Tải bản đầy đủ (.docx) (23 trang)

VẬN DỤNG mô HÌNH KIM CƯƠNG của m PORTER PHÂN TÍCH lợi THẾ CẠNH TRANH XUẤT KHẨU của cà PHÊ VIỆT NAM

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (268.22 KB, 23 trang )


VẬN DỤNG MÔ HÌNH KIM CƯƠNG CỦA M. PORTER
PHÂN TÍCH LỢI THẾ CẠNH TRANH XUẤT KHẨU
CỦA CÀ PHÊ VIỆT NAM
Cà phê là mặt hàng nông sản xuất khẩu chủ lực của Việt Nam, mỗi
năm đem về cho nước ta hơn 1 tỷ USD. Trên bình diện Thế giới, Việt
Nam là nước đứng thứ hai về xuất khẩu cà phê và đứng đầu về xuất khẩu
cà phê Robusta. Những năm gần đây, ngành cà phê nước ta đã có nhiều
khởi sắc, nhất là sau khi Việt Nam gia nhập Tổ chức Thương Mại Thế
giới WTO thì sản lượng xuất khẩu đã tăng mạnh. Cà phê Việt Nam đang
phát triển mạnh mẽ và đã có những ảnh hưởng nhất định đến thị trường
cà phê thế giới. Ngành hàng cà phê cũng được Chính Phủ quan tâm đầu
tư về nhiều mặt.
Ý thức được ý nghĩa to lớn của việc phân tích lợi thế cạnh tranh
quốc gia về mặt hàng nông sản xuất khẩu chủ lực này và vị thế quan
trọng của nó trong nền kinh tế Việt Nam, dựa trên công trình nghiên cứu
của nhà khoa học, nhà kinh tế học người Mỹ Michael Porter, trong bài
tiểu luận này, chúng em vận dung mô hình kim cương của M. Porter vào
phân tích lợi thế cạnh tranh xuất khẩu của ngành hàng cà phê của Việt
Nam. Trong quá trình nghiên cứu, do còn nhiều hạn chế về mặt kiến
thức, thời gian cũng như khả năng hạn hẹp trong việc tiếp cận các nguồn
tư liệu, nên bài tiểu luận của chúng em không tránh khỏi những sai sót.
Chúng em mong nhân được những góp ý chân thành từ phía thầy giáo để
giúp chúng em hoàn thiện bài tiểu luận này.
I/ Khái quát chung về lý thuyết về lợi thế cạnh tranh quốc gia
Lý thuyết về lợi thế cạnh tranh quốc gia do Michael Porter đưa ra
vào những năm 1990 trong cuốn sách Lợi thế cạnh tranh quốc gia. Đây
là công trình nghiên cứu của một tập thể các nhà khoa học bắt đầu từ
năm 1986 ở 12 nước như New Zealand, Bồ Đào Nha, Canada, Thụy
Điển, Anh, Thụy Sỹ, Hàn Quốc, Đức, …. Mục đích của lý thuyết này là
2




giải thích tại sao một số quốc gia lại có được vị trí dẫn đầu trong việc sản
xuất một số sản phẩm, hay nói khác đi tại sao lại có những quốc gia có
lợi thế cạnh tranh về một số sản phẩm. Theo lý thuyết này, lợi thế cạnh
tranh quốc gia được thể hiện ở sự liên kết của 4 nhóm yếu tố, mối liên
kết của 4 nhóm này tạo thành mô hình kim cương. Các nhóm yếu tố đó
bao gồm: (1) điều kiện các yếu tố sản xuất, (2) điều kiện về cầu, (3) các
ngành công nghiệp hỗ trợ và có liên quan, (4) chiến lược, cơ cấu và mức
độ cạnh tranh của ngành. Các yếu tố này tác động qua lại lẫn nhau và
hình thành nên khả năng cạnh tranh quốc gia. Ngoài ra, còn có 2 yếu tố
khác là chính sách của Chính phủ và cơ hội. Đây là 2 yếu tố có thể tác
động đến 4 yếu tố cơ bản kể trên.
Khối kim cương của M. Porter
Chính phủ

Chiến lược, cơ cấu và môi trường cạnh tranh ngành

Điều kiện về cầu

Điều kiện các yếu tố sản xuất

Các ngành hỗ trợ và

Cơ hội

có liên quan

Theo Porter thì không một quốc gia nào có thể có khả năng cạnh
tranh ở tất cả các ngành hoặc ở hầu hết các ngành. Các quốc gia chỉ

thành công trên thương trường kinh doanh quốc tế khi họ có lợi thế cạnh
tranh bền vững trong một số ngành nào đó. Ông phê phán các quan điểm
chỉ dựa vào lợi thế tuyệt đối và lợi thế so sánh.
3


Lợi thế cạnh tranh được hiểu là những nguồn lực, lợi thế của ngành,
quốc gia mà nhờ có chúng các doanh nghiệp kinh doanh trên thương
trường quốc tế tạo ra một số ưu thế vượt trội hơn so với các đối thủ cạnh
tranh trực tiếp. Lợi thế cạnh tranh giúp cho nhiều doanh nghiệp có được
“Quyền lực thị trường” để thành công trong kinh doanh và trong cạnh
tranh.
II.
Tổng quan ngành cà phê Việt Nam
Cây cà phê được người Pháp đưa vào Việt Nam lần đầu tiên vào
năm 1870. Ngành cà phê thực sự phát triển từ sau năm 1975, đến nay cả
nước có khoảng 540.000 ha diện tích trồng cà phê. Trong những năm
gần đây, sản lượng cà phê của Việt Nam luôn đạt mức trên 1 triệu tấn/
năm, giá trị tổng sản lượng chiếm khoảng 2% GDP. Ngành cà phê đã có
đóng góp không nhỏ vào tăng trưởng kinh tế của đất nước, đồng thời góp
phần giải quyết việc làm cho khoảng 700.000 lao động. Kim ngạch xuất
khẩu cà phê năm nhiều năm liền đạt trên 1,5 tỷ USD, năm 2010 đạt
1,763 tỷ USD, xếp thứ hai trong số các mặt hàng nông sản xuất khẩu của
Việt Nam (sau gạo).
Xét trên bình diện thế giới, Việt Nam đứng thứ hai sau Braxin về
sản xuất và xuất khẩu cà phê. Hiện nay, cà phê Việt Nam đã có mặt tại
75 quốc gia trên thế giới, thị phần đạt 12% sản lượng thế giới (số liệu
năm 2010, nguồn ICO – International Coffee Organization). Riêng đối
với cà phê Robusta - cà phê vối (thích hợp với khí hậu vùng nhiệt đới),
Việt Nam chiếm tỷ trọng lớn nhất trong tổng lượng cà phê Robusta của

thế giới, đạt khoảng 35% năm 2010. Tuy vậy cà phê Robusta là loại có
chất lượng và giá thành kém hơn so với cà phê Arabica – cà phê chè
(thích hợp với khí hậu mát mẻ, độ cao trên 600m) vốn là thế mạnh của
Braxin.
Sản lượng cà phê (đơn vị: triệu tấn)
20062007200820092010Niên vụ
2007
2008
2009
2010
2011
4


Braxin
Tổng
Việt
sản
Nam
lượng
Thể
giới
Braxin
Việt
Cà phê
Nam
Arabica
Thể
giới
Braxin

Cà phê Việt
Robust Nam
a
Thể
giới

2,80

2,35

3,20

2,69

3,27

1,17

1,08

1,02

1,11

1,12

7,91

7,31


8,00

7,61

8,27

2,16

1,66

2,43

1,98

2,51

0,03

0,024

0,029

0,027

0,035

4,93

4,39


4,97

4,46

5,15

0,64

0,69

0,77

0,71

0,76

1,14

1,06

0,99

1,08

1,09

2,97

2,91


3,03

3,14

3,13

Tổng hợp từ Báo cáo tháng 6/2011của FAS/USDA
Năng suất bình quân cà phê Việt Nam vào loại cao nhất thế giới,
khoảng 1, 7 tấn/ha, thường cao hơn khoảng 0, 7 tấn/ha so với các nước
trồng cà phê trên thế giới.
Tuy là nước xuất khẩu cà phê lớn thứ hai thế giới nhưng giá trị cà
phê mang lại cho người nông dân và xuất khẩu lại không cao do hầu hết
cà phê được xuất khẩu dưới dạng nhân thô, không qua chế biến, có đến
98% cà phê chưa rang xay, phương pháp chế biến còn lạc hậu.
I. Phân tích lợi thế cạnh tranh quốc gia ngành hàng cà phê Việt Nam
dựa trên mô hình kim cương của M.Porter
1 Điều kiện các yếu tố sản xuất
Đầu vào cơ bản:
Việt Nam có lợi thế cạnh tranh xuất khẩu mặt hàng cà phê và trở
thành nước đứng thứ hai thế giới về xuất khẩu cà phê, phần lớn là do
nước ta có điều kiện các yếu tố sản xuất mặt hàng cà phê vô cùng thuận
lợi, trong đó các yếu tố sản xuất cơ bản giữ vai trò tiên quyết tạo ra lợi
5


thế này. Các yếu tố đó bao gồm tài nguyên, khí hậu vị trí địa lí, lao động
giản đơn và nguồn vốn tài chính.
1.1.1. Tài nguyên
Đất trồng cà phê tốt là đất đỏ bazan, ngoài ra cũng có thể trồng
cà phê trên đất đỏ đá vôi, cả trên đất đá hoa cương hay phiến thạch.Đất

trồng cà phê cần tương đối bằng phẳng, tốt nhất là độ dốc dưới 8 độ. Về
tính chất hoá học, cà phê thích nghi với độ chua khá rộng, pH từ 4, 5 đến
6, 5. Hàm lượng chất hữu cơ cao thường giữ cho đất tơi xốp và có khả
năng cung cấp chất dinh dưỡng cao.
Nước ta có hơn 3 triệu hecta đất bazan màu mỡ thích hợp trồng
cây cà phê, riêng ở khu vực Tây Nguyên có hơn 2 triệu hecta, chiếm hơn
60% diện tích đất bazan cả nước. Việt Nam hiện có 536.959 ha đất canh
tác cà phê, trong đó gần 90% diện tích cà phê ở khu vực Tây Nguyên.
1.1.2. Khí hậu
Cà phê vối phát triển rất tốt ở khí hậu nhiệt đới có nhiệt độ trung
bình 22 -26 độ C, lượng mưa 1800 - 2000 mm và phân bố không đều
trong 9 – 10 tháng của năm, độ ẩm không khí gần như bão hoà.
Việt Nam nằm trong khu vực khí hậu nhiệt đới ẩm gió mùa, chủ
yếu phân thành hai mùa mưa, mùa khô rõ rệt. Đặc biệt khu vực Tây
Nguyên với khí hậu nóng ẩm, mưa nhiều tạo điều kiện thuân lợi để cây
cà phê phát triển, đảm bảo đầy đủ nhu cầu nước tưới tiêu. Mùa khô kéo
dài thuận lợi cho việc phơi sấy bảo quản sản phẩm. Nhưng mặt khác,
mùa khô kéo dài cũng gây nên tình trạng thiếu nước tưới.
Cà phê chè thường được trồng ở các vùng có độ cao trên mực
nước biển từ 1300-1800 m và có 1 mùa khô từ 4-5 tháng, lượng mưa
trung bình từ 1500 – 1800 mm, nhiệt độ trung bình từ 22 – 25 độ C. Tuy
nhiên ở các vùng Sơn La, Điện Biên của nước ta, người ta vẫn trồng
được cà phê chè vì cùng này có vị trí vĩ độ rất cao (22 – 23 vĩ độ Bắc).
Điều kiện của địa hình và vĩ độ đã điều chỉnh những điều kiện bất thuận
làm cho cây cà phê chè có thể phát triển.
6


Vị trí địa lí
Việt Nam nằm ở khu vực châu Á- Thái Bình Dương, khu vực

kinh tế sôi động của thế giới. Nước ta nằm trên đường hàng hải và đường
hàng không quốc tế quan trọng với nhiều cảng biển như: cảng Cái Lân
(Quảng Ninh), Hải Phòng, Đà Nẵng, Sài Gòn…và các sân bay quốc tế
Nội Bài, Đà Nẵng, Tân Sơn Nhất. Các tuyến đường bộ, đường sắt xuyên
Á, các đường hàng không nối liền các quốc gia trong khu vực Đông Nam
Á và trên thế giới, tạo điều kiện thuận lợi cho nước ta giao lưu với các
nước xung quanh. Hơn nữa, nước ta còn là cửa ngõ mở lối ra biển thuận
lợi cho các nước: Lào, đông bắc Campuchia, Thái Lan và khu vực tây
nam Trung Quốc. Vị trí địa chính trị thuận lợi tạo cơ hội để hướng đến,
tiếp cận, và cho phép nước ta tận dụng các nguồn lực bên ngoài, tăng
cường buôn bán, hợp tác đầu tư, mở rộng thị trường buôn bán với nước
ngoài.
1.1.4. Nguồn nhân lực
Theo kết quả điều tra mới nhất năm 2009, dân số của Việt Nam
là 85.789.573 người, đứng thứ 3 Đông Nam Á, đứng thứ 13 thế giới.
1.1.3.

N


7


Nhìn vào tháp dân số trên, chúng ta thấy cơ cấu dân số Việt Nam
vẫn là dân số trẻ, tỉ lệ dân số trong độ tuổi lao động chiếm trên 55% dân
số. Mỗi năm, xã hội có thêm khoảng 1, 1 triệu lao động mới. Người dân
nước ta cần cù chịu khó, lại ham học hỏi, tiếp thu nhanh những tiến bộ
khoa học kĩ thuật mới tạo điều kiện thuận lợi để phát triển sản xuất do
đặc điểm quá trình canh tác, chăm sóc và thu hoạch cây cà phê đòi hỏi
rất nhiều công lao động, trung bình 1 ha cà phê cần từ 300- 400 công lao

động, trong đó riêng công thu hái chiếm đến hơn 50%. Dân số đông là
một nguồn lực quan trọng để phát triển kinh tế, cung cấp nguồn lao động
dồi dào, thị trường tiêu thụ rộng lớn.
1.1.5. Nguồn vốn tài chính
Để tạo điều kiện giúp nông dân làm giàu nhờ cây cà phê, chính
phủ nước ta đã tạo nhiều điệu kiện thuận lợi để nông dân có thể tiếp cận
được nguồn vốn vay để trồng trọt, chủ yếu là thông qua kênh Ngân hàng
Nông nghiệp và phát triển Nông thôn (Agribank). Riêng niên vụ 20092010 vừa qua, doanh số cho vay cà phê của Agribank đạt 11.334 tỷ
đồng, trong đó 5.163 tỷ đồng (chiếm 45,6%) dành cho thu mua cà phê;
số còn lại dành cho thu mua để xuất khẩu, trồng và chăm sóc, chế biến cà
phê.
Đầu vào nâng cao
1.1.6. Cơ sở hạ tầng
Các công trình giao thông, truyền thông, thủy lợi, điện… được
nhà nước đầu tư xây dựng. Mạng lưới giao thông vận tải được nâng cấp,
tạo thuận lợi cho công tác chuyên chở sản phẩm từ vùng sản xuất đến nơi
tiêu thụ, cũng như vận chuyển nguyên liệu, phân bón, máy móc đến nơi
canh tác…Hệ thống thủy lợi cũng được xây dựng đáp ứng nhu cầu tưới
tiêu, canh tác của bà con trồng cà phê.Hệ thống thông tin liên lạc, truyền
thông, truyền hình, cung cấp nguồn năng lượng…cũng được chú trọng
phát triển.
1.1.7. Khoa học kĩ thuật
8


Cùng với việc tăng nhanh về diện tích, việc áp dụng các biện
pháp kỹ thuật thâm canh như: chọn giống, bón phân, tưới nước, tạo
tán…đã làm năng suất và sản lượng cà phê tăng mạnh. Đồng thời, công
nghiệp sơ chế cà phê ở Việt Nam đã có nhiều tiến bộ. Nhiều thiết bị mới
chất lượng tốt đã được trang bị trong chế biến. Những năm 1990, năng

suất bình quân 1 ha cà phê kinh doanh chỉ đạt từ 8- 9 tạ nhân, đến năm
1994 năng suất bình quân đạt 18, 5 tạ/ha, hiện nay bình quân đạt 25- 28
tạ/ha; cá biệt ở một số vùng sản xuất đã cho năng suất bình quân đạt 3540 tạ/ha, vườn cà phê một số hộ gia đình đạt trên 50 tạ/ha.
1.1.8. Lao động trình độ cao
Đây là vấn đề rất nan giải đối với việc phát triển cây cà phê của
nước ta, do lao động nước ta phần lớn là trình độ thấp và chưa qua đào
tạo. Tuy vậy chất lượng lao động đang ngày được nâng cao song song
với việc đầu tư công nghệ mới. Yếu tố kinh nghiệm lâu lăm cũng là một
thế mạnh của lao động nước ta.
2 Điều kiện nhu cầu trong nước
Quy mô và mức độ tăng trưởng
Là một trong những nước dẫn đầu thế giới về sản xuất và xuất khẩu
cà phê lại là quốc gia có dân số đông thứ 13 thế giới nhưng lượng tiêu
thụ cà phê trong nước của Việt Nam lại khá khiêm tốn so với các nước
sản xuất cà phê khác.
Theo báo cáo của Tổ chức Cà phê Quốc tế ICO, lượng cà phê tiêu
thụ trên đầu người của Việt Nam năm 2009 chỉ đạt 0,82 kg/người, thấp
hơn rất nhiều so với Braxin (5,64kg/người), hay với các nước nhập khẩu
cà phê như Hoa Kỳ (4,09 kg/người), EU (4,67kg/người).
Lượng cà phê tiêu thụ tại thị trường Việt Nam còn thấp như vậy một
phần là do cà phê vẫn chưa thực sự phổ biến trong đời sống hàng ngày
của mọi người dân Việt, với một cộng đồng lớn dân cư thì trà xanh mới
là thức uống chính hàng ngày.
9


Năm 2010, tiêu thụ cà phê của Việt Nam chỉ chiếm 8,6% tổng sản
lượng, trong khi tiêu thụ nội địa của Braxin đạt khoảng 40% tổng sản
lượng.
Như vậy có thể thấy phần lớn sản lượng cà phê Việt Nam sản xuất

đều dùng cho xuất khẩu, lượng tiêu thụ nội địa chưa tương xứng, chưa
đủ để tạo tính an toàn cho lượng tiêu thụ cà phê Việt Nam trước những
biến động của cầu và giá cà phê thế giới.
Tuy nhiên, lượng tiêu thụ cà phê nội địa của Việt Nam đang đạt tốc
độ tăng trưởng cao, từ mức 4,5% tổng sản lượng 11,57 triệu bao (1 bao =
60 kg) năm 2002 lên mức 8,6% tổng sản lượng 18,5 triệu bao năm 2010.
Đặc biệt, năm 2010 theo báo cáo thị trường tháng 3 của Tổ chức Cà phê
Quốc tế ICO, tiêu thụ cà phê tại Việt Nam đạt tốc độ tăng trưởng nhanh
nhất thế giới với 31% từ 1,208 triệu bao năm 2009. Cũng trong năm này,
tiêu thụ tại Braxin tăng trưởng 4,1% đạt 18,945 triệu bao.
Với tốc độ tăng trưởng này, mục tiêu tiêu thụ nội địa đạt 10-15%
tổng sản lượng trong những năm tới của Vicofa là khả thi và cần thiết
nhằm nâng cao vai trò của thị trường nội địa hướng tới phát triển bền
vững ngành cà phê.
II.2 Thị hiếu tiêu dùng và phân khúc thị trường
Thị trường tiêu thụ cà phê Việt Nam được chia làm hai phân khúc:
cà phê rang xay và cà phê hoà tan.
Theo báo cáo của FAS (USDA), lượng tiêu thụ nội địa cà phê rang
& nguyên hạt của Việt Nam niên vụ 2009-2010 đạt 1080 nghìn bao, còn
lượng tiêu thụ nội địa cà phê hoà tan đạt 120 nghìn bao.
Mặt khác theo nghiên cứu của Học viện Marketing Ứng dụng
I.A.M, tiêu thụ thị trường nội địa Việt Nam đạt khoảng 61 nghìn
tấn/năm, trong đó cà phê hoà tan chiếm 9 nghìn tấn, cà phê rang xay có
nhãn hiệu chiếm 35 nghìn tấn, còn lại là cà phê không tên tuổi và nhãn
hiệu. Thống kê đo lường tại 6 thành phố lớn (chỉ tính sản phẩm có nhãn
hiệu) cho thấy thị phần cà phê hoà tan chiếm 62% về số lượng và 65%
10


về giá trị, so với 38% về số lượng và 35% về giá trị của cà phê rang xay

có nhãn hiệu. Mức tăng trưởng tiêu thụ hàng năm của cà phê hoà tan lớn
hơn cà phê rang xay. Như vậy có thể thấy người tiêu dùng Việt Nam
đang ngày càng hướng nhiều hơn đến cà phê hòa tan, vốn thuận tiện hơn
trong việc thưởng thức, tạo nhu cầu thúc đây sản xuất cà phê hoà tan
phát triển.
Các nhãn hiệu cà phê trên thị trường Việt Nam cũng đang ngày
càng đa dạng hơn, chủng loại sản phẩm được đa dạng hóa để đáp ứng
nhu cầu người tiêu dùng. Bên cạnh các doanh nghiệp nổi tiếng trong
nước như Trung Nguyên, Vinacafe, Nestlé, người tiêu dùng Việt Nam
cũng bắt đầu làm quen với các chuỗi cửa hàng cà phê thương hiệu nước
ngoài như Gloria Jeans, Illy’s.
Xét trên khía cạnh khác, theo kết quả điều tra từ 540 gia đình, 60
người uống cà phê tại quán và 40 quán cà phê tại Hà Nội và thành phố
Hồ Chí Minh do Viện Chính sách và chiến lược phát triển nông nghiệp
nông thôn thực hiện năm 2009, khách hàng ở độ tuổi thanh niên và vị
thành niên có mức tăng tiêu thụ cà phê nhanh nhất, cả về cà phê bột và
cà phê hòa tan. Nhóm thanh niên và trung niên có mức độ tiêu dùng cà
phê cao nhất. Nhóm tuổi già tăng mức tiêu thụ rất ít và chỉ tăng lượng
tiêu thụ cà phê bột. Xét về ngành nghề, những người làm việc nhiều về
trí óc và có kỹ năng chuyên môn, kỹ thuật viên tiêu thụ cà phê nhiều
nhất. Mức tiêu thụ cũng tăng mạnh ở lao động giản đơn. Điều tra ở trên
cho thấy tiềm năng phát triển sản xuất cà phê có chất lượng, mẫu mã phù
hợp với giới trẻ, với lao động có trí óc, bên cạnh đó là các loại cà phê giá
rẻ, phù hợp khẩu vị của nhóm thu nhập thấp, trình độ học vấn thấp.
3 Các ngành hỗ trợ và có liên quan
Phần này chúng em tập trung vào các ngành hỗ trợ và liên quan đối
với các doanh nghiệp xuất khẩu cà phê.
Các ngành hỗ trợ: gieo trồng, thu mua cà phê, cung ứng bao bì, máy
móc đóng gói
11



Đối với mỗi doanh nghiệp xuất khẩu cà phê, các ngành hỗ trợ là
những ngành cung ứng đầu vào cho chuỗi hoạt động sản xuất, kinh
doanh như ngành cơ khí thì chế tạo và lắp ráp máy móc để phục vụ chế
biến và đóng gói, hay ngành lâm nghiệp trồng cây cà phê để tạo đầu vào
chính cho giai đoạn sản xuất sản phẩm cà phê tiêu dùng. Tuy hiện nay,
công nghiệp hỗ trợ ở Việt Nam chưa thực sự phát triển để chiếm lợi thế
cạnh tranh trên trường quốc tế, nhưng có thể nhận thấy rõ xu hướng phát
triển của ngành này đang ngày một củng cố và hoàn thiện hơn.Ví dụ
ngành cơ khí chế tạo trong nước đã có thể sản xuất được một số máy
móc trong dây chuyền sản xuất cà phê như máy rang, sấy, mà trước đây,
toàn bộ máy móc để sản xuất, chế biến cà phê đều phải nhập khẩu. Nilon dùng để sản xuất nhãn mác, bao bì, vỏ hộp cũng đã trở thành nguyên
phụ liệu quan trọng mà Việt Nam có thể cung ứng được.
Các doanh nghiệp thu mua cà phê tươi, hoặc sơ chế đã đóng góp
chủ yếu vào hoạt động xuất khẩu cà phê, gần đây, kể từ khi Việt Nam
hội nhập và mở cửa, sự xuất hiện nhiều doanh nghiệp nước ngoài tham
gia hoạt động thu mua cà phê đã góp phần nâng cao tính cạnh tranh trong
ngành, tạo động lực để các doanh nghiệp trong nước tận dụng lợi thế
riêng và chủ động hơn. Điều đó được chứng tỏ khi ngày nay, các doanh
nghiệp thu mua đang đua nhau đến tận vườn để thu gom và chuyên chở.
Chính điều này tạo điều kiện tốt cho các doanh nghiệp xuất khẩu vì đáp
ứng kịp thời số lượng và chủ động hơn trong giao dịch hàng hóa.
Nói tóm lại, công nghiệp hỗ trợ nói chung trong xuất nhập khẩu
cũng như nói riêng về ngành hàng cà phê đã phần nào giảm bớt sự yếu
kém, bước đầu tạo tiền đề cho sự phát triển tiếp theo trong thời gian tới.
Ngành liên quan: vận tải, kho bãi lưu trữ, phân phối, cải tiến kỹ
thuật…
Có thể nói ngành liên quan đến ngành xuất khẩu cà phê là rất
nhiều, song chỉ nói ở đây những ngành tiêu biểu như:

12


Vận tải là công cụ quan trọng đối với bất kỳ ngành hàng xuất khẩu
nào, vì vận tải tốt, tiết kiệm chi phí sẽ giúp các doanh nghiệp xuất khẩu
kịp thời và chủ động trong điều kiện giao dịch, và hơn nữa là sẽ thu được
khoản lợi nhuận cao hơn do chi phí vận tải và kho bãi tiết kiệm, đảm
bảo. Khâu phân phối cũng như cung ứng cho sản xuất sản phẩm đều phụ
thuộc nhiều vào vận tải. Việt Nam là một nước giáp biển, giao thông
rộng khắp và phong phú, nên việc phát triển ngành vận tải đã giúp cho
các doanh nghiệp xuất khẩu cà phê tiết kiệm được khá nhiều chi phí và
vốn, tạo cơ hội để các doanh nghiệp cạnh tranh và giữ uy tín với đối tác.
Ở Việt Nam, vận tải bộ đang còn là mỗi lo ngại đối với các doanh nghiệp
do hệ thống giao thông còn nhiều bất cập, tuy nhiên vận tải thủy đã và
đang dần khẳng định vị thế của mình so với các nước khác.
Kho bãi lưu trữ đặt xếp hàng cũng khá quan trọng đối với mỗi
doanh nghiệp xuất khẩu cà phê.Tự mỗi doanh nghiệp có thể xây dựng
kho bãi lưu trữ hoặc thuê, tuy nhiên, bằng biện pháp hỗ trợ thuế, ngành
cà phê đã được ưu đãi nhiều trong vấn đề kho bãi lưu hàng.
Ngành công nghệ sinh học cũng là một ngành liên quan, vì những
giống cà phê năng suất vẫn luôn được nghiên cứu và phát triển không
ngừng nhờ có tiến bộ trong nghiên cứu sinh học, bên cạnh đó, những yếu
tố như phân bón, kỹ thuật nuôi trồng cây cà phê, kỹ thuật thu hoạch,…
cũng được nghiên cứu và phát triển liên tục. Ở nhiều địa phương trên cả
nước, các phòng nghiên cứu và phát triển giống cây trồng nông lâm sản
đã được xây dựng và đi vào hoạt động có hiệu quả từ nhiều năm trước
đây. Bằng cách đó, cách doanh nghiệp sản xuất cà phê sẽ thu được phần
lợi nhuận do tiến bộ khoa học kỹ thuật mang lại, và chính cả những
người trồng cà phê cũng thu được nhiều lợi nhuận hơn.
Dự án sản xuất giống cà phê, ca cao giai đoạn 2011-2015 của Viện

Khoa học kỹ thuật nông lâm nghiệp Tây Nguyên với tổng vốn đầu tư
66,2 tỷ đồng đã được Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn phê duyệt.
Theo đó, mỗi năm, các hoạt động từ dự án sẽ cung cấp 20 tấn hạt lai đa
13


dòng cà phê vối, 3 tấn hạt giống cà phê chè chất lượng cao, đồng thời
cung ứng 2 triệu chồi ghép phục vụ nhu cầu tái canh và trồng mới mỗi
năm 20.000-22.000 ha cà phê. Đây là yếu tố tích cực góp phần hỗ trợ
doanh nghiệp trong nước xây dựng vùng nguyên liệu cà phê.
Các ngành liên quan đóng vai trò như một kênh trực tiếp tác động
đến định hướng và mục tiêu sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp xuất
khẩu cà phê. Thông qua các ngành liên quan mà các doanh nghiệp xuất
khẩu cà phê nắm bắt được cơ hội để lựa chọn sản phẩm ưu thế để sản
xuất và có sự tác động trở lại đối với các ngành liên quan.
4 Chiến lược, cơ cấu và môi trường cạnh tranh
Mục tiêu, chiến lược và cách thức tổ chức doanh nghiệp
Khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp, yếu tố nền tảng của khả
năng cạnh tranh quốc gia, chịu sự quyết định của mục tiêu, chiến lược và
cách thức tổ chức doanh nghiệp.
Chiến lược doanh nghiệp là hệ thống các đường lối và biện pháp
phát triển doanh nghiệp, các mục tiêu cần đạt, các nguồn lực phải sử
dụng để đạt được các mục tiêu, dự định trong thời hạn của chiến lược.
Theo M.Porter, “Chiến lược là việc tạo ra một sự hài hoà giữa các hoạt
động của một công ty. Sự thành công của chiến lược chủ yếu dựa vào
việc tiến hành tốt nhiều việc… và kết hợp chúng với nhau… cốt lõi của
chiến lược là lựa chọn cái chưa được làm.”
Sau đây là cái nhìn cụ thể hơn về chiến lược của các doanh nghiệp
sản xuất và kinh doanh cà phê Việt Nam.
Chiến lược đổi mới công nghệ: để nâng cao giá trị cà phê xuất

khẩu, các doanh nghiệp cần cải tiến và đầu tư các thiết bị và công nghệ
chế biến tiên tiến. Trước đây, các doanh nghiệp sản xuất, kinh doanh cà
phê chủ yếu sử dụng công nghệ chế biến nửa ướt, nửa khô hoặc khô
hoàn toàn khiến chất lượng cà phê nhân kém hoặc thất thoát nhiều. Từ
năm 2004 trở lại đây, các doanh nghiệp chú trọng hơn đến công nghệ chế
biến. Theo báo Đắk Lắk, tính đến năm 2011, trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk
14


+

+

đã có trên 30 doanh nghiệp áp dụng công nghệ chế biến ướt đối với cà
phê, với tổng công suất trên 400000 tấn sản phẩm cà phê nhân/năm. Đơn
cử một ví dụ là công ty cà phê Thắng Lợi đã tiên phong trong việc đầu tư
hàng chục tỷ đồng để đưa công nghệ chế biến ướt vào hoạt động, đồng
thời đầu tư đồng bộ hệ thống sân phơi, nhà kho hoàn chỉnh nên đã góp
phần nâng cao chất lượng cà phê xuất khẩu. Sản phẩm cà phê nhân của
Công ty luôn được khách hàng Mitsubishi (Nhật Bản) bao tiêu toàn bộ
với giá cao hơn thị trường trong nhiều năm liên tục. Bên cạnh công nghệ
chế biến cà phê nhân, nhiều doanh nghiệp đã phát triển công nghệ chế
biến cà phê hoà tan, tiêu biểu cho loại sản phẩm này là các nhãn hiệu
Vinacafe, Nescafé, G7…
Chiến lược đa dạng hoá sản phẩm: đa dạng hoá sản phẩm là cần
thiết để đẩy mạnh tiêu thụ trong nước cũng như xuất khẩu sang nước
ngoài.
Các công ty cà phê chú trọng đến việc tạo ra thị trường mới bằng
sản phẩm mới, ví dụ như từ sản phẩm cà phê bột, pha fin thành các sản
phẩm giúp người tiêu dùng tiết kiệm thời gian hơn, đó là cà phê hòa tan,

pha sẵn; ngoài ra còn có các sản phẩm đóng lon tạo ra những dòng thị
trường phù hợp với thị hiếu khi dùng cà phê của khách hàng ở những nơi
khác nhau như uống ở các quán cóc, quán cà phê, uống tại nhà, nhân
viên văn phòng…
Lấy ví dụ cà phê Trung Nguyên, để đáp ứng nhu cần thưởng thức
cà phê của các nhóm khách hàng khác nhau, Trung Nguyên đã tạo ra một
chuỗi sản phẩm đa dạng thể hiện ở 3 dòng sản phẩm riêng biệt là sản
phẩm phổ thông, trung cấp và cao cấp.
Sản phẩm phổ thông: gồm 3 loại Nâu- Sức sống, I-khát vọng, S-Chinh
phục
Sản phẩm trung cấp: gồm các sản phẩm: Passiona, Cà phê Sáng tạo,
Gourmet Blent, House Blent, Cà phê chế phin, Hạt rang xay…
15


+

Sản phẩm cao cấp: gồm Weasel (Cà phê chồn), Diamond Collection,
Legendee, Classic Blend
Chính sự đa dạng hoá này đã khiến sản phẩm cà phê của Trung
Nguyên đến được với mọi phân khúc thị trường, tăng cường sức mạnh
thương hiệu doanh nghiệp, một điều mà không nhiều doanh nghiệp thực
hiện được. Chiến lược đa dạng hoá sản phẩm này cũng thể hiện chiến
lược về giá của doanh nghiệp.
Chiến lược liên kết trong ngành: các doanh nghiệp sản xuất
kinh doanh cà phê cần xây dựng mối liên kết với người trồng cà phê
cũng như giữa các doanh nghiệp với nhau để nâng cao sức cạnh tranh.
Tổng công ty cà phê Việt Nam VINACAFE không chỉ chú trọng khâu
thu mua, chế biến mà còn chú trọng đến sản xuất nông nghiệp, hướng tới
phát triển nông nghiệp bền vững trên diện tích 37000 ha với các loại

giống cà phê cho năng suất cao, trong 5 năm tới tập trung tái canh
khoảng 11000 ha để thay thế các vườn cà phê già cỗi tại các đơn vị trực
thuộc.
Chiến lược quảng cáo, phân phối: khâu quảng cáo, phân phối
sản phẩm là khâu vô cùng quan trọng và cũng được các doanh nghiệp rất
chú trọng. Các công ty cà phê Việt Nam luôn hỗ trợ các đại lý phân phối
sản phẩm của mình về cơ sở vật chất, kỹ thuật, kinh nghiệm phân phối
cũng như đầu tư vào quảng cáo trên các phương tiện thông tin đại chúng.
Tuy nhiên chưa có nhiều doanh nghiệp có được chiến lược quảng cáo,
phân phối thực sự độc đáo. Xét về hướng đi riêng thì phải kể đến việc
phân phối thông qua nhượng quyền thương mại của cà phê Trung
Nguyên. Năm 1998, cà phê Trung Nguyên xuất hiện ở thành phố Hồ Chí
Minh, đến năm 2000 hiện diện tại Hà Nội và lần đầu tiên nhượng quyền
thương hiệu đến Singapore. Đây là công ty Việt Nam đầu tiên áp dụng
mô hình kinh doanh nhượng quyền thương hiệu trong nước và quốc tế.
Hiện nay, Trung Nguyên đã có gần 1000 quán cà phê nhượng quyền trên
16


cả nước và 8 quán ở nước ngoài như Mỹ, Nhật, Singapore, Thái Lan,
Trung Quốc, Campuchia, Ba Lan, Ukraina.
Chiến lược phát triển thương hiệu: các doanh nghiệp cà phê đã
chú trọng phát triển thương hiệu, đưa thương hiệu cà phê Việt Nam đến
với bạn bè quốc tế. Nhưng vấn đề bảo vệ thương hiệu vẫn còn nhiều bất
cập. Gần đây nhất là vụ việc của cà phê Buôn Ma Thuột. Địa danh
“Buon Ma Thuot”, cả tiếng Latin và tiếng Trung, đã bị một doanh nghiệp
ở Quảng Đông (Trung Quốc) đăng ký bảo hộ và được cấp chứng nhận
bảo hộ số có hiệu lực 10 năm kể từ 14/11/2010. Chủ sở hữu này cũng
tiếp tục đăng ký và được bảo hộ logo “Buon Ma Thuot Coffee – 1896”
tại Trung Quốc từ 14/6/2011. Trên thực tế, chỉ dẫn địa lý cà phê Buôn

Ma Thuột đã được Cục Sở hữu trí tuệ cấp chứng nhận cho tỉnh Đắc Lắc,
công nhận bảo hộ quốc gia từ năm 2005. Nhưng từ đó cho đến nay, Đắk
Lắk đã chậm trễ trong việc quản lý, sử dụng và đầu tư phát triển nhãn
hiệu này. Mãi đến tháng 8/2011, Sở Khoa học và Công nghệ Đắc Lắc
mới cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng chỉ dẫn địa lý cà phê Buôn Ma
Thuột cho 8 thành viên của Hiệp hội Cà phê Buôn Ma Thuột. Việc đánh
mất nhãn hiệu như trên có thể gây nhầm lẫn cho người tiêu dùng, gây
ảnh hưởng không nhỏ đến thương hiệu cà phê Buôn Ma Thuột, thậm chí
doanh nghiệp Trung Quốc còn lấy việc bảo hộ nhãn hiệu để ngăn cản
việc cà phê Buôn Ma Thuột của ta xuất khẩu sang Trung Quốc. Việc
khiếu nại nếu thực hiện được cũng sẽ tốn nhiều thời gian, công sức.
Chiến lược xúc tiến thương mại: là rất cần thiết cho xuất khẩu
cà phê Việt Nam, các doanh nghiệp chú trọng tìm kiếm thị trường mới,
tìm hiểu nhu cầu thị trường, những rào cản thị trường để có biện pháp
đối phó với sự hỗ trợ của các trung tâm xúc tiến thương mại.
Về cách thức tổ chức doanh nghiệp, các công ty chú trọng xây
dựng các tổ chức đoàn thể ngày càng vững mạnh, không ngừng nâng cao
đời sống vật chất và tinh thần cho người lao động, đảm bảo có thu nhập
17


ổn định, thực hiện đầy đủ các nghĩa vụ nhà nước giao cho, đảm bảo an
ninh chính trị và góp phần tăng tốc độ phát triển kinh tế trên địa bàn.
Cạnh tranh ngành
Hiện tại, các doanh nghiệp sản xuất, tiêu thụ và xuất khẩu cà phê
của Việt Nam có số lượng không nhỏ, khá đa dạng về sản phẩm, quy mô,
tạo sức ép cạnh tranh trong nước, mang lại lợi ích cho ngành.
Mặt khác, với việc mở cửa thị trường, các doanh nghiệp nước
ngoài với nguồn vốn tài chính hùng hậu đầu tư kinh doanh vào Việt Nam
càng xuất hiện nhiều, sức ép cạnh tranh từ các doanh nghiệp này là rất

lớn đòi hỏi các doanh nghiệp Việt Nam phải liên kết lại với nhau. Theo
xu thế ấy, 20 doanh nghiệp xuất khẩu cà phê chủ lực là thành viên Hiệp
hội Cà phê và Ca cao Việt Nam VICOFA đã liên kết thành lập Câu lạc
bộ các doanh nghiệp xuất khẩu cà phê hàng đầu Việt Nam nhằm liên kết
chặt chẽ hơn trong việc trao đổi kinh nghiệm, phối hợp thống nhất hành
động bảo vệ quyền lợi doanh nghiệp, người trồng cà phê. Những liên kết
như thế này cần phát triển hơn nữa về số lượng và mức độ nhằm nâng
cao thế cạnh tranh của cà phê Việt Nam.
5 Chính phủ:
Theo mô hình kim cương, Chính phủ là yếu tố có thể tác động đến
lợi thế cạnh tranh quốc gia thông qua 4 nhóm nhân tố xác định lợi thế
cạnh tranh đã được bàn đến ở trên. Trong những năm qua, Chính phủ
Việt Nam đã sử dụng vai trò điều hành của mình, có nhiều tác động
nhằm nâng cao khả năng cạnh tranh của cà phê nước ta, có thể kể đến
như sau:
- Định hướng phát triển ngành: Chính phủ và bộ Nông nghiệp và Phát
triển nông thôn đề ra mục tiêu cho từng thời kỳ. Trước thực tiễn cà phê
chè được thị trường thế giới ưa chuộng hơn, mức giá cao hơn nhưng lại
không phổ biến ở Việt Nam, Chính phủ đề ra chiến lược đầu tư mở rộng
trồng cà phê chè, chuyển dịch dần cơ cấu cây cà phê. Tuy nhiên việc
18


thực hiện dự án trồng cà phê chè tại các tỉnh phía Bắc đã không đạt được
kết quả như mong muốn.
- Ban hành và thực hiện các cơ chế chính sách:
Quyết định số 63/2010/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ ban
hành ngày 25/10/2010 về chính sách hỗ trợ giảm tổn thất sau thu hoạch
đối với nông sản, thuỷ sản. Theo quyết định này, các tổ chức gia đình, hộ
cá nhân được Nhà nước hỗ trợ lãi suất cho các khoản vay dài hạn để mua

máy móc, thiết bị sản xuất trong nước nhằm giảm tổn thất sau thu hoạch
như các loại máy làm đất, trồng, chăm sóc, thu hoạch cà phê, máy sấy,
vật liệu cơ bản để làm sân phơi, mức hỗ trợ là 100% lãi suất trong 2 năm
đầu, từ năm thứ 3 là 50% lãi suất. Các khoản vay để mua sắm thiết bị chế
biến ướt cà phê, các thiết bị xử lý nâng cao phẩm cấp cà phê (steam,
đánh bóng ướt…), kho tạm trữ cà phê được áp dụng lãi suất tín dụng đầu
tư phát triển. Có thể thấy các chính sách được nêu ra mang lại lợi ích to
lớn cho nông dân trồng cà phê, tuy nhiên thông tin về chính sách còn
chưa nhanh chóng đến được với bà con, việc chỉ đạo thực hiện, kiểm
soát thực hiện còn chưa được chú ý đúng mức dẫn đến những bất cập,
nhiêu khê trong thủ tục vay vốn tại các ngân hàng, gây khó khăn cho
việc tiếp cận nguồn vốn của nông dân.
- Chính sách hỗ trợ trong những thời kì khó khăn:
+
Trong thời kì 2000-2004, thời kì ngành cà phê thế giới nói chung và
ngành cà phê Việt Nam nói riêng chịu sự khủng hoảng nghiêm trọng về
giá cả, Chính phủ đã có nhiều quyết định quy định về tín dụng hỗ trợ
xuất khẩu, thực hiện tạm trữ cà phê, miễn giảm thuế đối với người trồng,
hỗ trợ lãi suất vay ngân hàng đối với các doanh nghiệp kinh doanh xuất
khẩu cà phê, hỗ trợ tiền cho nhập khẩu giống, khoanh nợ vay ngân hàng
thời hạn 3 năm cho người trồng cà phê, thu mua chế biến và xuất khẩu cà
phê và tiếp tục cho vay mới.
+
Niên vụ 2009-2010, đứng trước tình trạng giá cà phê giảm mạnh, Chính
phủ đã quyết định hỗ trợ mua tạm trữ 200 nghìn tấn cà phê với mức lãi
19


suất 6%/năm, thời gian được hỗ trợ lãi suất tối đa là 6 tháng từ 15/4 đến
15/10, các ngân hàng cân đối vốn vay cho doanh nghiệp, cơ cấu lại thời

hạn nợ cho nông dân. Quyết định này nhằm chặn đà giảm giá và giúp
nông dân không bán tháo hàng khi niên vụ thu hoạch 2010 kết thúc. Tuy
nhiên, theo nhiều ý kiến, thời điểm triển khai hỗ trợ thu mua tạm trữ cà
phê là chậm trễ (khi đó lượng cà phê trong dân hầu như đã cạn kiệt phần lớn trước đó đã rơi vào tay doanh nghiệp nước ngoài), nguồn vốn
vay thu mua tạm trữ cà phê thủ tục còn rườm rà kéo theo việc doanh
nghiệp triển khai chậm.
- Chính phủ cho phép xây dựng trung tâm mua bán cà phê năm 2005,
thành lập sàn giao dịch cà phê điện tử năm 2011, chính là nhằm tạo môi
trường kinh tế cung cấp thông tin, cạnh tranh lành mạnh cho các doanh
nghiệp kinh doanh cà phê, các hộ nông dân trồng cà phê.
Như vậy có thể thấy Chính phủ vẫn thiếu những chính sách đồng bộ
quản lý ngành cà phê, như thiếu các chính sách mua tạm trữ cà phê, phát
triển hệ thống kho tàng bảo quản cà phê khi sản lượng vào mùa tăng cao,
giá giảm; thiếu các chính sách hỗ trợ cho vay mua cà phê theo mùa vụ
cho các doanh nghiệp; đặc biệt là chính sách hỗ trợ các doanh nghiệp
phát triển chế biến cà phê tinh, cà phê hòa tan, các sản phẩm từ cà phê…
Chính phủ cũng cần có 1 chính sách quản lý rủi ro giá cà phê thích hợp
để bảo vệ cho người trông cà phê trước sự cạnh tranh không lành mạnh
giữa các doanh nhiệp tư nhân và nước ngoài, tránh các bẫy đầu cơ.
Chính phủ các nước Brazil, Columbia, Guatemala, Costa Rica, Ấn Độ,
Nicaragua và Tanzania đều có các chính sách để quản lý rủi ro giá cà
phê, hỗ trợ cho nông dân những kiến thức căn bản để phòng hộ trước các
biến động xấu của thị trường.
6 Cơ hội
Vì sản xuất cà phê lấy nguyên liệu từ ngành nông nghiệp, nên yếu tố
thời tiết thường xuyên ảnh hưởng đến sản lượng và giá cả. Năm 2010,
mưa trái mùa khiến cây cà phê ra hoa sớm, sau đó lại là thời kỳ khô hạn
20



kéo dài khiến hạt cà phê bị hư hại. Thời tiết cũng ảnh hưởng tới tiến độ
thu hoạch. Thu hoạch niên vụ 2009/2010 bị ngưng trệ do ảnh hưởng của
cơn bão kinh hoàng Ketsana quét qua Đông Nam Á và tàn phá miền
Trung Việt Nam vào cuối tháng 9 năm 2009. Cơn bão đã trút xuống
những trận mưa dữ dội khiến cho quả xanh bị rụng, sản lượng bị giảm ở
một số vùng. Thời tiết mưa nhiều ảnh hưởng tới chất lượng hạt, khiến
cho hạt đen nhiều hơn, làm giá cà phê giảm.
Những yếu tố tài chính như giá dầu, giá vàng, tỷ giá hối đoái của
đồng USD so với các đồng tiền khác và thị trường toàn cầu cũng tác
động đến tình hình sản xuất và xuất khẩu cà phê của Việt Nam. Thị
trường cà phê thế giới chịu ảnh hưởng trực tiếp bởi các ông Trùm Tài
chính, những ông trùm này cung ứng vốn cho những nhà đầu cơ, một khi
thị trường thế giới biến động mà chủ yếu là biến động về giá vàng – giá
dầu thô – tỷ giá đồng USD so với đồng Euro, đồng Bảng Anh, đồng Yên
Nhật… ngay lập tức các Trùm điều chỉnh suất đầu tư vào lĩnh vực có lợi
nhất, và khi đó thường các nhà đầu cơ nhanh chóng bán ra thu tiền về
làm giá cà phê rớt nhanh.
Ngày 11 – 01 – 2007, Việt Nam chính thức gia nhập Tổ chức
Thương Mại Thế giới WTO, từ đó mở rộng thị trường xuất khẩu cà phê,
nhiều nước biết đến cà phê Việt Nam hơn, đem lại cơ hội làm ăn mới.
Gia nhập WTO, cà phê Việt Nam sẽ có 1 môi trường cạnh tranh hơn, từ
đó tạo động lực cho thúc đẩy sản xuất trong nước cũng như nâng cao
chất lượng cà phê xuất khẩu và đa dạng hóa mặt hàng cà phê được xuất
khẩu. Theo như biểu đồ bên dưới, ta thấy, từ năm 2008, sản lượng cà phê
xuất khẩu của Việt Nam tăng vọt, từ 977 nghìn mét tấn năm 2007 lên
1,489 nghìn mét tấn năm 2008.

21



Tình hình xuất khẩu cà phê của nước ta từ 1991 đến 2009
Nguồn: Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn
Khủng hoảng kinh tế thế giới giai đoạn vừa qua cũng tác động
đáng kể đến thị trường cà phê thế giới nói chung và thị trường cà phê
Việt Nam nói riêng. Khủng hoảng kinh tế khiến cho mọi người tiết kiệm
trong chi tiêu, dẫn đến cầu giảm, cũng như cầu về mặt hàng cà phê giảm
xuống. Theo số liệu thống kê, cả năm 2009, xuất khẩu cà phê sẽ đạt 1,18
triệu tấn, với kim ngạch khoảng 1,73 tỷ USD. So với năm 2008, xuất
khẩu cà phê năm 2009 tăng 11,71% về lượng nhưng giảm 18,03% về giá
trị do tác động của khủng hoảng kinh tế thế giới.
Kết luận
Những phân tích dựa trên mô hình kim cương của M. Porter cho
thấy cà phê Việt Nam đang trở nên cạnh tranh hơn trên thị trường thế
giới khi sản lượng cũng như chất lượng cà phê ngày càng được cải thiện,
kim ngạch xuất khẩu tăng lên nhờ ưu thế về các yếu tố sản xuất, các
ngành công nghiệp hỗ trợ và liên quan, chiến lược, cơ cấu, các chính
sách của chính phủ và các cơ hội. Tuy nhiên, cà phê Việt Nam vẫn chưa
tận dụng được hết những ưu thế nội tại của mình để trở nên cạnh tranh
cao hơn nữa trên thị trường quốc tế: cầu trong nước còn thấp trong khi
22


Việt Nam là một nước đông dân; cà phê xuất khẩu chủ yếu là loại
Robusta (có giá trị thấp) và chủ yếu xuất khẩu dưới dạng thô hoặc mới
qua sơ chế; một số các ngành hỗ trợ và liên quan phát triển còn chậm
chạp và yếu kém; Chính Phủ vẫn còn thiếu các chính sách hợp lý thúc
đẩy ngành sản xuất cà phê hoặc các chính sách đưa ra chậm…

23




×