Tải bản đầy đủ (.pdf) (157 trang)

KỸ NĂNG GIAO TIẾP với dân của CẢNH sát KHU vực QUẬN THANH XUÂN

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.2 MB, 157 trang )

132
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN

NGUYỄN THỊ HIỀN

KỸ NĂNG GIAO TIẾP VỚI DÂN CỦA
CẢNH SÁT KHU VỰC QUẬN THANH XUÂN

Chuyên ngành : Tâm lý học
Mã số
: 5.06.02

LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC TÂM LÝ

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
GS.TS. NGUYỄN NGỌC PHÚ

HÀ NỘI- 2006


1
PHẦN MỞ ĐẦU
1. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI
Giao tiếp có vai trò rất lớn trong sự hình thành, phát triển nhân cách con
người. Các Mác đã viết: “Bản chất con người không phải là cái trừu tượng cố hữu
của cá nhân riêng biệt. Trong tính hiện thực của nó, bản chất con người là tổng hoà
những quan hệ xã hội ” [25, 257]. Con người luôn sống và hoàn thiện bản thân
trong môi trường xã hội, môi trường giao tiếp. Nếu con người ngay từ lúc sinh ra
đã bị tách khỏi xã hội loài người, tức là họ không được sống, không được hoạt
động và giao tiếp cùng với người khác thì họ không thể tiếp thu, lĩnh hội được


những kinh nghiệm lịch sử xã hội để tạo nên “chất người” mà chỉ những con người
sống trong xã hội mới có. C.Mác đã chỉ ra rằng: “Hoạt động trong sự giao tiếp trực
tiếp với người khác đã trở thành cơ quan biểu hiện cuộc sống của tôi và là một
trong những phương thức lĩnh hội kinh nghiệm sống của loài người” [25, 28]. Giao
tiếp là một nhu cầu không thể thiếu được của con người, đồng thời nó cũng là điều
kiện tất yếu của sự tồn tại xã hội loài người. Giao tiếp là điều kiện thiết yếu của
mọi hoạt động của cá nhân và xã hội và cùng với hoạt động, giao tiếp đã trở thành
phương thức tồn tại của xã hội loài người nói chung và nhân cách của con người
nói riêng.
Giao tiếp cũng có vai trò rất quan trọng trong sự hình thành và phát triển kỹ
năng nghề nghiệp. Nhờ giao tiếp mà cá nhân hình thành và phát triển được phẩm
chất và năng lực nghề nghiệp đáp ứng yêu cầu của xã hội.
Trong hoạt động nghiệp vụ của công tác Công an thì giao tiếp lại càng có
một ý nghĩa quan trọng, đặc biệt là trong quan hệ với quần chúng nhân dân. Xuất
phát từ quan điểm Cách mạng là sự nghiệp của quần chúng, không có sự tham gia
tích cực của đông đảo quần chúng lao động thì nhất định cách mạng không thể xảy
ra và giành được thắng lợi. Đó là nguyên lý, đường lối và cũng là quan điểm cơ
bản của chủ nghĩa Mác - Lênin được vận dụng trong công cuộc đấu tranh chống tội
phạm, giữ gìn ANTT. Xác định được vai trò to lớn của quần chúng nhân dân trong
sự nghiệp cách mạng. Đảng ta đã khẳng định: chính nhân dân là người làm nên


2
thắng lợi lịch sử. Với quan điểm này, Đảng, Nhà nước đã, đang và sẽ khơi dậy,
phát huy khả năng tiềm tàng và sức mạnh to lớn của quần chúng nhân dân trong
công cuộc xây dựng Chủ nghĩa xã hội và bảo vệ tổ quốc Việt nam Xã hội Chủ
nghĩa.
Nhận thức được tầm quan trọng to lớn của quần chúng nhân dân trong sự
nghiệp đấu tranh giữ vững an ninh quốc gia và TTATXH, tại hội nghị Công an
toàn quốc lần thứ 43, ngành Công an cũng xác định: Phải chuyển mạnh hoạt động

của Công an theo quan điểm lấy dân làm gốc. Thực tiễn đấu tranh bảo vệ ANTT ở
nước ta đã chỉ ra: bảo vệ an ninh quốc gia và giữ gìn TTATXH là một nội dung
làm chủ của nhân dân; vận động quần chúng giữ gìn ANTT là một hình thức thể
hiện quyền làm chủ của nhân dân, là một biện pháp rất cơ bản trong công cuộc đấu
tranh bảo vệ ANTT. Việc huy động có kết quả đông đảo quần chúng nhân dân tích
cực tham gia vào phong trào bảo vệ an ninh tổ quốc phụ thuộc rất nhiều vào hoạt
động quan hệ giao tiếp với quần chúng nhân dân của lực lượng Công an. Hoạt
động tiếp xúc với nhân dân là một trong những hoạt động cơ bản, hết sức đa dạng,
phức tạp, phong phú, có tính chất thường xuyên, liên tục, lâu dài và là một yêu cầu
không thể thiếu được của lực lượng Công an nhân dân nói chung và Cảnh sát khu
vực nói riêng trong công tác phòng ngừa, đấu tranh chống tội phạm và các hành vi
vi phạm pháp luật khác. Việc quan hệ tiếp xúc với nhân dân của lực lượng Cảnh
sát khu vực không chỉ là hoạt động giao tiếp thông thường trong xã hội, mà còn là
một hoạt động mang tính nghiệp vụ sâu sắc. Qua mối quan hệ tiếp xúc này, một
mặt Cảnh sát khu vực thực hiện được yêu cầu, nội dung công tác của lực lượng
Công an như: thu thập những thông tin, tư liệu, dư luận về những vấn đề liên quan
đến ANTT để có biện pháp giải quyết kịp thời. Thông qua quan hệ tiếp xúc với
nhân dân, Cảnh sát khu vực nắm được thái độ của họ đối với các chế độ chính sách
của Đảng, Pháp luật của Nhà nước trong các lĩnh vực khác nhau, đồng thời Cảnh
sát khu vực có điều kiện tổ chức vận động, hướng dẫn nhân dân chấp hành pháp
luật, thu thập nắm tình hình những vấn đề có liên quan đến an ninh, trật tự phục vụ
công tác phòng ngừa, phát hiện đấu tranh chống tội phạm góp phần giữ vững an
ninh quốc gia và TTATXH. Mặt khác, thông qua tiếp xúc với nhân dân, mối quan
hệ chặt chẽ giữa công an với nhân dân ngày càng bền chặt, củng cố được lòng tin


3
của quần chúng nhân dân đối với Đảng, với Nhà nước, đối với ngành Công an và
cũng tạo điều kiện xây dựng lực lượng Công an nhân dân trong sạch vững mạnh.
Giao tiếp nói chung và giao tiếp với dân nói riêng của các chiến sỹ Cảnh sát

khu vực có ý nghĩa hết sức quan trọng trong hoạt động giữ gìn TTATXH. Người
Cảnh sát khu vực không chỉ thực hiện nhiệm vụ quản lý hành chính về an toàn trật
tự mà còn thực hiện quan hệ xã hội, quan hệ người với người. Hoạt động nghiệp vụ
của Cảnh sát khu vực sẽ không mang lại kết quả cao nếu quan hệ giao tiếp với các
loại đối tượng, trong đó có quần chúng nhân dân kém hiệu quả. Vì vậy tìm hiểu
thực trạng về kỹ năng giao tiếp với dân làm cơ sở đề xuất các biện pháp bồi dưỡng
kỹ năng giao tiếp này nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động tiếp xúc với dân cho lực
lượng Cảnh sát khu vực là vấn đề vô cùng cần thiết.
Với những lý do trên chúng tôi lựa chọn đề tài: “Kỹ năng giao tiếp với dân của
Cảnh sát khu vực quận Thanh Xuân” làm đề tài luận văn thạc sĩ khoa học tâm lý.
2. MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU
Mục đích nghiên cứu của đề tài là chỉ ra được yêu cầu và thực trạng kỹ năng
giao tiếp với dân của Cảnh sát khu vực quận Thanh Xuân, trên cơ sở đó đề xuất
một số biện pháp nhằm nâng cao hiệu quả rèn luyện kỹ năng giao tiếp này cho cán
bộ chiến sỹ Cảnh sát khu vực trong quá trình công tác.
3. NHIỆM VỤ NGHIÊN CỨU
- Khái quát một số vấn đề lý luận cơ bản về giao tiếp, kỹ năng giao tiếp
trong tâm lý học và kỹ năng giao tiếp với dân của Cảnh sát khu vực quận Thanh
Xuân. Đưa ra hệ thống các kỹ năng giao tiếp với dân cần có trong điều kiện hiện
nay của Cảnh sát khu vực.
- Khảo sát thực trạng kỹ năng giao tiếp với dân của Cảnh sát khu vực thuộc
Công an các phường của quận Thanh Xuân, thành phố Hà Nội.
- Đề xuất một số biện pháp nhằm nâng cao hiệu quả rèn luyện kỹ năng giao
tiếp với dân cho cán bộ chiến sỹ Cảnh sát khu vực trong quá trình công tác.
4. ĐỐI TƢỢNG, KHÁCH THỂ VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU
4.1. Đối tượng nghiên cứu


4
Kỹ năng giao tiếp với dân. Đề tài đi vào làm rõ yêu cầu và thực trạng kỹ

năng giao tiếp với dân của cán bộ chiến sỹ Cảnh sát khu vực đang công tác trên địa
bàn quận Thanh Xuân.
4.2. Khách thể nghiên cứu
- Khách thể chính: Cán bộ chiến sỹ Cảnh sát khu vực đang trực tiếp hoạt
động của 03 CAP thuộc quận Thanh Xuân, thành phố Hà Nội.
- Khách thể phụ:
+ Cán bộ lãnh đạo, chỉ huy của 03 CAP thuộc khu vực khảo sát tương ứng.
+ Đại biểu nhân dân thuộc các khu vực khảo sát tương ứng.
4.3. Giới hạn và phạm vi nghiên cứu
- Chúng tôi tiến hành nghiên cứu 30 Cảnh sát khu vực đang trực tiếp hoạt
động ở 03 CAP (Thanh Xuân Bắc, Thanh Xuân Trung, Nhân Chính thuộc quận
Thanh Xuân, thành phố Hà Nội.)
- 06 cán bộ lãnh đạo, chỉ huy của 03 CAP nói trên. (Trưởng CA Phường,
Phó CA phường phụ trách Cảnh sát khu vực.)
- 600 đại biểu nhân dân thuộc các thành phần khác nhau của 03 khu vực
khảo sát tương ứng (20 dân/ 1 Cảnh sát khu vực.)
5. GIẢ THUYẾT KHOA HỌC
Kỹ năng giao tiếp với dân của các Cảnh sát khu vực là một dạng kỹ năng
phức tạp có nhiều đặc thù trong lĩnh vực hoạt động của các chiến sỹ Công an nhân
dân. Nếu chúng ta chỉ rõ được các loại kỹ năng này, xác định được yêu cầu, mức
độ kỹ năng giao tiếp với dân của Cảnh sát khu vực và những nguyên nhân ảnh
hưởng đến nó thì sẽ góp phần nâng cao hiệu quả rèn luyện kỹ năng giao tiếp với
dân cho cán bộ chiến sỹ Cảnh sát khu vực, qua đó góp phần rèn luyện kỹ năng này
ngay trong quá trình đào tạo cho học sinh chuyên ngành Cảnh sát khu vực trong
các trường Công an nhân dân.
6. PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU


5
Để nghiên cứu đề tài này, chúng tôi đã sử dụng một hệ thống các phương

pháp nghiên cứu của Tâm lý học như sau:


6
6.1. Phương pháp nghiên cứu văn bản, tài liệu
Bằng phương pháp này, chúng tôi đã khai thác được những vấn đề cơ bản về
lý luận giao tiếp trong và ngoài nước. Nghiên cứu giáo trình, các văn bản, chỉ thị
của ngành Công an, điều lệnh Cảnh sát khu vực...
6.2. Phương pháp điều tra bằng phiếu (Anket)
Điều tra bằng phiếu trên ba loại khách thể bao gồm:
- Mẫu M - 01: Dùng cho Cảnh sát khu vực
- Mẫu M - 02: Dùng cho nhân dân thuộc khu vực khảo sát.
- Mẫu M - 03a; M - 03b: Dùng cho cán bộ lãnh đạo, chỉ huy CAP.
6.3. Phương pháp trò chuyện và phỏng vấn sâu
Chúng tôi sử dụng mẫu P - 01; P - 02, trò chuyện và phỏng vấn sâu với cán
bộ Cảnh sát khu vực lâu năm, cán bộ lãnh đạo, chỉ huy CAP và đại biểu nhân dân
thuộc các khu vực được khảo sát. Nội dung trò chuyện và phỏng vấn tập trung vào
các vấn đề:
- Hiểu về kỹ năng giao tiếp với dân như thế nào? Vai trò của nó trong hoạt
động nghề nghiệp của người cán bộ, chiến sỹ Cảnh sát khu vực ?
- Những kỹ năng giao tiếp với dân cần thiết và mức độ thể hiện của chúng ở
Cảnh sát khu vực hiện nay?
- Những thuận lợi và khó khăn của Cảnh sát khu vực trong quá trình tiếp xúc
với dân thuộc khu vực mình phụ trách?
Người chiến sỹ Cảnh sát khu vực cần phải như thế nào khi tiếp xúc với quần
chúng nhân dân?
6.4 Phương pháp quan sát
Bằng cách quan sát các cuộc tiếp xúc, gặp gỡ của cán bộ, chiến sỹ Cảnh sát
khu vực với nhân dân thuộc địa bàn quản lý, chúng tôi đã thu thập được những
thông tin bổ ích nhằm kiểm tra và bổ sung cho các phương pháp trên.



7
6.5. Phương pháp thống kê toán học
Chúng tôi sử dụng toán thông kê khi sử lý kết quả nghiên cứu.
7. ĐÓNG GÓP MỚI CỦA LUẬN VĂN
Đây là đề tài nghiên cứu tâm lý học đầu tiên về kỹ năng giao tiếp với dân
của Cảnh sát khu vực thực hiện trên một địa bàn cụ thể tại Hà Nội là quận Thanh
Xuân. Luận văn đã chỉ ra được những kỹ năng giao tiếp với dân cần thiết của Cảnh
sát khu vực. Do vậy, kết quả nghiên cứu của luận văn sẽ góp phần bổ xung cho nội
dung đào tạo của các nhà trường Cảnh sát nhân dân, giúp đề ra các biện pháp rèn
luyện kỹ năng giao tiếp với dân cho Cảnh sát khu vực và cho các học viên chuyên
ngành Cảnh sát khu vực đang học tập trong các trường Công an nhân dân hiện nay.


8
PHẦN NỘI DUNG NGHIÊN CỨU
Chƣơng 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU
1.1. VÀI NÉT VỀ LỊCH SỬ VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU
1.1.1. Ở nước ngoài
Giao tiếp là một trong những hiện tượng tâm lý đặc trưng của con người, nó
xuất hiện cùng với sự ra đời của xã hội loài người. Nhưng việc nghiên cứu về giao
tiếp với tư cách là một phạm trù khoa học thì chỉ mới được thực sự chú ý trong
những năm gần đây. So với nhiều vấn đề khoa học khác, giao tiếp vẫn là một trong
những vấn đề mới của khoa học nói chung và của khoa học tâm lý nói riêng. Từ
trong lịch sử vấn đề giao tiếp cũng đã được các nhà nghiên cứu xem xét ở nhiều
góc độ khác nhau.
Ngay từ thời cổ đại, vấn đề giao tiếp chủ yếu được các nhà triết học quan
tâm. Hai nhà triết học cổ Hy Lạp Socrate (470 - 399 TCN) và Platon (428 - 377

TCN) đã coi đối thoại như một sự giao tiếp có trí tuệ, phản ánh các mối quan hệ xã
hội của con người, là nơi bộc lộ đời sống tâm hồn của con người. Tư tưởng này
trong xã hội cổ đại mới chỉ tạo ra bước đầu tiên của việc hiểu biết giao tiếp mà
thôi, chưa có những nghiên cứu đi sâu vào vấn đề giao tiếp để tìm ra bản chất của
nó, chưa thấy được giao tiếp có ý nghĩa đích thực trong ý thức xã hội.
Thế kỷ XVIII, nhà triết học Hà Lan M. P. Kemxtexlokis đã viết một tiểu
luận nhan đề “Một bức thư về con người và các quan hệ của nó với người khác”.
Đến thế kỷ XIX, giao tiếp được đánh giá như một vấn đề có tầm quan trọng
đặc biệt đối với sự hình thành và phát triển xã hội loài người nói chung và nhân
cách con người nói riêng.
Nhà triết học Đức Phơ Bách (1804 - 1872) đã viết: “Bản chất con người chỉ
biểu hiện trong giao tiếp, trong sự thống nhất của con người với con người, trong
sự thống nhất dựa trên tính hiện thực của sự khác biệt giữa tôi và bạn”.

Ket-noi.com forum công nghệ, giáo dục


9
Giữa thế kỷ XIX, kế thừa và phát triển tư tưởng của các nhà triết học đi
trước, C.Mác và Ph.Ăng ghen đã nêu ra những phát hiện quan trọng liên quan đến
giao tiếp. Trong khi nghiên cứu lịch sử phát triển xã hội loài người, hai ông đã rút
ra kết luận rằng: Giao tiếp bằng ngôn ngữ là một trong hai điều kiện quyết định để
biến vượn thành người (điều kiện kia là lao động). Đồng thời C.Mác (1818 - 1883)
đã có tư tưởng về nhu cầu xã hội giữa con người với con người. Trong hoạt động
xã hội, tiêu dùng xã hội, con người phải giao tiếp thực sự với người khác. ông cũng
nhấn mạnh rằng “Sự phát triển của một cá thể phụ thuộc vào sự phát triển của
nhiều cá thể khác mà nó đã giao tiếp trực tiếp hay gián tiếp”.[24, 493]
Đến thế kỷ XX, vấn đề giao tiếp ngày càng được các nhà triết học, tâm lý
học, xã hội học quan tâm hơn.
C.Mít (1863 - 1931) nhà tâm lý học và triết học Mỹ đưa ra thuyết quan hệ

qua lại tượng trưng đã khẳng định vai trò của giao tiếp đối với sự tồn tại của con
người: “Nếu chúng ta muốn có cái riêng của chúng ta thì phải có cái “tôi” khác. Đó
là những khách thể xã hội, khác với những khách thể vật lý, vì nó có khả năng tác
động tích cực lên cái “tôi” của người khác mà ngày nay chúng ta thường gọi là chủ
thể”.
Cac Giatxpe (1883 - 1969) nhà triết học, nhà tâm lý học Đức đưa ra lý
thuyết giao tiếp hiện sinh, thuyết này cho rằng con người cần phải giao tiếp với
nhau một cách sống động, liên tục qua các cuộc tranh luận về các vấn đề xã hội, đó
là điều kiện cho sự tồn tại của con người. Giao tiếp hiện sinh là cuộc trò chuyện
giữa những người gần gũi về các vấn đề quan trọng đối với họ.
Máctin Bubơ (1878 - 1965) một đại diện khác của triết học hiện sinh trong
tác phẩm “Tôi và bạn” đã cho rằng “Tồn tại là đối thoại”, sau trở thành “Nguyên
tắc đối thoại” góp phần phát triển lý thuyết giao tiếp.
Các nhà triết học hiện sinh Pháp như: J.Macsen (1869 - 1973), J.P.Sáctơrơ
(1905 - 1961) và Maniê (1905- 1950) cũng đã nghiên cứu vấn đề giao tiếp xuất
phát từ quan điểm của Bubơ, Maniê viết: “Tôi chỉ tồn tại chừng nào tôi tồn tại cho
người khác”.


10
Đầu thế kỷ XX, nhà triết học Nga V.M.Becherep (1857-1927) trong tác
phẩm “Tâm lý học khách quan” (1907); “ Phản xạ học tập thể” (1921) đã đề cập
nhiều đến vấn đề giao tiếp, theo ông đó là ảnh hưởng tâm lý qua lại giữa người này
với người kia, giao tiếp giữ vai trò cơ chế thực hiện hoạt động cùng nhau và hình
thành nên chủ thể tập thể của hoạt động đó, giao tiếp là điều kiện thực hiện việc
giáo dục, truyền đạt kinh nghiệm từ thế hệ này sang thế hệ khác.
Trong những năm đầu thế kỷ XX, khoa học tâm lý đã bắt đầu chú ý nghiên
cứu vấn đề giao tiếp.
S.Freud (1856 - 1939) người sáng lập ra trường phái phân tâm học đã nghiên
cứu mối liên hệ giữa giao tiếp và giấc mơ, ông lưu ý đến các yếu tố “chuyển giao”,

“ngoại xuất” và “đồng nhất” trong giao tiếp, khi giao tiếp có người phát tín hiệu,
có người nhận thông tin và cả hai bên đều muốn tìm hiểu nhau, làm theo nhau...
Còn các nhà tâm lý học Ghestan như M. Wertheimer (1880 - 1943),
V.Kửhler (1887 - 1967) và K.Koffka (1886 - 1941) cho rằng: giao tiếp cũng giống
như mọi sự vật, mọi hiện tượng tâm lý, đều được tạo nên những hình ảnh có cấu
trúc hoàn chỉnh, mang tính trọn vẹn, trong cấu trúc giao tiếp có nội dung hoạt động
của con người và mục đích của các quan hệ xã hội là nhằm bảo tồn, phát triển bản
thân, gia đình, cộng đồng của con người đó [2, 12].
Giữa thế kỷ XX, một loạt các tác phẩm mới ra đời mở đầu cho sự hình thành
một số chuyên ngành khoa học chẳng hạn, nhà bác học Mỹ N.Vinơ với tác phẩm
“Điều khiển học” (1948); cuốn “Lý thuyết toàn học của quá trình thông tin” của
C.Senen (1949) và tác phẩm “Phác họa lý thuyết chung và hệ thống” (1950). Bắt
đầu từ đây, việc nghiên cứu giao tiếp chịu ảnh hưởng thêm của điều khiển học, lý
thuyết thông tin và lý thuyết hệ thống.
Ở Liên xô (trước đõy), ngay từ những năm 20 - 30 của đầu thế kỷ XX trên
cơ sở của triết học Mác xít, giao tiếp đã được xem xét dưới góc độ tâm lý học với
các nhà tâm lý học nổi tiếng

như L.X. Vưgôtxki; X.L.Rubinxtein;

A.N.Lêônchiep... Nhưng phải mãi tới những năm 70 của thế kỷ XX, giao tiếp mới
thực sự nổi lên thành một vấn đề lớn và được nhiều nhà tâm lý học Xôviết nghiên


11
cứu bàn luận một cách sôi nổi và sâu sắc. Tại Liên xô trước đây đã tổ chức ba hội
nghị bàn về giao tiếp được tổ chức vào tháng 3/1970; 3/1973; 5/1973. Các hội nghị
này đã đề cập đến hàng loạt các vấn đề về giao tiếp như: Phương pháp luận và
phương pháp nghiên cứu giao tiếp; Các phương pháp và các công cụ nghiên cứu
giao tiếp; Cơ chế giao tiếp; Ảnh hưởng của đặc điểm cá nhân đối với quá trình giao

tiếp; Mô hình hoá quá trình giao tiếp; Sự ảnh hưởng và vi phạm loại hình giao
tiếp...
Qua các hội nghị này, các nhà tâm lý học Xôviết có dịp trao đổi với nhau,
khẳng định tầm quan trọng của giao tiếp và sự cần thiết phải mở rộng các hướng
nghiên cứu về giao tiếp theo tư tưởng xuất phát của C.Mác. Từ sau các hội nghị
này, hàng loạt các công trình nghiên cứu về giao tiếp ra đời, trong đó phải đặc biệt
nói đến: Xacôpnhin với tác phẩm “Về bản chất giao tiếp người” (1973); A.N.
Lêônchiep với công trình “Tâm lý học giao tiếp ” (1974) và “Giao tiếp sư phạm”
(1979);
I.L.Kalaminxki với cuốn “Tâm lý học về các mối quan hệ qua lại trong nhóm
nhỏ”; B.F.Lômov với tác phẩm “Giao tiếp là vấn đề của tâm lý học” (1981); K.K.
Platonov với tác phẩm “Vấn đề giao tiếp trong tâm lý học” (1981); Sôlôkhôva có
tác phẩm “Những trở ngại tâm lý trong giao tiếp giữa các nhân cách” (1985).
Ở phương Tây vấn đề giao tiếp cũng được đề cập trong nhiều công trình của
nhiều tác giả như:
- Công trình nghiên cứu của Bird Wistell (1970) cho rằng: giao tiếp là một
quá trình đa kênh liên tục, sử dụng tất cả các phương thức cảm giác, thị giác, thính
giác [dẫn theo 19, 5- 38].
- Năm 1972 Meharabian đã nghiên cứu những chỉ báo phi ngôn ngữ tính trội
khi giao tiếp với những loại có các cương vị khác nhau [Dẫn theo 19, 5- 38].
- Nhà bác học Mỹ Halơ đã nghiên cứu từ 1958 - 1975 vấn đề khoảng cách
không gian tác động trực tiếp đến thị giác và thính giác trong quá trình giao tiếp
[Dẫn theo 16, 191].


12
- Posman và Allport (1965) có công trình nghiên cứu về tiếng đồn và thông
tin truyền miệng trong giao tiếp xã hội [Dẫn theo 16, 191].
Mặc dù có nhiều quan điểm khác nhau, nhưng các nhà tâm lý học đều đi đến
thống nhất một nhận định: Giao tiếp có vai trò quan trọng, quyết định sự phát triển

nhân cách của cá nhân và của xã hội loài người. Các công trình nghiên cứu giao
tiếp không chỉ dừng lại ở những nghiên cứu lý luận chung mà còn đi sâu vào
nghiên cứu giao tiếp theo đặc trưng nghề nghiệp, lứa tuổi... để ứng dụng vào thực
tiễn cuộc sống.
Xu hướng đi sâu vào nghiên cứu về kỹ năng giao tiếp cũng được thể hiện
nhiều ở các tác giả Liên Xô (trước đây):
A.A.Lêônchiep đã nêu một số kỹ năng giao tiếp sư phạm như:
+ Kỹ năng điều khiển hành vi bản thân.
+ Kỹ năng quan sát (phẩm chất chú ý, linh hoạt).
+ Kỹ năng nhạy cảm xã hội, biết phán đoán nét mặt người khác.
+ Kỹ năng đọc, hiểu, mô hình hoá nhân cách học sinh.
+ Kỹ năng làm gương cho học sinh noi theo.
+ Kỹ năng giao tiếp ngôn ngữ.
+ Kỹ năng kiến tạo sự tiếp xúc.
+ Kỹ năng nhận thức (thu thập, hệ thống hoá và truyền đạt thông tin).
I.P.Dakharov đã đề xuất trắc nghiệm nghiên cứu các kỹ năng giao tiếp, đi
vào nghiên cứu 10 kỹ năng giao tiếp cơ bản:
1. Kỹ năng tiếp xúc thiết lập quan hệ.
2. Kỹ năng biết cân bằng nhu cầu cá nhân và đối tượng trong quá trình giao
tiếp.
3. Kỹ năng nghe đối tượng.
4. Kỹ năng tự kiềm chế, kiểm tra người khác.


13
5. Kỹ năng tự chủ cảm xúc hành vi.
6. Kỹ năng diễn đạt dễ hiểu, cụ thể.
7. Kỹ năng linh hoạt, mềm dẻo trong giao tiếp.
8. Kỹ năng thuyết phục đối tượng giao tiếp.
9. Kỹ năng chủ động điều khiển quá trình giao tiếp.

10. Kỹ năng nhạy cảm trong giao tiếp [Xem 17, 157].
Khác với các nhà tâm lý học Xô viết (chủ yếu theo hướng nghiên cứu về kỹ
năng giao tiếp sư phạm), thì trong tâm lý học Mỹ xuất hiện nhiều tác giả nghiên
cứu về nghệ thuật giao tiếp, kỹ năng giao tiếp trong quản lý, trong lĩnh vực kinh
doanh.
Alen Pit, Tiến sĩ tâm lý học Mỹ, tác giả cuốn sách “Ngôn ngữ của cử chỉ - ý
nghĩa của cử chỉ chỉ trong giao tiếp” đã đi sâu phân tích phát hiện các trạng thái
tâm lý thông qua những động tác, cử chỉ điệu bộ, tư thế của con người trong giao
tiếp. Ông cho rằng: “Giao tiếp không bằng lời là một quá trình tác động phức tạp
của con người, những động tác, cử chỉ , nét mặt v.v.có một ý nghĩa nhất định, khi
hạnh phúc con người mỉm cười, khi buồn thì chau mày, khi giận dữ thì có cái nhìn
bực tức; gật đầu là đúng, lắc đầu là sai”[29, 14].
Nghiên cứu giao tiếp trong quản lý và kinh doanh, trên cuốn “Tiếp xúc mặt
đối mặt trong quản lý” Đ.Tôlinhtơn đã phân tích các hình thức tiếp xúc thường gặp
giữa người quản lý và người bị quản lý, từ đó người quản lý cần có những kỹ năng
giao tiếp với người dưới quyền [45, 119].
Đ.Cacnơgie tác giả cuốn “Đắc nhân tâm” thì lại không đi sâu phân tích lý
luận giao tiếp mà chủ yếu đưa ra những nghệ thuật, những bí quyết trong quan hệ
giao tiếp giữa con người và con người. Để thu hút được đối tượng giao tiếp, con
người cần phải có nghệ thuật và kỹ năng giao tiếp nhất định, ông đã đưa ra 6 cách
gây thiện cảm trong giao tiếp:
1. Thành thật, quan tâm đến người khác.


14
2. Biết thể hiện nét mặt tươi cười khi tiếp xúc.
3. Cố gắng biết tên đối tượng và xưng tên họ khi tiếp xúc.
4. Biết chăm chú lắng nghe, khuyến khích đối tượng nói chuyện về họ.
5. Nói với người ấy về sở thích, hoài bão của họ.
6. Thành thật là cho họ thấy sự quan trọng của họ. [7, 98]

Giáo sư tâm lý học Nam Tư Pripa Misic mới đây cho xuất bản cuốn “Nghệ
thuật đàm thoại”. Tác giả đã nghiên cứu sâu vấn đề giao tiếp đàm thoại trong đàm
phán kinh doanh, ông đã chia quá trình đàm thoại thành các giai đoạn và mỗi giai
đoạn có những kỹ thuật và kỹ năng giao tiếp tương ứng đó là:
- Giai đoạn mở đầu đàm thoại.
- Giai đoạn truyền đạt thông tin.
- Giai đoạn lập luận.
- Giai đoạn vô hiệu hoá ý kiến đối phương.
- Giai đoạn ra quyết định và kết thúc đàm thoại.
[27, 29].
1.1.2. Ở Việt Nam
- Nghiên cứu chung về giao tiếp.
Ở Việt Nam, vấn đề giao tiếp cũng chỉ được nhiều nhà nghiên cứu bắt đầu từ
cuối những năm 70. Nghiên cứu giao tiếp phát triển mạnh mẽ và đi theo nhiều xu
hướng khác nhau, bao gồm cả những công trình nghiên cứu lý luận và nghiên cứu
thực tiễn. Có thể kể ra một số công trình như: Tác giả Đỗ Long với bài viết:
“C.Mác và phạm trù giao tiếp” (1963); Phó giáo sư Trần Trọng Thuỷ: “Giao tiếp
- tâm lý - nhân cách” (1981); “Đặc điểm giao tiếp của sinh viên” (1985); “Nhập
môn khoa học giao tiếp” (1995); Bùi Văn Huệ với “Bàn về phạm trù giao tiếp ”
(1981); Phó Tiến sỹ Ngô Công Hoàn “Giao tiếp sư phạm” (1992); Nguyễn Văn


15
Lê: “Vấn đề giao tiếp” (1992); “Tâm lý học giao tiếp” (1993) của Trần Tuấn Lộ;
Nguyễn Quang Uẩn :“Giao tiếp và tâm lý’ (1998).
Ngoài ra còn một số các công trình nghiên cứu của nghiên cứu sinh, sinh
viên và các báo cáo khoa học về vấn đề giao tiếp như: Lê Xuân Hồng: “Một số đặc
điểm giao tiếp của trẻ mẫu giáo trong nhóm chơi không cùng độ tuổi” (1994), luận
án PTS tâm lý học; Nguyễn Thanh Bình: “Những khó khăn tâm lý trong giao tiếp
sư phạm” (1997), luận án PTS tâm lý học; Đào Thị Oanh: “Giao tiếp và sự hình

thành nhân cách thiếu niên” (1999), luận án TS tâm lý học; Nguyễn Xuân Thức:
“Nghiên cứu tính tích cực giao tiếp của trẻ mẫu giáo 5 - 6 tuổi trong hoạt động vui
chơi ” (1997), luận án PTS tâm lý học; Hoàng Văn Học: “Đặc điểm giao tiếp của
người cảnh sát khu vực” (1998); Nguyễn Liên Châu: “Đặc điểm giao tiếp của hiệu
trưởng trường tiểu học” (2000), luận án TS tâm lý học; Nguyễn Thị Thanh Hà:
“Vấn đề giao tiếp của bác sỹ quân y với người bệnh trong quá trình khám và chữa
bệnh” (2000), luận án TS tâm lý học; Hoàng Thị Bích Ngọc: “Đặc điểm giao tiếp
của trẻ em phạm tội mức độ ít nghiêm trọng” (2000), luận án TS tâm lý học.
- Nghiên cứu về kỹ năng giao tiếp.
Ở nước ta trong những năm gần đây cũng đã có các tác giả bắt đầu đi vào
nghiên cứu sâu về kỹ năng giao tiếp trong một số lĩnh vực, nghề nghiệp cụ thể.
Phó Giáo sư Trần Trọng Thuỷ trong bài: “Tình người, giao tiếp và văn hoá
giao tiếp” (1998) đã phân tích mối quan hệ giữa tình người, văn hoá và giao tiếp,
trong đó tác giả có viết: “ Văn hoá giao tiếp có liên quan mật thiết với kỹ năng
giao tiếp, có một số kỹ năng giao tiếp đặc trưng của con người như: kỹ năng chỉnh
sửa các ấn tượng ban đầu của mình về người khác khi mới làm quen với họ; kỹ
năng bước vào giao tiếp với người khác một cách không có định kiến. Những kỹ
năng giao tiếp này không có sẵn, mà thông qua học tập và rèn luyện” [41, 21-23]
Tác giả Nguyễn Đình Xuân trong “Giáo tình tâm lý học quản lý” cũng có đề
cập đến một số kỹ thuật giao tiếp như: “lựa chọn địa điểm, thời gian tiếp khách,


16
làm chủ cảm xúc của mình trong tiếp xúc, thuật nghe và dẫn dắt người để moi tin,
những điểm cần chú ý khi kết thúc tiếp xúc...” [48, 215]
Trong cuốn: “Giáo trình Tâm lý và nghệ thuật giao tiếp ứng xử trong kinh
doanh du lịch” , tác giả Nguyễn Văn Đính đi sâu phân tích một số đặc trưng trong
giao tiếp du lịch, trong đó có kỹ năng giao tiếp của người hướng dẫn viên: “Người
hướng dẫn viên du lịch biết rèn luyện một số kỹ năng giao tiếp để thu hút khách
(Kỹ năng định hướng, kỹ năng định vị, kỹ năng điều khiển giao tiếp)” [12, 67].

Tác giả Mai Hữu Khuê với cuốn “Những cơ sở khoa học của quản lý kinh
tế” cho rằng người lãnh đạo cần có một số kỹ năng giao tiếp sau: “Kỹ năng hiểu
nhu cầu lo lắng của đối tượng, giúp cán bộ quản lý xác định hành động khi gặp
gỡ; kỹ năng thể hiện sự quan tâm với cấp dưới; kỹ năng lắng nghe; kỹ năng nghiên
cứu con người” [18, 98].
Tiến sỹ Thái Chí Dũng trong tác phẩm “ Kỹ năng giao tiếp và thương lượng
trong kinh doanh” và Phó Tiến sỹ Đinh Văn Tiến với “Nghệ thuật đàm phán trong
kinh doanh” đã quan tâm trình bày một số kỹ năng giao tiếp trong công trình của
mình:
Kỹ năng nghe mà hình thức cao nhất là nghe thấu cảm, trong đó có một số
kỹ năng: Kỹ năng biểu lộ sự quan tâm, kỹ năng gợi mở, kỹ năng phản ánh.
Kỹ năng đặt câu hỏi.
Kỹ năng diễn thuyết và báo cáo miệng (kỹ năng nói).
Kỹ năng giao dịch bằng thư tín (kỹ năng viết). [9, 91] [44, 113]
Hai tác giả Nguyễn Xuân Thơm và Nguyễn Văn Hồng với “Kỹ thuật đàm
phán thương mại quốc tế” cũng nêu lên 10 kỹ thuật giao tiếp căn bản, trong đó nhà
kinh doanh có thể vận dụng để đạt được thành công trong đàm phán thương mại
[38, 151].
Hoàng Anh trong cuốn: “Kỹ năng giao tiếp sư phạm của sinh viên”, luận án
PTS tâm lý học đã nêu ra 03 nhóm các kỹ năng giao tiếp sư phạm:
+ Nhóm kỹ năng định hướng giao tiếp.


17
+ Nhóm kỹ năng điều khiển bản thân.
+ Nhóm kỹ năng điều khiển đối phương. [2, 38].
Tác giả Võ Sĩ Lục trong luận án TS tâm lý học “Kỹ năng giao tiếp nghiệp vụ
của trinh sát an ninh và phương pháp đánh giá chúng” cũng đưa ra 13 kỹ năng
giao tiếp nghiệp vụ cần thiết của trinh sát an ninh [23, 51].
Từ những công trình đã dẫn ra ở trên, có thể thấy rằng vấn đề giao tiếp, kỹ

năng giao tiếp đã được rất nhiều tác giả luận bàn cả ở trong nước và ở nước ngoài.
Đã có nhiều các công trình nghiên cứu, các cuốn sách giá trị, các luận án...đề cập
đến hiện tượng này ở nhiều góc độ thuộc nhiều lĩnh vực khác nhau của cuộc sống.
Tuy vậy, trong lĩnh vực giao tiếp vẫn còn tồn tại nhiều vấn đề cần phải tiếp
tục bàn luận để có sự thống nhất. Khái niệm giao tiếp, kỹ năng giao tiếp vẫn cần
phải tiếp tục được làm rõ. Đặc biệt việc nghiên cứu kỹ năng giao tiếp trong một
loại hình hoạt động cụ thể như kỹ năng giao tiếp với dân của cán bộ, chiến sỹ cảnh
sát khu vực, cho đến nay, chưa có công trình nào tiến hành nghiên cứu. Vì vậy,
công trình mà chúng tôi tiến hành là hoàn toàn cần thiết nhằm chỉ rõ những kỹ
năng giao tiếp với dân của cảnh sát khu vực, qua đó góp phần bồi dưỡng và rèn
luyện các kỹ năng giao tiếp với dân cho các học viên cảnh sát ngay trong quá trình
đào tạo tại trường.
1. 2. MỘT SỐ KHÁI NIỆM CƠ BẢN
1.2.1. Giao tiếp
1.2.1.1. Khái niệm giao tiếp
Giao tiếp là một trong những phạm trù trung tâm của tâm lý học, là một hiện
tượng tâm lý rất phức tạp, được xem xét dưới những góc độ khác nhau. Cho đến
nay, các nhà nghiên cứu đã đưa ra rất nhiều định nghĩa khác nhau về giao tiếp, mỗi
định nghĩa đều thể hiện một quan điểm riêng và xét dưới cấp độ nào đó đều có tính
hợp lý của nó. Chính vì vậy, hiện nay trong tâm lý học vẫn chưa có sự thống nhất
hoàn toàn về khái niệm giao tiếp .


18
Qua tìm hiểu chúng tôi thấy các nhà tâm lý học tiếp cận vấn đề giao tiếp
theo các hướng quan niệm sau.
Hướng thứ nhất: Chú ý nhiều đến sự tác động, sự truyền và tiếp nhận thông
tin giữa người với người. đại diện là các tác giả E.E.Acquyt, M.Acgain,
P.Oathavut, G.Branh, D.Giacson... Chẳng hạn tác giả G.Thines cho rằng giao tiếp
là sự truyền đạt thông tin, trong đó trạng thái của hệ thống phát thông tin ảnh

hưởng tới trạng thái của hệ nhận tin [19, 6]. Còn các tác giả E.E.Acquyt, M.Acgain
quan niệm: giao tiếp là sự tác động, sự truyền và tiếp nhận thông báo, sự trao đổi
thông tin của con người. Ba nhà tâm lý học người Pháp P.Oathavut, G.Branh, D.
Giacson coi giao tiếp là một quá trình xã hội thường xuyên diễn ra giữa các con
người với nhau, quá trình này tổ hợp nhiều hành vi khác nhau: Hành vi ngôn ngữ,
hành vi điệu bộ, hành vi cử chỉ [Dẫn theo 2, 11]. Tác giả Nguyễn Khắc Viện đã
nhấn mạnh giao tiếp phi ngôn ngữ là những biểu diễn thông qua cơ thể như những
cử động, tư thế [19, 10].
Toàn bộ cách giải thích trên đây về giao tiếp có phần đúng nhưng chưa đầy
đủ, phiến diện, một mặt làm cho nội hàm khái niệm giao tiếp bị thu hẹp, coi giao
tiếp đơn thuần là từng mặt riêng lẻ như sự thông báo, sự trao đổi thông tin hay tổ
hợp hành vi... Hơn nữa nếu chỉ phân tích như các tác giả trên thì có nghĩa là mới
chỉ dừng lại ở việc mô tả bên ngoài, chưa vạch rõ bản chất bên trong của giao tiếp.
Hướng thứ hai: Các tác giả theo hướng này có xu thế mở rộng khái niệm
giao tiếp, đồng nhất giao tiếp với giao lưu, vì vậy họ đã xem giao tiếp là một hiện
tượng tâm lý có chung ở cả người và động vật. Đại diện là các tác giả B.V.Xocolov
trong cuốn sách Văn hoá và nhân cách ông cho rằng: “Giao tiếp là sự tác động lẫn
nhau giữa những con người và giữa những động vật có tâm lý với nhau”, nếu thu
hẹp hơn có thể hiểu “giao tiếp là mối quan hệ giữa con người với những động vật
nuôi trong nhà” [47].
Hai tác giả J.Bremont (1971) và R.Chakin trong các công trình nghiên cứu
đã dùng thuật ngữ “giao tiếp thính giác ở chim” và “giao tiếp ở khỉ” để mô tả khía
cạnh thông báo giữa các động vật [32, 48].

Ket-noi.com forum công nghệ, giáo dục


19
Xu hướng mở rộng khái niệm giao tiếp đã làm mất đi bản chất xã hội của
giao tiếp người, không thấy được sự khác nhau về chất giữa giao tiếp của con

người với sự thông báo ở động vật.
Hướng thứ ba: Trên cở sở thấy được ưu, nhược điểm hai xu hướng trên, các
nhà tâm lý học của hướng này xem giao tiếp là quá trình hiện hoá các mối quan hệ
xã hội giữa người với người, trong đó bao gồm nhiều quá trình diễn ra như trao đổi
thông tin, nhận thức lẫn nhau, ảnh hưởng lẫn nhau. Các nhà tâm lý học của hướng
này cũng phủ nhận giao tiếp là sự tiếp xúc giữa động vật với nhau. Bởi vì về bản
chất hai hiện tượng này khác hẳn nhau, giao tiếp là hiện tượng chỉ có ở con người.
V.N.Panpherov cho rằng: “Giao tiếp là sự tác động qua lại của con người.
Nội dung của nó là sự nhận thức qua lại và trao đổi thông tin nhờ sự giúp đỡ của
những phương tiện khác nhau của sự thông báo với mục đích xây dựng mối quan
hệ qua lại có lợi đối với quá trình hoạt động nói chung” [51].
G.M. Andreeva xem: “giao tiếp có ba mặt quan hệ hữu cơ với nhau, đó là
mặt thông tin, mặt tri giác của con người đối với con người, mặt tác động qua lại
của con người với nhau” [1, 137]
B.D.Parưgin: “Giao tiếp là quá trình tác động lẫn nhau, trao đổi thông tin,
ảnh hưởng lẫn nhau, hiểu biết và nhận thức lẫn nhau” [2,14].
B.Ph.Lomov trong cuốn “Những vấn đề giao tiếp” định nghĩa: “Giao tiếp là
mối quan hệ tác động qua lại giữa con người với tư cách chủ thể” .
Còn L.V. Bueva định nghĩa: “Giao tiếp là tính hiện thực được quan sát trực
tiếp, là sự cụ thể hoá tất cả các mối quan hệ xã hội, là sự nhân cách hoá, là hình
thái nhân cách của các mối quan hệ đó” [49].
I.A.Kolominxki cho rằng: giao tiếp là sự tác động qua lại có đối tượng giữa
con người với con người, trong đó những quan hệ liên nhân cách được thực hiện,
bộc lộ và hình thành [2,14].
Ở Việt Nam, các nhà tâm lý học cũng có nhiều quan điểm khác nhau về vấn
đề này. Trong một số bài viết và giáo trình tâm lý học trước đây thường dùng thuật


20
ngữ “giao lưu” hoặc “giao tiếp” để chỉ mối quan hệ tiếp xúc tâm lý và tác động qua

lại giữa con người với con người. Việc dùng thuật ngữ có khác nhau nhưng xét về
nội hàm của khái niệm thì các tác giả đều thống nhất với hướng thứ 3 trong 03
hướng nêu trên.
Tác giả Ngô Công Hoàn đã coi giao tiếp là quá trình tiếp xúc giữa con người
và con người nhằm mục đích trao đổi tư tưởng, tình cảm, vốn sống, kinh nghiệm,
kỹ năng, kỹ xảo nghề nghiệp .
GS.TS Phạm Minh Hạc định nghĩa: “Giao lưu là hoạt động xác lập và vận
hành các quan hệ người - người để hiện thực hoá các quan hệ xã hội giữa con
người với nhau” [14, 44-45]
Hai tác giả Nguyễn Thạc và Hoàng Anh định nghĩa: “Giao tiếp là hình thức
đặc trưng cho mối quan hệ giữa con người với con người mà qua đó nảy sinh sự
tiếp xúc tâm lý và được biểu hiện ở các quá trình thông tin, hiểu biết, rung cảm,
ảnh hưởng và tác động qua lại lẫn nhau” [39, 5-7]
Hoàng Anh trong luận án của mình có viết: “Giao tiếp là sự tiếp xúc tâm lý,
tạo nên quan hệ giữa hai người hoặc nhiều người với nhau, chứa đựng một nội
dung xã hội - lịch sử nhất định, có nhiều chức năng: tác động, hỗ trợ, cùng nhau,
thông báo, điều khiển, nhận thức, hành động và tình cảm... nhằm thực hiện mục
đích nhất định của một hoạt động nhất định” [2,21]
Trong cuốn tâm lý học đại cương, Giáo sư Nguyễn Quang Uẩn định nghiã:
“Giao tiếp là sự tiếp xúc tâm lý giữa người và người, thông qua đó con người trao
đổi với nhau về thông tin, về cảm xúc, tri giác lẫn nhau, ảnh hưởng tác động qua
lại với nhau hay nói khác đi giao tiếp xác lập và vận hành các quan hệ người người, hiện thực hoá các quan hệ xã hội giữa chủ thể này với chủ thể khác” [46,
49].
Nói tóm lại, hiện nay còn tồn tại rất nhiều định nghĩa khác nhau về giao tiếp,
điều đó chứng tỏ giao tiếp là một hiện tượng rất phức tạp. Mặc dù quan niệm về
giao tiếp chưa có sự thống nhất hoàn toàn, song nhìn chung các nhà tâm lý học
Mác xít ở Việt Nam đều có những điểm chung là công nhận giao tiếp là sự tiếp xúc


21

tâm lý giữa người và người, là một hình thức chỉ có ở con người. Các tác giả có thể
trình bày theo các cách không giống nhau, với việc sử dụng từ ngữ khác nhau,
nhưng qua các ý kiến của các tác giả, chúng ta thấy khái niệm giao tiếp phải bao
hàm các nội dung sau:
- Giao tiếp là một hiện tượng đặc thù chỉ có ở con người, trong đó diễn ra sự
tiếp xúc tâm lý (trao đổi thông tin, tình cảm, tác động ảnh hưởng lẫn nhau) giữa
chủ thể và chủ thể . Mỗi người vừa là chủ thể, vừa là đối tượng của quá trình đó.
- Trong giao tiếp, con người ý thức được mục đích, nội dung cần đạt được
và ý thức được các phương tiện (ngôn ngữ, phi ngôn ngữ) cần sử dụng khi tiếp xúc
với ngưòi khác.
- Kết quả của giao tiếp có thể là sự hiểu biết lẫn nhau, sự thống nhất với
nhau về tư tưởng, tình cảm, ý chí, hành động giữa các cá nhân, nhờ đó mà hình
thành và vận hành các mối quan hệ xã hội của con người.
- Giao tiếp mang tính xã hội - lịch sử, giao tiếp chịu sự chi phối của các điều
kiện xã hội, các quan hệ kinh tế, chính trị, văn hoá của xã hội.
Dựa trên những luận điểm trên và căn cứ vào tính đặc thù trong giao tiếp của
các chiến sỹ cảnh sát khu vực và mục đích nghiên cứu của mình, trong đề tài này
chúng tôi tán thành khái niệm giao tiếp của tác giả B.B.Bôgôxlovxki [xem 3] và
nhấn mạnh: “Giao tiếp là sự tiếp xúc tâm lý qua lại giữa con người với con người
biểu hiện ở sự trao đổi thông tin, trao đổi cảm xúc, tình cảm, hiểu biết và tác động
ảnh hưởng lẫn nhau”.
Chúng tôi coi đây là khái niệm công cụ, làm điểm tựa cho đề tài nghiên cứu
của mình.
1.2.1.2. Vai trò và chức năng của giao tiếp
- Vai trò của giao tiếp
Về vấn đề này, C.Mác đã chỉ ra rằng: “Sự phát triển của một cá thể phụ
thuộc vào sự phát triển của nhiều cá thể khác mà nó đã giao lưu trực tiếp hay gián


22

tiếp” [24, 493] C.Mác còn nhấn mạnh rằng: “Trong giao tiếp những cá thể sáng
tạo lẫn nhau về thể chất và tinh thần” [24].
Chủ nghĩa duy vật biện chứng cũng khẳng định: Tâm lý con người có nguồn
gốc từ bên ngoài, từ thế giới khách quan chuyển vào trong não mỗi người. Trong
thế giới thì quan hệ xã hội, nền văn hoá xã hội là cái quyết định tâm lý người. Tâm
lý của con người là kinh nghiệm xã hội lịch sử chuyển thành kinh nghiệm của bản
thân thông qua hoạt động và giao tiếp [13, 49]. Tâm lý sản phẩm của hoạt động và
giao tiếp.
Thật vậy, trẻ em sinh ra không có sẵn nhân cách trong nó, chúng chỉ có thể
hình thành và phát triển nhân cách bằng cách lĩnh hội những kinh nghiệm lịch sử
xã hội thông qua quá trình hoạt động và giao tiếp với những người xung quanh.
L.X.Vưgôtxki đã viết: “Giao tiếp có vai trò quan trọng không phải chỉ trong việc
làm phong phú thêm nội dung ý thức của trẻ, trong việc giúp trẻ tiếp thu những tri
thức và kỹ năng mới, mà nó còn quyết định cấu trúc của ý thức nữa” [43].
Với mỗi cá nhân, một mặt giao tiếp là điều kiện cho sự phát triển trí tuệ, bởi
vì thông qua giao tiếp, con người lĩnh hội được những tri thức, kinh nghiệm, kỹ
năng, kỹ xảo, nhờ đó phát triển trí tuệ của bản thân. Mặt khác, giao tiếp cũng góp
phần hình thành nhân cách mỗi con người như A.N.Lêônchiep đã nói: “Sự hoạt
động của trẻ em bao giờ cũng nằm trong giao tiếp. Giao tiếp dưới hình thức cùng
hoạt động, hoặc dưới hình thức giao tiếp ngôn ngữ, hay thậm chí giao tiếp trong ý
nghĩ cũng là điều kiện tất yếu và chuyên biệt của sự phát triển của người trong xã
hội” [20].
Có thể nói giao tiếp là một nhu cầu không thể thiếu đối với mỗi cá nhân và
xã hội loài người bởi vì con người tồn tại trong xã hội không phải với tư cách một
cá nhân riêng lẻ mà luôn có mối quan hệ với người khác, do vậy phải có sự trao đổi
thông tin, tình cảm, hiểu biết lẫn nhau. Đây là một trong những nhu cầu tinh thần
hết sức quan trọng đối với sự phát triển của con người. Nếu nhu cầu này không
được thoả mãn, con người sẽ bị “đói giao tiếp” dễ mắc bệnh trầm cảm, bệnh
“Hospitalison” (bệnh do nằm viện) [42], trong giao tiếp cá nhân tiếp thu lĩnh hội



23
được kinh nghiệm xã hội, chuẩn mực của xã hội, chuyển nó thành giá trị riêng của
mỗi người từ đó nhân cách được hình thành.
Nhờ có giao tiếp mà cá nhân tham gia vào các mối quan hệ xã hội trong đó
cá nhân không chỉ nhận thức các quan hệ xã hội, nhận thức các cá nhân khác trong
nhóm mà còn nhận thức chính bản thân mình bằng cách đối chiếu, so sánh bản
thân mình với người khác, với chuẩn mực xã hội từ đó tự điều chỉnh, điều khiển
mình theo các chuẩn mực chung xã hội (hình thành tự ý thức của cá nhân).
Trong bài “quan niệm của tâm lý học xã hội về nhân cách” E.V.Sôrôkhôva
chỉ ra rằng: “ Giao tiếp gắn con người với con người, trong giao tiếp những quan
hệ của con người được bộc lộ. Giao tiếp là đặc trưng nòng cốt của hoạt động tập
thể của con người, của nhân cách trong tập thể. Giao tiếp trở thành một nhân tố
hùng mạnh của sự giáo dục nhân cách” [33, 68-69].
Tóm lại: Giao tiếp có vai trò rất quan trọng đối với sự tồn tại và phát triển
của mỗi cá nhân và của xã hội loài người. Còn đối với các lĩnh vực hoạt động thực
tiễn cụ thể, giao tiếp là một điều kiện không thể thiếu được đối với sự hình thành
bất cứ một loại nhân cách nghề nghiệp nào. Chính hoạt động nghề nghiệp của con
người đã tạo nên những phong cách giao tiếp khác nhau và sự giao tiếp của con
người cùng với hoạt động nghề nghiệp của họ đã hình thành nên những nhân cách
nghề nghiệp khác nhau. Đối với sự hình thành nhân cách của người chiến sỹ
CAND nói chung, nhân cách người chiến sỹ cảnh sát khu vực nói riêng hay bất kỳ
một đối tượng nào, giao tiếp đóng vai trò hết sức to lớn và giữ các chức năng tâm
lý riêng của mình.
- Chức năng của giao tiếp
Về chức năng của giao tiếp cũng có nhiều quan điểm khác nhau, nhiều cách
phân chia khác nhau.
Tác giả Phạm Minh Hạc đã phân chia các chức năng giao tiếp làm hai nhóm:



24
+ Nhóm các chức năng thuần tuý xã hội: bao gồm các chức năng giao tiếp
phục vụ các nhu cầu chung của xã hội hay của một nhóm người để điều khiển và
tác động lẫn nhau.
+ Nhóm các chức năng tâm lý xã hội: bao gồm các chức năng giao tiếp phục
vụ các nhu cầu của từng thành viên trong xã hội với người khác.
Các nhà tâm lý học B.F.Lômôp, A.A.Bôđaliôp đã phân chia chức năng giao
tiếp làm 3 loại:
+ Chức năng thông tin (thông báo, truyền tin): chức năng này có cội nguồn
sinh học. Để thông báo cho nhau thông tin gì đó động vật thường phát ra tín hiệu,
ví dụ: những tín hiệu để tự bảo vệ, tín hiệu tìm gặp nhau... ở con người chức năng
thông tin đa dạng và phức tạp hơn nhiều, bởi vì nội dung thông tin cần truyền đạt
là rất nhiều, rất phức tạp . Con người có phương tịên ngôn ngữ, phi ngôn ngữ và
những phương tiện khoa học kỹ thuật hỗ trợ để đảm bảo chức năng thông tin này.
+ Chức năng điều chỉnh, điều khiển: Khi tiến hành giao tiếp, muốn đạt được
mục đích giao tiếp thì chủ thể phải linh hoạt, mềm dẻo, biết làm chủ hành vi, cảm
xúc của mình để thay đổi theo điều kiện, hoàn cảnh giao tiếp, biết lựa chọn phương
tiện ngôn ngữ phù hợp để tác động đến đối tượng giao tiếp.
+ Chức năng đánh giá: Trong quá trình giao tiếp con người bao giờ cũng
bộc lộ những hiểu biết, những tình cảm, thái độ, thế giới quan... ra bên ngoài. Vì
vậy, thông qua một số lần tiếp xúc, giao tiếp với người nào đó chúng ta có thể nhận
xét, đánh giá được tâm lý, ý thức, nhân cách của họ. Thông qua giao tiếp với người
khác chúng ta biết soi mình vào người khác để tự đánh giá mình. Giao tiếp là một
phương thức giúp cá nhân tiến hành so sánh xã hội để đánh giá người khác cũng
như tự đánh giá mình.
Theo các tác giả Nguyễn Thạc - Hoàng Anh, giao tiếp có 03 chức năng cơ
bản sau:
Chức năng thông tin hai chiều giữa hai người hoặc hai nhóm người.



×