Tải bản đầy đủ (.pdf) (81 trang)

Quá trình xác lập chủ quyền lãnh thổ của vương triều nguyễn đối với quần đảo hoàng sa trường sa

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.36 MB, 81 trang )

Lời Cảm Ơn
Để hoàn thành nghiên cứu này, bên cạnh những nổ
lực của bản thân, em xin được bày tỏ lòng kính trọng và biết
ơn sâu sắc đến Th.S Nguyễn Thị Lệ Thủy đã tận tình hướng
dẫn em trong suốt quá trình nghiên cứu, thực hiện đề tài.
Em xin chân thành cảm ơn đến:
- Ban giám hiệu trường Đại Học Phú Xuân, cùng các thầy cô giáo trong
khoa Xã hội - nhân văn, ngành Lịch sử, đã nhiệt tình dạy dỗ, dìu dắt, cung
cấp cho em nhiều kiến thức bổ ích.
- Thầy Trần Văn Quyến, đã giúp em sưu tầm các nguồn tài liệu đặc biệt giá
trị để hỗ trợ em hoàn thành bài nghiên cứu.
Là một bài nghiên cứu vì vậy sẽ không tránh khỏi những thiếu sót không
mong muốn vì vậy tôi xin được sự góp ý chân thành của tất cả những người
quan tâm đến.
Một lần nữa em xin chân thành cảm ơn.
Sinh viên thực hiện:
Đinh Văn Kiên

1


MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Biển và đảo Việt Nam nằm ở khoảng giao điểm của các luồng đường,
luồng hàng từ Đông sang Tây, từ Nam lên Bắc, hội được nhiều thuận lợi cho
giao thương, cho tiếp xúc, hội nhập về kinh tế, về văn hóa, nhất là trong cách
mạng thương nghiệp, cách mạng công nghiệp, thời đại mà chủ nghĩa tư bản
phương Tây đang tìm đường bành trướng sang phương Đông.
Thế nhưng, biển và đảo trong hoàn cảnh đổi thay của thế giới, lại trở
thành mối nguy hiểm thường xuyên cho đất nước trước nguy cơ xâm lược và
thôn tính của kẻ thù cả ở phương Đông và phương Tây, ở cả phía Nam và phía


Bắc. Trong bối cảnh lịch sử đó, việc tiến ra Biển Đông, không chỉ là nhu cầu
phát triển của đất nước, mở mang kinh tế, giao lưu văn hóa, mà còn là bảo vệ
nền độc lập dân tộc, bảo vệ toàn vẹn lãnh thổ. Công việc thực thi chủ quyền ở
hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa thật sự được bắt đầu từ thời chúa Nguyễn.
Năm 1558, Nguyễn Hoàng vào Nam dựng nghiệp đã sớm chăm lo xây
dựng, phát triển các đội thuyền, mở cửa buôn bán với các nước phương Tây để
phát huy sức mạnh trong nước và chuẩn bị những bước đi đầu tiên cho việc
chiếm lĩnh các quần đảo ở Biển Đông.
Tuy nhiên, việc thực thi chủ quyền đối với hai quần đảo Hoàng Sa,
Trường Sa là bắt đầu từ chúa Nguyễn Phúc Nguyên với việc đặt ra các đội
Hoàng Sa để tiến hành khai thác và bảo vệ Biển Đông.
Trên cơ sở kế thừa những thành quả đó, các vương triều tiếp theo như
Tây Sơn, triều Nguyễn tiếp tục thực thi quyền làm chủ trên hai quần đảo đó.
Đặc biệt, nhà Nguyễn sau khi đánh bại Tây Sơn, khôi phục lại quyền lực, thực
hiện sự thống nhất đất nước thì đã tiếp nối truyền thống trước đó của dòng họ
2


mình đối với vùng biển đảo giữa Biển Đông. Phải nói rằng đây là thời kỳ mà
toàn bộ đường bờ biển nước ta đã chạy dài từ vịnh Bắc bộ đến vịnh Thái Lan
với hàng nghìn hòn đảo ven bờ cùng các quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa ngoài
Biển Đông đã thuộc về chủ quyền kiểm soát của nhà nước Việt Nam thống
nhất. Các vua Nguyễn đã đề ra các chính sách, các hình thức, biện pháp khác
nhau như chăm lo xây dựng và phát triển lực lượng thủy quân, hải quân, tiến
hành vãng thám, kiểm tra, kiểm soát, khai thác các hóa vật và hải sản, tổ chức
thu thuế và cứu hộ tàu bị nạn, khảo sát đo vẽ bản đồ, dựng miếu thờ, lập bia
chủ quyền, dựng bài gỗ lưu dấu để ghi nhớ...Tất cả những hoạt động này hiện
nay vẫn còn được lưu giữ lại khá nhiều thông qua các Mộc Bản (Châu Bản của
triều Nguyễn), Gia phả của một số dòng họ, qua các tấm bản đồ cũ, hay trong
các bộ biên niên sử của Quốc sử quán Triều Nguyễn...

Với tất cả các tài liệu liên hệ về lịch sử, địa lý, tài nguyên...thuộc chủ
quyền của nhà nước Việt Nam trên hai quần đảo đó đã chứng minh được tính
pháp lý về chủ quyền của nhà nước Việt Nam đối với Hoàng Sa, Trường Sa.
Thế nhưng, hiện nay vẫn có một số thế lực tìm mọi cách xuyên tạc sự
thật những chứng lý do lịch sử để lại để vi phạm chủ quyền trên hai quần đảo
này của Việt Nam.
Do vậy, với một lòng yêu quê hương đất nước sâu sắc, với ý thức bảo vệ
chủ quyền lãnh thổ, tôi đã chọn đề tài “Quá trình xác lập chủ quyền lãnh thổ
của vương triều Nguyễn đối với quần đảo Hoàng Sa, Trường sa” làm đề tài
nghiên cứu lịch sử với mong muốn tái hiện lại quá trình xác lập chủ quyền lãnh
thổ đối với hai quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa của dân tộc ta.
Và cũng từ đó, thêm một lần nữa khẳng định một điều bất di bất dịch :
Hoàng Sa, Trường Sa mãi mãi là chủ quyền thiêng liêng của dân tộc Việt Nam.

3


2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Hoàng Sa, Trường Sa của Việt Nam đã và đang trở thành một vần đề
hết sức nóng bỏng, có liên quan đến nhiều nước và thu hút được sự quan tâm
của nhiều quốc gia, nhiều học giả, giới nghiên cứu trên toàn thế giới.
Hàng loạt các công trình nghiên cứu của các nhà nghiên cứu, nhà sử học
trong và ngoài nước đã được ấn hành xuất bản có liên quan đến hai quần đảo
này. Trong đó có nhiều công trình nghiên cứu của các học giả uy tín nổi tiếng
thế giới, đã khẳng định chủ quyền của Việt Nam đối với hai quần đảo này cả về
phương diện lịch sử và luật pháp quốc tế.
Nguyễn Nhã, Nguyễn Đình Đầu, Lê Minh Nghĩa, Từ Đặng Minh Thu,Vũ
Quang Việt (tổ chức thực hiện Đoàn Khắc Xuyên), “Hoàng Sa, Trường Sa là của
Việt Nam”, NXB Trẻ, 2008. Sách tập hợp một số bài nghiên cứu, bài báo và
những tư liệu mới của các nhà sử học và các nhà nghiên cứu, chứng minh chủ

quyền của Việt Nam đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa, xét về mặt lịch
sử và luật pháp quốc tế. Sách đã đề cập đến bối cảnh của cuộc tranh chấp hiện nay
đối với hai quần đảo này nói riêng và biển Đông nói chung, cũng như những ý
kiến về một giải pháp cho cuộc tranh chấp phù hợp với luật pháp quốc tế.
Từ Đặng Minh Thu, “Cuộc tranh chấp về các quần đảo Hoàng Sa và
Trường Sa –Các vấn đề pháp lý”, Luận văn tốt nghiệp tại trường ĐH Luật kinh
tế và KHXH Paris – Viện Đại học Quốc Tế.
Cuốn sách “Huyện đảo Trường Sa”, được NXB Tổng hợp Phú Khánh
xuất bản vào tháng 5-1988, ngay sau sự kiện Trung Quốc tấn công Hải quân
nhân dân Việt Nam ngày 14-3-1988 tại quần đảo Trường Sa. Tập sách không
chỉ cung cấp cho chúng ta những tư liệu lịch sử và địa lý được trọn lọc từ xưa
tới nay, khẳng định chủ quyền lãnh thổ thiêng liêng của Tổ quốc ta đối với
Trường Sa mà còn có nhiều bản văn thơ, những tấm ảnh thời sự nghệ thuất
nóng hổi giới thiệu về thiên nhiên, con người, cuộc sống của cán bộ chiến sĩ
4


đang làm nhiệm vụ ở Trường Sa. Bao chùm lên tất cả là những biểu hiện và
những việc làm thiết thực của đồng bào Phú Khánh ( Phú Yên, Khánh Hòa) và
cả nước hướng về Trường Sa, chi viện cho Trường Sa hòa cùng dư luận quốc
tế ủng hộ nhân dân ta và lên án nhà cầm quyền Trung Quốc có nhiều hành
động gây lấn chiếm, vi phạm chủ quyền của Việt Nam ở quần đảo Trường Sa.
Trên đây là hàng loạt những tác phẩm bao gồm cả sách và những bài
viết đã được nghiên cứu và hoàn thành, của những nhà nghiên cứu có trình độ
và tâm huyết trong và ngoài nước thực hiện, viết về hai quần đảo Hoàng Sa và
Trường Sa.
Ngoài ra còn hàng loạt những tác phẩm khác cũng viết về đề tài này
như: “Tài liệu lịch sử chứng minh các quần đảo ở biển Nam Trung Hoa chưa
bao giờ là lãnh thổ của Trung Quốc” do nhà Sử học Phạm Hân nghiên cứu. Bài
tham luận: “Các biện pháp duy trì hòa bình, ổn định và tăng cường hợp tác về

biển Đông” của Trần Công Trực, nguyên trưởng ban Biên giới Chính phủ,
được trình bày tại hội thảo quốc tế về biển Đông, Hà Nội 2009. Hay Tham luận
của Tiến sĩ Lan Storey, viện nghiên cứu Đông Nam Á, với tiêu đề: “Những
chuyển biến gần đây trên biển Đông: Lý do để quan ngại” được trình bày tại
hội thảo quốc tế về biển Đông ở Hà Nội tháng 12/2009 v..v…
3. Mục tiêu và nhiệm vụ của đề tài
3.1. Mục tiêu của đề tài
Trên cơ sở tìm hiểu, phân tích, đánh giá về một số tài liệu liên hệ về lịch
sử, địa lý, tài nguyên... thuộc chủ quyền Việt Nam trên hai quần đảo Hoàng Sa
và Trường Sa, đề tài sẽ tập trung làm rõ quá trình xác lập chủ quyền lãnh thổ với
hai quần đảo trên của dân tộc ta trong lịch sử, cụ thể là thời vương triều Nguyễn.

5


3.2. Nhiệm vụ của đề tài
Đề tài tìm hiểu một cách khái quát về các điều kiện tự nhiên và thiên nhiên
của Hoàng Sa và Trường Sa. Quan trọng hơn là quá trình xác lập chủ quyền của
dân tộc Việt Nam qua các thời đại đặc biệt dưới thời vương triều Nguyễn.
Chúng tôi tập trung vào tìm hiểu các vấn đề sau:
- Thứ nhất: là đi sâu vào tìm hiểu các chính sách, hình thức, biện pháp
vương triều Nguyễn đã tiến hành để thực thi chủ quyền của nước ta trên hai
quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa thông qua nhiều nguồn tư liệu khác nhau.
Thứ hai: định hướng giải pháp cho Việt Nam trong việc tranh chấp
Hoàng Sa và Trường Sa.
4. Phạm vi nghiên cứu
Với đề tài này, thì phạm vi nghiên cứu được giới hạn trong việc tập
trung tìm hiểu hai quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa, mà sợi chỉ đỏ đó là làm lộ
rõ việc xác lập chủ quyền của dân tộc ta đối với hai quần đảo Hoàng Sa,
Trường Sa đặc biệt thời vương triều Nguyễn (1802-1945) nhằm chống lại các

quan xuyên tạc của các thế lực bên ngoài.
5. Phương pháp nghiên cứu
Để giả quyết đề tài này, chúng tôi sử dụng các phương pháp nghiên cứu sau đây:
Phương pháp luận sử học
Phương pháp logic học
Phương pháp so sánh, đánh giá, phân tích, tổng hợp và thống kê từ
nhiều nguồn tư liệu khác nhau.

6


Cùng với các phương pháp trên thì chúng tôi đã dựa và quan điểm sử
học Macxit và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng để chúng tôi tìm
hiểu nghiên cứu vấn đề này.
6. Đóng góp của đề tài
Với việc tìm hiểu, phân tích và tổng hợp nhiều nguồn tài liệu khác nhau,
song song với việc đưa ra những nhận định giá một cách khách quan và có tính
hệ thống, chúng tôi hy vọng đề tài sẽ góp phần dựng lại quá trình xác lập chủ
quyền của chúa Nguyễn và nhà Nguyễn trên hai quần đảo Hoàng Sa, Trường
Sa, để rồi từ đó thấy được công lao của hai vương triều này trong lịch sử, mối
dây liên hệ trong quá khứ cũng như hiện tại.

Và cũng thông qua đó, chúng tôi cũng mong muốn đề tài sẽ góp một
phần công sức nhỏ bé của mình vào việc giúp thế hệ trẻ ngày nay và mai sau có
lòng biết ơn sâu sắc đối với các triều đại có công, có ý thức và nhận thức đúng
đắn về chủ quyền của nhà nước Việt Nam trên hai quần đảo đó nhằm chống lại
các luận điệu xuyên tạc sự thật lịch sử của các thế lực bên ngoài.
7. Bố cục đề tài
Đề tài được ngoài phần Mở Đầu, Kết Luận, Tài Liệu Tham Khảo, Phụ
Lục, phần Nội dung gồm 3 chương:

CHƯƠNG MỘT : NHỮNG TRANH CHẤP TRÊN HAI QUẦN ĐẢO
HOÀNG SA VÀ TRƯỜNG SA
CHƯƠNG HAI: QUÁ TRÌNH XÁC LẬP CHỦ QUYỀN TRÊN HAI
QUẦN ĐẢO HOÀNG SA VÀ TRƯỜNG SA
CHƯƠNG BA : ĐỊNH HƯỚNG GIẢI PHÁP CHO HIỆN TẠI VÀ
TƯƠNG LAI
7


8


NỘI DUNG
CHƯƠNG MỘT: NHỮNG TRANH CHẤP TRÊN HAI QUẦN ĐẢO
HOÀNG SA VÀ TRƯỜNG SA
1.1. Từ năm 1909 đến hết chiến tranh thế giới thứ hai
Ngày 6/6/1909: Phó vương Tổng đốc Lưỡng Quảng (gồm 2 tỉnh của
Trung Quốc là Quảng Đông và Quảng Tây) đã phái hai pháo thuyền nhỏ do
Đô đốc Lý Chuẩn chỉ huy, tiến hành một cuộc đổ bộ chớp nhoáng (24h) lên
vài đảo của Hoàng Sa. Pháp không có phản kháng nào.
Năm 1920: một công ty Nhật Bản, Mitsui – Bunssan Kaisha, sau khi liên
hệ hỏi nhà cầm quyền Pháp đã tiến hành khai phốt phát trên một số đảo.
Từ năm 1920: Pháp thực hiện việc kiểm soát trên biển và kiểm soát hải
quan đối với quần đảo Hoàng Sa.
Ngày 30/3/1921: Thống đốc quân sự Quảng Đông cho biết là Chính
phủ quân sự miền Nam đã quyết định sáp nhập về mặt hành chính quần đảo
Hoàng Sa vào Nhai Huyện (Đảo Hải Nam). Nước Pháp không phản
đối. (Tuy vậy, có một thực tế là Chính phủ Quảng Đông lúc đó không được
Chính quyền Trung ương Trung Quốc và các nước khác công nhận).
Từ năm 1925: việc nghiên cứu khoa học về quần đảo Hoàng Sa do một

phái đoàn mà đứng đầu là tiến sĩ A.Krempf, giám đốc viện Hải dương học
lãnh đạo thực hiện trên tàu kéo De Lanessan. Sau đó tàu hải dương học này
lại thực hiện nhiệm vụ nghiên cứu quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa là đất
của nước Pháp.
Năm 1927: Tổng lãnh sự Nhật Bản, ông Kurosawa, yêu cầu các
quan chức Pháp ở Đông Dương cung cấp những thông tin về quy chế lãnh
thổ của quần đảo Trường Sa.
9


Tháng 11/1928 : Công ty phốt phát mới của Hoa Kỳ đã xin Thống đốc
Nam Kỳ cấp phép nghiên cứu mỏ ở đảo Trường Sa.
Tháng 7/1927 : Tàu De Lanessan thăm chính thức quần đảo Trường Sa.
Ngày 15/6/1929, Thống đốc Nam Kỳ viết thư cho Đại Tá, Chỉ huy
trưởng Hải quân tại Đông Dương, thông báo cho ông ta biết sự mong muốn
của Toàn quyền phái một chuyến tàu ra đảo Trường Sa hay Bão Tố, đảo này
đã được sáp nhập về mặt hành chính vào tỉnh Bà Rịa (Nam Kỳ).
Ngày 13/4/1930: Toàn quyền Đông Dương đã phái thông hạm La
Malicieuse tới quần đảo Trường Sa. Các thành viên của tàu đã kéo quốc kì
Pháp trên một điểm cao. Thông cáo ngày 23/9/1930, đã thông báo cho các
cường quốc khác về sự chiếm đóng của Pháp trên quần đảo Trường Sa.
Năm 1931: Trung Quốc cho đấu thầu việc khai thác phân chim trên quần
đảo Hoàng Sa. Chính phủ Pháp đã gửi thông điệp cho công sứ quán Trung
Quốc tại Paris ngày 4/12/1931 về yêu sách các đảo.
Ngày 29/4/1932: kháng nghị của chính phủ Pháp nêu rõ các danh nghĩa
lịch sử và các bằng chứng về sự chiếm hữu của An Nam sau đó là của Pháp.
Cùng năm này, Pháp đề nghị đưa vụ tranh chấp này ra các tòa án quốc tế
và Trung Quốc đã phản đối đề nghị này.
Ngày 13/4/1933: một hạm đội nhỏ thuộc các lực lượng Hải quân
Pháp ở Viễn Đông, dưới sự chỉ huy của Trung tá Hải quân De Lattre rời Sài

Gòn đến đảo Trường Sa (gồm thông báo hạm La Malicieuse).
Sự chiếm hữu tiến hành theo nghi thức cổ xưa - đó là một văn bản được thảo
ra và các thuyền trưởng ký thành 11 bản. Mỗi đảo nhận một văn bản, được
đóng kín vào trong một cái trai rồi được gắn trong một trụ xi măng xây trên
mỗi đảo tại một điểm ấn định và cố định trên mặt đất, người ta kéo lên lá cờ
tam tài và thổi kèn trên từng hòn đảo.
10


Năm 1933: theo nghị định ngày 26/7, chính phủ Pháp công bố việc
chiếm hữu của Hải quân Pháp đối với quần đảo Trường Sa. Và theo nghị định
ngày 21/12 của cùng năm đó, thống đốc Nam Kỳ là J.Krautheimer sáp nhập
chính thức quần đảo Trường Sa vào tỉnh Bà Rịa.
Năm 1937: kỹ sư trưởng công chính Gauthier, nhân danh chính quyền
thuộc địa Pháp, thực hiện nhiệm vụ nghiên cứu khả năng xây dựng các công
trình biển và hàng không tại quần đảo Hoàng Sa và xây dựng một hải đăng
trên quần đảo này.
Năm 1938-1939: kết quả của chuyến nghiên cứu Gauthier được mở rộng.
Pháp phái các đơn vị cảnh vệ tới các đảo. Theo Nghị định ngày 15/6/1938. Jules
Brévié, Toàn quyền Đông Dương, (sau khi hoàng đế Bảo Đại ký dụ chuyển
quần đảo Hoàng Sa từ tỉnh Nam Ngãi sang tỉnh Thừa Thiên).
Ngày 5-5-1939 : Toàn quyền Đông Dương Jules Brévié, đã sửa đổi Nghị
định trước và thành lập hai đại lý trên quần đảo Hoàng Sa. Một tấm bia được
dựng lên trên đảo Hoàng Sa vào năm 1938 với dòng chữ “Cộng hòa PhápVương quốc An Nam-Quần đảo Hoàng Sa-1816-Đảo Pattle 1938”.
Trên quần đảo Hoàng Sa, có một hải đăng, một trạm khí tượng và một trạm
vô tuyến được đặt trên đảo Hoàng Sa. Các công việc đó cũng sẽ được tiến hành
đối với quần đảo Trường Sa, trên đảo Ba Bình (Itu Aba).
Năm 1939: ngày 31/3, chính phủ Nhật Bản tuyên bố sự kiểm soát của họ
trên quần đảoTrường Sa. Thông báo được chuyển tới Đại sứ Pháp bằng một
thông điệp khẳng định Nhật Bản là người đầu tiên thám hiểm quần đảo vào

năm 1917. Nhật Bản nhận xét là ở đó không có một quyền lực hành chính địa
phương nào và cho đó là một tình trạng có lợi cho quyền lợi của Nhật Bản.
Ngày 4/4, cùng năm, nước Pháp đưa ra phản kháng.

11


Trong số các nước thứ ba, phải ghi nhận lập trường của nước Anh, đã
được xác định trong cuộc tranh luận ngày 5/4 của Hạ viện. Đại diện Ngoại
giao Anh lúc đó khẳng định “chủ quyền trọn vẹn của nước Pháp”.
Ngày 1/12/1943: thông cáo chung của Hội nghị Tam cường Anh – Mỹ Trung tại Cairo khẳng định ý chí buộc Nhật Bản phải trao trả lại cho Trung
Hoa dân quốc các lãnh thổ mà Nhật Bản đã ăn cướp của họ (Mãn Châu, Đài
Loan, Bành Hồ). Qua đây chúng ta thấy được vào thời điểm đó, tức vào năm
1943, các cường quốc, thậm chí Trung Quốc vẫn chưa coi Hoàng Sa và
Trường Sa là lãnh thổ của họ.
Các toán quân của Tưởng Giới Thạch lấy cớ giải giáp quân đội Nhật
Bản đã đổ bộ lên Hoàng Sa vào tháng 11/1946 và lên một đảo của quần đảo
Trường Sa vào tháng 12/1946.
1.2. Từ năm 1945 đến 1975
Ngày 15/8/1945: Nhật Bản đầu hàng, ngày 19/8, Việt Minh giành được
chính quyền ở Hà Nội, chính phủ lâm thời Hồ Chí Minh được thành lập.
Ngày 25/8, Hoàng đế Bảo Đại thoái vị. Ngày 2/9, Hồ chủ tịch đọc tuyên ngôn
độc lập khai sinh ra nước Việt Nam dân chủ cộng hòa.
Năm 1946, Pháp quay trở lại đánh chiếm Đông Dương và lập nên chính
phủ bù nhìn.
Đến năm 1947: lợi dụng tình trạng các đảo không có sự chiếm đóng của
các nhà chức trách Pháp, Trung Quốc cho quân đội đổ bộ một lần nữa lên đảo
Phú Lâm (Woody) thuộc quần đảo Hoàng Sa. Chính phủ Pháp đã chính thức
phản đối sự chiếm đóng bất hợp pháp đó và gửi một phân đội lính Pháp và
Việt Nam đến đặt một đồn lính ở đảo Hoàng Sa.


12


Tháng 4/1949: Đổng lý văn phòng của Hoàng đế Bảo Đại, Hoàng thân
Bửu Lộc, tại một cuộc họp báo tại Sài Gòn đã công khai khẳng định lại các
quyền của Việt Nam trên quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa.
Tháng 4/1950: cùng với sự thất bại trong lục địa nên đồn lính do Trung
Hoa Dân Quốc đặt trên quần đảo Hoàng Sa phải rút lui. Đơn vị lính Pháp vẫn
được duy trì ở đảo Hoàng Sa. Ngày 14/10, chính phủ Pháp chính thức chuyển
giao cho chính phủ Bảo Đại quyền quản lý các đảo. Tổng trấn Trung phần đã
chủ tọa việc chuyển giao quyền hành ở quần đảo Hoàng Sa. Lúc này trên
quần đảo Trường Sa không có mặt lực lượng quân sự nào của Trung Quốc.
Năm 1951: Quần đảo Trường Sa trở thành đối tượng của các yêu sách
trên lĩnh vực ngoại giao. Tổng thống Philippin, Quirino, đòi các đảo đó cho
Philippin với lập luận tính kế cận.
Ngày 24/8/1951: Tân hoa xã tranh cãi về các quyền của Pháp và những tham
vọng của Philippin và những kiên quyết khẳng định quyền của Trung Quốc.
Ngày 7/9/1951: Thủ tướng và Bộ trưởng bộ ngoại giao của chính phủ
Bảo Đại trịnh trọng tuyên bố hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa thuộc lãnh
thổ Việt Nam. Không có Đại biểu nào bình luận về tuyên bố này.
Từ năm 1956, quần đảo Hoàng Sa đã bị quân đội của Trung Quốc chiếm
đóng ở phần phía Đông, và quân đội của chính quyền Việt Nam Cộng Hòa
chiếm phần còn lại phía Tây.
Còn ở Trường Sa, ngày 15/3/1956, Thomas Cloma, một công dân
Philippin đã đổ bộ lên một số đảo của quần đảo Trường Sa. Với danh nghĩa tư
nhân, cùng với một số bạn, có ý đồ chiếm hữu một số đảo và đặt tên cho
chúng là “Đất tự do” bằng lập luận về quyền phát hiện và chiếm cứ. Ngày
15/5, ông ta thông báo cho Bộ trưởng ngoại giao nước mình.


13


Ngày 31/5/1956: Chính phủ Bắc Kinh đưa ra một Thông cáo tuyên bố sẽ
không dung thứ bất kỳ một sự xâm phạm nào đến các quyền của Cộng hòa
nhân dân Trung Hoa trên quần đảo Trường Sa.
Ngày 1/6/1956: Bộ trưởng ngoại giao chính quyền Việt Nam cộng hòa,
Vũ Văn Mẫn, khẳng định lại các quyền của Việt Nam trên hai quần đảo này.
Ngay ngày hôm sau Pháp nhắc lại với Philippin các quyền mà Pháp đã có từ
năm 1933.
Ngày 22/8, lực lượng Hải quân Sài Gòn đổ bộ lên đảo chính của quần
đảo Trường Sa, dựng một bia và kéo cờ.
Ngày 22/10/1956: Nghị định (thực ra là sắc lệnh của Tổng thống Việt Nam
cộng hòa) của Việt Nam sáp nhập quần đảo Hoàng Sa vào tỉnh Phước Tuy.
Ngày 4/9/1958: Chính phủ Cộng hòa nhân dân Trung Hoa ra bản tuyên
bố xác định bề rộng 12 hải lý của lãnh hải Trung Quốc.
Ngày 16/7/1971: Tân Hoa xã lên án Philippin chiếm đóng một số đảo
của quần đảo Trường Sa và khẳng định yêu sách của Trung Quốc đối với
quần đảo này.
Năm 1973: trong khi Hội nghị quốc tế Paris đang diễn ra vào tháng
3/1973, Bộ trưởng Nội vụ chính quyền Việt Nam cộng hòa, trong ngày 6/9,
đã sửa đổi việc sáp nhập hành chính Trường Sa vào xã Phước Hải quận Đất
Đỏ, tỉnh Phước Tuy.
Ngày 11/1/1974: Bắc Kinh tuyên bố đó là một việc lấn chiếm lãnh thổ
Trung Quốc và khẳng định lại các yêu sách trên hai quần đảo này.
Ngày 15/1/1974: Cộng hòa nhân dân Trung Hoa cho quân đội, tàu chiến
đổ bộ lên các đảo phía Tây Hoàng Sa cụm Nguyệt Thiềm (Crescent) mà từ
trước nay vẫn do quân đội Việt Nam cộng hòa chiếm đóng.
14



Ngày 18/1/1974: Đại sứ Đài Loan tại Sài Gòn bằng công hàm ngoại giao
đã khẳng định lại yêu sách của Trung Hoa Dân Quốc.
Ngày 19 và 20/1/1974: Cộng hòa nhân dân Trung Hoa cho quân đội tàu
chiến bắn phá các đảo, đổ bộ lên các đảo phía Tây Hoàng Sa. Quân đội Việt
Nam Cộng Hòa bị thiệt hại nặng.
Ngay sau đó quan sát viên của Việt Nam cộng hòa ở Liên Hiệp Quốc
yêu cầu Hội đồng bảo an xem xét vấn đề này.
Qua thông điệp ngoại giao được gửi đến tất cả các nước ký các Hiệp
định Paris ngày 2-3-1973, chính quyền Sài Gòn nhắc lại sự đảm bảo toàn vẹn
lãnh thổ của Việt nam đã được công nhận. Và yêu cầu Hội đồng bảo an họp
một phiên đặc biệt.
Ngày 2/7/1974: Đoàn Đại biểu của Nam Việt Nam ra tuyên bố tại Hội
nghị của Liên hiệp quốc về luật biển nhằm khẳng định lại chủ quyền của Việt
Nam trên các quần đảo.
1.3. Từ năm 1975 đến nay
1975: Việt Nam hoàn toàn giải phóng.
Từ 1975 đến 1990: Việt Nam hợp tác toàn diện với Liên xô, Trung Quốc
đã ký với Mỹ Thông cáo chung ở Thượng Hải năm 1972; mâu thuẫn giữa
Trung Quốc và Liên Xô không giảm; Việt Nam và Trung Quốc xảy ra chiến
tranh năm 1979 khiến tranh chấp giữa Việt Nam và Trung Quốc tại Hoàng Sa
và Trường Sa càng trở nên gay gắt.
Ngày 5/4/1975: Bộ Tư lệnh Hải quân chủ trương chuẩn bị chiến đấu giải
phóng quần đảo Trường Sa.

15


Ngày 10/9/1975: Bắc Kinh gửi công hàm cho Việt Nam khẳng định chủ
quyền của Trung Quốc đối với quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa (mà Trung

Quốc gọi là Tây Sa và Nam Sa).
Ngày 24/9/1975: trong cuộc gặp đoàn đại biểu Đảng và Chính phủ Việt
Nam do Tổng Bí thư Lê Duẩn dẫn đầu, nhà lãnh đạo Trung Quốc Đặng Tiểu
Bình tuyên bố sau này hai bên sẽ bàn bạc về vấn đề Tây Sa và Nam Sa.
Ngày 12/5/1977: Chính phủ Việt Nam tuyên bố về các vùng biển và
thềm lục địa Việt Nam.
Tháng 3/1978: Hội nghị hành chính thế giới về thông tin vô tuyến điện
thông qua một nghị quyết cho phép Trung Quốc sử dụng một số tần số trên
vùng trời Hoàng Sa.
Ngày 30/12/1978: người phát ngôn Bộ ngoại giao nước Cộng hòa xã hội
chủ nghĩa Việt Nam (CHXHCNVN) ra tuyên bố bác bỏ luận điệu nêu trong
tuyên bố ngày 29/2/1978 của người phát ngôn Bộ Ngoại giao Trung Quốc về
vấn đề quần đảo Trường Sa, khẳng định chủ quyền của Việt Nam đối với hai
quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa, nhắc lại lập trường của Việt Nam chủ
trương giải quyết mọi tranh chấp hoặc bất bình bằng thương lượng hòa bình.
Ngày 7/8/1979: Bộ Ngoại giao nước CHXHCNVN ra tuyên bố về quần
đảo Hoàng Sa và quần đảo Trường Sa, bác bỏ sự xuyên tạc của Trung Quốc
trong việc công bố một số tài liệu của Việt Nam liên quan đến các quần đảo
Hoàng Sa và Trường Sa, khẳng định lại chủ quyền của Việt Nam đối với hai
quần đảo này, nhắc lại lập trường của Việt Nam về việc giải quyết sự tranh
chấp về hai quần đảo giữa hai nước bằng thương lượng hòa bình.
Ngày 28/9/1979: Bộ Ngoại giao Việt Nam công bố một số tài liệu về
chủ quyền Việt Nam đối với Hoàng Sa và Trường Sa.

16


Ngày 29/4/1980: Bộ Ngoại giao Việt Nam gửi công hàm cho Malaysia
phản đối việc Malaysia công bố bản đồ Malaysia lấn vào vùng biển và thềm
lục địa Việt Nam tại vùng Trường Sa.

Tháng 12/1981: Bộ Ngoại giao Việt Nam công bố sách trắng: “Quần
đảo Hoàng Sa và quần đảo Trường Sa, lãnh thổ Việt Nam”.
Ngày 12/11/1982: Chính phủ Việt Nam công bố đường cơ sở dùng để
tính chiều rộng lãnh hải.
Ngày 4/2/1982: Chính phủ Việt Nam thành lập huyện Hoàng Sa thuộc
tỉnh Quảng Nam-Đà Nẵng.
Ngày 9/12/1982: Chính phủ Việt Nam lập huyện Trường Sa. Đến ngày
28/12/1982, Chính phủ Việt Nam quyết định huyện Trường Sa được nhập
vào tỉnh Phú Khánh.
Từ ngày 4 đến 16/4/1984: đoàn đại biểu Quốc hội CHXHCNVN và
đoàn đại biểu tỉnh Phú Khánh thăm huyện Trường Sa. Thứ trưởng Bộ Thủy
sản Việt Nam Vũ Văn Trác đi khảo sát nghề cá tại huyện Trường Sa.
Ngày 25/4/1984: Ủy ban Địa danh Trung Quốc công bố tên mới cho các
đảo, bãi, đá trong Biển Đông trong đó có đảo thuộc quần đảo Hoàng Sa và
Trường Sa của Việt Nam.
Ngày 6/5/1984: người phát ngôn Bộ Ngoại giao Việt Nam phản đối việc
đặt tên của Trung Quốc.
Vào đầu năm 1985: Đại tướng Văn Tiến Dũng, Bộ trưởng Bộ Quốc
phòng Việt Nam ra thăm quần đảo Trường Sa.
Năm 1986: ông Hồ Diệu Bang, Tổng Bí thư Đảng Cộng sản Trung
Quốc cùng Lưu Hoa Thanh, Trương Trọng Tiến đi thị sát Hoàng Sa.

17


Tháng 5/1987: Đô đốc Giáp Văn Cường, Tư lệnh Hải quân Việt Nam ra
thăm quần đảo Trường Sa.
Từ 16/5 đến 6/6/1987: hải quân Trung Quốc tập trận tại vùng biển
Trường Sa.
Ngày 10/11/1987: hải quân Trung Quốc đổ bộ lên đá Louisa.

Ngày 14/3/1988: giữa Trung Quốc và Việt Nam đã nổ ra cuộc chiến đấu
trên biển Nam Trung Quốc. đây là một trận chiến đấu trên biển mà phía
Trung Quốc cho là “đánh gọn và đẹp mắt”.
Tính đến ngày 6/4/1988: Trung Quốc đã chiếm đóng: Đá Chữ Thập, Đá
Châu Viên, Đá Ga Ven, Đá Tư Nghĩa, Đá Gạc Ma, Đá Subi.
Ngày 3/1/1989: Trung Quốc đặt bia chủ quyền trên các bãi họ chiếm
được trong năm 1988: Đá Chữ Thập, Đá Châu Viên, Đá Ga Ven, Đá Tư
Nghĩa, Đá Gạc Ma, Đá Subi.
Ngày 14/4/1988: Bộ Ngoại giao CHXHCNVN phản đối việc Quốc hội
Trung Quốc sáp nhập hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa vào tỉnh Hải
Nam [Nghị quyết ngày 13/4/1988 thành lập tỉnh Hải Nam].
Tháng 4/1988: Bộ Ngoại giao CHXHCNVN công bố Sách Trắng: “Các
quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa và luật pháp quốc tế”.
Ngày 2/10/1989: người phát ngôn Bộ Ngoại giao Việt Nam tuyên bố bác
bỏ luận điệu trong bản tuyên bố của Trung Quốc ngày 28-4-1989, trong đó
người phát ngôn Bộ Ngoại giao Trung Quốc đã lên án Việt Nam xâm phạm
trái phép một số đảo và cù lao tại bãi Vạn An và Bãi Vạn Nhã thuộc “quần
đảo Nam Sa”.

18


Ngày 28/4/1990: Bộ Ngoại giao Việt Nam gửi công hàm cho Đại sứ
quán Trung Quốc tại Hà Nội, phản đối việc Trung Quốc đã cho quân lính
xâm chiếm bãi Én Đất trên quần đảo Trường Sa.
Từ năm 1990 đến nay, khối Liên Xô và Đông Âu sụp đổ, Việt Nam đổi
mới, làm bạn với tất cả các nước kể cả Trung Quốc và Mỹ, sự tranh chấp
Hoàng Sa và Trường Sa giữa Trung Quốc và Việt Nam không còn gay gắt
như trước, song số dự trữ dầu lửa lớn ở Biển Đông khiến Trung Quốc vẫn
chưa chịu trả Hoàng Sa cho Việt Nam và các nước khu vực, và Trung Quốc

vẫn tiếp tục tranh chấp với Việt Nam ở Trường Sa.
Tháng 8/1990: Thủ tướng Trung Quốc Lý Bằng đề nghị tiến hành khai
thác chung khu vực quần đảo Trường Sa.
Ngày 1/2/1991: Trung Quốc xây dựng nhiều hải đăng trên các bãi đá
ngầm mới chiếm được trong quần đảo Trường Sa.
Ngày 4/7/1991: tại KuaLa Lumpur tổ chức một hội thảo không chính
thức về giải quyết các tranh chấp trên vùng Biển Đông, Trung Quốc có cử
đoàn cán bộ tham gia, người phát ngôn Bắc Kinh tuyên bố việc tham gia như
thế không có nghĩa là Trung Quốc đã thay đổi lập trường và nói: “Trung
Quốc chủ trương giải quyết tranh chấp bằng phương pháp hòa bình, Trung
Quốc sẵn sàng cùng các nước liên quan thảo luận con đường và phương pháp
cùng khai thác”.
Ngày 10/11/1991: các nhà lãnh đạo Việt Nam và Trung Quốc ký tại Bắc
Kinh thông báo chung về bình thường hóa quan hệ giữa hai nước.
Ngày 25/2/1992: Quốc hội Trung Quốc công bố luật lãnh hải và vùng
tiếp giáp Trung Quốc, quy định lãnh hải rộng 12 hải lý và lãnh thổ Trung
Quốc giữa bốn quần đảo Đông, Tây, Nam, Trung Sa và đảo Điếu Ngư. Việt
Nam đã lên tiếng công khai phản đối sự kiện này.

19


Năm 1994: Việt Nam phản đối Trung Quốc đã xâm phạm thềm lục địa
và vùng đặc quyền kinh tế Việt Nam khi Trung Quốc ký với Công ty
Crestones (Mỹ) cho phép thăm dò khai thác dầu mà Trung Quốc gọi là hợp
đồng Vạn An Bắc 21.
Năm 2002: Trung Quốc và ASEAN ký tuyên bố chung DOC.
2007: Trung Quốc thành lập huyện Tam sa bao gồm cả quần dảo Hoàng
Sa và Trường Sa.
16/8/2009: Trung Quốc diễn tập quân sự quy mô lớn trên biển Đông

26/7/2010: Trung Quốc tập trận trên biển Đông có sự tham gia của nhiều
nhóm tàu chiến, tàu ngầm và máy bay.
Ngày 2/3/2011: Bộ Ngoại giao Việt Nam đã ra tuyên bố phản đối việc
gần đây Trung Quốc diễn tập quân sự tại khu vực quần đảo Trường Sa
2/11/2010 Quân đội Trung Quốc đã tổ chức tập trận bắn đạn thật tại biển
Đông
Ngày 24/2/2011, biên đội tàu hộ vệ số 8 hải quân Trung Quốc đã tiến
hành diễn tập chống cướp biển ở khu vực quần đảo Trường Sa.
Những hành động của Trung Quốc gần đây ngày càng thể hiện việc
Trung Quốc muốn thể hiện những tính toán có lợi cho mình mà không có lợi
cho hòa bình và ổn định trong khu vực cũng như trên thế giới.

20


CHƯƠNG HAI: QUÁ TRÌNH XÁC LẬP CHỦ QUYỀN TRÊN HAI
QUẦN ĐẢO HOÀNG SA VÀ TRƯỜNG SA
2.1 TÊN GỌI VÀ KHÁI QUÁT VỀ QUẦN ĐẢO HOÀNG SA &
TRƯỜNG SA
2.1.1. Tên Gọi
Bãi Cát (Kát) Vàng hay Cồn Vàng là gốc từ chữ Nôm, Hoàng Sa gốc từ
chữ Hán, đều đồng nghĩa (Sa = Cát, Hoàng = Vàng; Trường = Dài; Đại =
Lớn; Vạn Lý = Vạn Dặm; Bãi là chỗ đất nổi lên ở ven hay giữa sông, biển;
Cồn là gò đống nổi lên ở giữa sông hay biển).
Danh xưng từ chữ nôm"Cát Vàng" rất được thông dụng trong dân gian,
được dân gian đặt tên sớm. Tên gọi từ chữ Hán “Hoàng Sa” được giới nho sĩ
dịch và viết ra về sau.
Người Bồ Đào Nha, Hòa Lan gọi quần đảo là Parcel hay Pracel ( tiếng
Bồ Đào Nha, Parcel có nghĩa là đá ngầm - ám tiêu; vào đầu thế kỷ XVI khi ấy
người Phương Tây chưa biết đến các đảo ở phía Nam mà sau này gọi là

Trường Sa; trên bản đồ thường ghi”I de Pracell”như bản đồ Bartholomen
Velho (1560), bản đồ Fernao Vaz Dourado (1590), bản đồVan Langren
(1595)…
Người Pháp, Anh gọi là Paracel vào thế kỷ XVII, XVIII trên các bản đồ
hàng hải.
Người Trung Hoa thường gọi là Nam Hải, song cũng tùy theo từng thời
kỳ lịch sử người Trung Hoa đã tên gọi khác nhau như biển Giao Chỉ (Giao
Chỉ Dương).
Các nhà hàng hải Phương Tây từ thế kỷ XVI thường gọi là biển Champa
(Ciampa), hay biển Trung Hoa hay Nam Trung Hoa. Cũng như người ta
thường gọi biển kế cận Ấn Độ là Ấn Độ Dương. Song chẳng bao giờ Ấn Độ
21


Dương là của Ấn Độ cũng như Biển Trung Hoa là của Trung Hoa cả. Đúng
ra, Biển Đông bao quanh hầu hết các nước Đông Nam Á như Việt Nam,
Philippines, Indonesia, Brunei, Malaysia, Singapore, Thái Lan, Campuchia,
nên phải gọi là Biển Đông Nam Á mới đúng.
Người Pháp gọi là Archipel des ýles Spratly, người Anh, Mỹ gọi là
Spratley Islands hay Spratlies. Trung Quốc gọi là Nansha (Nam Sa) hay Nan
Wei quần đảo, Philippines gọi là Kalayaan. Nhật gọi là Shinnan Guto.
2.1.2 Quần đảo Hoàng Sa
Quần đảo Hoàng Sa nằm trong một phạm vi rộng khoảng 15.000km2 , giữa
kinh tuyến 111 độ Đông đến 1130 Đông, khoảng 95 hải lý (1 hải lý = 1,853 km),
từ 17o05’ xuống 15o,45’ vĩ Bắc, khoảng 90 hải lý; xung quanh là vùng biển có
độ sâu hơn 1000m, song giữa các đảo có độ sâu thường dưới 100m.
Quần đảo Hoàng Sa nằm ngang bờ biển các tỉnh Quảng Trị, Thừa Thiên,
Quảng Nam và một phần Quảng Ngãi.
Về khoảng cách với đất liền, quần đảo Hoàng Sa nằm gần đất liền Việt
Nam hơn cả:

Từ đảo Triton đến Mũi Ba Làng An (Cap Batangan:150 vĩ Bắc, 1080 6’
kinh Đông), tức đất liền lục địa Việt Nam đo được 135 hải lý, cách Cù Lao
Ré chỉ có 123 hải lý, trong khi đó khoảng cách đảo gần nhất tới bờ đảo Hải
Nam xa tới 140 hải lý (đảo Hoàng Sa-Pattle:160 vĩ Bắc, 1110 6’ kinh Đông và
Ling-Sui hay Leong Soi : 180 vĩ Bắc, 1100 03 kinh Đông); nếu tính tới đất
liền lục địa Trung Hoa còn xa hơn nhiều, tối thiểu là 235 hải lý.
Trong khoảng 30 đảo, đá, bãi, cồn, hòn trên, hiện có 23 đã được đặt tên,
gồm 15 đảo, 3 bãi, 3 đá, 1 cồn, 1 hòn. Các đảo trên không cao, cao nhất là
Đảo Hòn Đá (50 feet), đảo thấp nhất là Đảo Tri Tôn (10 feet). Các đảo chính
gồm 2 nhóm:
22


- Nhóm Lưỡi Liềm (Crescent group) ở Tây Nam.
- Nhóm An Vĩnh (Amphitrite Group) ở Đông Bắc.
Nhóm Lưỡi Liềm:
Nhóm Lưỡi Liềm còn gọi là Trăng Khuyết hay Nguyệt Thiềm, theo như
Sơn Hồng Đức nếu nhìn từ máy bay xuống, nhóm đảo này trông hình như
chiếc bánh “croissant” châu đầu vào nhau. Có 7 đảo chính và vô số mỏm đá:
Đảo Hoàng Sa; Đảo Hữu Nhật (đảo mang tên suất đội thủy quân Phạm
Hữu Nhật được vua Minh Mạng phái ra Hoàng Sa đo đạc thủy trình, vẽ bản
đồ vào năm 1836); Đảo Duy Mộng; Đảo Quang Hòa (Quang Hoà Đông và
Quang Hoà Tây); Đảo Quang Anh (tên một đội trưởng Hoàng Sa được vua
Gia Long sai đo đạc thủy trình ở Hoàng Sa năm 1815)…
Nhóm An Vĩnh (Amphitrite Groupe)
Nhóm đảo An Vĩnh bao gồm các đảo tương đối lớn và cao nhất thuộc
quần đảo Hoàng Sa, cũng là các đảo san hô lớn nhất của Biển Đông.Đảo lớn
nhất là đảo Phú Lâm.
Nhóm Linh Côn
Nằm về phía cực Đông của quần đảo Hoàng Sa.

Phía Tây nhóm đảo Linh Côn, còn có Đá Tháp (Pyramid Island), bãi
Thủy Tề (Neptuna Bank); phía Nam, tây Nam còn có bãi Quảng Nghĩa
(Jehangir Bank), bãi Châu Nhai (Bremen Bank)…
Ngoài ra ở cực Nam còn có đảo Tri Tôn (Triton Island, Zhongjian dao,
1110 12kinh Đông, 150 46 vĩ Bắc). Đây là hòn đảo đơn độc, ít người lui tới,
nhưng rất nhiều hải sản, san hô đủ màu.

23


2.1.3. Quần đảo Trường Sa
Quần đảo Trường Sa cách quần đảo Hoàng Sa hiện nay tính đến đảo gần
nhất vào khoảng 350 hải lý, đảo xa nhất 500 hải lý, cách Vũng Tàu 305 hải lý,
Cam Ranh 250 hải lý, đảo Phú Quốc 240 hải lý, cách Bình Thuận (Phan
Thiết) 270 hải lý.
Quần đảo trải dài từ vĩ độ 60 2 vĩ Bắc tới 110 28 vĩ Bắc, từ kinh độ 1120
Đông đến 1150 Đông trong vùng biển chiếm khoảng 160.000km2 180.000km2 . Biển tuy rộng nhưng diện tích các đảo, đá, bãi nổi lên khỏi mặt
nước lại rất ít, chỉ tổng cộng khoảng 11 km2.
Về số lượng đảo theo thống kê của Tiến Sĩ Nguyễn Hồng Thao (Vụ
Biển thuộc Ban Biên Giới Chính Phủ) năm 1988 bao gồm 137 đảo, đá, bãi
không kể 5 bãi ngầm thuộc thềm lục địa Việt Nam (gồm bãi Phúc Tần,
Huyền Trân, Quế Đường, Phúc Nguyên, Tứ Chính).
Theo thống kê của Pháp năm 1933 gồm 9 đơn vị chính và các đảo, đá,
bãi phụ cận. Philippines đã liệt kê một danh sách 53 đơn vị gồm hòn đảo và
cù lao trong một khu vực 976 dặm vuông. Căn cứ vào hải đồ vẽ năm 1979
của Cục Bản Đồ Quân Sự Bộ Tổng Tham Mưu (Cộng Hoà Xã Hội Chủ
Nghĩa Việt Nam), quần đảo Trường Sa có thể chia làm 9 cụm chính kể từ Bắc
xuống Nam: Đảo Song Tử Đông, đảo Song Tử Tây; phía Nam cụm Song Tử,
gồm đảo Thị Tứ và các bãi đá; Phía Nam đảo Thị Tứ là đá Xu Bi (Subi Reef,
Zhu Bi Jiao, Zamora Reef (Philipin)), cách đảo Thị Tứ chừng 14 hải lý (đã bị

Cộng Hoà Nhân Dân Trung Hoa chiếm đóng năm 1988); phía Đông cụm Thị
Tứ, gồm đảo Loai Ta phía dưới và cồn san hô Lancan hay An Nhơn ở phía
Đông. Phía Bắc cụm là đảo Loai Ta; phía Nam cụm Loại Ta, nằm kết một
vòng san hô Tizard Bank, gồm đảo Nam Yết, đảo Sơn Ca, đảo Ba Bình,
cùng bãi Bàn Than. Cụm này có đảo rộng nhất của Trường Sa là Ba Bình và
cao nhất là đảo Nam Yết và nhiều lùm cây cao lớn nhất; phía Nam cụm Nam
Yết – Tigia gồm có đảo Sinh Tồn, và các đá và bãi đá: đá Sinh Tồn Đông, Đá
24


Nhạn Gia, Đá Bình Khê, Đá Ken Nan, Đá Tư Nghĩa, Đá Bình Sơn, Đá Gạc
Ma, Đá Cô Lin…
Ba hòn đảo trên và một số hòn đảo nhỏ nổi lên tạo thành một vòng đai
san hô có tên là "Union Reefs".
Cụm đảo Trường Sa nằm phía Đông, kế cận các bãi, đá thuộc thềm lục
địa Việt Nam như Phúc Tần, Huyền Trân, Quế Đường, Phúc Nguyên, Tư
Chính. Đảo lớn nhất là đảo Trường Sa, người Pháp gọi là đảo Bão Tố (Ile de
Tempête).
Ngoài ra còn các cụm đảo như: Cụm Đảo An Bang; Cụm Đảo Bình
Nguyên.
2.1.4. Điều kiện tự nhiên, tài nguyên thiên nhiên
Các sinh vật trên các đảo và dưới biển quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa
như rùa, đồi mồi, vít, đồn đột, ốc tai voi, ốc hương đều tương tự như các đảo
ven biển Việt Nam như đảo Cù Lao Ré. Khi ngư dân Việt bắt cạn hết sinh vật
ở đảo gần bờ biển, tất họ phải tìm ra xa biển như ở ngoài quần đảo Hoàng Sa,
Trường Sa. Theo nhà nghiên cứu La Fontaine, các cuộc khảo sát cho thấy các
thú vật sống ở các đảo Hoàng Sa và Trường Sa đều là các loài đã gặp ở đất
liền Việt Nam, có môi trường sinh sống gần với Việt Nam hơn là Trung Hoa,
các sinh vật ở Hoàng Sa và Trường Sa không có nhiều liên hệ với sinh vật ở
Trung Quốc.

Những khảo sát về thảo mộc của La Fontaine, vào thập niên 40, 50 tại
Hoàng Sa đã đi đến kết luận rõ ràng rằng không có loại thảo mộc nào là tại
chỗ cả, tất cả từ vùng đất liền du nhập bằng nhiều cách. Cũng theo sự phân
tích một cách khoa học của H. Fontaine và Lê Văn Hội trong "Contribution à
la connaissance de la flore des ýles Paracels" (Khảo cứu Niên San Khoa Học
Đại học Đường - Annales de la faculté des Sciences, Sàigòn 1957, pp 133 137), thì mỗi thảo mộc hiện có ở Hoàng Sa đều tìm thấy ở Việt Nam nhất là ở
25


×