Tải bản đầy đủ (.doc) (22 trang)

CÁC CÔNG cụ của CHÍNH SÁCH TIỀN tệ HIỆN NAY ở VIỆT NAM

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (153.38 KB, 22 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC ĐỒNG NAI
KHOA TỔNG HỢP
NGÀNH QUẢN TRỊ KINH DOANH

TIỂU LUẬN MÔN TÀI CHÍNH - TIỀN TỆ
Đề tài:
CÁC CÔNG CỤ CỦA CHÍNH SÁCH TIỀN TỆ HIỆN NAY Ở VIỆT NAM

Sinh viên thực hiện
• Nguyễn Thùy Anh
• Tạ Thị Kim Chi
• Nguyễn Kim Hòa
• Vũ Thị Thúy Nga
• Đỗ Thái Ngọc
• Nguyễn Thị Tuyết Sương
• Nguyễn Thiên Hương Trà
• Thiều Thị Thu Thảo
• Nguyễn Thị Thu Thủy

Thành phố Biên Hòa, tháng 2/2014


MỤC LỤC
Lời nói đầu
CHƯƠNG I: CHÍNH SÁCH TIỀN TỆ TRONG NỀN KINH TẾ THỊ
TRƯỜNG
1.Khái niệm và vị trí của chính sách tiền tệ
1.1. Khái niệm
1.2. Các loại chính sách tiền tệ
1.3. Vị trí
2. Mục tiêu của chính sách tiền tệ


CHƯƠNG II: CÁC CÔNG CỤ CỦA CHÍNH SÁCH TIỀN TỆ Ở VIỆT
NAM HIỆN NAY
1. Các công cụ của chính sách tiền tệ.
2. Thực trạng công cụ chính sách tiền tệ ở Việt Nam 2013
3. Những dự báo về công cụ chính sách tiền tệ ở Việt Nam 2014
CHƯƠNG III: ĐỊNH HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN CÁC
CÔNG CỤ CỦA CHÍNH SÁCH TIỀN TỆ Ở VIỆT NAM
1. Định hướng
2. Giải pháp


Lời nói đầu
CHƯƠNG I:
CHÍNH SÁCH TIỀN TỆ TRONG NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG
1.Khái niệm và vị trí của chính sách tiền tệ
1.1. Khái niệm
Chính sách tiền tệ là một chính sách kinh tế vĩ mô do Ngân hàng trung
ương khởi thảo và thực thi, thông qua các công cụ , biện pháp của mình nhằm
đạt các mục tiêu :ổn định giá trị đồng tiền, tạo công ăn việc làm ,tăng trởng kinh
tế .
Tuỳ điều kiện các nước, chính sách tiền tệ có thể được xác lập theo hai
hướng: chính sách tiền tệ mở rộng hoặc chính sách tiền tệ thắt chặt.
1.2. Vị trí
Trong hệ thống các công cụ điều tiết vĩ mô của Nhà nước thì chính sách tiền
tệ là một trong những chính sách quan trọng nhất vì nó tác động trực tiếp vào
lĩnh vực lu thông tiền tệ .Song nó cũng có quan hệ chặt chẽ với các chính sách
kinh tế vĩ mô khác như chính sách tài khoá,chính sách thu nhập,chính sách kinh
tế đối ngoại.
Đối với Ngân hàng trung ương ,việc hoạch định và thực thi chính sách tiền tệ
là hoạt động cơ bản nhất ,mọi hoạt động của nó đều nhằm làm cho chính sách

tiền tệ quốc gia đợc thực hiện có hiệu quả hơn.
1.3. Vai trò
Chính sách tiền tệ có một vai trò quan trọng và tương đối độc lập với các chính
sách kinh tế khác xuất phát từ 3 điểm mang tính định hướng sau:
• Thứ nhất: Sẽ không có tăng trưởng kinh tế nếu không có đầu tư
• Thứ hai: Không thể có đầu tư mà không có tiết kiệm.
• Thứ ba: Không thể có tiết kiệm nếu thiếu sự ổn định giá cả và tiền tệ.


Chính vì vậy, chính sách tiền tệ có nhiệm vụ tác động vào nhiều hướng nhăm:
tạo ra đầu tư, tạo ra tiết kiệm và tạo ra sự ổn định tiền tệ, ổn định giá cả,ổn định
tỷ giá hối đoái.
Như vậy, chính sách tiền tệ góp phần vào sự thành công hay thất bại của sự
phát triển kinh tế Một chính sách tiền tệ thắt chặt sẽ dẫn đến sự khan hiếm về
tiền tệ và đắt đỏ về chi phí. Ngược lại, một chính sách tiền tệ nới lỏng sẽ làm
cho tiền tệ gia tăng, kích thích tiêu dùng và tăng trưởng kinh tế.
Theo Luật Ngân hàng Nhà nước Việt Nam: chính sách tiền tệ quốc gia là
một bộ phận của chính sách Kinh tế - Tài chính của Nhà nước nhằm ổn định giá
trị đồng tiền, kiềm chế lạm phát, góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội
đảm bảo quốc phòng, an ninh và nâng cao đời sống nhân dân.
2. Mục tiêu của chính sách tiền tệ
2.1 Mục tiêu cuối cùng
Các quốc gia đều có chính sách tiền tệ riêng phù hợp với nền kinh tế đặc thù
của mỗi nước.
Chính sách tiền tệ đều hướng vào những mục tiêu chủ yếu sau:
• Ổn định tiền tệ, bảo vệ giá trị đối nội của đồng tiền trên cơ sở kiểm soát
được lạm phát
• Ổn định giá trị đối ngoại của đồng tiền trên cơ sở cân bằng cán cân thanh
toán quốc tế và ổn định tỷ giá hối đoái
• Tăng trưởng kinh tế trong sự ổn định

• Tạo công ăn việc làm và giảm bớt thất nghiệp
2.1.1. Kiểm soát lạm phát nhằm ổn định sức mua đối nội của tiền tệ
Khi toàn thế giới sử dụng tiền giấy bất khả hoán thì chứa đựng bên trong nó
khả năng tiềm tàng của lạm phát.
• Nếu lạm phát ở tỷ lệ cao sẽ phân phối lại thu nhập quốc dân và của cải
giữa các giai cấp khác nhau. Khi giá cả tăng lên một cách bất thường thì mọi
người nhất là các chủ đầu tư không an tâm, tin tưởng trong việc tính toán
công việc đầu tư nên không khuyến khích đầu tư.


• Nếu lạm phát cân bằng có dự tính trước thì sẽ không ảnh hưởng gì đến
sản lượng thực tế, đến hiệu quả hoặc phân phối thu nhập quốc dân. Nếu mọi
người đều biết được, thấy trước được sự vận động của lạm phát thì họ sẽ
thực hiện các hành vi của mình cho có lợi nhất.
- Trên thực tế, lạm phát là việc đưa một khối lượng tiền ra lưu thông. Trong
nền kinh tế thị trường, việc đưa tiền ra lưu thông thường thông qua con đường
tín dụng. Khi tăng trưởng tiền tệ cho nền kinh tế bằng con đường tín dụng thì sẽ
phát triển các doanh nghiệp, tạo điều kiện đầu tư chiều rộng và chiều sâu. Do đó
sẽ thu hút nhiều lao động, thất nghiệp giảm, kinh tế tăng trưởng cao hơn trước.
Lạm phát tồn tại rất lâu dài trong nền kinh tế hàng hóa. Như vậy, bên cạnh tác
hại thì lạm phát trong chừng mực nào đó lại là một yếu tố để kích thích kinh tế
tăng trưởng.
Nhiệm vụ của ngân hàng trung ương là kiểm soát lạm phát, ổn định tiền tệ,
tạo tiền đề cho nền kinh tế phát triển bình thường, đảm bảo đời sống cho người
lao động
Thực chất của việc kiểm soát lạm phát là duy trì lạm phát ở mức vừa
phải.
2.1.2. Ổn định sức mua đối ngoại của tiền tệ.
Trong nền kinh tế mở, xu hướng toàn cầu hóa nền kinh tế - tài chính thế giới
diễn ra rất nhanh chóng và sâu sắc. Trước tình hình đó, các nước trên thế giới

đều hướng về các thị trường tài chính quốc tế để theo dõi sự biến động của các
ngoại tệ mạnh, nhằm tránh các tác dụng tiêu cực của các biến động trên thị
trường tài chính, thông qua hệ thống tỷ giá hối đoái. Một sự biến động của tỷ giá
hối đoái ít hay nhiều, đều ảnh hưởng tới haotj động kinh tế trong nước tùy theo
mức độ hướng ngoại của nền kinh tế.
Tỷ giá hối đoái chịu sự tác động mạnh của dự trữ ngoại hối, thị trường hối đoái
và chính sách hối đoái, tình hình giá cả trong nước. Do đó, một chính sách tiền
tệ nhằm ổn định kinh tế trong nước, cần phải đi đôi với những biện pháp nhằm
ổn định tỷ giá hối đoái.


Tỷ giá hối đoái ảnh hưởng sâu sắc đến các hoạt động kinh tế của một nước, đặc
biệt là hoạt động xuất nhập khẩu.
• Một tỷ giá hối đoái quá thấp (bản tệ có giá trị cao hơn so với ngoại tệ)
có tác dụng khuyến khích nhập khẩu, gây bất lợi cho xuất khẩu vì hàng hóa
xuất khẩu tương đối đắt, khó bán cho nước ngoài. Điều này sẽ khiến sản
xuất trong nước hướng về xuất khẩu, gây bất lợi cho những cuộc chuyển
dịch ngoai tệ từ nước ngoài vào tỏng nước, làm cho khối lượng dự trữ ngoại
hối dễ bị giảm
• Một tỷ giá hối đoái quá cao (bản tệ có giá trị thấp hơn so với ngoại tệ) sẽ
bất lợi cho nhập khẩu, khuyến khích xuất khẩu, hàng hóa xuất khẩu sẽ rẻ
hơn để cạnh tranh trên thị trường quốc tế. Nhờ vậy, lưu lượng ngoại tệ có
khuynh hướng chuyển vào trong nước khá hơn, khối lượng dự trữ ngoại tệ
có cơ hội tăng.
Nhiệm vụ của ngân hàng trung ương là sử dụng những công cụ của chính
sách tiền tệ để can thiệp giữ cho tỷ giá hối đoái không tăng cũng không giảm
quá đáng, làm dịu bớt những tình trạng bất ổn định của nền kinh tế trong nước.
2.1.3. Tăng trưởng kinh tế
Mỗi quốc gia luôn quan tâm đến 3 vấn đề sau:
• Thứ nhất: Tăng trưởng chính là sự tăng sản lượng tính trên đầu người và

tăng mức sống cá nhân, chứ không phải sự gia tăng tổng sản lượng.
• Thứ hai: Sự cải tiến năng suất lao động một lần duy nhất chỉ tạo ra sự tăng
trưởng kinh tế tạm thời. Tăng trưởng ổn định đòi hỏi năng suất lao động
phải ổn định lâu dài.
• Thứ ba:Mặc dù sự tăng trưởng sẽ làm tăng mức sản lượng và tiêu dùng
trong tương lai. Tuy nhiên, nó có thể sinh ra một số chi phí ngắn hạn.
Để tăng trưởng kinh tế, ngân hàng trung ương thực hiện tiền tệ nới rộng. Khi
khối tiền tệ tăng sẽ làm giảm lãi suất. Lãi suất giảm sẽ khuyễn khích các chủ
doanh nghiệp đầu tư, mở rộng sản xuất. Đầu tư gia tăng dẫn đến tổng sản phẩm
xã hội cũng tăng.


Bên cạnh đó, sự gia tăng khối tiền đưa đến sự gia tăng số cầu tổng hợp. Các
thành phần dân cư có tiền nhiều hơn sẽ tăng mức tiêu thụ giúp các doanh nghiệp
giải quyết hàng tồn đọng, đồng thời gia tăng sản xuất, hàng hóa lưu thông, phân
phối nhộn nhịp hơn.
Kết quả là doanh nghiệp sẽ đầu tư thêm để gia tăng sản xuất hơn nữa làm cho
xả sức cầu về sản phẩm tiêu dùng và sức cầu về đầu tư đều tăng.
Ngân hàng trung ương thường sử dụng công cụ hạn mức tín dụng. Khi nền
kinh tế vận động một cách thuần thục thì việc cung ứng tiền tệ chủ yếu được
thực hiện thông qua các cong cụ gián tiếp như: dự trữ bắt buộc, tái chiết khấu,
lãi suất và công cụ thị trường mở.
2.1.4. Tăng mức nhân dụng
Trong nền kinh tế thị trường, giữa tăng trưởng kinh tế hoặc suy thoái được diễn
ra theo chu kì, việc toàn dụng nhân công và thất nghiệp luôn đan xen nhau.
Trên thực tế, khi kinh tế tăng trưởng liên tục, cầu tiếp tục gia tăng nhưng số
cung không thể đáp ứng mãi được. Nó bị hạn chế bởi nhiều yếu tố như: nhân
công không đủ, nguyên liệu khan hiếm sẽ làm tăng chi phí sản xuất, nâng cao
giá thành và giá bán trên thị trường.
Cầu tăng mạnh dẫn đến lạm phát. Ngân hàng trung ương buộc phải giảm khối

tiền tệ để giảm cầu. Hoạt động kinh tế rơi vào tình trạng ngưng trệ. Kết quả nền
kinh tế rơi vào tình trạng suy thoái và thất nghiệp gia tăng.
Giải quyết vấn đề công ăn việc làm là nhu cầu bức thiết của mọi quốc gia.
Sức lao động là một hàng hóa trên thị trường, mà cầu về sức lao động luôn có xu
hướng giảm do sự phát triển của khao học công nghệ kĩ thuật. Chính vì vậy, khi
kinh tế tăng trưởng thì vẫn luôn có một bộ phận lao động bị thất nghiệp.
Do đó, nhiệm vụ của chính sách tiền tệ là hạn chế tối đa mức thất nghiệp chứ
không thể triệt tiêu nạn thất nghiệp được.
Từ đó, ta thấy sự can thiệp của Nhà nước để chủ động điều chỉnh mối quan hệ
giữa tăng trưởng kinh tế, lạm phát và thất nghiệp ngày càng trở nên hết sức quan
trọng trong việc điều tiết kinh tế vĩ mô theo cơ chế thị trường. Để làm được điều
đó,Nhà nước phải sử dụng các công cụ để điều hành chính sách tiền tệ.


2.2. Mục tiêu trung gian
2.2.1. Chỉ tiêu tổng lượng tiền cung ứng
Để duy trì mục tiêu lượng tiền cung ứng, ngân hàng trung ương buộc phải
chấp nhậ sự thay đổi lãi suất vì sự biến động tất yếu của nhu cầu tiền tệ trong
nền kinh tế
2.2.2. Chỉ tiêu lãi suất
Để duy trì mục tiêu lãi suất, mức cung ứng tiền và tiền cơ sở sẽ biến động.
2.2.3. Lựa chọn mục tiêu trung gian
Việc lựa chọn lãi suất hay lượng tiền cung ứng làm mục tiêu trung gian của
chính sách tiền tệ tùy thuộc vào mức độ biến động tương đối của nhu cầu tiền tệ
so với nhu cầu hàng hóa được phản ánh thông qua sự biến động tương đối của
mô hình IS-LM.
2.3. Mục tiêu hoạt động
Là các chỉ tiêu có phản ứng tức thời với sự điều chỉnh của công cụ chính sách
tiền tệ.
2.3.1. Lãi suất liên Ngân hàng.

Với điều kiện cầu tiền tệ ổn định, việc khống chế lãi suất cho phép đạt được
mứccung tiền tệ mục tiêu. Trên cơ sở đó, mức lãi suất liên ngân hàng cụ thể
được xác định nhằm đạt được mục tiêu trung gian.
2.3.2. Dự trữ không vay
Dự trữ không vay được sử dụng căn cứ vào cơ chế tạo tiền của hệ thống ngân
hàng thương mại và tổng lượng tiền cung ứng làm mục tiêu.
Mục tiêu tức thời của chính sách tiền tệ là lượng dự trữ không vay mà ngân
hàng trung ương có thể chi phối thông qua nghiệp vụ thị trường mở.
Cơ chế điều hành qua dự trữ không vay có hiẹu quả khi có các dự tính chính
xác về dự trữ đi vay, nhu cầu nắm giữ tiền của công chúng và hệ số nhân tiền.
Quan trong hơn, mối quan hệ giữa dự trữ không vay và khối tiền cung ứng phải
chặt chẽ.


2.3.3. Dự trữ đi vay
Mục tiêu hoạt động này thực chất là lựa chọn lãi suất làm mục tiêu trung gian
và để cho tổng khối tiền khỏi biến động.
Khi lãi suất cho vay của các ngân hàng thương mại tăng lên làm cho mức dự trữ
đi vay có thể vượt quá mức mục tiêu, buộc ngân hàng trung ương phải tăng thêm
mức dự trữ không vay thông ua nghiệp vụ thị trường mở, lãi suất giảm xuống
làm cho tổng tiền trung ương tăng lên và tổng lượng tiền cung ứng cũng tăng


CHƯƠNG II:
CÁC CÔNG CỤ CỦA CHÍNH SÁCH TIỀN TỆ Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
1. Các công cụ của chính sách tiền tệ.
1.1. Công cụ tái cấp vốn
Khi người gửi tiền đến rút tiền quá nhiều, ngân hàng dễ rơi vào tình trạng
thiếu vốn, dẫn tới khả năng thiếu chi trả.
Lúc này, ngân hàng trung ương sẽ cấp tín dụng cho ngân hàng thương mại

qua nhiều hình thức, thông dụng nhất là tái cấp vốn dưới hình thức chiết khấu và
tái chiết khấu các thương phiếu. Khi chấp nhận chiết khấu hay tái chiết khấu là
ngân hàng trung ương đã làm tăng khối lượng tiền lưu thông.
Bên cạnh đó, việc cho vay này luôn gắn liền với yêu cầu của nền kinh tế do sự
tác động trực tiếp của quy luật cung cầu.
Việc điều hành công cụ tái cấp vốn để thực thi chính sách tiền tệ được thông
qua lãi suất tái chiết khấu, ngân hàng trung ương có thể khuyến khích giảm hoặc
tăng mức cung ứng tín dụng của ngân hàng thương mại đối với nền kinh tế,
đồng thời giảm hoặc tăng mức cung tiền.
• Khi thực hiện chính sách tăhts chặt tiền tệ, NHTW sẽ nâng lãi suất tái chiết
khấu lên. Khi đó, các NHTM sẽ nâng lãi suất cho vay hoặc hạn chế bớt những
cơ hội cho vay và ngược lại.
• Nếu thực hiện chính sách tiền tệ mở rộng, NHTW hạ thấp lãi suất chiết khấu,
NHTM trong trường hợp này đi vay rẻ, nên có khuynh hướng giảm bớt lãi suất
cho vay dẫn đến nhu cầu vay gia tăng.
Tái cấp vốn cho các NHTM là công cụ đắc lực tropng định hướng phát triển
kinh tế. Đối với chính sách kích thích xuất khẩu, NHTW sẽ ưu tiên tái chiết
khẩu các thương phiếu xuất khẩu.
Khi chấp nhận tái chiết khấu là NHTW đã tăng khối lượng tièn cung ứng.
Chính vì tầm quan trọng đó nên NHTW chỉ có thể tái chiết khấu theo điều kiện:
• Khối lượng tiền cung ứng bằng con đường tín dụng, tức ấp tín dụng cho
nền kinh tế còn được phép cung ứng thêm.


• Bản thân các NHTM đem hối phiếu để tái chiết khấu phải là những hối
phiếu tốt.
Ưu điểm và nhược điểm của tái chiết khấu:
• Ưu điểm: Các khoản cho vay của NHTW đều được đảm bảo bằng các
giấy tờ có giá do nó có khả năng tự thanh toán. Đồng thời công cụ tái chiết
khấu có tính chất chủ động trong việc thực hiện chính sách tiền tệ mở rộng

hay hạn chế.
• Nhược điểm: NHTW thụ động do việc vay hay không vay chủ động nằm
ở NHTM.
1.2. Dự trữ bắt buộc (Reserve Requirements)
Dự trữ bắt buộc hay tỷ lệ dự trữ bắt buộc là tỷ lệ phần trăm tính trên tổng tiền
gửi huy động được mà các NHTM không được sử dụng để kinh doanh
Mục đích của việc thực hiện dự trữ bắt buộc là nhằm:
• Duy trì khả năng thanh toán thường xuyên của các ngân hàng trung gian
hoặc trong những trường trường hợp khẩn cấp như trường hợp xảy ra tình
trạng đồng loạt rút tiền gửi (bank run) của công chúng, tránh được tình trạng
khủng hoảng ngân hàng.
• Giới hạn khả năng cho vay của ngân hàng trung gian, tránh được trường
hợp ngân hàng này quá ham kiếm lợi nhuận bằng cách cho vay quá mức, có
thể phơng hại tới quyền lợi của người ký gửi tiền ở ngân hàng, tức là đảm
bảo an toàn tiền gửi của khách hàng.
• Việc tập trung dự trữ của các ngân hàng trung gian ở NHTW còn là một
phơng tiện để NHTW có thêm quyền lực điều khiẻn hệ thống ngân hàng, tạo
sự lệ thuộc của các ngân hàng trung gian đối với NHTW.
- Khi ấn định một mức dự trữ bắt buộc ở mức thấp, NHTW muốn khuyến
khích các ngân hàng trung gian mở rộng mức cho vay của họ. Điều này sẽ kích
thích được các hoạt động kinh tế, tăng khả năng giao lưu các nguồn vốn tài
chính giữa các doanh nghiệp, thể hiện một chính sách tiền tệ “nới lỏng”.


- Khi nâng cao mức dự trữ bắt buộc, NHTW muốn giới hạn khả năng cho vay
của ngân hàng trung gian, báo hiệu một chính sách tiền tệ “thắt chặt”. Điều này
tác động tới khả năng thu lợi của ngân hàng trung gian.
Để ngan hàng trung gian không bị lỗ và cộng tác với NHTW trong việc thực
thi chính sách tiền tệ, NHTW có thể trả lãi cho mức dự trữ thặng dư nào đố của
ngân hàng trung gian, kèm theo một lãi suất thích hợp.. Thêm vào đó, NHTW

có thể vận dụng mức dự trữ bắt buộc một cách uyển chuyển hơn, bằng cách
phân biệt nhiều mức dự trữ bắt buộc
Tóm lại, biện pháp thay đổi dự trữ bắt buộc cần thực hiện một cách thận trọng.
Muốn có hiệu quả, cần phải đi kèm với những biện pháp khác. Việc điều chỉnh
dự trữ bắt buộc thay đổi tùy theo mỗi nước, mỗi thời kì khác nhau.
1.2.3. Nghiệp vụ thị trường mở (Open Market Operation)
Nghiệp vụ thị trường mở là việc NHTW tham gia mua hoặc bán giấy tờ có giá
ngắn hạn trên thị trường tiền tệ với các NHTM với mục đích tác động đến thị
trường tiền tệ, điều hòa cung và cầu về giấy tờ có giá, gây ảnh hưởng đến khối
dự trữ của các NHTM tại NHTW, từ đó tác động đến khả năng cung ứng tín
dụng của các ngân hàng này.
Công cụ nghiệp vụ thị trường mở xuất hiện đầu tiên ở Mỹ vào những năm
1920. Nó là công cụ tác động nhanh, linh hoạt và chủ động. Nó có thể hạn chế
được những khiếm khuyết của công cụ dự trữ bắt buộc. Công cụ này linh hoạt ở
chỗ là dễ đảo ngược được tình huống khi phát hiện tiền lưu thông thừa hay thiếu
bằng cách bán hay mua giấy tờ có giá trị.
Tuy nhiên, hạn chế của nó là chỉ có thể áp dụng trong điều kiện mà hầu hết tiền
trong lưu thông đều nằm ở tài khoản tại ngân hàng. Ở Việt Nam, công cụ thị
trường mở được thực hiện bằng việc phát hành tín phiếu NHNN và tổ chức đấu
thầu Tín phiếu Kho bạc Nhà nước.
Thị trường mở được xem là một trong những cửa ngõ để NHTW phát hành tiền
vào lưu thông hoặc rút bớt khối lượng tiền tệ lưu thông. Nếu như chính sách
chiết khấu, tái chiết khẩu có tác động tổng hợp và có những hạn chế tạm thời, thì
nghiệp vụ thị trường mở là công cụ tác động nhanh và linh hoạt.


1.2.4. Công cụ tỷ giá hối đoái
NHTW can thiệp vào thị trường hối đoái nhằm ổn định tỷ giá hối đoái bằng
cách mua hoặc bán một lượng ngoại tệ.
• Khi tỷ giá giảm mạnh thì NHTW đưa tiền mặt ra mua ngoại tệ, dẫn đến

giá trị ngoại tệ lên cao, đồng bản tệ giảm giá trị làm cho tỷ giá được cải
thiện, nhưng sẽ làm gia tăng lượng tiền trong lưu thông
• Khi tỷ giá hối đoái tăng thì NHTW đưa ngoại tệ ra bán, dẫn đến giá trị
ngoại tệ giảm, làm cho tỷ giá được cải thiện nhưng sẽ là giảm lượng tiền
trong lưu thông.
Kết quả của sự can thiệp của NHTW vào thị trường hối đoái nhằm ổn định tỷ
giá hối đoái, để giữ vững sức mua đối ngoại của đồng tiền bản tệ sẽ làm cho tiền
lưu thông tăng lên hoặc giảm đi.
1.2.5. Công cụ lãi suất
Lãi suất là tỷ lệ phần trăm giữa số lợi tức thu được hằng năm so với tổng số
tiền cho vay.
• Để thực hiện chính sách tiền tệ mở rộng, NHTW thường điều chỉnh hạ lãi
suất để kích thích NHTM và tổ chức tín dụng sử dụng tiền vay của NHTW
để tăng cường tín dụng cho nền kinh tế
• Để thực hiện chính sách tiền tệ hạn chế, NHTW điều chỉnh tăng lãi suất để
hạn chế quy mô tín dụng của các NHTM cho nền kinh tế
Đây là công cụ linh hoạt và được NHTW sử dụng để điều hành chính sách tiền
tệ quốc gia . Như vậy, để thực hiện chính sách tiền tệ như đã xây dựng, NHTW
của các nước sử dụng các công cụ trên để điều hành tiền tệ quốc gia nhằm thực
hiện các mục tiêu của chính sách kinh tế đã định.
Ở Việt Nam hiện nay, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam công bố lãi suất tái chiết
khấu, lãi suất tái cấp vốn và quy định lãi suất cơ bản, làm cơ sở cho các NHTM
xác định lãi suất cho vay, từ lãi suất này sẽ tác dụng điều hcỉnh lãi suất cho vay,
lãi suất chiết khấu, lãi suất tiền gửi cua các NHTM.


2. Thực trạng công cụ chính sách tiền tệ ở Việt Nam 2011 – 2013
Bước sang năm 2011, kinh tế toàn cầu bắt đầu le lói phục hồi nhưng còn
nhiều khó khăn, tác động tiêu cực đến tình hình kinh tế trong nước. Trong 6
tháng đầu năm, lạm phát tăng 13,29% so với đầu năm và tăng 20% so cùng kỳ

năm trước, gây khó khăn cho nỗ lực kiềm chế lạm phát dưới 15% theo mục tiêu
đề ra, thị trường bất động sản và chứng khoán sụt giảm mạnh.
Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (NHNN) đã điều hành chính sách tiền tệ
chặt chẽ, thận trọng để kiểm soát lạm phát và hỗ trợ ổn định kinh tế vĩ mô, bảo
đảm an toàn hệ thống, thực hiện mạnh mẽ các biện pháp điều hành nhằm kiểm
soát tốc độ tăng trưởng tín dụng dưới 20% và điều chỉnh cơ cấu tín dụng theo
hướng tập trung vốn cho sản xuất, giảm tỉ trọng dư nợ cho vay lĩnh vực phi sản
xuất xuống 22% đến 30/6/2011 và xuống 16% đến 31/12/2011.
Nhờ đó, đến cuối năm 2011, tổng phương tiện thanh toán và tín dụng lần
lượt tăng khoảng 10% và 12%, các mức lãi suất trên thị trường đã được điều
chỉnh phù hợp với diễn biến kinh tế vĩ mô và chỉ đạo của Chính phủ. Việc tăng
cường thanh tra, giám sát và xử lý nghiêm những trường hợp vi phạm trần lãi
suất huy động đã tạo điều kiện cho việc giảm dần mặt bằng lãi suất huy động và
cho vay trong những tháng cuối năm. Trong đó, lãi suất cho vay nông nghiệp,
nông thôn và xuất khẩu giảm 0,5-1%/năm và dao động ở mức 14,5-17%/năm,
thậm chí chỉ còn 13,5%/năm.
Tình hình kinh tế những tháng cuối năm đã có dấu hiệu cải thiện, GDP năm
2011 tăng 5,89%, lạm phát so cùng kỳ năm trước bắt đầu có dấu hiệu chững lại
và giảm dần từ mức 22% trong tháng 10/2011 xuống 20% trong tháng 11 và
18,13% trong tháng 12.
Để định hướng thị trường, ngay từ đầu năm 2012, NHNN đã đưa ra mục tiêu
giảm lãi suất huy động xuống còn 9-10%/năm vào cuối năm 2012, đồng thời
đưa ra lộ trình giảm trung bình mỗi quí 1%/năm. Từ tháng 5/2012, NHNN đã
qui định trần lãi suất cho vay ngắn hạn VND đối với lĩnh vực ưu tiên là nông
nghiệp nông thôn, xuất khẩu, công nghiệp hỗ trợ, doanh nghiệp vừa và nhỏ,


doanh nghiệp ứng dụng công nghệ cao; trần lãi suất cho vay ngắn hạn bằng
VND đối với các lĩnh vực ưu tiên được điều chỉnh giảm từ mức 15%/năm xuống
12%/năm, phù hợp với xu hướng giảm của trần lãi suất tiền gửi VND.

Đến cuối năm 2012, lãi suất huy động VND giảm mạnh từ 3-6%/năm, lãi
suất cho vay giảm từ 5-9%/năm so với cuối năm 2011 và trở về mức lãi suất của
năm 2007. Lãi suất cho vay ưu tiên giảm về mức 12%/năm, cho vay sản xuất
kinh doanh khác và cho vay tiêu dùng ở mức 12-15%/năm, riêng lãi suất cho
vay đối với các khách hàng tốt chỉ còn 9-11%/năm. Tổng phương tiện thanh
toán và tín dụng tăng lần lượt khoảng 20% và 9%, phù hợp với mục tiêu kiềm
chế lạm phát ở mức thấp (6,8%), góp phần ổn định kinh tế vĩ mô và hỗ trợ tăng
trưởng kinh tế.
Trên cơ sở kết quả điều hành chính sách tiền tệ đã đạt được, và các mục tiêu
do Quốc hội và Chính phủ đề ra trong năm 2013 về một số giải pháp tháo gỡ
khó khăn cho sản xuất kinh doanh, hỗ trợ thị trường, NHNN tiếp tục điều hành
linh hoạt và đồng bộ các công cụ chính sách tiền tệ, chủ động điều chỉnh lượng
tiền trong lưu thông nhằm đảm bảo ổn định thị trường tiền tệ, ngoại hối và kiểm
soát tiền tệ.
Đến cuối tháng 8/2013, tổng phương tiện thanh toán tăng 9,16% so với cuối
năm 2012, phù hợp với định hướng tăng 14-16% trong năm 2013, thanh khoản
của hệ thống ngân hàng được đảm bảo. Các mức lãi suất chủ chốt được điều
hành theo hướng giảm dần, góp phần tháo gỡ khó khăn cho doanh nghiệp và nền
kinh tế. Mặt bằng lãi suất VND trong 8 tháng đầu năm đã giảm khoảng 25%/năm so với đầu năm, trong đó lãi suất huy động giảm 2-3%/năm, lãi suất cho
vay giảm 3-5%/năm và đã trở về mức lãi suất của thời kỳ 2005-2006, các TCTD
cũng chủ động giảm lãi suất đối với những khoản cho vay còn tồn đọng.
Đến nay, trần lãi suất huy động đã giảm về mức 7%/năm và chỉ áp dụng đối
với kỳ hạn dưới 6 tháng, trần lãi suất cho vay đối với 5 lĩnh vực ưu tiên là


9%/năm, tỉ trọng những khoản cho vay có lãi suất đến 13%/năm chiếm khoảng
74,97%.
Sau nhiều tháng tăng chậm, tín dụng bắt đầu có dấu hiệu khởi sắc, nhu cầu
của doanh nghiệp về vốn cho sản xuất kinh doanh đã tăng mạnh do nhu cầu tiêu
thụ hàng hóa đã cải thiện mạnh. Tính đến cuối tháng 8/2013, tín dụng cho nền

kinh tế đã tăng 6,45% so với đầu năm, khả năng đạt mục tiêu tăng trưởng tín
dụng 12% trong năm 2013 đang trở thành hiện thực.
Như vậy, từ năm 2011 đến nay, tín dụng tuy tăng chậm hơn so với giai đoạn
trước đây, nhưng chất lượng tín dụng đã tăng cao, góp phần hỗ trợ tăng trưởng
kinh tế ở mức hợp lý. Việc điều hành lãi suất đã định hướng, dẫn dắt thị trường,
đồng thời có sự điều chỉnh linh hoạt, phù hợp với những diễn biến kinh tế vĩ mô
và tiền tệ; mặt bằng lãi suất cho vay và huy động đã giảm mạnh so với cuối năm
2011.
Điều này cho thấy, điều hành chính sách tiền tệ và tín dụng đã gắn với chuyển
đổi mô hình tăng trưởng theo hướng nâng cao chất lượng, hiệu quả của nền kinh
tế, phù hợp với chủ trương giảm dần tỉ trọng cung cấp vốn cho đầu tư phát triển
từ hệ thống các tổ chức tín dụng tập trung vốn tín dụng ngân hàng cho lĩnh vực
sản xuất, kinh doanh.
3. Những dự báo về công cụ chính sách tiền tệ ở Việt Nam 2014
Theo một kết quả khảo sát gần đây, lạm phát trong năm 2014 được các tổ
chức tín dụng kỳ vọng chỉ tăng ở mức một con số, với mức tăng trung bình
6,74%, mức kỳ vọng này nằm trong ngưỡng mục tiêu đề ra của Quốc hội
(khoảng 7%).
Tuy nhiên, mục tiêu này vẫn là một thách thức lớn đối việc việc kiểm soát
lạm phát năm 2014. Bởi vì, theo nhận định của các tổ chức tín dụng, việc điều
chỉnh giá các mặt hàng do Nhà nước quản lý tiếp tục là nhân tố ảnh hưởng mạnh
nhất đến diễn biến lạm phát trong năm 2014.


Đặc biệt, với mục tiêu tăng trưởng kinh tế cao hơn trong năm 2014 (5,8%),
nới lỏng bội chi ngân sách lên 5,3% GDP, cùng với phát hành bổ sung trái phiếu
Chính phủ thì mục tiêu kiểm soát lạm phát sẽ lại tạo ra áp lực lớn cho cơ quan
hoạch định chính sách tiền tệ.
Với câu hỏi, chính sách điều hành tỷ giá sẽ thực hiện thế nào trong năm
2014, Phó Thống đốc NHNN Nguyễn Đồng Tiến cho biết,


chính sách tỷ giá là

một bộ phận của chính sách tiền tệ, do vậy, điều hành chính sách tỷ giá phải gắn
với điều hành chính sách tiền tệ và các công cụ chính sách tiền tệ khác. Đồng
thời, chính sách về điều hành tỷ giá luôn phải phù hợp với bối cảnh trong và
ngoài nước. Ông Tiến khẳng định, chính sách về tỷ giá sẽ được thực hiện nhất
quán, đó là ổn định tỷ giá, thực hiện linh hoạt các biện pháp đối với thị trường
ngoại hối, tích cực nâng cao dự trữ ngoại hối, giảm dần tình trạng đôla hóa cũng
như vàng hóa nền kinh tế và tạo thuận lợi cho các doanh nghiệp thúc đẩy hoạt
động xuất khẩu. "Tôi cho rằng, chính sách tỷ giá cơ bản sẽ được điều hành một
cách ổn định”, ông Tiến khẳng định.
Theo bản dự báo tình hình kinh tế vĩ mô năm 2014, Trung tâm nghiên cứu
thuộc Ngân hàng TMCP Đầu tư và Phát triển Việt Nam (BIDV), Ngân hàng
Nhà nước sẽ tiếp tục duy trì mặt bằng lãi suất thấp (tương đương mức cuối
2013) để đảm bảo đồng thời ổn định vĩ mô và hỗ trợ doanh nghiệp.
Trung tâm nghiên cứu BIDV cho rằng, Ngân hàng Nhà nước cần tiếp tục phát
huy hoạt động của thị trường mở hỗ trợ thanh khoản của hệ thống tổ chức tín
dụng, kết hợp công tác thanh tra giám sát để đảm bảo tính lành mạnh trong hoạt
động huy động vốn.
“Khi thanh khoản toàn ngành và lạm phát đã đi vào ổn định, chỉ số CPI giảm
về mức dưới 7%, cần đưa ra lộ trình cụ thể nhằm tự do hóa lãi suất, đảm bảo lãi
suất cho vay và huy động được xác định trên cơ sở cung cầu vốn của thị trường.
Cùng với quá trình tự do hóa lãi suất, các công cụ lãi suất chính sách cũng cần
từng bước được đổi mới, dần phù hợp với thông lệ quốc tế, đảm bảo hình thành
được các mức lãi suất chỉ đạo theo tín hiệu thị trường, nâng cao tính hiệu quả


của cơ chế chuyển tải chính sách tiền tệ thông qua kênh lãi suất”, nghiên cứu
nhấn mạnh.

Và để các ngân hàng thương mại có cơ sở xác định lãi suất phù hợp, Ngân
hàng Nhà nước cần thiết lập đường cong lãi suất chuẩn của thị trường đối với tất
cả các dải kỳ hạn.


CHƯƠNG III:
ĐỊNH HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN CÁC CÔNG CỤ CỦA
CHÍNH SÁCH TIỀN TỆ Ở VIỆT NAM
1. Định hướng
Mặc dù đã đạt được kết quả tích cực trên nhiều mặt, song trong bối cảnh
kinh tế thế giới diễn biến phức tạp và khó lường; kinh tế trong nước ngày càng
hội nhập sâu rộng vào nền kinh tế thế giới nhưng vẫn còn nhiều khó khăn, do
đó, công tác điều hành CSTT năm 2014 vẫn tiếp tục phải đối mặt với những khó
khăn, thách thức cần phải được xử lý trong thời gian tới.
Trước tiên là những thách thức đến từ diễn biến phức tạp của nền kinh tế thế
giới: Trong năm 2014, mặc dù kinh tế thế giới dự báo đã có nhiều dấu hiệu khởi
sắc, đặc biệt là sự hồi phục của các nền kinh tế đầu tàu. Tuy nhiên, những thách
thức lớn của kinh tế toàn cầu sau khủng hoảng chưa được giải quyết một cách
bền vững, cụ thể như tỷ lệ thất nghiệp vẫn còn cao, chính sách nợ công tại một
số quốc gia vẫn chưa được thống nhất, các gói nới lỏng định lượng vẫn tiếp tục
được duy trì, rủi ro vẫn còn tiềm ẩn trên phần lớn các thị trường, bất ổn chính trị
- xã hội và tình hình thiên tai diễn biến phức tạp... Điều đó có thể tác động bất
lợi đến hoạt động thương mại trong nước, đến sự dịch chuyển của các dòng vốn
đầu tư... nên vẫn có thể tạo ra những áp lực đối với công tác quản lý ngoại hối,
đặc biệt khi các nền kinh tế mới nổi tập trung phát triển với cơ chế tỷ giá linh
hoạt hơn.
Bên cạnh đó, Việt Nam đang tiếp tục hội nhập ngày càng sâu rộng hơn vào
nền kinh tế thế giới thông qua việc ký kết các hiệp định hợp tác quốc tế song
phương và đa phương mà trước mắt là Hiệp định đối tác Kinh tế Chiến lược
xuyên Thái Bình Dương (TPP), có thể dẫn đến những thay đổi cần thiết trong

quan điểm, nguyên tắc điều hành các chính sách quản lý kinh tế.
Tiếp đến là những thách thức đến từ diễn biến kinh tế trong nước: Kinh tế vĩ
mô có những dấu hiệu tích cực, song chuyển biến còn chậm, chưa ổn định, vững
chắc. Tăng trưởng tiềm năng của Việt Nam đang có xu hướng giảm dần, tăng


trưởng kinh tế trong hai năm trở lại đây chủ yếu dựa vào xuất khẩu trong khi
nhu cầu trong nước phục hồi chậm, sức mua còn yếu, lạm phát tuy đã được kiểm
soát nhưng còn tiềm ẩn nguy cơ tăng cao trở lại…
Bên cạnh đó, dòng vốn tín dụng còn chưa thông suốt, nợ xấu còn ở mức cao,
khó khăn của thị trường bất động sản chưa thể giải quyết và đặc biệt là áp lực
bội chi ngân sách ngày càng lớn,… đã trở thành những thách thức lớn cho công
tác điều hành CSTT trong năm 2014 nói chung và đặc biệt là sẽ tạo ra áp lực
trong công tác quản lý tín dụng của NHNN. Những thách thức này sẽ buộc
NHNN phải theo đuổi cùng một lúc nhiều mục tiêu trong quá trình điều hành
chính sách, đặc biệt là việc phải tập trung theo đuổi các mục tiêu ngắn hạn như
thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, trong khi khả năng hỗ trợ của chính sách tài khóa
ngày càng yếu đã tạo ra nhiều khó khăn cho NHNN trong việc theo đuổi mục
tiêu quan trọng nhất của CSTT là ổn định giá cả, thể hiện ở mức lạm phát thấp
và ổn định trong trung và dài hạn.
Cuối cùng là những thách thức của quá trình tái cấu trúc: Trong hai năm vừa
qua, mặc dù đã đạt được những kết quả bước đầu trong việc thực hiện chương
trình tái cấu trúc các TCTD giai đoạn 2011 - 2015, song đó mới chỉ là việc giải
quyết những khó khăn trước mắt. Còn những vấn đề cốt lõi của chương trình tái
cấu trúc như giải quyết triệt để nợ xấu, tăng cường năng lực quản trị điều hành
sau tái cơ cấu, thay đổi cấu trúc sở hữu, đặc biệt là khắc phục vấn đề sở hữu
chéo vẫn đang trong thời gian khởi động… chưa thật sự dẫn đến những thay đổi
về

chất.

Bên cạnh đó, khuôn khổ pháp lý cho việc tái cơ cấu các TCTD chưa được

hoàn thiện, đặc biệt là cơ chế mua bán nợ xấu, quy chế điều tiết thống nhất các
hoạt động mua bán, sáp nhập (M&A),..; nguồn lực tài chính công còn hạn chế,
nguồn lực tài chính bên ngoài chưa có cơ chế phù hợp để thu hút; quá trình tái
cơ cấu trong lĩnh vực đầu tư công, doanh nghiệp nhà nước chưa có nhiều khởi
sắc,… sẽ tiếp tục ảnh hưởng đến tiến độ và tính hiệu quả của chương trình tái cơ
cấu hệ thống các TCTD giai đoạn 2011 - 2015.


Những thách thức chính yếu trên đòi hỏi NHNN tiếp tục phải kiên định với
mục tiêu điều hành, phải tăng cường phối hợp chặt chẽ và đồng bộ hơn nữa với
các Bộ, ngành, phải có những chiến lược mạnh mẽ và nỗ lực cao hơn để giải
quyết thành công những thách thức. Trên cơ sở đó, bám sát mục tiêu phát triển
kinh tế - xã hội năm 2014 đã được Quốc hội phê duyệt, với chỉ tiêu tăng trưởng
đạt mức khoảng 5,8%; lạm phát (chỉ số giá tiêu dùng - CPI) ở mức khoảng 7%.
Do vậy, mục tiêu CSTT cần đạt được trong năm 2014 là: tiếp tục theo đuổi mục
tiêu kiểm soát lạm phát không vượt quá mục tiêu Quốc hội phê chuẩn, ổn định
tiền tệ và hệ thống các TCTD, góp phần ổn định kinh tế vĩ mô, hỗ trợ tích cực
cho tăng trưởng kinh tế.
2. Giải pháp
Để đạt được mục tiêu trên, việc điều hành CSTT phải đảm bảo tính linh hoạt,
tiếp tục phát huy tính chủ động cao, định hướng thị trường theo mục tiêu đã đặt
ra. Theo đó, việc điều hành các công cụ CSTT cần được điều hành linh hoạt,
đồng bộ, đảm bảo kiểm soát khối lượng tiền cung ứng theo định hướng tăng
trưởng tín dụng ở mức 12 - 14%; tổng phương tiện thanh toán tăng trưởng
khoảng 16 - 18%; điều hành chủ động các mức lãi suất chỉ đạo của NHNN để
định hướng lãi suất thị trường, đảm bảo tính ổn định, không gây ra những biến
động bất thường, nhằm tiếp tục tạo sự ổn định bền vững trên thị trường tiền tệ,
kiềm chế lạm phát; theo dõi sát diễn biến tỷ giá, thị trường tiền tệ, ngoại hối,

cung cầu ngoại tệ để điều hành tỷ giá phù hợp;
Tiếp tục thực hiện các giải pháp quản lý thị trường vàng, không để những biến
động của thị trường vàng ảnh hưởng đến ổn định vĩ mô; tiếp tục khắc phục tình
trạng đô la hóa nền kinh tế bằng nhiều biện pháp, trong đó cần có sự phối chặt
chẽ giữa điều hành tỷ giá với lãi suất theo hướng khuyến khích giữ VNĐ, hạn
chế dịch chuyển sang USD. Ngoài ra, cần tiếp tục hoàn thiện thể chế, cơ chế
chính sách cho hoạt động tiền tệ tín dụng nhằm tạo điều kiện cho các TCTD tái
cơ cấu và phát triển mạnh mẽ;


Tiếp tục thực hiện có hiệu quả các giải pháp tái cơ cấu các TCTD để tăng
cường tính hiệu quả của cơ chế tác động CSTT và tạo đà phát triển hệ thống các
TCTD trong những năm tiếp theo; Tiếp tục tăng cường năng lực thanh tra, giám
sát, phát hiện và ngăn chặn kịp thời những hành vi kinh doanh thiếu lành mạnh
có thể gây bất ổn định hệ thống; Tăng cường công tác truyền thông, tăng cường
trách nhiệm cần được đẩy mạnh để nâng cao hơn nữa lòng tin của xã hội, tránh
những thông tin sai lệnh làm ảnh hưởng đến hiệu quả điều hành.



×