Tải bản đầy đủ (.docx) (8 trang)

SO SÁNH QUY ĐỊNH SỞ HỮU TRÍ TUỆ THEO HIỆP ĐỊNH TPP VÀ TRIPS

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (134.61 KB, 8 trang )

SO SÁNH QUY ĐỊNH VỀ SỞ HỮU TRÍ TUỆ THEO HIỆP ĐỊNH TPP VÀ
TRIPS - MỘT VÀI ĐIỀU CHO PHÁP LUẬT VIỆT NAM
Giới thiệu tổng quan về hiệp định TRIPS và hiệp định TPP
TRIPS là kết quả của nhiều cuộc thỏa thuận thương mại đa phương kéo dài
nhiều năm và chỉ thực sự kết thúc vào ngày 15 tháng 12 năm 1993. Văn kiện
cuối cùng chứa đựng những thỏa thuận thương mại song phương của vòng đàm
phán Uruguay được ký kết ở Marrakech, Maroc ngày 15 tháng 4 năm 1994.
Bằng việc ký kết văn kiện cuối cùng này, các nước đã nhất trí trình hiệp định
Marrakech thành lập tổ chức thương mại thế giới để cơ quan có thẩm quyền của
các quốc gia phê chuẩn. Hiệp định TRIPS là một phần của thỏa thuận theo hiệp
định về tổ chức thương mại thế giới, có hiệu lực vào ngày 1 tháng 1 năm 19951.
Hiệp định quy định về các khía cạnh liên quan tới thương mại của quyền sở
hữu trí tuệ có vai trò quan trọng rất lớn như: (i) Góp phần thúc đẩy đổi mới và
sáng tạo; (ii) là một trong những hiệp định đầu tiên về bảo hộ nhiều hình thức
của sở hữu trí tuệ; (iii) quy định cụ thể về các biện pháp thực thi quyền sở hữu
trí tuệ; (iv) là hiệp định có vai trò được áp dụng để giải quyết tranh chấp.
Hiệp định bao gồm 7 phần với 73 điều, như quy định về các tiêu chuẩn bảo
hộ; thực thi quyền sở hữu trí tuệ; các thủ tục để đạt được và duy trì các quyền sở
hữu trí tuệ và thủ tục liên quan theo yêu cầu của các bên liên quan; ngăn ngừa và
giải quyết tranh chấp…
Hiệp định đối tác kinh tế xuyên thái bình dương (Trans Pacific Strategic
Economic Partnership Agriment, viết tắt là TPP) được xem là hiệp định tiếp cận
thị trường toàn diện, là một hiệp định thương mại tự do thế hệ mới, được kỳ
vọng trở thành hình mẫu lý tưởng cho sự phát triển thương mại khu vực và thế
giới.
Việt Nam chính thức tham gia đàm phán từ tháng 11/2010, sau 5 năm đàm
phán, ngày 5/10/2015 tại thành phố Atlanta của Hoa Kỳ, đã diễn ra lễ tuyên bố
kết thúc đàm phán. Và ngày 4/2/2016, hiệp định TPP đã được ký kết giữa 12
nước.
Với việc ký kết hiệp định này sẽ góp phần bảo đảm sự dịch chuyển tự do
của hàng hóa, dịch vụ, vốn và công nghệ bằng việc loại bỏ thuế xuất khẩu, nhập


khẩu, rào cản phi thuế quan, tạo lập môi trường kinh doanh bình đẳng, đem lại
lợi ích cho sản xuất kinh doanh, góp phần phát triển kinh tế - xã hội quốc gia.
1.

1 Nguyễn Thị Hải Vân, Bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ - hiệp định TRIPS, TRIPS CỘNG và ACTA, Tạp chí Khoa
học pháp lý, số 01 (68), 2012.


Hiệp định bao gồm 30 chương, cụ thể quy định về các vấn đề như: dệt may;
quản lý hải quan và tạo thuận lợi thương mại; biện pháp phòng vệ thương mại;
biện pháp vệ sinh và kiểm dịch; rào cản kỹ thuật đối với thương mại; đầu tư;
thương mại dịch vụ xuyên biên giới; dịch vụ tài chính; nhập cảnh tạm thời đối
với doanh nhân; viễn thông; thương mại điện tử; mua sắm chính phủ; chính sách
cạnh tranh; các doanh nghiệp nhà nước và các đơn vị độc quyền; sở hữu trí tuệ;
lao động; môi trường; hợp tác và nâng cao năng lực; tạo thuận lợi trong kinh
doanh và năng lực cạnh tranh; phát triển; doanh nghiệp vừa và nhỏ; sự đồng
nhất trong quản lý; sự minh bạch và chống tham nhũng; giải quyết tranh chấp…
2. Quy định về sở hữu trí tuệ theo hai hiệp định
2.1.
Các quy định chung
Hiệp định TRIPS quy định chung bao gồm các vấn đề như đãi ngộ quốc
gia, đãi ngộ tối huệ quốc, mục tiêu và nguyên tắc. Hiệp định TPP thì bao gồm
mục tiêu, nguyên tắc, các thỏa thuận, sự minh bạch và lạm dụng quyền sở hữu
trí tuệ.
Cả hai hiệp định đều có mục tiêu, nguyên tắc giống nhau trong việc khẳng
định việc bảo vệ và thực thi quyền sở hữu trí tuệ góp phần thúc đẩy đổi mới
công nghệ chuyển giao và phổ biến công nghệ, vào việc tạo thuận lợi qua lại của
các nhà sản xuất và người sử dụng kiến thức công nghệ, có lợi cho phúc lợi kinh
tế xã hội và tạo cân bằng giữa quyền và nghĩa vụ. Bên cạnh đó, cùng nhấn mạnh
nguyên tắc đối xử quốc gia, chống sự lạm dụng quyền sở hữu trí tuệ của người

nắm quyền và ngăn chặn các hành vi gây cản trở hoạt động thương mại, chuyển
giao công nghệ quốc tế.
Hiệp định TPP có quy định cụ thể hơn về các thỏa thuận quốc tế, thỏa
thuận biện pháp y tế công cộng, đòi hỏi thêm về sự minh bạch về luật pháp, thực
thi quyền sở hữu trí tuệ.
2.2.
Quyền tác giả và quyền liên quan
Phạm vi bảo hộ quyền tác giả và quyền liên quan bao gồm sự thể hiện và
không bao gồm các ý đồ, trình tự, phương pháp tính hoặc các khái niệm toán
học là nội dung bảo hộ của Hiệp định TRIPS. Các chương trình máy tính, dù
dưới dạng mã nguồn hay mã máy đều phải được bảo hộ quyền tác giả như
những tác phẩm văn học. Các bộ sưu tập dữ liệu hoặc tư liệu khác dù dưới dạng
đọc được bằng máy và là thành quả của hoạt động trí tuệ đều phải được bảo hộ.
hiệp định quy định sự toàn quyền đối với chương trình máy tính và tác phẩm
điện ảnh của tác giả và người thừa kế hợp pháp cũng như cấm việc cho công


-

chúng thuê bản gốc hoặc bản sao các tác phẩm của họ nhằm mục đích thương
mại.
Thời hạn bảo hộ tác phẩm (ngoại trừ đối với tác phẩm nhiếp ảnh và tác
phẩm nghệ thuật ứng dụng) nếu thời hạn bảo hộ không được tính theo đời người
thì thời hạn đó không được dưới 50 năm kể từ khi kết thúc năm dương lịch mà
tác phẩm được công bố một cách hợp pháp, hoặc 50 năm tính từ khi kết thúc
năm dương lịch mà tác phẩm được tạo ra nếu tác phẩm không được công bố một
cách hợp pháp trong vòng 50 năm từ ngày tạo ra tác phẩm.
Về việc bảo hộ người biểu diễn, người sản xuất bản ghi âm và các tổ chức
phát thanh, truyền hình được toàn quyền cho phép hoặc ngăn cấm các hành vi
xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ của mình. Thời hạn bảo hộ người biểu diễn và

nhà sản xuất bản ghi âm ít nhất là 50 năm tính từ khi kết thúc năm dương lịch
mà việc ghi âm hoặc buổi biểu diễn được tiến hành và thời hạn bảo hộ tổ chức
phát sóng ít nhất là 20 năm tính từ khi kết thúc năm dương lịch mà chương trình
phát thanh, truyền hình được thực hiện.
Còn với hiệp định TPP, quy định các tác giả, người biểu diễn, nhà sản xuất
bản ghi âm có quyền độc quyền cho phép hoặc cấm tất cả các bản sao chép tác
phẩm, cuộc biểu diễn và bản ghi âm của họ trong bất kỳ cách thức hoặc hình
thức nào, kể cả dưới dạng điện tử. Tiếp đó, khẳng định các tác giả được hưởng
độc quyền cho phép hoặc cấm việc truyền phát các tác phẩm của họ tới công
chúng bằng phương tiện hữu tuyến hoặc vô tuyến bao gồm cả việc công bố các
tác phẩm mà công chúng có thể tiếp cận từ bất kỳ địa điểm hay thời gian nào.
Các tác phẩm, buổi buổi diễn hoặc bản ghi âm được bảo hộ với thời hạn
bảo hộ được tính như sau:
Dựa trên cuộc đời của một thể nhân, thời hạn bảo hộ là suốt cuộc đời tác giả và
ít nhất 70 năm sau khi tác giả chết;
Dựa vào yếu tố khác ngoài cuộc đời của thể nhân, thời hạn bảo hộ là:
+ Ít nhất 70 năm kể từ ngày kết thúc năm dương lịch của bản công bố cho
phép đầu tiên của tác phẩm, buổi biểu diễn hay bản ghi âm;
+ Ít nhất 70 năm kể từ khi ngày kết thúc năm dương lịch ra đời của tác
phẩm, buổi biểu diễn hoặc bản ghi âm nếu nó không được phép công bố trong
vòng 25 năm kể từ ngày ra đời.
Giữa hai hiệp định này, đều quy định sự độc quyền dành cho tác giả và
người thừa kế hợp pháp đối với các tác phẩm, buổi biểu diễn và bản ghi âm cũng
như việc cấm các hành vi sao chép, phát sóng, truyền phát tới công chúng. Tuy
nhiên, hiệp định TPP đã quy định “cao” hơn so với hiệp định TRIPS như:


-

-


-

-

Hiệp định TRIPS cấm các hành vi phát sóng và truyền phát tới công chúng
những buồi biểu diễn (ghi âm lần đầu buổi biểu diễn và sao chép bản ghi âm
đó); sản xuất bản ghi âm (sao chép trực tiếp hoặc gián tiếp bản ghi âm). Nghĩa là
quy định này cấm hành vi xâm phạm đối với buổi biễu diễn, bản ghi âm đã được
định hình, không cấm hành vi xâm phạm đối với buổi biểu diễn, bản ghi âm
chưa được định hình.
Còn hiệp định TPP quy định cấm các hành vi phát sóng và truyền phát tới
công chúng những buổi biểu diễn, sao chép bản ghi âm dưới bất kỳ hình thức
nào, kể cả dưới dạng điện tử. Nghĩa là dù được định hình và kể cả định hình
những buổi diễn chưa được định hình.
Thời hạn bảo hộ: nếu như ở hiệp định TRIPS chỉ quy định nếu không dựa vào
yếu tố nhân thân là 50 năm, còn không quy định yếu tố nhân thân thì thời hạn
bảo hộ được tính như thế nào? Đến hiệp định TPP thì quy định cụ thể thời hạn
bảo hộ được tính dựa vào yếu tố nhân thân và không dựa vào yếu tố nhân thân
thì đều là 70 năm. Nghĩa là thời hạn này cao hơn so với hiệp định TRIPS.
2.3.
Quyền sở hữu công nghiệp
Hiệp định TRIPS bảo hộ nhãn hiệu, kiểu dáng công nghiệp, chỉ dẫn địa lý,
sáng chế, thiết kế bố trí mạch tích hợp, bảo hộ thông tin bí mật. còn hiệp định
TPP quy định về nhãn hiệu, sáng chế, kiểu dáng công nghiệp, tên nước, chỉ dẫn
địa lý…
Về nhãn hiệu: cả hai hiệp định đều quy định là bất kỳ một dấu hiệu hoặc tổ
hợp các dấu hiệu bao gồm dấu hiệu nhìn thấy được (chữ cái, các chữ số, các yếu
tố hình họa) và dấu hiệu không nhìn thấy được (âm thành, mùi hương) có khả
năng phân biệt hàng hóa hoặc dịch vụ của một doanh nghiệp với hàng hóa hoặc

dịch vụ của các doanh nghiệp khác đều có thể được đăng ký làm nhãn hiệu.
Nhưng có sự khác nhau quy định về nhãn hiệu giữa hai hiệp định như:
Hiệp định TRIPS không quy định cụ thể nhãn hiệu bao gồm những loại nào,
trong khi đó hiệp định TPP lại quy định cụ thể nhãn hiệu bao gồm nhãn hiệu tập
thể và nhãn hiệu chứng nhận;
Hiệp định TPP quy định về nhãn hiệu nổi tiếng là không được áp đặt điều kiện
để một nhãn hiệu được xác định là nổi tiếng là nó phải được đăng ký trong nước
đó hay trong một nước nào khác, phải có trong một danh sách các nhãn hiệu nổi
tiếng hoặc được công nhận trước là một nhãn hiệu nổi tiếng. Nghĩa là không cần
xác nhận, xem xét rằng nhãn hiệu đó phải được đăng ký ở một nước nào đó hoặc
phải trong danh sách là nhãn hiệu nổi tiếng hoặc phải được công nhận là nhãn
hiệu nổi tiếng. Còn hiệp định TRIPS lại yêu cầu phải xem xét danh tiếng của


-

nhãn hiệu đó trong bộ phận công chúng có liên quan thông qua sử dụng nhãn
hiệu mà còn thông qua hoạt động quản cáo nhãn hiệu.
Thời hạn bảo hộ nhãn hiệu: ở hiệp định TRIPS quy định thời hạn bảo hộ nhãn
hiệu là đăng ký lần đầu và mỗi lần gia hạn đăng ký một nhãn hiệu hàng hóa phải
có thời gian hiệu lực dưới 7 năm. Hiệu lực đăng ký một nhãn hiệu hàng hóa phải
có khả năng được gia hạn không giới hạn số lần gia hạn. Hiệp định TPP đã quy
định thời hạn bảo hộ nhãn hiệu cao hơn, theo đó, khi đăng ký ban đầu và mỗi lần
gia hạn nhãn hiệu sẽ không dưới 10 năm.
Chỉ dẫn địa lý: hiệp định TRIPS quy định chỉ dẫn địa lý là những chỉ
dẫn về hàng hóa bắt nguồn từ lãnh thổ của một nước thành viên hoặc từ khu vực
hay địa phương thuộc lãnh thổ đó, có chất lượng, uy tín hoặc đặc tính nhất định
chủ yếu do xuất xứ địa lý quyết định. Hơn nữa, hiệp định quy định phải từ chối
đăng ký nhãn hiệu hoặc hủy bỏ hiệu lực của nhãn hiệu đã đăng ký theo quy định
của pháp luật hoặc theo yêu cầu của các bên liên quan nếu nhãn hiệu sử dụng chỉ

dẫn địa lý gây nhầm lẫn cho công chúng về xuất xứ thực của hàng hóa. Nghĩa là
hiệp định không cho phép việc bảo hộ chỉ dẫn địa lý như một nhãn hiệu. Trong
khi đó, hiệp định TPP lại quy định về bảo hộ chỉ dẫn địa lý như là một nhãn
hiệu.
Kiểu dáng công nghiệp: về đối tượng này, cả hai hiệp định quy định
giống nhau, hiệp định TPP quy định về kiểu dáng công nghiệp áp dụng theo hiệp
định TRIPS. Theo đó, bảo hộ được chứa đựng trong một phần của một sản phẩm
hoặc có một phần kiểu dáng riêng biệt so với toàn bộ sản phẩm. Chủ sở hữu kiểu
dáng công nghiệp được bảo hộ phải có quyền ngăn cấm những người không
được phép của mình sản xuất, bán hoặc nhập khẩu những sản phẩm mang hoặc
thể hiện một kiểu dáng là bản sao hoặc về cơ bản là một bản sao của kiểu dáng
được bảo hộ nếu các hành vi nói trên được thực hiện nhằm mục đích thương
mại. Thời hạn bảo hộ theo quy định ít nhất là 10 năm.
Sáng chế: hiệp định TRIPS quy định bảo hộ sáng chế cho sản phẩm
hoặc quy trình thuộc mọi lĩnh vực công nghệ với điều kiện sản phẩm hoặc quy
trình có tính mới, có trình độ sáng tạo và khả năng áp dụng công nghiệp. Thời
hạn bảo hộ sáng chế không được ngắn hơn 20 năm tính từ ngày nộp đơn. Trong
khi đó, hiệp định TPP lại quy định sáng chế sẵn có cho mọi sáng chế bất kể là
một sản phẩm hay quy trình, trong tất cả các lĩnh vực công nghệ với điều kiện là
các sáng chế mới, liên quan đến trình độ sáng tạo và có khả năng áp dụng trong
công nghiệp. theo đó, phạm vi bảo hộ sáng chế bao gồm: cách sử dụng mới của
một sản phẩm đã được biết; phương pháp sử dụng mới của một sản phẩm đã


được biết; quy trình sử dụng mới của một sản phẩm đã được biết. Thời hạn gia
hạn sáng chế là trong vòng 12 tháng trước ngày nộp đơn xin cấp bằng sáng chế
trong lãnh thổ của quốc gia.
So với hiệp định TRIPS thì hiệp định TPP còn quy định thêm sự chậm trễ
bất hợp lý trong việc cấp bằng sáng chế thì một bên sẽ phải cung cấp các
phương tiện hợp lý theo yêu cầu của chủ sở hữu sáng chế để điều chỉnh thời hạn

của bằng sáng chế bù đắp cho sự chậm trễ trên. Sự trì hoãn trong việc cấp bằng
sáng chế hơn 5 năm kể từ ngày nộp đơn hoặc 3 năm sau khi một bên yêu cầu
kiểm tra đơn xin cấp bằng sáng đã được nộp, tùy thuộc thời hạn nào trễ hơn.
Ngoài ra, hiệp định TPP còn quy định sự độc quyền đối với dược phẩm.
2.4.
Thực thi quyền sở hữu trí tuệ
Cả hai hiệp định đều quy định các biện pháp thực thi quyền sở hữu trí tuệ
đó là biện pháp dân sự, biện pháp hành chính, biện pháp tạm thời, biện pháp
hình sự và biện pháp kiểm soát biên giới.
Tuy nhiên, các quy định về thực thi quyền sở hữu trí tuệ trong hiệp định
TPP là cao hơn so với hiệp định TRIPS, cụ thể:
Hiệp định TPP chủ yếu quy định áp dụng các biện pháp dân sự và biện
pháp hình sự, và đặc biệt theo hướng hình sự hóa đối với các hành vi xâm phạm
quyền sở hữu trí tuệ. Theo đó, biện pháp hình sự được áp dụng hầu hết đối với
các hành vi như:
- Đối với các trường hợp cố tình giả mạo nhãn hiệu hoặc sao chép lậu bản
quyền hoặc các quyền liên quan trên quy mô thương mại;
- Xử lý hành vi cố tình nhập khẩu hoặc xuất khẩu hàng hóa mang nhãn
hiệu giả mạo hoặc đánh cắp bản quyền trên quy mô thương mại;
- Xử lý tình trạng sao chép lậu một tác phẩm điện ảnh khi trình chiếu
trong rạp chiếu phim gây ra thiệt hại cho chủ thể quyền; hành vi thông đồng và
tiếp tay trong các hành vi trên cũng bị chịu trách nhiệm hình sự;
- Đối với các hành vi truy cập vào một bí mật thương mại trong hệ thống
máy tính một cách cố tình và trái thẩm quyền, hành vi cố tình biển thủ bí mật
thương mại bao gồm cả sự trợ giúp của hệ thống máy tính, hành vi tiết lộ gian
lận, cố tình và trái thẩm quyền một bí mật thương mại.
- Hành vi sản xuất, lắp ráp, chỉnh sửa, nhập khẩu, xuất khẩu, bán, cho
thuê hoặc phân phố một thiết bị hoặc hệ thống hữu hình và vô hình; áp dụng
trách nhiệm hình sự đối với hành vi cố tình tiếp nhận tín hiệu vệ tinh chương
trình hoặc mở rộng phân phối tín hiệu đó khi biết rằng nó đã được giải mã mà

không được phép của nhà phân phối hợp pháp; hành vi chế tạo hoặc phân phối


-

thiết bị khi biết rằng thiết bị đó được dùng cho mục đích tiếp nhận trái thẩm
quyền tín hệu cáp chương trình đã được mã hóa; hành vi tiếp nhận hoặc hỗ trợ
người khác tiếp nhận tín hiệu cáp chương trình đã được mã hóa mà không được
sự chấp nhận của nhà phân phối hợp pháp.
- Biện pháp hình sự áp dụng đối với các hành vi cố ý vô hiệu hóa trái phép
biện pháp bảo vệ công nghệ hiệu quả có vai trò kiểm soát việc tiếp cận tác
phẩm, buổi biểu diễn hoặc bản ghi âm đã được bảo hộ hoặc hành vi sản xuất,
nhập khẩu, phân phối, chào bán, hoặc cho công chúng thuê, hoặc cung cấp các
thiết bị, sản phẩm hoặc các bộ phận cho công chúng hoặc cung cấp dịch vụ. ở
các hành vi này đều bị xem xét trách nhiệm hình sự khi bất kỳ người nào thực
hiện hành vi một cách cố ý (bao hàm có kiến thức) nhằm giành lấy lợi thế
thương mại hoặc tài chính.
- Xử lý hình sự đối với hành vi nhằm giành lấy lợi thế thương mại hoặc tài
chính như có ý loại bỏ hoặc thay đổi thông tin quản lý quyền; cố ý phân phối,
nhập khẩu để phân phối, phát sóng, truyền hoặc công bố các bản sao của tác
phẩm, buổi biểu diễn, hoặc bản ghi âm mặc dù biết rằng RMI đã được gỡ bỏ
hoặc thay đổi trá phép.
Như vậy, hầu hết các hành vi đều bị xử lý trách nhiệm hình sự, chứ không
gói gọn trong hai hành vi cố tình giả mạo nhãn hiệu và xâm phạm bản quyền
mới chịu trách nhiệm hình sự như hiệp định TRIPS.
3. Một vài bàn luận
Qua việc so sánh quy định về sở hữu trí tuệ giữa hiệp định TRIPS và hiệp
định TPP thì có thể thấy rằng, hiệp định TPP có sự quy định bảo hộ sở hữu trí
tuệ cao hơn, thể hiện tính độc quyền nhiều hơn, kéo dài thời hạn bảo hộ cũng
như áp dụng hình sự hóa nhiều hơn trong việc giải quyết các hành vi xâm phạm

quyền sở hữu trí tuệ.
Rà soát các văn bản pháp luật quy định về sở hữu trí tuệ mà chủ yếu là luật
sở hữu trí tuệ năm 2005, sửa đổi bổ sung năm 2009 thì pháp luật chúng ta đã có
sự tương đồng với hiệp định TRIPS. Tuy nhiên, so với hiệp định TPP thì chúng
ta nên:
Tiến hành sửa đổi Luật sở hữu trí tuệ theo hướng tương đồng với các điều ước
quốc tế đa phương và song phương mà đặc biệt là hiệp định TPP. Bổ sung phạm
vi bảo hộ nhãn hiệu bao gồm nhãn hiệu âm thanh, nhãn hiệu mùi hương; Tiến
hành bảo hộ chỉ dẫn địa lý như là nhãn hiệu; tiến hành các biện pháp để thực thi
quyền sở hữu trí tuệ như hiệp định TPP chủ yếu là các biện pháp hình sự trong


-

-

2.
3.

việc xử lý các hành vi xâm phạm sở hữu trí tuệ. Về sự độc quyền sáng chế đối
với dược phẩm, chúng ta nên nhập khẩu công nghệ sản xuất để có thể đối phó
với giá thành dược phẩm cao khi có sự độc quyền. Ngoài ra, chuẩn bị các điều
kiện để tham gia vào một số hiệp định mà TPP quy định.
Cần có quy chế phối hợp nhanh chóng, hiệu quả giữa các cơ quan thực thi pháp
luật sở hữu trí tuệ. Thành lập tòa án chuyên trách về sở hữu trí tuệ để chuẩn bị
cho việc áp dụng biện pháp dân sự được nhiều hơn trong xử lý, thay cho biện
pháp hành chính hóa như hiện nay.
Các doanh nghiệp cần chủ động hội nhập, nắm chắc hiệp định đa phương và
song phương để phát triển.
Tiến hành các biện pháp tuyên truyền về sở hữu trí tuệ đến với người dân trong

việc thực hiện nghiêm pháp luật.
Nhà nước nên tìm hiểu về nhu cầu của doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài
khi đầu tư vào Việt Nam.
Nhà nước đầu tư kinh phí cho các đề tài nghiên cứu, phát triển tại các trường đại
học, cao đẳng nhằm thúc đẩy sáng tạo.
4. Kết luận
Sở hữu trí tuệ đóng góp rất nhiều cho sự phát triển kinh tế. Cho nên, việc ra
soát, sửa đổi văn bản pháp luật về sở hữu trí tuệ là việc làm cần thiết cho khâu
chuẩn bị hiệp định TPP được vận hành.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Hiệp định đối tác kinh tế xuyên Thái Bình Dương
Hiệp định về các khía cạnh liên quan đến thương mại của quyền sở hữu trí tuệ
Nguyễn Thị Hải Vân, Bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ - hiệp định TRIPS, TRIPS
CỘNG và ACTA, Tạp chí Khoa học pháp lý, số 01 (68), 2012.



×