Tải bản đầy đủ (.docx) (106 trang)

báo cáo thực tập tốt nghiệp đề tài nghiên cứu khai thac tiềm năng du lịch văn hóa đông anh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.79 MB, 106 trang )

1

LỜI CẢM ƠN
Trên thực tế không có sự thành công nào mà không gắn liền với những sự hỗ
trợ, giúp đỡ dù ít hay nhiều, dù trực tiếp hay gián tiếp của người khác. Cũng như vậy,
với lòng biết ơn sâu sắc nhất, nhóm nghiên cứu xin gửi đến TS. Nguyễn Thị Tú,
trường Đại học Thương mại đã cùng với tri thức và tâm huyết của mình trực tiếp
hướng dẫn và chỉ bảo tận tình giúp nhóm chọn đề tài, thu thập tư liệu để nhóm nghiên
cứu hoàn thành bài Nghiên cứu khoa học sinh viên này.
Nhóm nghiên cứu cũng xin gửi lời cám ơn chân thành tới các anh chị cán bộ ở
Phòng Văn hóa – Thông tin Huyện Đông Anh, các ông, các bác và anh chị cán bộ
trong Ban di tích Cổ Loa và các điểm du lịch văn hóa của Huyện đã cung cấp cho
nhóm nghiên cứu những thông tin, tư liệu cần thiết để hoàn thành bài Nghiên cứu
khoa học.
Cuối cùng nhóm nghiên cứu xin gửi lời biết ơn chân thành tới gia đình, bạn bè
đã luôn động viên, giúp đỡ, tạo điều kiện cho nhóm hoàn thành bài Nghiên cứu khoa
học này.
Do hạn chế về mặt thời gian cũng như trình độ, kinh nghiệm nghiên cứu nên
bài Nghiên cứu không tránh khỏi những thiếu sót. Nhóm nghiên cứu rất mong nhận
được những ý kiến đóng góp của quý thầy, cô giáo, các nhà nghiên cứu để bài Nghiên
cứu khoa học sinh viên của Nhóm nghiên cứu được hoàn thiện hơn.
Nhóm nghiên cứu xin chân thành cảm ơn!
Hà Nội, ngày 25/2/2016

Nhóm nghiên cứu


2
LỜI CAM ĐOAN
Nhóm nghiên cứu xin cam đoan bài nghiên cứu khoa học sinh viên “Khai thác
tiềm năng du lịch văn hóa ở Đông Anh , Hà Nội” là toàn bộ công trình nghiên cứu


khoa học độc lập của Nhóm, được thực hiện dưới sự hướng dẫn khoa học của TS.
Nguyễn Thị Tú.
Mọi thông tin và dữ liệu trong nội dung công trình nghiên cứu này đều có
nguồn gốc, xuất xứ rõ ràng.
Nhóm nghiên cứu xin chịu trách nhiệm về nghiên cứu của mình.
Nhóm nghiên cứu


3
MỤC LỤC
LỜI CẢM ƠN............................................................................................................................. i
LỜI CAM ĐOAN.......................................................................................................................ii


4

DANH MỤC BẢNG, BIỂU

STT

Tên bảng biểu

Trang

1

Bảng 2.1: Số lượng khách du lịch đến Đông Anh giai đoạn
2011 – 2014

45


2

Bảng 2.2: Doanh thu ngành du lịch huyện Đông Anh giai đoạn
2011 – 2014

46

3

Bảng 2.3: Kinh phí tu bổ các di tích của huyện Đông Anh từ
2011 – 2014

47


5

DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT
STT
1.
2.
3.
4.
5.
6.

Từ viết tắt
CLB
EXPO

HTX
TNDL
TNHH
UBND

7.

UNESCO

8.
9.

VH – TT
VH, TT & DL

Từ nguyên nghĩa
Câu lạc bộ
Hội chợ triển lãm thương mại quốc tế
Hợp tác xã
Tài nguyên du lịch
Trách nhiệm hữu hạn
Ủy ban nhân dân
Tổ chức Giáo dục, Khoa học và Văn hóa
của Liên hợp quốc
Văn hóa – Thông tin
Văn hóa, Thể Thao và Du lịch


6


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết nghiên cứu của đề tài
Du lịch được xác định là một ngành có tầm chiến lược mang lại hiệu quả kinh
tế cao trong thời kì hội nhập hiện nay. Ở những nước đang phát triển, nền tảng phát
triển phần lớn dựa vào nguồn du lịch tự nhiên và sự đa dạng trong bản sắc dân tộc,
không những tạo ra giá trị cho ngành du lịch mà còn đóng góp đáng kể cho sự phát
triển của cộng đồng xã hội. Du lịch văn hóa vì thế trở thành xu hướng phát triển của
nhiều nước và được xem là loại sản phẩm đặc thù của các nước đang phát triển.
Ở Việt Nam, các hoạt động du lịch văn hóa được tổ chức dựa trên đặc điểm của
từng vùng miền, thu hút một lượng lớn khách du lịch quốc tế với lợi thế từ những sản
phẩm văn hóa, lễ hội truyền thống, phong tục tín ngưỡng… của 54 dân tộc trên một
đất nước có bề dày lịch sử hàng ngàn năm văn hiến. Điển hình có thể kể đến du lịch
Lào Cai, Hà Nội, Thanh Hóa, du lịch Đak Lak, Tây Ninh, Cần Thơ, Kiên Giang…,
đến với mỗi vùng ở các loại địa hình, khí hậu khác nhau, du khách lại được trải
nghiệm các nền văn hóa khác nhau, các tập tục độc đáo riêng biệt, thỏa mãn nhu cầu
khám phá và trải nghiệm của mình.
Là Thủ đô 1000 năm tuổi có lịch sử lâu đời, truyền thống văn hóa đa dạng và
giàu bản sắc, Hà Nội có tới 1164 di tích trên tổng số gần 3500 di tích cấp quốc gia ở
Việt Nam. Với lợi thế đó, đây thực sự là một trung tâm du lịch văn hóa lớn, đủ điều
kiện để phát triển du lịch văn hóa, tâm linh và hội thảo. Nổi tiếng với lợi thế về các
khu di tích, đền chùa gắn liền với lịch sử cùng hàng chục lễ hội độc đáo đậm đà bản
sắc dân tộc đến từ nhiều làng nghề khác nhau, trong quy hoạch phát triển du lịch Hà
Nội đến năm 2020, định hướng 2030, Đông Anh là một trong 6 vùng du lịch trọng
điểm với không gian ưu tiên là Vân Trì - Cổ Loa.
Huyện Đông Anh có bề dày lịch sử lên đến 2000 năm, tập hợp một chuỗi dày
đặc những điểm du lịch về tài nguyên nhân văn và tự nhiên. Điển hình phải kể đến:
bảo tàng Đông Anh, khu di tích thành cổ Cổ Loa (tổ hợp di tích đền An Dương
Vương, đình Cổ Loa, Am Mị Châu, đền thờ Cao Lỗ, nhà triển lãm Cổ Loa, đền thờ
Quan Trấn Nam), đền Sái, chùa Tó, làng rối nước Đào Thục cùng một loạt các lễ hội
làng tại Mỹ Nội, Quan Âm, Cổ Dương, Xuân Nộn, Thụy Hà… Với đặc điểm là một

huyện ở ngoại thành phía bắc Hà Nội, cho tới bây giờ Đông Anh vẫn giữ được nét văn
hóa làng quê rất riêng, các khu di tích cũng được bảo tồn khá nguyên vẹn, môi trường
không gian tốt, không khí trong lành cùng các khu sinh thái mới được đầu tư xây
dựng. Như vậy, có thể thấy, huyện Đông Anh rất có triển vọng và tiềm năng về phát
triển du lịch văn hóa.


7

Tuy nhiên, mặc dù đã được đầu tư và đẩy mạnh khai thác, sự phát triển du lịch
ở Đông Anh vẫn chưa thực sự tương xứng với tiềm năng hiện có. Ngoài khu du lịch
Cổ Loa, đền Sái, rối nước Đào Thục nhận được sự quan tâm của du khách; các địa
danh, di tích tiềm năng khác chưa được nhiều người biết tới, đặc biệt là các di tích
cách mạng (địa đạo Nam Hồng, pháo đài Xuân Canh...). Bên cạnh đó, việc khắc phục
các vấn đề như chất lượng dịch vụ phụ trợ nhỏ lẻ, tính chuyên nghiệp trong hoạt động
du lịch còn thấp, sản phẩm du lịch nghèo nàn, chưa quan tâm đến quảng bá… cũng là
các yếu tố kìm hãm sự phát triển du lịch tại huyện Đông Anh.
Trăn trở về việc làm thế nào để thực sự phát triển du lịch văn hóa nơi đây thay
vì chỉ mãi là tiềm năng phát triển, nhóm nghiên cứu đã quyết định chọn đề tài: “Khai
thác tiềm năng du lịch văn hóa ở huyện Đông Anh, Hà Nội” làm đề tài nghiên cứu
khoa học sinh viên.

2. Tổng quan nghiên cứu đề tài
Cho đến nay, đề tài “Khai thác tiềm năng du lịch văn hóa ở huyện Đông Anh,
Hà Nội” còn mới mẻ. Các công trình nghiên cứu liên quan đến đề tài về du lịch văn
hóa ở các vùng miền nổi tiếng, du lịch Hà Nội khá phong phú. Đây là nguồn tư liệu rất
bổ ích để nhóm nghiên cứu kế thừa phục vụ cho viêc nghiên cứu đề tài này.
Về vấn đề văn hóa và du lịch văn hóa, các công trình nghiên cứu rất phong phú
như Đào Duy Anh với Việt Nam văn hóa sử cương; Trần Quốc Vượng với Cơ sở văn
hóa Việt Nam; Phan Ngọc với Bản sắc văn hóa Việt Nam; Toan Ánh với Nếp cũ – tín

ngưỡng Việt Nam; Phan Kế Bính với Việt Nam phong tục. Nguyễn Thị Thu Duyên
(2013), Luận văn thạc sĩ “Nghiên cứu phát triển du lịch văn hóa tâm linh tỉnh Nam
Định”, Đại học Khoa học xã hội và nhân văn, Đại học Quốc gia Hà Nội. Công trình
nghiên cứu này đã góp phần làm rõ một số vấn đề lý luận về du lịch văn hóa tâm linh.
Từ đó, tác giả đã khảo sát thực trạng khai thác sản phẩm du lịch văn hóa tâm linh của
Nam Định và có kết luận du lịch văn hóa tâm linh của Nam Định chưa phát triển
tương xứng với tiềm năng cũng như đưa ra nguyên nhân lý giải kết luận này. Trong
công trình nghiên cứu, tác giả cũng đã đề xuất giải pháp góp phần phát triển du lịch
văn hóa tâm linh và bảo tồn các di sản văn hóa tỉnh Nam Định. Nguyễn Thị Hường
(2014), Luận văn thạc sĩ “Xây dựng tuyến, điểm du lịch văn hóa tâm linh tỉnh Hải
Dương”, Đại học Khoa học xã hội và nhân văn, Đại học Quốc gia Hà Nội. Đề tài đã
hệ thống hóa một số vấn đề lý luận về du lịch văn hóa tâm linh và xây dựng tuyến,
điểm du lịch văn hóa tâm linh. Trên cơ sở đó, đề tài đã nghiên cứu thực trạng các
tuyến, điểm du lịch văn hóa tâm linh của tỉnh Hải Dương, đánh giá những ưu điểm,
hạn chế và đề xuất một số giải pháp trong xây dựng các tuyến, điểm du lịch văn hóa


8

tâm linh tại tỉnh Hải Dương. Các công trình đã nghiên cứu chủ yếu về các vấn đề như
lý luận văn hóa; đặc trưng chức năng của văn hóa; các thành tố văn hóa Việt Nam.
Bên cạnh đó, còn có các công trình nghiên cứu về du lịch Hà Nội, du lịch văn
hóa nói chung như: Nguyễn Vinh Phúc với Hà Nội – thành phố ngàn năm, Hà Nội cỗi
đất con người, Hà Nội qua những tháng năm, Thần tích Hà Nội và tín ngưỡng thị dân;
Nguyễn Hữu Quỳnh với Bách khoa thư Hà Nội, Giang Quân với Hà Nội xưa và nay,
Trần Quốc Vượng với Hà Nội nghìn xưa… đã nghiên cứu rất đầy đủ về tài nguyên
cũng như sản phẩm du lịch Hà Nội. Nguyễn Vinh Phúc với Du lịch Hà Nội hướng tới
1000 năm Thăng Long, Nguyễn Phạm Hùng với Tượng đài Hà Nội và du lịch văn hóa,
Du lịch tôn giáo và vấn đề giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc... Các nghiên cứu này đã
đề cập đến du lịch văn hóa và việc khai thác các di sản văn hóa Hà Nội vào hoạt động

du lịch văn hóa.
Ngay tại huyện Đông Anh cũng có những bài nghiên cứu khoa học như: Dấu
ấn nền cựu học trên đất Đông Anh”, Đông Anh news của Vũ Thi Như Quỳnh; Giá trị
lịch sử, văn hóa của làng ca trù Lỗ Khê, Đông Anh của sinh viên Trần Thị Xuyên;
Khai thác các giá trị lịch sử văn hóa làng Cổ Loa, xã Cổ Loa, huyện Đông Anh, Hà
Nội của Phạm Thị Bich Diệp… nhưng chỉ tập trung về một loại hình của du lịch văn
hóa, chưa bao quát, khai thác được tiềm năng du lịch văn hóa huyện Đông Anh.
Ngoài ra còn có các công trình nghiên cứu nước ngoài về du lịch văn hóa như
những nghiên cứu của UNESCO với các dự án thí điểm trên thế giới như: Chuyên đề
đường và du lịch văn hóa, Du lịch văn hóa ở các nước Baltic… nhằm hỗ trợ các nước
thành viên trong việc chuẩn bị các chính sách của họ khi xem xét lại mối quan hệ giữa
du lịch và đa dạng văn hóa, du lịch và đối thoại liên văn và du lịch, phát triển. Các
nghiên cứu góp phần vào cuộc đấu tranh chống đói nghèo, bảo vệ môi trường và đánh
giá lẫn nhau của nền văn hóa. Hay các nghiên cứu về du lịch văn hóa ở Nga; Nghiên
cứu về ảnh hưởng của du lịch đến văn hóa và môi trường (Thái Lan); Sự thỏa mãn du
lịch với di sản văn hóa ở Mỹ; Vai trò và tầm quan trọng của du lịch văn hóa trong
ngành du lịch hiện đại ở Hungary…
Tóm lại, tất cả các những công trình nghiên cứu nói trên đã đưa ra nội dung về
rất phong phú về văn hóa, du lịch văn hóa ở các vùng miền khác nhau, du lịch Hà Nội,
tuy nhiên chưa đề cập nhiều đến khai thác tiềm năng du lịch văn hóa và đặc biệt chưa
có đề tài nào đề cập đến khai thác tiềm năng du lịch văn hóa ở huyện Đông Anh..
Tuy nhiên chúng tôi nhận thấy, các tài liệu nghiên cứu trên đã giúp chúng tôi
rất nhiều trong khi thực hiện đề tài. Chúng tôi đã kế thừa nhiều kết quả nghiên cứu
trước đây. Đồng thời, chúng tôi cũng nhận


9

Như vậy, có thể thấy việc nghiên cứu, tìm hiểu, đánh giá tiềm năng du lịch văn
hóa ở Đông Anh, để có những giải pháp khai thác tiềm năng cho việc phát triển du lịch

văn hóa ở Đông Anh nói riêng, phát triền du lịch văn hóa ở Hà Nội nói chung là thực
sự cần thiết, có ý nghĩa nhiều mặt và không trùng với những nghiên cứu trước đó.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài
* Mục đích nghiên cứu: Nghiên cứu đề xuất các giải pháp và kiến nghị nhằm khai
thác hiệu quả tiềm năng phát triển loại hình du lịch văn hóa của huyện Đông Anh, Hà
Nội, góp phần phát triển kinh tế, bảo tồn và phát huy giá trị truyền thống, thúc đẩy
ngành du lịch của Đông Anh nói riêng, Hà Nội và cả nước nói chung phát triển nhanh
và bền vững, đáp ứng yêu cầu của thời kỳ đổi mới hiện nay.
* Nhiệm vụ nghiên cứu:

- Hệ thống hóa lý luận cơ bản về khai thác tiềm năng du lịch văn hóa tại địa phương.
- Phân tích, đánh giá tiềm năng du lịch văn hóa và thực trạng phát triển du lịch văn hóa
huyện Đông Anh, Hà Nội.

- Nghiên cứu đề xuất giải pháp và kiến nghị nhằm khai thác hiệu quả tiềm năng phát
triển loại hình du lịch văn hóa của huyện Đông Anh, Hà Nội.

3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
* Đối tượng nghiên cứu :
Tiềm năng du lịch văn hóa (Các yếu tố về lịch sử hình thành, giá trị kiến trúc,
và lễ hội, làng nghề…có giá trị phục vụ cho việc phát triển du lịch của Đông Anh) và
du lịch văn hóa của huyện Đông Anh, Hà Nội.
* Phạm vi nghiên cứu:

- Về nội dung: Các vấn đề lý luận và thực tiễn liên quan đến khai thác tiềm năng phát
triển loại hình du lịch văn hóa tại một địa phương. Trong đó tập trung nghiên cứu tài
nguyên du lịch văn hóa, du lịch văn hóa và điều kiện có thể khai thác để phát triển sản
phẩm du lịch văn hóa.

- Về không gian: Việc nghiên cứu tài nguyên du lịch văn hóa, điều kiện có thể khai

thác và thực trạng phát triển du lịch văn hóa được tiến hành trên địa bàn huyện Đông
Anh, Hà Nội.

- Về thời gian: Việc nghiên cứu tiềm năng và thực trạng phát triển du lịch văn hóa ở
huyện Đông Anh, Hà Nội được tiến hành trong khoảng thời gian từ 2011-2015. Giải
pháp khai thác tiềm năng để phát triển du lịch văn hóa huyện Đông Anh, Hà Nội
được định hướng đến năm 2020.


10

4. Phương pháp nghiên cứu
Phương pháp tiếp cận: Phương pháp tiếp cận hệ thống, biện chứng, logic và
lịch sử để nghiên cứu lý luận và thực tiễn về khai thác tiềm năng phát triển du lịch văn
hóa của địa phương.
Phương pháp nghiên cứu cụ thể:

- Phương pháp thu thập dữ liệu thứ cấp: Tiến hành thu thập tài liệu trên sách báo,
Internet, tại địa phương cũng như phòng VH - TT huyện Đông Anh, gồm: Niên giám
thống kê của Tổng cục Thống kê; các báo cáo làm việc của phòng VH – TT Huyện;
các đề tài, báo cáo khoa học liên quan; các bài báo, tạp chí; các văn bản quy định, nghị
định của các cơ quan nhà nước về phát triển du lịch văn hóa… Từ đó tổng hợp nghiên
cứu, xử lý và đưa ra mối liên hệ giữa các thành phần của hệ thống để từ đó sử dụng
làm tư liệu cho đề tài.

- Phương pháp thập dữ liệu sơ cấp:
+ Phương pháp điều tra xã hội học:
o Điều tra bằng phiếu:
Đối tượng điều tra khách hàng; tổng số 150 phiếu; nội dung điều tra đề cập đến
cảm nhận khi thăm quan du lịch văn hóa ở Đông Anh, được trình bày ở phụ lục 1; thời

gian phát phiếu từ 21/11/2015 đến 28/11/2015, phát và thu phiếu trực tiếp với khách
hàng ở địa phương và khách đến thăm quan sản phẩm du lịch văn hóa; tổng số phiếu
thu về 143 phiếu hợp lệ (tỉ lệ 95,3%).
o Phỏng vấn:
Đối tượng phỏng vấn gồm một số chuyên gia kinh tế, lãnh đạo doanh nghiệp
kinh doanh du lịch, đại điện các cơ quan chức năng; các vị thủ nhang, người dân và
một số cụ già cao tuổi, tổng số 10 người. Nội dung phỏng vấn tập trung vào làm rõ
nguyên nhân liên quan đến việc hạn chế trong khai tiềm năng phát triển du lịch văn
hóa ở huyện Đông Anh, Hà Nội. Thời gian phỏng vấn từ 29/11/2015 đến 3/12/2015.

+ Phương pháp khảo sát thực tế
Trong quá trình làm khóa luận nhóm nghiên cứu đã đi khảo sát thực tế đến di
tích văn hóa lịch sử, công trình kiến trúc, lễ hội, làng nghề… tìm hiểu, chụp ảnh.

- Phương pháp xử lý dữ liệu: sau khi thu thập dữ liệu, tiến hành tổng hợp, các ý kiến sau
đó sử dụng phần mền Excel để xử lý dữ liệu điều tra và phương pháp tổng hợp, phân
tích, so sánh, phân tích xu hướng.

5. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài
- Ý nghĩa khoa học: Nghiên cứu tập hợp và xây dựng hệ thống lý luận về khai thác tiềm
năng du lịch văn hóa và đưa ra phương pháp nghiên cứu bảo tồn, phát huy giá trị


11

truyền thống của hoạt động du lịch văn hóa.

- Ý nghĩa thực tiễn: Các kết quả nghiên cứu đề tài sẽ đóng góp làm tài liệu tham khảo
cho các nhà nghiên cứu, các cơ quan nhà nước về du lịch, các doanh nghiệp khai thác
tiểm năng du lịch văn hóa Việt Nam nói chung và ở Đông Anh nói riêng.


6. Kết cấu đề tài nghiên cứu
Ngoài phần mở đầu, kết luận, phụ lục, danh mục tài liệu tham khảo, nội dung
đề tài được chia làm 3 chương:
Chương 1. Một số vấn đề lý luận cơ bản về khai thác tiềm năng phát triển du
lịch văn hóa tại một địa phương.
Chương 2. Thực trạng khai thác tiềm năng du lịch văn hóa huyện Đông Anh,
Hà Nội.
Chương 3. Một số giải pháp và kiến nghị nhằm khai thác hiệu quả tiềm năng
phát triển loại hình du lịch văn hóa của huyện Đông Anh, Hà Nội.


12

CHƯƠNG 1. MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ KHAI
THÁC TIỀM NĂNG PHÁT TRIỂN DU LỊCH VĂN HÓA TẠI MỘT
ĐỊA PHƯƠNG
1.1. Khái niệm, đặc điểm, phân loại và vai trò của du lịch văn hóa đối với phát
triển kinh tế - xã hội
1.1.1. Khái niệm du lịch văn hóa
1.1.1.1. Du lịch
Ngày nay, du lịch đã trở thành một hiện tượng kinh tế xã hội phổ biến không
chỉ ở các nước phát triển mà còn ở các nước đang phát triển, trong đó có Việt Nam.
Tuy nhiên, cho đến nay, nhận thức về nội dung du lịch vẫn chưa thống nhất.Do hoàn
cảnh khác nhau, dưới mỗi góc độ nghiên cứu khác nhau, mỗi người có một cách hiểu
về du lịch khác nhau.
Giáo sư, tiến sĩ Hunziker và giáo sư, tiến sĩ Krapf, hai người được coi là những
người đặt nền móng cho lý thuyết về cung du lịch, đã cho rằng du lịch không chỉ là
hiện tượng di chuyển của cư dân mà phải là tất cả những gì có liên quan đến sự di
chuyển đó. Theo các nhà kinh tế, du lịch không chỉ là một hiện tượng xã hội đơn thuần

mà nó phải gắn chặt với hoạt động kinh tế. Nhà kinh tế học Picara Edmod cho rằng du
lịch là việc tổng hoà việc tổ chức và chức năng của nó không chỉ về phương diện
khách vãng lai mà chính về phương diện giá trị do khách chỉ ra và của những khách
vãng lai mang đến với một túi tiền đầy, tiêu dùng trực tiếp hoặc gián tiếp cho các chi
phí của họ nhằm thoả mãn nhu cầu hiểu biết và giải trí.
Vào năm 1963, Hội nghị Liên hợp Quốc tế về Du lịch ở Roma đã định nghĩa
“Du lịch là tổng hòa các mối quan hệ, hiện tượng, các hoạt động kinh tế bắt nguồn từ
các cuộc hành trình và lưu trú của cá nhân hay tập thể ở bên ngoài nơi ở thường
xuyên của họ hay ngoài nước của họ với mục đích hòa bình. Nơi họ đến lưu trú không
phải nơi làm việc của họ” [10, tr3]. Định nghĩa theo Hội nghị Quốc tế về Thống kê Du
lịch ở Otawa, Canada tháng 6/1991 thì “Du lịch là hoạt động của con người đi tới một
nơi ngoài môi trường thường xuyên (nơi ở thường xuyên của mình), trong một khoảng
thời gian ít hơn khoảng thời gian đã được các tổ chức du lịch quy định trước, mục
đích của chuyến đi không phải là tiến hành các hoạt động kiếm tiền trong phạm vi
vùng tới thăm” [13, tr19].
Luật Du lịch Việt Nam (2005) giải thích: “Du lịch là các hoạt động có liên
quan đến chuyến đi của con người ngoài nơi cư trú thường xuyên của mình nhằm đáp
ứng nhu cầu tham quan, tìm hiểu, giải trí, nghỉ dưỡng trong một khoảng thời gian


13

nhấtđịnh” (khoản 1, Điều 4, Chương I, Luật Du lịch số 44/2005/QH11). Định nghĩa
này đơn giản, đầy đủ nội dung và dễ hiểu.
Khu du lịch là nơi có tài nguyên du lịch hấp dẫn với ưu thế về tà nguyên du lịch
tự nhiên, được quy hoạch, đầu tư phát triển nhằm đáp ứng nhu cầu đa dạng của khách
du lịch, đem lại hiệu quả về kinh tế - xã hội và môi trường. Sản phẩm du lịch là tập
hợp các dịch vụ cần thiết để thỏa mãn nhu cầu của khách du lịch trong chuyến du lịch.
1.1.1.2. Văn hóa và du lịch văn hóa


• Văn hóa
Văn hóa được hiểu theo nhiều nghĩa khác nhau chẳng hạn như để chỉ học thức
(trình độ văn hóa), lối sống (nếp sống văn hóa)… Theo nghĩa rộng hơn, văn hóa bao
gồm tất cả những phong tục, tập quán, tín ngưỡng, hiện vật, lối sống… ảnh hưởng đến
cuộc sống hằng ngày của người dân.
Tại Hội nghị Quốc tế diễn ra từ ngày 26/7 đến ngày 6/8/1982 ở Mê-hi-cô,
UNESCO đã đưa ra định nghĩa văn hóa như sau: “Văn hóa là tổng thể những nét tinh
thần và vật chất, trí tuệ và xúc cảm quyết định tính cách của một xã hội hay của một
nhóm người trong xã hội” [26]. Văn hóa bao gồm nghệ thuật và văn chương, những
lối sống, những quyền cơ bản của con người, những hệ thống các giá trị, những tập tục
và những tín ngưỡng.
Trong tác phẩm “Cơ sở văn hóa Việt Nam”, tác giả Trần Ngọc Thêm đã định
nghĩa: “Văn hóa là một hệ thống hữu cơ các giá trị vật chất và tinh thần do con người
sáng tạo và tích lũy trong quá trình hoạt động thực tiễn, trong sự tương tác giữa con
người với môi trường tự nhiên xã hội” [18, tr10].

• Du lịch văn hóa
Theo luật Du lịch Việt Nam: “Văn hóa là hình thức du lịch dựa vào bản sắc
văn hóa dân tộc với sự tham gia của cộng đồng nhằm bảo tồn và phát huy các giá trị
văn hóa truyền thống” (khoản 20, Điều 4, Chương I, Luật Du lịch số 44/2005/QH11).
Những yếu tố thu hút khách du lịch đến với loại hình này chủ yếu là các bản sắc văn
hóa, nét đặc trưng của nền văn hóa như những lễ hội truyền thống, các phong tục, tập
quán, tín ngưỡng, tôn giáo, lối sống, lịch sử, nghệ thuật, kiến trúc… hình thành nên
nền văn hóa của người dân nơi khách du lịch đến thăm. Khách du lịch thường tìm đến
loại hình du lịch này để tìm hiểu và trải nghiệm các nền văn hóa khác nhau trên thế
giới. Do vậy, du lịch văn hóa không chỉ đơn thuần là du lịch mà còn gắn liền với các
loại hình văn hóa của địa phương.
Du lịch văn hoá đôi khi được xem như một ngành trong ngành kinh tế văn hóa,
tức ngành kinh doanh có sử dụng yếu tố văn hóa. Tuy nhiên, bản thân nó là một loại
hình du lịch nằm trong ngành du lịch, được gọi là ngành công nghiệp không khói, thực



14

chất là ngành kinh doanh. Thực ra vấn đề khai thác các yếu tố, giá trị văn hóa để làm
kinh tế không phải là mới, người ta còn gọi là “kinh tế trong văn hóa”. Từ rất lâu, con
người đã nhận thức được rằng các sản phẩm văn hóa, giá trị văn hóa không chỉ có ý
nghĩa vế mặt giá trị tinh thần, đem đến hiệu quả xã hội mà còn có thể mang lại hiệu
quả về kinh tế thông qua việc con người khai thác và sử dụng như thế nào. Vì vậy,
ngành du lịch, được coi là ngành “thời thượng” trong thời đại ngày nay đã không bỏ
qua ý nghĩa đó. Bên cạnh các loại hình du lịch truyền thống và các loại hình du lịch
đang thịnh hành như: du lịch nghỉ dưỡng, du lịch tham quan, du lịch sinh thái, du lịch
thể thao mạo hiểm, du lịch chữa bệnh, du lịch hành hương… thì loại hình du lịch văn
hóa đang được chú trọng khai thác.
1.1.2. Đặc điểm du lịch văn hóa
Khi nói đến du lịch văn hóa tức tiếp cận văn hóa từ du lịch, thông qua du lịch,
thực chất là việc khai thác và biến sản phẩm văn hóa thành sản phẩm du lịch, thuộc
sản phẩm du lịch. Du lịch văn hóa gắn liền với các hoạt động du lịch và hoạt động văn
hóa, nó mang một số đặc trưng sau:

• Tính đa dạng
Du lịch văn hóa thể hiện sự đa dạng trong đối tượng phục vụ, mục đích phục vụ
hay điểm đến của du lịch văn hóa như các cảnh quan thiên nhiên, kỳ quan thế giới, các
di tích lịch sử - văn hóa cho đến các lễ hội truyền thống, các phong tục tập quán lâu
đời, các loại hình văn hóa nghệ thuật dân gian mang đậm đà bản sắc dân tộc. Ngoài ra,
cần kể đến các cơ sở vật chất và các dịch vụ kèm theo.

• Tính đa thành phần
Không hề có một giới hạn nào cho những đối tượng liên quan đến du lịch văn
hóa. Du khách tham gia vào du lịch văn hóa, các tổ chức Nhà nước và tư nhân, các

doanh nhân trong và ngoài nuớc đầu tư, hoạt động trong lĩnh vực du lịch, những nhân
viên, hướng dẫn viên du lịch, cộng đồng địa phương đều rất đa dạng, gồm nhiều thành
phần khác nhau trong xã hội, tham gia trực tiếp hoặc gián tiếp vào các hoạt động du
lịch văn hóa. Vì vậy, tính đa thành phần còn bao hàm trong đó cả tính xã hội hóa cao.

• Tính đa mục tiêu
Du lịch văn hóa mang lại lợi ích nhiều mặt như bảo tồn các tài nguyên thiên
nhiên, môi trường, di tích lịch sử – văn hóa, duy trì và phát triển văn hóa phi vật thể,
nâng cao chất lượng phục vụ du khách, nâng cao chất lượng đời sống của người phục
vụ du lịch, mở rộng học hỏi và giao lưu văn hóa, kinh tế, nâng cao ý thức trách nhiệm
cho cộng đồng.

• Tính tổng hợp


15

Du lịch văn hóa thể hiện tính tổng hợp ở hai mặt. Một mặt du lịch văn hóa cũng
có những hoạt động như đi lại, ăn uống, lưu trú, du ngoạn, vui chơi, mua sắm... Mặt
khác, quan trọng hơn, du lịch văn hóa đồng thời là nghiên cứu khoa học, khám phá bản
sắc văn hóa dân tộc. Hoạt động du lịch văn hóa là hoạt động xã hội đụng chạm đến
mọi mặt về chính trị, văn hóa, khoa học, kinh tế..., sự phát triển của nó phụ thuộc vào
sự phát triển tổng hợp của các ngành, các nghề. Tính tổng hợp của du lịch văn hóa còn
thể hiện ở chỗ nó gắn liền với tôn tạo giá trị của các di sản văn hóa vật thể và văn hóa
phi vật thể. Nhận thức đầy đủ tính tổng hợp nầy có ý nghĩa quan trọng trong việc quản
lý ngành du lịch nói chung và tổ chức phát triển du lịch văn hóa nói riêng. Các hoạt
động trong ngành du lịch đều có mục đích cuối cùng là đáp ứng nhu cầu của du khách,
mọi sự chậm trễ hoặc bỏ lỡ bất kỳ cơ hội nào đều làm tổn hại đến du lịch.

• Tính liên vùng

Du lịch văn hóa nâng cao ý thức của du khách về văn hóa, thẩm mỹ… Vì vậy
nên có sự liên kết giữa các cơ sở du lịch, các vùng văn hóa với nhau trong việc hoạch
định các tuyến, điểm du lịch văn hóa phục vụ cho du khách.

• Tính mùa vụ
Đối với bầt kỳ loại hình du lịch nào cũng có đặc trưng này, đối với du lịch nói
chung thể hiện ở số lượng du khách thường tập trung rất đông ở những tuyến, điểm du
lịch văn hóa vào những ngày nghỉ cuối tuần, nghỉ hè, nghỉ đông (du khách nước
ngoài), nghỉ lễ. Du lịch văn hóa còn thể hiện riêng ở những thời gian nhất định có
những lễ hội, những sự kiện đặc biệt xảy ra.

• Du lịch văn hóa là "du lịch tri thức"
Khách du lịch văn hóa phần lớn là những người có học. Mục đích của du lịch
văn hóa là khám phá, nghiên cứu, thưởng thức, cảm thụ tinh hoa của một nền văn hoá,
một tác phẩm văn hóa, một công trình văn hóa, có liên quan đến khoa học kỹ thuật,
giáo dục, có tác dụng mở rộng tầm hiểu biết, nâng cao kiến thức, giao lưu văn hoá.
Những tổ chức, những cá nhân hoạt động du lịch văn hóa phải là những người có học,
có hiểu biết; hiểu biết về lịch sử, về văn hóa, về truyền thống dân tộc, hiểu biết những
giá trị văn hóa đang được khai thác làm du lịch. Những sai sót, những xâm hại trong
hoạt động du lịch văn hóa có thể ảnh hưởng xấu đến danh dự dân tộc, tổn hại đến lịch
sử, truyền thống, văn hóa của một quốc gia.

• Du lịch văn hóa gắn liền với truyền thống văn hóa dựa vào bản sắc văn hóa dân tộc
Đây là đặc điểm rất rõ nét của du lịch văn hóa. Quốc gia nào, địa phương nào
giàu truyền thống văn hóa, truyền thống cách mạng thì ở quốc gia ấy, nơi ấy có tiềm
năng to lớn về du lịch văn hóa. Chính vì vậy, hoạt động du lịch văn hóa ở các quốc


16


gia, các vùng miền không giống nhau vì sự đa dạng và khác biệt về văn hóa ở mỗi nơi.
Phát triển loại hình du lịch này phải gắn với giữ gìn và phát huy bản sắc, truyền thống
văn hóa dân tộc, bảo tồn và phát huy di sản văn hóa vật thể và phi vật thể, kết hợp hài
hòa giữa yếu tố truyền thống và hiện đại, tiếp thu tinh hoa của văn hóa thế giới, tạo
điều kiện để tiếp cận và ứng dụng thành tựu khoa học công nghệ vào hoạt động du
lịch.

• Phát triển du lịch văn hóa phải gắn với lợi ích của cộng đồng
Có sự tham gia của cộng đồng, chính cộng đồng dân cư là chủ nhân sáng tạo và
gìn giữ những giá trị di sản văn hóa, tạo ra nguồn tài nguyên đa dạng, phong phú cho
du lịch văn hóa. Do vậy, chính cộng đồng dân cư và toàn xã hội phải tham gia cùng
với các cơ quan quản lý, các tổ chức làm du lịch và du khách để bảo vệ và phát huy
những di sản văn hóa truyền thống và tạo ra những giá trị văn hóa moi góp phần không
ngừng làm giàu thêm, phong phú thêm nguồn tài nguyên cho du lịch văn hóa.
1.1.3. Phân loại du lịch văn hóa
Căn cứ vào tiềm năng tài nguyên Du lịch văn hóa có thể phân loại du lịch văn
hóa như sau:

- Du lịch văn hóa cảm xúc: là những sản phẩm khai thác các đặc tính thẩm mỹ phi vật
thểthông qua các giác quan như: màu sắc, âm thanh, ánh sáng, hương vị, tiếng động
những thành tố tạo thành cái cội nguồn văn hóa của vùng, dân tộc hay quốc gia.
Những thành tố này sẽ tạo nên một vùng cảm xúc mạnh mẽ đối với du khách và để lại
cho họ những kí ức đẹp về chuyến đi.

- Du lịch văn hóa sự kiện và lễ hội: là những sản phẩm du lịch tận dụng sự kiện và lễ hội
để xây dựng chương trình tour sao cho khách du lịch có thể trải nghiệm và hòa mình
vào không khí của lễ hội một cách hợp lý nhất. Vấn đề là kèm theo các lễ hội là những
nghi thức tín ngưỡng, các đám rước nhiều màu sắc, nhiều phong tục khác nhau và đặc
biệt là các sinh hoạt văn hoá nghệ thuật xung quanh nó như múa bóng rỗi, hát bội và
các loại hình diễn xướng khác. Bên cạnh đó là những vui chơi phong tục, trò chơi, ca

cải lương, hò, đờn ca tài tử… Một giá trị to lớn khác và cũng là những sản phẩm du
lịch hết sức thú vị, đó là các sản phẩm của văn hoá ẩm thực mang sắc thái địa phương,
hàng hóa, quà đặc sản của các vùng.

- Du lịch văn hóa – lịch sử: là những sản phẩm khai thác các giá trị lịch sử như các khu
di tích, chiến tích, công trình kiến trúc của các triều đại, các hiện vật lịch sử… gắn với
các sự kiện lịch sử.

- Du lịch văn hóa di sản: là sản phẩm lấy những giá trị văn hóa, lịch sử có trong di sản
để cho khách thưởng thức. Các nước phát triển đã đầu tư xây dựng những phim tư liệu


17

về lịch sử hình thành và các sự kiện có liên quan đến di sản, di tích để cho khách tham
quan, thưởng thức.

- Du lịch “Con đường văn hóa”: là sản phẩm lấy “con đường văn hóa” làm hành trình
của chuyến tham quan. Ở mỗi điểm dừng trên con đường ấy là những minh chứng cho
một thời kỳ hưng thịnh hay suy tàn của một nền văn hóa nào đó.

- Du lịch văn hóa hiện đại: là sản phẩm khai thác các giá trị văn hóa lịch sử hiện đại bao
gồm vật thể và phi vật thể như: các công trình thế kỷ, di sản thế giới hiện đại, các lễ
hội chuyên đề, sự kiện âm nhạc, chính trị, tôn giáo, văn hóa, thể thao… để xây dựng
chương trình tham quan hấp dẫn du khách.

- Du lịch văn hóa nông thôn: là sản phẩm được xây dựng dựa vào các yếu tố sinh hoạt
văn hóa nông thôn của vùng, để tạo cơ hội cho khách có thời gian trải nghiệm cuộc
sống của vùng nông thôn nơi họ đến.


- Du lịch văn hóa nghệ thuật ẩm thực: là sản phẩm được xây dựng trên cơ sở khai thác
những nét tinh hoa ẩm thực truyền thống của vùng hoặc quốc gia tạo cho khách cơ hội
nghiên cứu, thưởng thức những món ăn đặc sản truyền thống.

- Du lịch văn hóa ngôn ngữ: là sản phẩm du lịch văn hóa dành cho những khách du lịch
muốn tìm hiểu nghiên cứu một ngôn ngữ lạ nào đó đang tồn tại quốc gia họ muốn đến.
Hình thức tour du lịch này là xây dựng một chương trình tour giao lưu với dân bản địa
để học hỏi nghiên cứu ngôn ngữ.

- Du lịch văn hóa làng nghề truyền thống: là sản phẩm du lịch khai thác các giá trị của
làng nghề truyền thống, tạo cho khách cơ hội giao lưu học hỏi cách làm và mua những
sản phẩm ấy. Ngoài những lợi thế như cảnh quan thiên nhiên, vị trí địa lý, nét văn hoá
đặc sắc, các làng nghề truyền thống còn có sức hút đặc biệt bởi mỗi làng lại gắn với
một vùng văn hoá hay một hệ thống di tích. Làng nghề truyền thống được xem như
một dạngtài nguyên du lịch nhân văn có ý nghĩa đặc biệt quan trọng. Bởi các sản phẩm
du lịch làngnghề luôn bao hàm trong nó cả những giá trị vật thể và phi vật thể. Du lịch
làng nghề làloại hình du lịch văn hoá tổng hợp đưa du khách tới tham quan, thẩm nhận
các giá trị văn hoávà mua sắm những hàng hoá đặc trưng của các làng nghề truyền
thống trên khắp miền đấtnước.Phát triển du lịch qua các làng nghề là một hướng đi
đúng, bởi không chỉ tạo nên sự đa dạng cho các tour du lịch; quảng bá văn hóa, mà còn
là cách thức giới thiệu, tạo lập thị trường tiêu thụ sản phẩm làng nghề.

- Du lịch văn hóa biển đảo: là sản phẩm du lịch dựa vào tài nguyên biển như bãi biển,
vịnh và các đảo ven bờ, khai thác những giá trị văn hóa truyền thống, lịch sử, những
phong tục, tập quán, lối sống, vẻ đẹp thiên nhiên… để du khách đến tìm hiểu, thư giãn,
nghỉ dưỡng, giải trí.


18


1.1.4. Vai trò du lịch văn hóa đối với sự phát triển kinh tế - xã hội
- Sự phát triển của du lịch nói chung, du lịch văn hóa cũng có góp phần kéo
theo sự phát triển của các ngành kinh tế khác
Giống như sự phát triển của du lịch nói chung, du lịch văn hóa cũng có góp
phần kéo theo sự phát triển của các ngành kinh tế khác chẳng hạn như vận tải, hàng
không… Khách du lịch không chỉ có những nhu cầu tham quan, lưu trú, ăn uống mà
họ thường có rất nhiều nhu cầu về các dịch vụ kèm theo, bổ sung như thuê xe, chụp
ảnh… Đặc biệt là họ thường rất thích mang về quà lưu niệm, đặc sản vùng miền. Điều
này sẽ góp phần tăng số lượng việc làm, thúc đẩy sự phát triển của các dịch vụ phục
vụ, nền sản xuất tại các địa phương nơi diễn ra các hoạt động du lịch, nơi có tài
nguyên du lịch, đem lại nguồn thu du lịch và thu nhập cho người dân địa phương.
Không những vậy, sự phát triển của du lịch còn đem lại các nguồn lợi to lớn khác, nhất
là ở những vùng miền núi khó khăn, xa xôi, giảm đói nghèo, cải thiện môi trường sống
bởi du lịch đi đến đâu thì cơ sở hạ tầng, giao thông đi lại, thông tin liên lạc… phải
được cải thiện đến đó.

- Du lịch văn hóa có thể góp phần nâng cao năng lực cạnh tranh của ngành du lịch
trong nước với nước ngoài
Du lịch là một ngành kinh tế có định hướng tài nguyên một cách rõ rệt, hay nói
một cách khác du lịch chỉ có thể phát triển trên cơ sở khai thác các giá trị tài nguyên
du lịch. Đứng từ góc độ này, các giá trị văn hóa được xem là dạng tài nguyên du lịch
để khai thác tạo ra các sản phẩm du lịch hấp dẫn, khác biệt, thu hút khách du lịch và có
khả năng cạnh tranh không chỉ giữa các vùng miền, các địa phương trong nước mà còn
giữa Việt Nam với các nước trong khu vực và quốc tế. Nhờ sự khai thác các giá trị văn
hóa đặc trưng, riêng biệt này, du lịch văn hóa có thể góp phần nâng cao năng lực cạnh
tranh của ngành du lịch trong nước với nước ngoài, đóng góp lớn vảo tổng nguồn thu
của ngành du lịch, thúc đẩy nền kinh tế phát triển.

- Du lịch văn hóa được xem là “cầu nối” giữa các dân tộc, giữa các nền văn hóa trên
thế giới

Có nhiều phương thức tiếp cận và phát huy các giá trị văn hóa, tuy nhiên du lịch
được xem là phương thức có hiệu quả nhất, đặc biệt đối với bạn bè quốc tế. Du lịch
văn hóa được xem là “cầu nối” giữa các dân tộc, giữa các nền văn hóa trên thế giới,
góp phần mở rộng quan hệ ngoại giao, tăng cường sự giao lưu kinh tế, văn hóa giữa
các vùng miền, các quốc gia với nhau. Qua hoạt động hướng dẫn du lịch, du khách có
cơ hội không chỉ được được tận mắt nhìn thấy trong thực tế, mà còn được hiểu về giá
trị các di sản văn hóa nơi mình đến du lịch. Nhiều giá trị văn hóa chỉ có thể cảm nhận
được trong những khung cảnh thực của tự nhiên, của nếp sống truyền thống cộng đồng


19

mà không thể có phim ảnh, diễn xuất nào có thể chuyển tải được. Và chỉ có du lịch,
đặc biệt du lịch văn hóa mới có thể đem lại cho du khách những trải nghiệm đặc biệt,
sống động như vậy. Qua đó, những giá trị văn hóa tốt đẹp của dân tộc có thể được
truyền bá rộng rãi, được nhiều bạn bè quốc tế biết tới, nghiên cứu và học tập.
- Du lịch văn hóa còn góp phần bảo tồn các giá trị văn hóa
Khi du lịch văn hóa phát triển, các giá trị văn hóa cả vật thể và phi vật thể sẽ
được quan tâm, quy hoạch trong các dự án đầu tư, thông qua các chương trình mục
tiêu văn hóa, bảo tồn và nâng cấp di sản. Tuy nhiên, rất nhiều quốc gia đang gặp khó
khăn trong việc bảo tồn các giá trị văn hóa. Một phần do ý thức của người dân, những
ảnh hưởng xấu từ hoạt động du lịch, nhưng một phần cũng là do nguồn kinh phí quá
lớn, chẳng hạn như kinh phí cho hoạt động thu thập, nghiên cứu di sản; bảo vệ, tu sửa,
tôn tạo, v.v. bên cạnh những yêu cầu về kinh nghiệm, về đội ngũ, về trình độ khoa học
công nghệ… trong lĩnh vực bảo tồn. Nguồn kinh phí dành cho hoạt động bảo tồn di
sản văn hóa từ ngân sách nhà nước và hợp tác quốc tế thường rất hạn hẹp so với nhu
cầu thực tế. Điều này ảnh hưởng không nhỏ đến hiệu quả của công tác bảo tồn văn
hoá. Trong bối cảnh trên, nguồn thu từ du lịch sẽ là đóng góp quan trọng cho hoạt
động bảo tồn của chính những giá trị văn hoá. Bản thân những doanh nghiệp du lịch và
người dân địa phương tại các điểm đến cũng là những người có các nguồn thu từ hoạt

động du lịch. Nếu các giá trị truyền thống, văn hóa mà bị mai một, mất đi thì cũng sẽ
ảnh hưởng đến hoạt hoạt động du lịch và nguồn thu của họ. Do đó, để đảm bảo cho sự
phát triển du lịch, thì chính các doanh nghiệp này cũng như người dân phải có ý thức
để bảo vệ, bảo tồn và phát huy những giá trị văn hóa tại địa phương của mình.Chúng
ta có thể thấy mối quan hệ tương hỗ mật thiết giữa hoạt động phát triển du lịch, đặc
biệt là du lịch văn hóa với bảo tồn và phát huy di sản, di sản văn hóa. Đây là những
mối quan hệ biện chứng cần được nhìn nhận một cách khách quan và đầy đủ để xây
dựng định hướng khai thác có hiệu quả các giá trị di sản văn hóa phục vụ phát triển du
lịch và xây dựng các chính sách phù hợp để du lịch có thể có những đóng góp tích cực
và trách nhiệm nhất cho hoạt động bảo tồn, phát huy các giá trị di sản văn hóa.

1.2. Khai thác tiềm năng phát triển du lịch văn hóa
1.2.1. Tiềm năng tài nguyên du lịch văn hóa


20

 Khái niệm tiềm năng tài nguyên du lịch văn hóa
Tài nguyên hiểu theo nghĩa rộng bao gồm tất cả các nguồn nguyên liệu, năng
lượng và thông tin trên Trái Đất và trong không gian vũ trụ mà con người có thể sử
dụng phục vụ cho cuộc sống và sự phát triển của mình.
Khái niệm tài nguyên du lịch luôn gắn liền với khái niệm du lịch: “Tài nguyên
du lịch là cảnh quan thiên nhiên, yếu tố tự nhiên, di tích lịch sử - văn hóa, công trình
lao động sáng tạo của con người và các giá trị nhân văn khác có thể sử dụng nhằm đáp
ứng nhu cầu du lịch, là yếu tố cơ bản để hình thành các khu du lịch, điểm du lịch,
tuyến du lịch, đô thị du lịch” – Luật Du lịch Việt Nam (2006).
Như vậy có thể định nghĩa “Tiềm năng tài nguyên du lịch văn hóa là tập hợp
tất cả các yếu tố về tài nguyên du lịch, yếu tố tài nguyên văn hóa được sử dụng ở giai
đoạn này của tiến bộ khoa học và công nghệ để dáp ứng nhu cầu du lịch của con
người”.


 Đặc điểm tiềm năng tài nguyên du lịch văn hóa
Sẽ không thể liệt kê hay phân tích hết nhẽ về tiềm năng và nguồn lực (mạnh và
yếu) phát triển du lịch văn hóa ở nước ta. Nhưng trong quá trình xây dựng chiến lược
và quy hoạch tổng thể phát triển du lịch Việt Nam đến năm 2020, tầm nhìn đến năm
2030, tiềm năng về tài nguyên và các nguồn lực phát triển du lịch văn hóa đã được
tổng hợp đánh giá với 8 điểm nổi bật như sau:

- Tài nguyên văn hóa vật thể và phi vật thể, truyền thống và đương đại của các dân tộc
Việt Nam vô cùng đa dạng về số lượng, quy mô, thể loại, hình thức biểu hiện, phân bố
về lịch sử, không gian địa lý, tính chất và mức độ giá trị nhưng về tầm cỡ nổi bật, sức
hấp dẫn, lan tỏa và tiếng vang còn hạn chế.

- Giá trị hấp dẫn du lịch của các tài nguyên văn hóa có tiềm năng phát triển trở thành
những sản phẩm du lịch đặc sắc, tạo lên sự khác biệt và sức cạnh tranh cho du lịch
Việt Nam, tiêu biểu như nghệ thuật truyền thống, văn hóa lịch sử, lối sống, di tích, di
sản, lễ hội, làng nghề, ẩm thực... nhưng đến nay vẫn chưa khai thác được nhiều những
giá trị văn hóa tinh túy và thăng hoa để phục vụ phát triển du lịch.

- Hầu hết những giá trị hấp dẫn du lịch về văn hóa mới khai thác bề nổi, dễ cảm nhận,
dễ tiếp cận; chưa khai thác được chiều sâu bản sắc văn hóa dân tộc, đặc biệt là những
giá trị phi vật thể; chưa được kết nối tạo dựng chuỗi giá trị và do vậy chưa làm nổi bật
hình ảnh thương hiệu du lịch bằng những giá trị đậm nét văn hóa Việt Nam.

- Con người Việt Nam với lối sống giản dị, gần gũi thân thiện, cởi mở, thân ái, cần cù
chăm chỉ và luôn sẵn lòng giúp đỡ, với nụ cười chân thực và những nét đẹp của con
người Việt Nam trên khắp các vùng, miền tạo lên phong cách, sức cuốn hút và giá trị


21


về văn hóa đặc sắc, riêng có của Việt Nam để làm hài lòng du khách. Đây là nét văn
hóa đặc trưng dễ cảm nhận và đọng lại trong lòng du khách và trở thành ấn tượng,
hình ảnh của du lịch Việt Nam.

- Những nỗ lực bảo tồn và phát huy giá trị văn hóa đã đạt được những kết quả nhất định
nhưng triển khai thiếu hiệu quả triệt để cả về năng lực và nguồn lực.Do vậy, không
gắn kết đồng bộ và hữu cơ giữa hệ thống thiết chế văn hóa (bảo tàng, nhà hát, di sản,
công viên văn hóa, hộp đêm...) với hoạt động du lịch để làm gia tăng giá trị sản phẩm
du lịch.

- Nguồn lực tài chính và kỹ thuật cho công tác bảo tồn văn hóa được huy động từ ngân
sách Nhà nước là chủ yếu (chương trình mục tiêu văn hóa) đồng thời có sự hỗ trợ của
các tổ chức quốc tế. Nguồn lực từ cộng đồng địa phương tuy nhỏ lẻ phân tán nhưng
thiết thực. Sự chủ động, tích cực của cộng đồng địa phương xuất hiện khi được chia sẻ
lợi ích từ hoạt động du lịch, tiêu biểu như Hội An, Mỹ Sơn, Mai Châu, Sapa... hoặc
các cơ sở tôn giáo tín ngưỡng như Bái Đính, Hương Tích, Yên Tử, Núi Bà Đen... các
làng nghề và các giá trị thuộc về dòng tộc, phường hội.

- Năng lực quản lý phát triển du lịch dựa trên nền giá trị văn hóa, điều phối gắn kết hoạt
động bảo tồn và phát huy giá trị văn hóa với việc hình thành sản phẩm du lịch và phục
vụ khách du lịch còn rất hạn chế, thụ động, hiệu quả thấp. Người làm du lịch chưa biết
khai thác giá trị văn hóa để làm gia tăng giá trị cho sản phẩm du lịch. Ngược lại người
làm văn hóa chưa thấy rõ động lực và tiếp nhận được những tác động tích cực từ hoạt
động du lịch để bảo tồn và phát huy giá trị văn hóa.

- Tác động của hoạt động du lịch tới những thiết chế văn hóa chưa được kiểm soát hiệu
quả; sự biến tướng, lai căng, thái quá, sân khấu hóa, thương mại hóa quá mức, tiếp thu
văn hóa ngoại lai... đang làm mờ nhạt, giảm giá trị và nhanh suy thoái sản phẩm du
lịch, đe dọa sự phát triển bền vững.

Không chỉ là điều kiện mà là lợi thế văn hóa xuất phát từ những đặc điểm văn
hóa nổi bật của Việt Nam. Về cảnh quan, Việt Nam là một đất nước được kiến tạo rất
đặc biệt: “lưng” thì dựa vào lục địa,“mặt” thì hướng ra biển Đông. Hệ thống núi non
trùng điệp, với Hoàng Liên Sơn hùng vĩ, nổi bật lên là đỉnh Phanxipăng – đỉnh núi
được ví như nóc nhà của Đông Dương. Hệ thống dãy núi Trường Sơn chạy dọc phía
Tây miền Trung đến Cao Nguyên như một con Rồng uốn lượn. Ở biển Đông cũng có
một mê cung núi vô cùng tráng lệ, vừa được tôn vinh là một trong bảy kỳ quan thiên
nhiên của thế giới. Sông ngòi dày đặc, với rừng, thác, hồ, sông, suối phủ khắp cả nước.
Tất cả tạo nên một cảnh quan văn hóa đa dạng của vùng bán đảo đặc trưng thuộc khu
vực nhiệt đới ẩm gió mùa hình thành nên nhiều di sản thiên nhiên, văn hóa kỳ thú.


22

Văn hoá là nguồn tài nguyên độc đáo của du lịch (nguồn nguyên liệu để hình
thành lên hoạt động du lịch). Khi nói văn hoá là nguồn nguyên liệu để hình thành lên
hoạt động du lịch, tức là chúng ta nói đến vật hút hay đối tượng hưởng thụ của du
khách.
1.2.2. Khái niệm phát triển du lịch văn hóa
Theo từ điển Hán - Việt, "phát triển" là mở rộng ra hoặc lớn mạnh lên; theo
quan điểm của triết học duy vật biện chứng, phát triển là một quá trình tiến lên từ
thấp đến cao, không chỉ đơn thuần tăng lên hay giảm đi về lượng mà còn có sự biến
đổi về chất của sự vật, hiện tượng; theo từ điển Oxford, "phát triển" là sự gia tăng dần
của một sự vật theo hướng tiến bộ hơn, mạnh hơn. Như vậy có thể hiểu "phát triển" là
một quá trình, là khuynh hướng vận động tiến lên từ thấp đến cao, từ đơn giản đến
phức tạp, từ kém hoàn thiện đến hoàn thiện, trong đó các yếu tố bên trong khác nhau
đều thay đổi theo đà tăng trưởng cả về lượng và về chất. Trong lĩnh vực du lịch, phát
triển gắn với sự gia tăng số lượng và chất lượng tài nguyên du lịch, các nguồn lực lao
động, cơ sở vật chất kỹ thuật, cơ sở hạ tầng, sản phẩm du lịch và thị trường du lịch.
Phát triển du lịch văn hóa được hiểu là khai thác có hiệu quả tiềm năng và các

điều kiện khác để tạo ra những sản phẩm du lịch văn hóa đáp ứng nhu cầu ngày càng
cao của thị trường. Phát triển du lịch văn hóa là sự biến đổi theo chiều hướng phát
triển gắn với sự gia tăng số lượng và chất lượng tài nguyên du lịch nhân văn, các di
sản văn hóa..., các nguồn lực lao động, cơ sở vật chất kỹ thuật, cơ sở hạ tầng, thị
trường khách và sản phẩm du lịch văn hóa.
Sự phát triển du lịch văn hóa về lượng và chất thể hiện ở các khía cạnh sau:
Thứ nhất, là sự tăng trưởng. Những chỉ tiêu quan trọng nhất thể hiện sự tăng
trưởng phát triển du lịch văn hóa là: mức gia tăng lượng khách du lịch; mức tăng thu
nhập từ du lịch; mức tăng qui mô, cơ sở vật chất kĩ thuật; số lượng việc làm được tăng
thêm từ phát triển du lịch văn hóa.
Thứ hai, mức độ và chất lượng tham gia của du khách, dân cư và chính quyền
địa phương cũng như các cơ sở kinh doanh du lịch và quá trình phát triển này ở các
điểm đến du lịch văn hóa ngày càng tự giác, tích cực trên cơ sở tinh thần cộng đồng và
hài hòa về lợi ích.
Thứ ba, phát triển du lịch văn hóa là việc bảo tồn, tôn tạo và khai thác phát huy
giá trị nhiều di sản văn hóa, di tích lịch sử cách mạng, các giá trị văn hóa vật thể và phi
vật thể. Nhiều giá trị văn hóa phi vật thể như: Lễ hội dân gian, lễ hội truyền thống, các
làng nghề truyền thống được khôi phục.Các dự án đầu tư có giá trị của nước ngoài vào
việc trùng tu các di sản văn hóa thế giới. Ngân sách nhà nước đầu tư, quy hoạch, mở


23

rộng các di sản thông qua các chương trình mục tiêu về văn hoá, đầu tư trùng tu, nâng
cấp các di sản văn hóa, di tích lịch sử cách mạng trên phạm vi cả nước.
Vì vậy, cần nhận thức đúng đắn về sự phát triển du lịch văn hóa. Du lịch văn
hóa là cầu nối mở rộng các quan hệ đối ngoại, giao lưu kinh tế, văn hóa giữa các dân
tộc, các nước và giữa các địa phương trên phạm vi cả nước. Thông qua du lịch văn hóa
làm cho du khách quốc tế và nội địa hiểu biết về đất nước con người Việt Nam, góp
phần tăng cường tình đoàn kết giữa các dân tộc trên thế giới với nhau và các dân tộc

anh em trong một quốc gia.
Phát triển du lịch văn hóa theo hướng bền vững. Phát triển du lịch văn hóa phải
đảm bảo hài hòa giữa ba mục tiêu: kinh tế, văn hóa - xã hội và môi trường. Phát triển
du lịch văn hóa tạo công ăn việc làm cho người lao động, tăng thêm thu nhập cá nhân
và đóng góp vào mức tăng trưởng của ngành du lịch trong nền kinh tế quốc dân. Phát
triển du lịch văn hóa nhưng phải bảo vệ được môi trường tự nhiên, môi trường xã hội.
Những cánh rừng không bị tàn phá, những dòng sông không bị ô nhiễm, không khí
vẫn trong lành, môi trường vẫn sạch đẹp, an ninh chính trị, an ninh xã hội được đảm
bảo, hạn chế tệ nạn xã hội và bệnh tật, giữ được thuần phong mỹ tục, đạo đức lối sống,
cốt cách của con người trong quá trình hội nhập quốc tế.
1.2.3. Điều kiện phát triển du lịch văn hóa
1.2.3.1. Tài nguyên du lịch văn hóa
Du lịch văn hóa chỉ có thể phát triển ở một vùng, một địa phương, một đất nước
nếu ở đó có tài nguyên văn hóa dạng phong phú, độc đáo mang đậm bản sắc dân tộc
kết hợp với một số yếu tố khác tạo nên những địa điểm du lịch văn hóa đầy hấp dẫn
thu hút. Chính những yếu tố đó đã đưa khách du lịch tìm đến những nơi có tài nguyên
du lịch văn hóa lôi cuốn và do đó tài nguyên văn hóa là yếu tố quan trọng nhất đối với
lưu lượng đi du lịch văn hóa ngày càng tăng của khách du lịch. Vì vậy, để phát triển du
lịch văn hóa thì tài nguyên văn hóa là yếu tố mang tính quyết định.

- Giá trị của những di sản văn hóa: Di tích lịch sử, các công trình kiến trúc, các hình
thức nghệ thuật, các tập quán, lễ hội, ngành nghề truyền thống… cùng với các thành
tựu kinh tế, chính trị, xã hội, các cơ sở văn hóa nghệ thuật, các bảo tàng… là những
đối tượng cho du khách khám phá, thưởng thức, cho du lịch văn hóa khai thác và sử
dụng.

- Tài nguyên văn hóa vật thể là sản phẩm vật chất có giá trị lịch sử, văn hóa, khoa học.
Toàn bộ các sản phẩm vật chất hiện hữu được hình thành do bàn tay sáng tạo của con
người, bao gồm: hệ thống di tích lịch sử văn hóa, hệ thống danh lam thắng cảnh, thể
thống di vật, cổ vật, bảo vật quốc gia.



24

- Các di tích lịch sử văn hóa là tài sản văn hóa quý giá của mối địa phương, mỗi đất
nước và của cả nhân loại. Di tích được hiểu theo nghĩa chung nhất là những tàn tích,
dấu vết còn sót lại của quá khứ, là tài sản của các thế hệ trước để lại cho các thế hệ kế
tiếp.

- Các lễ hội và văn hóa dân gian: Loại hình văn hóa dân gian phản ánh sinh động bản
sắc dân tộc ở một sản phẩm du lịch độc đáo và hấp dẫn. Các lễ hội và văn hóa dân gian
luôn có sự hấp dẫn đối với khách du lịch vì chúng đã tạo nên tấm thảm muôn màu mà
mọi sự ở đó đan quyện vào nhau; thiêng liêng và trần trục, nghi lễ và đôn hậu, truyền
thống và phóng khoáng, trí tuệ và tài năng…

- Các phong tục tập quán cổ truyền (phong tục lâu đời, cổ lạ) luôn là tài nguyên có sức
thu hút cao đối với du khách.

- Nghề và làng nghề thủ công truyền thống từ lâu đã trở thành đối tượng của hoạt động
du lịch, du lịch văn hóa và là nơi để người ta hướng tới, để khám phá, tìm hiểu và
chiêm nghiệm. Sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa giá trị vật chất và giá trị tinh thần một
cách hài hòa và sinh động.
1.2.3.2. Vị trí địa lý
Điều kiện về vị trí địa lý bao gồm: Điểm du lịch nằm trong khu vực phát triển
du lịch. Khoảng cách từ điểm du lịch đến các nguồn gửi khách du lịch ngắn. Khoảng
cách này có ý nghĩa quan trọng đối với nước nhận khách du lịch. Nếu nước nhận
khách du lịch ở xa điểm gửi khách, điều đó ảnh hưởng đến khách trên hai khía cạnh:
khách du lịch phải chi thêm tiền cho việc đi lại vì khoảng cách đi xa, khách du lịch
phải rút ngắn thời gian lưu lại ở nơi du lịch vì thời gian đi lại mất nhiều. Tuy nhiên,
những bất lợi trên về khoảng cách là đối với du lịch quần chúng với phương tiện đi lại

là ô tô, tàu hỏa và tàu thủy; trong một số trường hợp, khoảng cách xa lạ lại có sức hấp
dẫn với một vài loại khách có khả năng thanh toán cao và có tính hiếu kỳ.
1.2.3.3. Trình độ phát triển kinh tế xã hội
Du lịch là ngành kinh tế gắn bó trực tiếp với con người và đáp ứng nhu cầu
hưởng thụ, phát triển cuả con người. Do đó, trình độ phát triển kinh tế xã hội của một
quốc gia, một vùng tác động đến cung và cầu về du lịch. Kinh tế xã hội phát triển đáp
ứng ngày càng tốt hơn nhu cầu sinh tồn của con người, đồng thời làm xuất hiện những
nhu cầu khác nhau: nghỉ ngơi, giải trí, du ngoạn… Ở những nơi có nền kinh tế chậm
phát triển, thu nhập thấp, nhìn chung nhu cầu du lịch của dân chúng cũng hạn chế.
Những nước có nền kinh tế phát triển thì hoạt động du lịch diễn ra đa dạng. Du lịch sẽ
tác động trở lại làm cho các ngành kinh tế như công nghiệp, nông nghiệp, giao thông
vận tải, thông tin liên lạc, ngân hàng và các dịch vụ, ngành nghề khác phát triển nhằm


25

đáp ứng nhu cầu của du khách. Du lịch phát triển góp phần thực hiện việc phân phối
lại thu nhập xã hội, từ vùng này qua vùng khác, từ bộ phận dân có thu nhập cao sang
bộ phận dân có thu nhập thấp hơn, góp phần giảm mức chênh lệch giữa vùng này với
vùng khác, giữa quốc gia này với quốc gia khác, từ đó cải thiện đời sống con người.
Kinh tế phát triển, thúc đẩy quan hệ kinh tế đối ngoại và liên doanh liên kết trong hoạt
động du lịch, nên du lịch phát triển trên phạm vi càng rộng hơn ra các nước, khu vực
và quốc tế.

1.2.3.4. Dân số và lao động
Yếu tố con người có vai trò quyết định đến sự thành bại của mọi hoạt động kinh
tế, văn hóa xã hội tất nhiên là cả du lịch. Trong lịch sử phát triển không ít quốc gia
không giàu về tài nguyên, không nhiều về vốn nhưng có đội ngũ lao động giỏi có
chính sách đúng và khai thắc sử dụng có hiệu quả năng lực chất xám của dân tộc, nên
đã đưa đất nước từ nghèo nàn trở thành nước công nghiệp phát triển. Nắm vững dân

số, thành phần dân tộc đặc điểm, cấu trúc, sự phân bố và mật độ dân cư có ý nghĩa rất
lớn đối với sự phát triển của du lịch.
Dân số là nguồn cung cấp lao động cho ngành du lịch đồng thời là thị trường
tiêu thụ sản phẩm du lịch, dân số càng đông chất lượng cuộc sống càng cao thì số
người tham gia du lịch ngày càng nhiều, tác động thúc đẩy du lịch phát triển nhanh. Sự
gia tăng dân số, tăng mật độ, tăng tuổi thọ trung bình, sự phát triển đo thị,… và các
yếu tố như giới tính, tuổi tác, hoàn cảnh gia đình, thu nhập dân cư, đều ảnh hưởng đến
nhu cầu về sản phẩm du lịch. Phát triển du lịch là một kênh để giải quyết lao động tùy
theo mật độ dân số hay trình độ tay nghề của lao động mà có thể dào tạo bố trí cho phù
hợp với yêu cầu công việc của từng loại hình du lịch, cũng như từng khâu công việc
của hoạt động du lịch. Nếu lực lượng lao động có chuyên môn phù hợp, bố trí sử dụng
hợp lý thì sẽ thúc đẩy du lịch phát triển nhanh chóng và đứng hướng, còn ngược lại thì
sẽ làm trì hoãn sự gia tăng du lịch.

1.2.3.5. Kết cấu hạ tầng và môi trường
Cũng như các ngành kinh tế khác kết cấu hạ tầng là điều kiện để du lịch phát
triển, nhất là hệ thống giao thông vận tải của đường bộ, đường sắt, đường hàng không,
đường biển và mạng lưới bưu chính viễn thông… Đây là lĩnh vực rất quan trọng tác
động trực tiếp đến hoạt động và phát triển du lịch.
Sự quan hệ giữa môi trường và du lịch là rất gắn bó. Du lịch không thể phát
triển khi môi trường không tốt, môi trường bị ô nhiễm, nhất là ô nhiễm không khí, ô
nhiễm nguồn nước là những vấn đề môi trường hết sức bức bách đáng quan tâm.
Những cơ quan chức năng, các ngành, các cấp và toàn xã hội có trách nhiệm tham gia


×