ty TNHH Tiếp vận VINAFCO Đình Vũ kinh doanh dịch vụ cho thuê , vận hành ,
quản lý kho bãi và vận tải hàng hóa đường biển
- Công ty TNHH Một thành viên VINAFCO Đà Nẵng , Công ty TNHH Một thành viên
VINAFCO Bình Dương , Công ty TNHH Một thành viên VINAFCO Hậu Giang , Công
ty TNHH Một thành viên VINAFCO Thanh Trì kinh doanh dịch vụ cho thuê , vận hành ,
quản lý kho bãi và vận tải hàng hóa đường bộ

Công ty con cấp 2 :
Công ty TNHH Vận tải và Dịch vụ VINACFO Miền trung kinh doanh dịch vụ vận
tải hàng hóa đường bộ, dịch vụ hải quan và xuất nhập khẩu ủy thác.
Trong đó :
Trong năm 2015 hoàn tất thủ tục giải thể các công ty con Công ty TNHH Đầu tư
VINAFCO Hà Nội, Công ty TNHH Một thành viên VINAFCO Thanh Trì

16


- Ngày 14/01/2016, lễ ký kết hợp đồng thành lập Công ty Liên doanh với sự tham gia
của đơn vị Công ty TNHH Hanaro TNS Việt Nam (viết tắt là HTNS) và Công ty Cổ
phần VINAFCO (viết tắt là VFC)
- Ngày 22/10/2015, Chủ tịch Hiệp hội Vật liệu Xây dựng Việt Nam ký Quyết định công
nhận Công ty Cổ phần VINAFCO là thành viên của Hiệp hội.
2. Mục tiêu và tầm nhìn của VINAFCO trong tương lai:
- Không ngừng phát triển các hoạt động sản xuất ,thương mại và dịch vụ nhằm tối đa hóa
lợi nhuận cho các cổ đông , nâng cao thu nhập cho người lao động và phạt triển công ty
ngày càng lớn mạnh bền vững

- Tận dụng cơ hội kinh doanh ,thu hút vốn đầu tư nâng cao phương iện đội tàu nhằm
mang lại cho khách hàng sử dụng dịch vụ tối ưu về thời gian ,an toàn cho hàng hóa ,giá
thành hợp lý góp phần tiết kiệm chi phí cho khách hàng với các loại hình vận tải khác
nhau
- Xây dựng thương hiệu vận tải VINAFCO trở thành một trong những thương hiệu mạnh
của ngành vận tải biển nội địa Việt Nam, tiến tới mở rộng các chuyến vận tải quốc tế
Dịch vụ chủ yếu của công ty bao gồm: vận tải biển, vận tải đường bộ, sửa chữa
container, dịch vụ kho bãi và đại lý hàng hải.
VINAFCO hiện đang sở hữu 230,000 mét vuông kho bãi nằm tại các vị trí trọng
điểm trên cả nước. VINAFCO sở hữu đội xe gồm nhiều chủng loại như ôtô tải với các tải
trọng từ 0,5 tấn đến những tải trọng lớn 30-40 tấn, xe đầu kéo container, xe chuyên
dụng, xe bồn chở hóa chất…. Đội ngũ lái xe, nhân viên điều hành, đội ngũ kỹ thuật sửa
chữa phương tiện có tay nghề cao. VINAFCO đủ năng lực đáp ứng mọi nhu cầu vận
chuyển hàng hóa của khách hàng từ vận tải phân phối đơn giản đến vận tải hàng hóa quá

17


khổ, quá tải, hàng siêu trường, siêu trọng với thời gian đúng cam kết, chất lượng cao và
giá cả hợp lý.
- Vận tải đường bộ kết nối: HCM – Danang – Hanoi
- Vận tải biển nội địa tuyến HCM-HP và ngược lại
- Vận tải biển nội địa tuyến HCM–Danang và ngược lại
- Vận tải phân phối trực tiếp từ nhà máy
- Vận tải phân phối từ Trung tâm phân phối
VINAFCO cung cấp dịch vụ vận tải biển, vận tải hàng không quốc tế với mạng
lưới đại lý trên toàn cầu, thông quan xuất nhập khẩu tại các cảng biển, sân bay, cửa khẩu,
điểm thông quan trên toàn quốc
Những năm gần đây, cùng với việc tập trung nguồn lực đầu tư mạnh mẽ vào cơ sở
hạ tầng, kho bãi, phương tiện, VINAFCO còn tập trung cho việc đầu tư, áp dụng các hệ

thống, công cụ quản trị tiên tiến, hiện đại, áp dụng các ứng dụng công nghệ thông tin vào
hoạt động quản trị nhằm tăng tính hiệu quả, thuận tiện trong sử dụng và vận hành hệ
thống, đáp ứng các yêu cầu quản trị điều hành kịp thời trong hoạt động công ty như: Phần
mềm Warehouse management software (WMS) trong quản trị kho hàng; Phần mềm
Transportation management software ( TMS ); Hệ thống quản lý chất lượng ISO 90012008 trong hoạt động SXKD...
Đến nay, các công cụ và hệ thống trên đang được triển khai và phát huy hiệu quả
trong quản trị, điều hành công ty, cùng với mạng lưới kho bãi, phương tiện vận tải và
nguồn lực khác đảm bảo nâng cao chất lượng, hiệu quả dịch vụ cho khách hàng và công
ty.

18


PHẦN III: KẾT LUẬN
Trong quá trình phát triển nền kinh tế của đất nước, ngành Logistics đóng vai
trò không nhỏ trong sự phát triển của nền kinh tế nước nhà.Với việc gia nhập hiệp
định đối tác xuyên thái bình dương thì ngành Logistics ở Việt Nam sẽ có cơ hội phát
triển và tham gia sâu hơn vào những trung tâm giao dịch vận tải thế giới. Đây là thị
trường được đánh giá nhiều tiềm năng cần phải có sự phối hợp chung tay giữa các bộ
ngành và doanh nghiệp để phát triển. Trong thời gian tới, khi TPP chính thức được ký
kết với nhiều dòng thuế về 0%, sẽ phát triển sôi động của hoạt động xuất nhập khẩu
tại việt nam. Đây là cơ hội lớn cho ngành Logistics bùng nổ.
Để phát triển nền kinh tế đất nước và nâng cao chất lượng dịch vụ Logistics
cho doanh nghiệp xuất nhập khẩu, thì các doanh nghiệp tham gia hoạt động xuất nhập
khẩu Logistics cần chuẩn bị nguồn nhân lực, hạ tầng kĩ thuật đáp ứng yêu cầu thực
hiện cơ chế một cửa quốc gia và chủ động phối hợp với các cơ quan Nhà nước trong
việc thực hiện các thủ tục hành chính trên Cổng thông tin một cửa quốc gia; tích cực
tham gia ý kiến vào các dự thảo văn bản quy phạm pháp luật triển khai Cơ chế một
cửa quốc gia; tham dự đầy đủ các buổi tập huấn do cơ quan Hải quan và các bộ,
ngành tổ chức...

Mặc dù trong thời gian gần đây ngành Logistics Việt Nam đã được Chính phủ
quan tâm về mặt quy hoạch, chiến lược phát triển, các chính sách tạo thuận lợi về
kinh doanh, thương mại XNK, hải quan, thuế… Nhưng các chính sách, thể chế ấy
chưa thực sự đồng bộ, thiếu cập nhật đầy đủ, phù hợp với các tiến bộ, cũng như các
yêu cầu đối với ngành dịch vụ trong bối cảnh mới. Do đó, để ngành dịch vụ Logistics
Việt Nam thực sự phát triển, xứng với tiềm năng của nó, cần phải có sự hỗ trợ và
quan tâm hơn nữa từ phía các cơ quan quản lý vĩ mô của Việt Nam. Nhà nước cần có
biện pháp, chính sách hướng dẫn, thúc đẩy các doanh nghiệp giao nhận, kho vận liên
kết với nhau, hình thành những công ty Logistics có quy mô và năng lực hoạt động đủ
mạnh, có khả năng cạnh tranh với các công ty Logistics nước ngoài. Đồng thời, các
bộ ngành có liên quan nên xây dựng kế hoạch lộ trình phát triển cho các doanh nghiệp
19


Logistics từ giai đoạn liên doanh, liên kết với các đối tác nước ngoài đến giai đoạn
hoạt động kinh doanh độc lập, đặc biệt đối với những công ty, tổng công ty lớn trong
lĩnh vực Logistics.

20



×