Tải bản đầy đủ (.doc) (67 trang)

Luận văn Thạc sĩ Nghiên cứu nhân giống cây gấc (momordica cochinchinensis) bằng phương pháp nuôi cấy mô

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (758.03 KB, 67 trang )

®¹i häc th¸i
nguyªn

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC

LÊ THỊ HẢO

NGHIÊN CỨU NHÂN GIỐNG CÂY GẤC (MOMORDICA
COCHINCHINENSIS) BẰNG PHƯƠNG PHÁP NUÔI CẤY MÔ

Chuyên ngành : Công nghệ sinh học
Mã số : 60.42.80

LUẬN VĂN THẠC SĨ CÔNG NGHỆ SINH HỌC

Người hướng dẫn khoa học
PGS. TS. Ngô Xuân Bình

Thái Nguyên


MỤC LỤC

Trang

Trang phụ bìa
Danh môc c¸c ký hiÖu, c¸c ch÷ viÕt t¾t
Danh môc c¸c b¶ng
Danh môc c¸c ®å thÞ
MỞ ĐẦU……………………………………………………………........ 1
CHƢƠNG 1. TỔNG QUAN TÀI LIỆU…………………………….…. 4


1. TỔNG QUAN VỀ CÂY GẤC……………………………………..… 4
1.1. Giới thiệu chung về cây Gấc………………………………………… 4
1.2. Nguồn gốc, phân loại và đặc điểm thực vật học của cây gấc………... 5
1.2.1. Phân bố và gieo trồng……………………………………… 5
1.2.2. Đặc điểm thực vật học ……………………………………… 6
1.2.3. Đặc điểm sinh trưởng, phát triển…………………………… 8
1.2.4. Công dụng của cây Gấc………………………………………9
2. TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU TRÊN THẾ GIỚI VÀ VIỆT NAM
CÂY GẤC…………………………………………………………………10
2.1. Tình hình nghiên cứu về mặt dược lý của cây Gấc………………...… 10
2.2. Tình hình nghiên cứu về nhân giống cây Gấc bằng phương pháp
nuôi cấy mô……………………………………………………………… 13
3. KHÁI QUÁT VỀ NUÔI CẤY MÔ TẾ BÀO THỰC VẬT………… 13
3.1. Khái niệm nuôi cấy mô tế bào thực vật…………...………………… 13
3.2. Sơ lược lịch sử nuôi cấy mô tế bào thực vật…………...…………… 14
3.3. Cơ sở khoa học của phương pháp nuôi cấy mô tế bào thực vật……… 16
3.4. Điều kiện và môi trường nuôi cấy mô tế bào thực vật……………… 17
3.5. Các công đoạn của nuôi cây mô tế bào……………………………… 25
CHƢƠNG 2. NỘI DUNG VÀ PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU…… 28
1. Đối tƣợng, địa điểm và thời gian nghiên cứu……………...…………28
1.1. Đối tượng nghiên cứu…………………………...……………………28
1.2. Thời gian nghiên cứu……………………………...……..…...……... 28
2. Nội dung và phƣơng pháp nghiên cứu………………...……………. 28


2.1. Nội dung nghiên cứu……………………………………...…..…...… 28
2.2. Phương pháp nghiên cứu……………………...…………………….. 28
2.3. Xử lý số liệu………………………………………………………… 35
2.4. Điều kiện thí nghiệm……………………………………..………… 36
2.4.1. Thí nghiệm in vitro……………………………………...… 36

2.4.2. Thí nghiệm thích ứng cây in vitro ngoài điều kiện tự nhiên…36
CHƢƠNG 3. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ THẢO LUẬN………… 37
3.1. Kết quả nghiên cứu ảnh hƣởng của hóa chất và thời gian khử
trùng đến tỉ lệ sống của mẫu Gấc……………………..……………….. 37
3.1.1. Kết quả nghiên cứu ảnh hưởng của H2O2 đến tỷ lệ sống
của mẫu Gấc................................................................................... 37
3.1.2. Kết quả nghiên cứu ảnh hưởng của HgCl2 đến tỷ lệ sống
của mẫu Gấc..……………………………………………………… 38
3.2. Kết quả nghiên cứu ảnh hƣởng của các chất kích thích sinh
trƣởng đến khả năng tái sinh chồi cây Gấc………………………….… 41
3.2.1. Kết quả nghiên cứu ảnh hưởng của Kinetin đến khả năng tái
sinh chồi cây Gấc……..………….………..…………………….… 41
3.2.2. Kết quả nghiên cứu ảnh hưởng của BAP đến khả năng tái
sinh chồi cây Gấc……………………………………….………… 42
3.3. Kết quả nghiên cứu ảnh hƣởng của các chất kích thích sinh
trƣởng đến khả năng nhân nhanh chồi cây Gấc…..…………......…… 43
3.3.1. Kết quả nghiên cứu ảnh hưởng của Kinetin đến hiệu
quả nhân chồi…............................................................................... 44
3.3.2. Kết quả nghiên cứu ảnh hưởng của BAP đến hiệu quả nhân
chồi………………………………………………………………… 45
3.3.3. Kết quả nghiên cứu ảnh hưởng của sự kết hợp giữa BAP và
Kinetin đến hiệu quả nhân chồi……….…..……………………… 47
3.3.4. Kết quả nghiên cứu ảnh hưởng của sự kết hợp giữa BAP và
nước dừa đến hiệu quả nhân chồi…………………………….…… 48
3.3.5. Kết quả nghiên cứu ảnh hưởng của sự kết hợp giữa BAP và
IBA đến hiệu quả nhân chồi…………………………….……….... 49


3.4. Kết quả nghiên cứu ảnh hƣởng của các chất kích thích sinh
trƣởng đến khả năng ra rễ chồi Gấc……………………….………… 51

3.4.1. Kết quả nghiên cứu ảnh hưởng của IBA đến hiệu quả ra rễ… 51
3.4.2. Kết quả nghiên cứu ảnh hưởng của NAA đến hiệu quả ra rễ 53
3.5. Kết quả nghiên cứu ảnh hƣởng của giá thể đến tỷ lệ sống của
cây con trong vƣờn ƣơm…………………….………………………… 54
KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ………………………….…

56

1. KẾT LUẬN……………………………………………….………….. 56
2. KIẾN NGHỊ…………………………………………………………… 56
TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC


DANH MUC CAC BANG TRONG LUÂN VĂN
Bảng
Bảng 3.1.
Bảng 3.2.

Tên cac bang trong luân văn
Ảnh hưởng của nồng độ H2O2 và thời gian khử trùng
đến tỷ lệ sống của mẫu gấc (Sau 15 ngày nuôi cấy))
Ảnh hưởng của nồng độ HgCl2 và thời gian khử trùng
đến tỷ lệ sống của mẫu gấc (Sau 15 ngày nuôi cấy)

Trang
37
38

Bảng 3.3.


So sánh kết quả nghiên cứu khử trùng 2 loại hoá chất
(Oxy già và HgCl2)

40

Bảng 3.4.

Kết quả nghiên cứu ảnh hưởng của kinetin đến khả
năng tái sinh chồi gấc

41

Bảng 3.5.

Kết quả nghiên cứu ảnh hưởng của BAP đến khả năng
tái sinh chồi gấc

42

Bảng 3.6.

Kết quả nghiên cứu ảnh hưởng của nồng độ kinetin đến
hiệu quả nhân chồi.

44

Bảng 3.7.

Kết quả nghiên cứu ảnh hưởng của BAP đến hiệu quả

nhân chồi.

45

Bảng 3.8.

Kết quả nghiên cứu ảnh hưởng sự phối hợp giữa BAP
và kinetin đến hiệu quả nhân chồi gấc.

46

Bảng 3.9.

Kết quả nghiên cứu ảnh hưởng của sự kết hợp giữa
BAP và nước dừa đến hiệu quả nhân chồi gấc.

48

Bảng 3.10.

Kết quả nghiên cứu ảnh hưởng của sự kết hợp giữa
BAP và IBA đến hiệu quả nhân chồi gấc.

50

Bảng 3.11.

Kết quả nghiên cứu ảnh hưởng của IBA đến hiệu quả ra
rễ.


51

Bảng 3.12.

Kết quả nghiên cứu ảnh hưởng của NAA đến hiệu quả
ra rễ

52

Bảng 3.13.

Kết quả nghiên cứu ảnh hưởng của giá thể đến tỷ lệ
sống của cây con trong vườn ươm.

54


DANH MUC CAC HÌNH TRONG LUÂN VĂN
Hình

Tên cac Hình trong luân văn

Trang

Hình 3.1.

Ảnh hưởng của chất khử trùng H2O2 đến tỷ lệ sống
của mẫu gấc

38


Hình 3.2.

Ảnh hưởng của chất khử trùng HgCl2 đến tỷ lệ sống
của mẫu gấc

39

Hình 3.3.

Ảnh hưởng của kinetin đến khả năng tái sinh chồi
cây gấc

41

Hình 3.4.

Ảnh hưởng của BAP đến khả năng tái sinh chồi cây
gấc

42

Hình 3.5.

Ảnh hưởng của kinetin đến hiệu quả nhân chồi cây
gấc

44

Hình 3.6.


Ảnh hưởng của BAP đến hiệu quả nhân chồi cây
gấc

46

Hình 3.7.

Ảnh hưởng của sự kết hợp giữa BAP và Kinetin đến
hiệu quả nhân chồi cây gấc

47

Hình 3.8.

Ảnh hưởng của sự kết hợp giữa BAP và nước dừa
đến hiệu quả nhân chồi cây gấc

49

Hình 3.9.

Ảnh hưởng của sự kết hợp giữa BAP và IBA đến
hiệu quả nhân chồi cây gấc

50

Hình 3.10.

Ảnh hưởng của IBA đến hiệu quả ra rễ cây gấc


52

Hình 3.11.

Ảnh hưởng của NAA đến hiệu quả ra rễ cây gấc

53

Hình 3.12.

Ảnh hưởng của giá thể đến tỷ lệ sống của cây con
trong vườn ươm

55


NHƯNG CHƯ VIÊT TĂT
BAP

6-benzylaminopurine

CT

Công thức

ĐTST

Điều tiết sinh trưởng


Kinetin

furfurylaminopurine

MS

Murashinge and Skoog, 1962

NAA

Naphlene acetic acid

TN

Thí nghiệm

IBA

Indole – 3 – butyric acid


MỞ ĐẦU
Gấc có tên khoa học là Momordica cochinchinensis thuộc bộ Vioales,
họ bầu bí (Cucurbitaceae) [8]. Trong gấc có chứa lycopen và β-caroten với
hàm lượng cao gấp nhiều lần các thực phẩm đang được sử dụng phổ biến trên
thế giới. Quả gấc và hạt gấc chứa nhiều hợp chất có hoạt tính sinh học có giá
trị, đặc biệt hạt gấc được dùng trong nhiều bài thuốc dân tộc để chữa bệnh [5,
6, 8]. Ngoài ra, các nghiên cứu gần đây còn cho thấy dầu gấc có khả năng
sửa chữa sai lệch DNA do bị chiếu tia tử ngoại [9], có tác dụng chống phóng
xạ đó là những cơ sở để sử dụng dầu gấc trong việc điều trị bệnh ung thư [5].

Về mặt dinh dưỡng, tác giả Vương Thuý Lệ đã chứng minh rằng, gấc
có hàm lượng β-carotene cao nhất trong các loại trái cây với hàm lượng
35,5mg/100g thịt trái [20]. Hàm lượng lycopene trong gấc cao gấp 76 lần
khoai tây [18]. Vương Thuý Lệ và cs (2002) đã khảo sát thực nghiệm tác
dụng của β-carotene trong gấc đến trẻ em (ở miền Bắc Việt Nam) cho thấy,
lượng hồng cầu, β-carotene, vitamin A trong máu của nhóm ăn xôi gấc tăng
lên rõ rệt so với hai nhóm ăn dầu gấc và β-carotene tổng hợp [19]. Aoki và cs
(2002) nghiên cứu những chất màu có trong gấc. Gấc chứa β-carotene,
lycopene, zeaxanthin, β-cryptoxanthin. Trong đó hàm lượng lycopene đạt
380µg/g thịt trái [14]. Ishida và cs (2004) nghiên cứu thành phần acid béo và
carotenoid trong gấc cho thấy, thịt gấc chứa 22% acid béo gồm có 32% oleic
acid, 29% palmitic acid và 28% linoleic acid [18].
Về mặt dược học, đã có nhiều nghiên cứu về khả năng khắc phục hậu
quả chất độc màu da cam và phòng chữa ung thư gan của β-carotene có trong
gấc. Thơi gian gân đây , quả gấc đã bắt đầu được tiếp thị ở khu vực châu
Á với nhiêu dang san phâm như

nước ép, dầu gấc... Tư năm 2002, ở Việt

Nam san phâm dâ u Gâc (VINAGA) đươc ban nhiêu trên thi trương trong va
ngoài nước . Nhu câu ngay c àng tăng của sản phẩm quả g ấc làm nguyên liệu


chê biên ơ mưc công nghiêp đa hinh thanh cac vung san xuât nguyên liêu tai
nhiêu tinh khu vực phía Bắc và phía Nam của Việt Nam .
Ở Việt Nam cây gấc được trồng rải rác khắp nơi, tập trung nhiều nhất
là các vùng phía Bắc. Gấc có thể trồng bằng hạt hay giâm cành nhưng cho hệ
số nhân giống không cao [8]. Mặt khác, gấc là lo ại cây đơn tính khác gốc,
cây moc tư hat se phân hoa thanh cây đưc va cây cai ri


êng biêt . Viêc trông

cây gấc bằng phương pháp gieo hạt truyền thống làm giảm hiệu quả sản xuất ,
tôn kem vê công sưc va chi ph í do không thê phân biêt đươc đăc điêm giơi
tính của cây ở giai đoạn đầu trước khi cây ra hoa . Vì vậy, để phát triển vùng
nguyên liêu san xuât gấc, cân thiêt phai tiên hanh cac ky thuât nhân giông vô
tính từ cây cái có năng suất và chất lượng ổn định . Phương pháp này đã và
đang chứng tỏ là một phương pháp có ý nghĩa quan trọng cho công tác giống
cây trồng, mang lại hiệu quả kinh tế cao.
Xuất phát từ tính cấp thiết của đề tài, chúng tôi tiến hành: “Nghiên
cứu nhân giống cây gấc (Momordica cochinchinensis) bằng phương pháp
nuôi cấy mô”
Mục đích nghiên cứu và nội dung nghiên cứu
1. Mục đích nghiên cứu
Xây dựng thành công quy trình nhân giống gấc có năng suất cao bằng
phương pháp nuôi cấy mô. Nhờ đó, người ta có thể nhân lên hàng vạn cây cái
và giữ nguyên tính trạng di truyền của cây mẹ. Đồng thời, các nghiên cứu về
nuôi cấy mô sẽ đặt cơ sở cho các nghiên cứu chọn giống gấc có ưu thế lai
cao.
2. Nội dung nghiên cứu
− Nghiên cứu ảnh hưởng của thời gian khử trùng và hoá chất khử trùng
đến tỉ lệ sống của mẫu gấc;


− Nghiên cứu ảnh hưởng của một số chất điều tiết sinh trưởng đến khả
năng tái sinh chồi gấc;
− Nghiên cứu ảnh hưởng của một số chất điều tiết sinh trưởng đến khả
năng nhân nhanh của chồi gấc;
− Nghiên cứu ảnh hưởng của một số chất điều tiết sinh trưởng đến khả
năng ra rễ của chồi gấc;

− Xác định giá thể phù hợp cho sinh trưởng phát triển của cây in vitro
ngoài vườn ươm.
Ý nghĩa của đề tài:
- Ý nghĩa khoa học
− Kết quả nghiên cứu đưa ra một số kỹ thuật vi nhân giống cây gấc bằng
phương pháp in vitro. Từ đó, đánh giá được tác động của một số chất
điều tiết sinh trưởng trong nhân giống cây gấc.
− Bổ sung nguồn tài liệu tham khảo phục vụ nghiên cứu, giảng dạy và
sản xuất giống gấc thương phẩm có năng suất cao.
- Ý nghĩa thực tiễn
Kết quả nghiên cứu góp phần hoàn thiện kỹ thuật nhân giống cây gấc
nhằm cung cấp giống gấc với số lượng lớn, chất lượng đảm bảo, đồng thời
giữ được đặc tính di truyền của cây chọn lọc.


CHƢƠNG 1
TỔNG QUAN TÀI LIỆU
1. TỔNG QUAN VỀ CÂY GẤC
1.1. Giới thiệu chung về cây gấc
Gấc là loài cây thân thảo, dây leo thuộc chi mướp đắng, hoa sắc vàng,
quả hình bầu dục, đáy nhọn, ngoài có nhiều gai, sắc xanh, khi chín chuyển
sang màu đỏ cam. Thịt gấc màu đỏ cam, hạt gấc màu nâu thẫm, hình dẹp, có
khía [2]. Ở miền Nam gấc có quanh năm, miền Bắc gấc thường chín vào mùa
đông. Các nghiên cứu khoa học cho thấy trong quả gấc chứa nhiều vitamin,
đặc biệt là rất giàu β-carotene, lycopene là các vi chất thiên nhiên rất cần
thiết cho cơ thể con người. Lycopene và β-carotene được chứng minh là chất
chống oxy hóa, có khả năng trung hòa các gốc tự do, chống lại sự già nua của
tế bào cơ thể, giúp trẻ hóa làn da, sửa chữa những tổn thương trong cấu trúc
cơ thể, giúp ngăn ngừa bệnh ung thư và các bệnh gan, mật. Lycopene là
carotenoid duy nhất có khả năng ngăn ngừa được chứng nhồi máu cơ tim,

bảo vệ gen khỏi bị tổn thương và có khả năng hạn chế những biến chứng của
bệnh tiểu đường [9].
Các nhà nghiên cứu cũng thừa nhận gấc là loại quả sạch, an toàn và có
hiệu quả chống oxy hóa cao hơn cà chua và cà rốt nhiều lần, tăng khả năng
miễn dịch và sức đề kháng cho cơ thể, loại bỏ phần nào tác hại của môi
trường như tia xạ, thuốc trừ sâu... giúp cơ thể khỏe mạnh, da dẻ mịn màng.
Phần ăn được của gấc chứa lượng β-carotene (chiếm gần 1/2 tổng carotenoid
có trong dầu gấc) cao gấp hai lần so với dầu gan cá thu và khoảng 10 lần so
với cà rốt [11]. Đó là nguồn β-carotene thiên nhiên thuần túy nên có tác dụng
chống lão hóa mạnh nhất, đồng thời bổ sung nguồn vitamin A hợp lý và an
toàn. Khi vào cơ thể, β-carotene dưới tác dụng của men carotenase có trong


gan và thành ruột sẽ chuyển hóa thành vitamin A, vì vậy khi sử dụng gấc sẽ
không có hiện tượng thừa vitamin A. Thành phần carotenoid có trong gấc
phụ thuộc rất nhiều vào giống, đất trồng... với hàm lượng dao động 3.7687.516µg/g. Trong quả gấc thì màng hạt là bộ phận có hàm lượng acid béo
cao, bao gồm các acid béo không no là các thành phần được gọi là những
chất béo có lợi vì có tác dụng tốt trên hệ tim mạch thông qua việc giảm huyết
áp, cải thiện cấu trúc mạch vành và giúp giảm nguy cơ mắc các bệnh lý
tim mạch [11].
1.2. Nguồn gốc, phân loại và đặc điểm thực vật học của cây gấc
1.2.1. Phân bố và gieo trồng
Cây gấc được trồng rải rác ở khắp nước ta, ngoài ra còn thấy ở Lào,
Campuchia, các nước phía Nam và Đông Nam Á như Ấn Độ, Thái Lan, nam
Trung Quốc, Nhật Bản [8].
Cây gấc là một loại dây leo, mỗi năm lụi một lần, nhưng lại đâm chồi
từ gốc cũ lên vào mùa xuân năm sau, hoặc thường được gieo trồng vào tháng
2, 3. Đây là loại cây ưa khí hậu ấm áp, độ ẩm không khí cao 60 - 70% và độ
ẩm đất 70 - 80%, nhưng kém chịu rét, chịu được hạn nhưng không chịu được
úng ngập nước. Nhiệt độ thích hợp cho sinh trưởng và phát triển trong

0

0

khoảng 25 C - 35 C. Cây gấc không kén đất, đất sỏi đá, đất pha đều trồng
được, tốt nhất là đất thịt nhẹ, đất phù sa bồi có đủ ẩm và thoát nước tốt, pH
thích hợp trong khoảng 5,6 đến 7. Đặc biệt, cây gấc rất thích hợp với đất giàu
lân do đó trên đất nghèo lân cần phải bón phân lân sẽ giúp cho gấc có nhiều
quả. Lá mọc so le, chia thuỳ khía sâu tới 1/2 phiến lá. Hoa đực, hoa cái riêng
biệt, cánh hoa màu vàng nhạt. Mùa hoa tháng 4, tháng 5. Quả hình bầu dục
dài độ 15 - 20cm, đáy nhọn, ngoài có nhiều gai, khi chín màu vàng đỏ đẹp
tươi. Mùa quả tháng 6 đến tháng 2 năm sau. Gấc nếp thì quả có gai thưa hơn
gấc tẻ. Trong quả có nhiều hạt xếp thành những hàng dọc, quanh hạt có màng


màu đỏ máu, tươi. Bóc lớp màng đỏ sẽ thấy hạt hình gần giống con ba ba
nhỏ, ngoài có lớp vỏ cứng, mép có răng cưa. Trồng một năm có thể thu hoạch
hàng chục năm. Ngay năm đầu đã có quả nhưng ít, càng về sau càng nhiều
quả [8].
1.2.2. Đặc điểm thực vật học
Cây gấc có tên khoa học là Momordica Cochinchinensis (Lour.)
Spreng thuộc:
Giới: Plantae
Ngành: Magnoliophyta
Lớp: Magnoliosida
Bộ: Cucubitales
Họ: Bầu bí Cucurbitaceae
Chi: Momordica
Loài: M. cochinchinensis [2].
Cây gấc thuộc họ bầu bí, là cây dây leo, đa niên, đơn tính khác gốc, có

cây mang hoa đực, cây mang hoa cái. Đây là cây sống nhiều năm, mỗi năm
lụi một lần nhưng lại đâm chồi từ gốc cũ lên vào mùa xuân năm sau, leo cao
nhờ có tua cuốn mọc từ nách lá. Mỗi gốc có nhiều dây, mỗi dây có nhiều đốt,
mỗi đốt có lá. Lá gấc mọc so le có màu xanh lục đậm, đường kính của phiến
lá 12 đến 20 cm, phía đáy hình trái tim, mặt trên phiến lá sờ ram ráp. Nơi tiếp
giáp cuốn và phiến lá có hai tuyến to gần bằng hạt ngô nổi như hai mắt cua.
Hoa nở vào tháng 4 đến tháng 5. Hoa đực cái riêng biệt, hoa đực có lá
bắc to bao lại như hình tổ sâu, khi nở hoa loe ra hình phễu, màu trắng vàng
mặt trong tràng hoa có lông, 5 nhị. Hoa cái có lá bắc nhỏ, bầu hình thoi rõ từ
khi nụ còn non, có gai nhỏ, cánh hoa ở đầu bầu, phát triển thành quả từ tháng
6.


Quả to hình bầu dục dài từ 15 - 20cm, đuôi nhọn có nhiều gai mềm đỏ
đẹp. Quả non màu xanh, quả chín màu đỏ tươi. Bổ đôi theo chiều ngang thấy
có 6 hàng hạt xếp đều nhau, mỗi hàng có từ 6 đến 10 hạt. Quanh hạt có nhiều
màng màu đỏ tươi. Người ta còn dựa vào độ sai của quả (nhiều hay ít), kích
thước của quả (to hay nhỏ), gai quả (dày hay thưa), màu sắc của ruột quả (đỏ
hay vàng gạch), dầu (ít hay nhiều), số lượng hạt (nhiều hay ít) để phân loại:
gấc tẻ, gấc nếp, gấc đá, gấc chôm chôm hay gấc lai.
Có hai loại được trồng chủ yếu là:
Gấc nếp: Trái to, nhiều hạt, gai to, ít gai, khi chín chuyển sang màu
đỏ cam rất đẹp. Bổ trái ra bên trong cuồi (cơm) vàng tươi, màng đỏ bao bọc
hạt có màu đỏ tươi rất đậm và dày thớ.
Gấc tẻ: Trái nhỏ hoặc trung bình vỏ dày tương đối có ít hạt, gai nhọn,
trái chín bổ ra bên trong cơm có màu vàng nhạt và màng đỏ bao bọc hạt
thường có màu đỏ nhạt hoặc màu hồng không được đỏ tươi như gấc nếp, nên
chọn giống gấc nếp để có trái to nhiều thịt bao quanh và chất lượng cũng tốt
hơn.
Hạt gấc có màng đỏ bao quanh lớp vỏ cứng đen, quanh mép có răng

cưa tù và rộng, hạt dày 25 - 35mm, rộng 19 - 31mm trông gần giống con ba
ba nhỏ bằng gỗ do đó gấc còn có tên gọi là mộc miết tử (mộc là gỗ, miết là
con ba ba) trong hạt có nhân chứa dầu.
Quả bắt đầu thu hoạch vào tháng 9, rộ vào tháng 11 đến tháng 12 và tới
cuối tháng 1 vẫn còn gấc xanh trên cây. Mỗi cây cho trung bình 30 đến 60
quả mỗi năm, kích thước và khối lượng mỗi quả cũng có thể thay đổi tùy
thuộc vào từng giống, trọng lượng mỗi quả có thể từ 0,5 đến 3,0kg. Quả gấc
bổ đôi có các thành phần sau:
Lớp vỏ cứng có gai bọc phía ngoài có màu xanh, khi chín có màu vàng
đỏ.


- Lớp thịt màu vàng dày, mềm.
- Lớp trong cùng là hạt và màng đỏ bao ngoài hạt gấc xếp thành 6
hàng, mỗi hàng có từ 6 - 10 hạt [17].
1.2.3. Đặc điểm sinh trƣởng, phát triển
- Ánh sáng: Cây gấc là cây ưa ánh sáng ngắn ngày, ưa khí hậu ấm áp
và độ ẩm không khí cao, chịu hạn và chịu rét kém. Cây sinh trưởng tốt trong
điều kiện cường độ chiếu sáng mạnh nhưng quả phát triển tốt trong điều kiện
chiếu sáng giảm. Giai đoạn quả đang lớn nếu gặp ánh sáng chiếu trực tiếp
quả rất dễ bị rám, thối hoặc sớm rụng. Chính vì vậy trồng gấc tốt nhất nên
làm giàn để nâng cao chất lượng cũng như phẩm chất quả.
0

Nhiệt độ: Nhiệt độ trung bình cho gấc phát triển là từ 25 - 27 C, hạt
0

0

gấc có thể nảy mầm ở nhiệt độ 13 - 15 C, nhưng tốt nhất ở 25 C.

Đất đai: Gấc không chịu được úng ngập, đọng nước, vì vậy khi trồng
tốt nhất nên làm vồng, ụ hay trồng ở nơi có khả năng tiêu thoát nước tốt. Cây
gấc cần nước nhiều nhất ở giai đoạn ra hoa và phát triển trái. Thiếu nước
trong giai đoạn này sẽ làm hoa rụng, trái phát triển kém, năng suất thấp. Giai
đoạn từ khi mới trồng đến trước khi ra hoa yêu cầu độ ẩm đất đạt 65 - 70%,
độ pH 5,6 - 7,0.
Cao độ: Gấc có thể phân bố ở độ cao từ 0 - 1500m so với mặt nước
biển. Để gấc cho nhiều quả nhất thiết phải làm giàn, càng có điều kiện vươn
xa ánh sáng mặt trời thì gấc càng cho nhiều quả.
Kĩ thuật trồng và thu hoạch: Gấc là loại cây dễ trồng có thể trồng bằng
hạt hay giâm cành vào các tháng 2 - 3. Tuy nhiên, trồng bằng hạt tỷ lệ cây
đực cao hơn cây cái, do đó nên trồng bằng dây. Khi trồng nên kết hợp cả hai
loại để có tỷ lệ hoa đực, hoa cái phù hợp nâng cao tỷ lệ thụ phấn sẽ sai quả.
Trồng 1 năm thu hoạch nhiều năm, mùa thu hoạch quả tháng 8 - 9 đến


tháng 1 - 3 năm sau. Sau đó, cây lụi đi sang xuân lại nẩy chồi mọc cây mới
[17].
1.2.4. Công dụng của cây gấc
Quả chín hái về đem bổ, vét hạt với cả màng đỏ. Nếu để nấu xôi thì
dùng tươi trộn với gạo (có thể thêm ít rượu). Nếu để chế dầu gấc thì phải sấy
hay phơi khô tới khi không còn dính tay, bóc lấy màng đỏ tươi rồi lại phơi
0

o

hay sấy khô ở nhiệt độ thấp (60 C - 70 C). Tán nhỏ màng rồi áp dụng một
trong hai phương pháp sau [8]:
1. Chiết bằng dung môi: Lấy kiệt bằng ete dầu hoả. Sau đó, thu hồi ete
bằng đun cách thủy trong khí Nitơ hay khí carbonic. Cặn còn lại là dầu gấc.

Để lâu dầu này sẽ để lắng một lớp tinh thể caroten thô ở dưới, bên trên là lớp
dầu no caroten. Tỷ lệ dầu trong màng đỏ là 8%. Trung bình 100kg quả gấc
cho độ 1,9 lít dầu gấc.
2. Ép dầu : màng đỏ đã sấy khô, tán nhỏ, đem đồ lên rồi ép lấy dầu. Để
0

lâu cũng sẽ phân làm 2 lớp như trên. Dùng cồn 95 loại acid tự do trong dầu
theo 2 phương pháp trên thì được dầu chế trung tính.
Thành phần hoá học:
Dầu gấc: Dầu sánh, trong, màu đỏ tím đậm, mùi thơm vị ngọt, vị béo,
không khé cổ. Tỉ lệ caroten trên 0,15%. Nếu có cặn phải là cặn caroten tinh
thể. Dược điển Việt Nam (1997) quy định dầu phải chứa ít nhất 0,1% βcaroten, 1ml dầu gấc có 30mg caroten tương ứng với 50.000 đơn vị quốc tế
vitamin A.
Hạt gấc: Khô, già, vỏ ngoài cứng đen, chắc, nặng, mép có răng cưa tù
và rộng, trong có nhân trắng ngà, có dầu, không bị thối đen. Nguyên hạt,
không vỡ nát, không thối nhân, không lẫn tạp chất là tốt. Trong nhân hạt gấc
có: 6% nước, 2,9% chất vô cơ, 55,3% chất béo, 16,6% chất protid, 2,9%
đường toàn bộ, 1,8% tanin, 2,8% cellulose và 11,7% chất không xác định


được. Ngoài ra, còn có các men phosphatase, invectase và peroxydase.
Công dụng:
1. Màng gấc: Nhân dân ta dùng đồ xôi, ăn cả xôi và màng gấc.
2. Dầu gấc: Dầu gấc có tác dụng như những thuốc có vitamin A, dùng bôi lên
các vết thương, vết loét, vết bỏng làm cho da chóng lành. Uống dầu gấc,
người bệnh chóng lên cân, tăng sức chống đỡ bệnh tật của cơ thể, do chất
caroten dưới tác dụng của men carotenase có nhiều trong gan sẽ tách βcaroten thành hai phần tử vitamin A. Dùng cho trẻ em chậm lớn, trong bệnh
khô mắt, quáng gà.
3. Hạt gấc: Trong lịch sử các nhà đông y đã sử dụng hạt gấc để trị bệnh, uống
hoặc ngâm trong cồn hoặc thuốc để xoa bóp. Hạt gấc vị đắng, hơi ngọt, tính

ấm, có độc, dùng chữa các chứng bệnh mụn nhọt độc, tràng nhạt, eczema,
viêm da thần kinh, trĩ, phụ nữ sưng vú. Có thể chế thuốc viên hay tán bột
uống. Liều uống từ 0,8 - 1,2g. Nhưng thường dùng đắp ngoài da đồ mụn
nhọt. Nhân dân ta còn dùng để đắp chữa chai bàn chân.
4. Rễ gấc: Sao vàng, tán mỏng, dùng uống chữa tê thấp sưng chân gọi là
Phòng kỷ nam [13].
5. Lá gấc: Viện Đông y dùng lá gấc với tầm gửi đắp ngoài ra làm thuốc tiêu
sưng tấy [8].
2. TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU TRÊN THẾ GIỚI VÀ VIỆT NAM VỀ
CÂY GẤC
2.1. Tình hình nghiên cứu về mặt dƣợc lý của cây gấc
Thực tế nghiên cứu khoa học cho thấy, công dụng của gấc với sức
khỏe con người còn hơn thế rất nhiều. Trong trái gấc, dầu gấc là phương
thuốc kỳ diệu. Dầu gấc sánh, trong, màu đỏ tím đậm, mùi thơm vị ngọt, béo.
Dầu gấc có chức năng phòng chống thiếu vitamin, tăng khả năng miễn


dịch, tăng sức đề kháng của cơ thể, chống oxy hoá, chống lão hóa tế bào,
phòng chữa bệnh tật, loại bỏ các tác động có hại của môi trường như hóa chất
độc, tia xạ... giúp cơ thể phát triển khoẻ mạnh, nhất là đối với phụ nữ và trẻ
em [11].
Các nhà khoa học Mỹ sau gần chục năm nghiên cứu cây gấc và sản
phẩm từ gấc đã thừa nhận: Gấc là một loại quả sạch nhất, an toàn nhất và có
hiệu quả chống ôxy hóa cao hơn cà chua và cà rốt rất nhiều lần.
Các hãng dược phẩm lớn của Mỹ gọi trái gấc là fruit from heaven (loại
quả đến từ thiên đường). Một số nghiên cứu của Mỹ được công bố gần đây
cho thấy các hợp chất của β-Caroten, Lycopen, Alphatocopherol,…có trong
dầu gấc có tác dụng làm vô hiệu hóa 75% các chất gây ung thư nói chung,
nhất là ung thư vú ở phụ nữ [15].
Gấc là loại thực phẩm đã được sử dụng lâu đời ở nước ta, nhưng việc

nghiên cứu cây này thì mới chỉ được nghiên cứu trong những năm gần đây.
Tại Việt Nam, Đại học Bách Khoa Hà Nội và Viện Dinh Dưỡng Việt Nam
cũng từng có đề tài nghiên cứu về bột gấc. Nghiên cứu, cho thấy khi dùng bột
gấc cho gà ăn thì thấy toàn bộ số gà được ăn bột gấc không bị chết dịch và
cho chất lượng lòng đỏ trứng rất tốt. Lô gà không được ăn bột gấc để đối
chứng thì bị mắc bệnh rất nhiều… Điều đó chứng tỏ gà được ăn thức ăn có
bột gấc sẽ có sức đề kháng cao, không bị nhiễm dịch bệnh và chất lượng thịt
và trứng cao hơn.
Ở Việt Nam, Từ những năm 1941, Bùi Đình Sang và cs đã dùng dầu
gấc để chế tạo son môi cho các “bà đầm” người Pháp, sau đó cả phụ nữ
Tràng An dùng thì thấy môi đỏ thắm, rất “nhuận”, ướt và má hồng tươi …[8]
Dầu gấc còn có thể được chế tạo làm kem dưỡng da rất tuyệt vời. Vì
vậy, các hãng mỹ phẩm có thể dùng dầu gấc để sản xuất son môi, kem
dưỡng


da…vừa có tác dụng làm đẹp, vừa có tác dụng nâng cao sức khỏe cho phụ nữ.
Từ năm 1941, Bộ môn dược liệu Đại học Dược Hà Nội đã bước đầu
xác định màng đỏ bao quanh hạt gấc có chứa beta-caroten và một tỷ lệ dầu
thảo mộc cao. Một số nhà khoa học Đại học y Hà Nội và Đại học Dược Hà
Nội thời đó đã chứng minh dầu màng đỏ bao quanh hạt gấc có tác dụng giống
như vitamin A và có tác dụng tăng trọng cho súc vật và người[8].
Năm 1951, Nguyễn Văn Đàn và cs đã mang dược liệu này sang nghiên
cứu ở Đức và xác định ngoài β-caroten thì phần này của quả gấc còn chứa
lycopen là một chất chống lão hóa mạnh nhất hiện nay. Ngành dược Việt
Nam đã sản xuất một số chế phẩm có chứa dầu màng gấc làm thuốc bổ, điều
trị suy dinh dưỡng cho trẻ em và một số bệnh về mắt, đặc biệt, trong khoảng
thời gian 20 - 30 năm gần đây, các bác sĩ đã sử dụng dầu màng gấc để phòng
và điều trị một số bệnh ung thư ở Việt Nam [8].
Như vậy, việc phát triển trồng rộng rãi cây gấc để cung cấp các sản

phẩm có chứa β-caroten, vitamin E và vitamin F phục vụ nhu cầu phòng
bệnh và chữa bệnh cho nhân dân ta là một hướng cần được khuyến khích và
đầu tư. Các thuốc này không những sẽ góp phần hạn chế nhập khẩu các thuốc
chống suy dinh dưỡng, phòng chống lão hóa mà còn có khả năng xuất khẩu
sang các nước khác, vì cây gấc là một loại thực vật độc đáo ở nước ta.
Năm 2001, Nguyễn Công Suất và cs là người đầu tiên chiết xuất dầu
gấc trên dây chuyền công nghệ hiện đại để biến gấc thành “cây hàng hóa”.
Ông là người khởi xướng việc sản xuất viên nang dầu gấc với thương hiệu
VINAGA, được thị trường Mỹ và trong nước tin dùng. Viên nang dầu gấc
VINAGA đã có mặt trên thị trường quốc tế và các hiệu thuốc trên toàn quốc,
được thị trường đón nhận và tin dùng bởi hàm lượng β-Caroten của gấc cao
gấp 68 lần cà chua, có tác dụng phòng chống thiếu vitamin, tăng khả năng
miễn dịch, tăng sức đề kháng của cơ thể, chống oxy hóa, chống lão hóa tế


bào, loại bỏ các tác hại của môi trường: hóa chất độc hại, tia xạ, thuốc trừ
sâu,…giúp cơ thể khỏe mạnh, da dẻ hồng hào, mịn màng. VINAGA rất cần
thiết cho mọi gia đình, nhất là phụ nữ và trẻ em. Thương hiệu gấc Việt Nam
dành cho các bà nội trợ dùng nấu xôi, chế biến các món ăn, dùng thay phẩm
màu trong chế biến thức ăn, cho vào cháo, sữa cho trẻ nhỏ…để phòng chống
suy dinh dưỡng, thiếu vi chất, tăng sức đề kháng cho trẻ em [8].
2.2. Tình hình nghiên cứu về nhân giống cây gấc bằng phƣơng pháp nuôi
cấy mô
Hiện nay, trên thế giới và Việt Nam chưa có nhiều nghiên cứu về nuôi
cây mô tế bào thực vật cây gấc. Năm 1996, tác giả Phan Tuấn Nghĩa và cộng
sự đã hoàn thiện quy trình nhân nhanh cây gấc từ nguyên liệu ban đầu là hạt
gấc bằng phương pháp nuôi cấy mô cho phép sản xuất hàng loạt cây gấc
trong khoảng thời gian 10 đến 12 tuần [7]. Năm 2009, tác giả Lê Văn Hoà và
cs đã thử nghiệm vi nhân giống cây gấc bằng nuôi cấy mô tế bào và đưa ra
được một số môi trường nhân nhanh cơ bản và giá thể thử nghiệm ra vườn

ươm, kết quả như sau: (1) Môi trường thích hợp cho sự nhân chồi gấc in vitro
là môi trường cơ bản MS có bổ sung 100ml/l nước dừa, 7,5g/l agar, 25g/l
đường, 0,2mg/l BA và 0,2mg/l IBA cho hiệu quả cao nhất; (2) Sử dụng môi
trường cơ bản MS có bổ sung 100ml/l nước dừa, 7,5g/l agar, 25g/l đường,
0,2mg/l NAA và 2g/l than hoạt tính thích hợp cho sự tạo rễ chồi gấc in vitro;
(3) Sử dụng môi trường chất nền là tro trấu có phủ màng nylon thích hợp cho
bước đầu thuần dưỡng cây gấc ex vitro [3].
3. KHÁI QUÁT VỀ NUÔI CẤY MÔ TẾ BÀO THỰC VẬT
3.1. Khái niệm nuôi cấy mô tế bào thực vật
Nuôi cấy mô tế bào thực vật là phạm trù khái niệm chung cho tất cả
các loại nuôi cấy nguyên liệu thực vật hoàn toàn sạch các vi sinh vật trên môi


trường dinh dưỡng nhân tạo, trong điều kiện vô trùng [1]. Nhân giống vô tính
in vitro được tiến hành trên nguyên tắc cắt nuôi đoạn thân có mang chồi ở
nách lá, đoạn rễ hay mảnh củ.
3.2. Sơ lƣợc lịch sử nuôi cấy mô tế bào thực vật
Nuôi cấy mô tế bào thực vật đã trải qua một lịch sử phát triển lâu dài
và được đánh dấu bằng những sự kiện chính sau:
- Năm 1902, Harberlandt lần đầu tiên đưa ra các lý thuyết và Schneider
và Butschli (người mô tả chính xác quá trình phân chia tế bào) vào thực
nghiệm nuôi cấy mô cây 1 lá mầm nhưng không thành công [10].
- Năm 1929 – 1933, Bchumuker, Scheitter, Pfcifer và Lance thành
công trong việc nuôi cấy một đoạn đầu mút rễ hoàn chỉnh [10].
- Năm 1934, Kogl lần đầu tiên xác định được vai trò của IAA, một
hooc môn thực vật đầu tiên thuộc nhóm Auxin có khả năng kích thích sự phát
triển tăng trưởng và phân chia tế bào thực vật.
- Năm 1939, Gautheret, Nobecourt và White đã đồng thời nuôi cấy mô
sẹo thành công trong thời gian dài từ mô tượng tầng. Nobetcourt nuôi cấy củ
Cà rốt và nhận được sự phân bào tạo ra khối tế bào phân chia.

- Năm 1941, Overbeek và cộng sự đã sử dụng nước dừa trong nuôi cấy
phôi non ở cây cà rốt Patura.
- Năm 1955, Miller và cộng sự phát minh ra cấu trúc và sinh tổng hợp
Kinetin là 1 cytokinin đóng vai trò quan trọng trong phân bào và phân hóa
chồi ở mô nuôi cấy.
- Năm 1957, Skoog và Miller tạo ra được chồi từ mảnh mô thân cây
thuốc lá đồng thời khám phá vai trò của tỷ lệ nồng độ các chất
Auxin/Cytokinin, nồng độ auxin/nồng độ cytokinin < 1 có xu hướng tạo ra
chồi. Ngược lại khi nồng độ auxin/nồng độ cytokinin > 1 mô có xu hướng tạo


rễ. Tỷ lệ nồng độ auxin và cytokinin thích hợp sẽ kích thích phân hóa cả chồi
và rễ, tạo cây hoàn chỉnh.
- Năm 1958, Keinert và Sterward tạo được phôi và cây hoàn chỉnh từ
tế bào tượng tầng tách từ cây cà rốt được nuôi cấy một dạng huyền phù.
- Năm 1960, Morel đã thực hiện bước ngoặt cách mạng trong sử dụng
kỹ thuật nuôi cấy đỉnh sinh trưởng trong nhân nhanh các loại địa lan
cymbidim.
- Năm 1960, Cooking lần đầu tiên sử dụng enzym phân giải thành tế
bào và đã tạo ra số lượng lớn tế bào trần ở những cây trồng khác nhau.
- Năm 1966, Guha và cộng sự thành công trong nuôi cấy thể đơn bội ở
cà độc dược từ bao phấn.
- Năm 1967- 1968, Nichkoi Nakato và cộng sự tạo được cây đơn bội từ
bao phấn thuốc lá.
- Năm 1971, Takeb tái sinh thành công cây thuốc lá từ tế bào trần.
- Năm 1972, Carlson và cộng sự lần đầu tiên thực hiện lai tế bào soma
giữa các loài, tạo được cây từ dung hợp tế bào trần của 2 loài thuốc lá
Nicotiana glauca và N. langsdorfi.
- Năm 1977, Chers lai thành công tế bào soma cây cà chua và cây
khoai tây.

Từ năm 1977 đến nay, công nghệ tế bào thực vật đã có những bước
tiến vượt bậc với việc áp dụng các công nghệ cao trong chọn tạo giống cây
trồng như: đột biến tế bào soma, cứu phôi lai xa, dung hợp tế bào trần, tạo
dòng kháng thể, nuôi cấy bao phấn, hạt phấn trên nhiều đối tượng cây trồng.
Chúng ta đang bước vào giai đoạn thứ tư của nuôi cấy mô tế bào, đây là giai
đoạn nuôi cấy mô tế bào được ứng dụng mạnh mẽ vào thực tiễn chọn giống,
nhân giống, sản xuất các chất thứ cấp có hoạt tính sinh học và nghiên cứu lý


luận di truyền ở thực vật bậc cao [1].
3.3. Cơ sở khoa học của phƣơng pháp nuôi cấy mô tế bào thực vật.
* Tính toàn năng (Totipotence ) của tế bào
Năm 1902, Nhà Sinh lý thực vật học người Đức Haberlandt, đã tiến
hành nuôi cấy các tế bào thực vật để chứng minh tế bào là toàn năng.
Haberlandt cho rằng mỗi tế bào của bất kỳ sinh vật nào cũng đều có
khả năng tiềm tàng để phát triển thành một cơ thể hoàn chỉnh. Ông nhận thấy,
mỗi tế bào của cơ thể đa bào đều phát sinh từ hợp bào thông qua quá trình
phân bào nguyên nhiễm. Điều đó có nghĩa là mỗi tế bào của một sinh vật sẽ
chứa toàn bộ thông tin di truyền cần thiết của một cơ thể hoàn chỉnh. Khi gặp
điều kiện thuận lợi nhất định, những tế bào đó có thể sẽ phát triển thành một
cơ thể hoàn chỉnh.
Năm 1953, Miller và Skoog (Notingham. Unio) đã thành công khi thực
nghiệm tái sinh cây con từ tế bào lá, chứng minh được tính toàn năng của tế
bào. Thành công trên đã tạo ra công nghệ sinh học ứng dụng trong nhân giống
vô tính, tạo giống cây trồng và dòng chống chịu [10].
Tính toàn năng của tế bào mà Haberlandt nêu ra chính là cơ sở lý luận
của phương pháp nuôi cấy mô và tế bào thực vật. Cho đến nay, con người đã
hoàn toàn chứng minh được khả năng tái sinh một cơ thể thực vật hoàn chỉnh
từ một tế bào riêng rẽ.
* Sự phân hoá và phản phân hoá tế bào

Sự phân hoá tế bào là sự chuyển các tế bào phôi sinh thành các tế bào
của mô chuyển hoá, đảm nhận các chức năng khác nhau trong cơ thể. Ví dụ:
Mô dậu làm nhiệm vụ quang hợp, mô bì làm nhiệm vụ bảo vệ, nhu mô làm
nhiệm vụ dự trữ, mô dẫn làm nhiệm vụ vận chuyển nước và chất dinh
dưỡng.


Quá trình phân hoá tế bào được biểu diễn ở sơ đồ sau:
Tế bào phôi sinh

Tế bào giãn

Tế bào chuyên hoá

Mặc dù các tế bào đã chuyển hoá thành các mô chức năng nhưng
chúng vẫn không mất đi khả năng phân chia của mình. Trong điều kiện thích
hợp, các tế bào lại có thể trở về dạng tế bào phôi sinh và phân chia mạnh mẽ.
Quá trình đó được gọi là phản phân hoá tế bào (ngược lại với quá trình phân
hoá tế bào). Sơ đồ hoá như sau:
Phân hoá tế bào

Tế bào phôi sinh

Tế bào giãn

Tế bào chuyên hoá

Phản phân hoá tế bào

Về bản chất sự phân hoá và phản phân hoá là một quá trình hoạt hoá,

phân hoá gen. Tại một thời điểm nào đó trong quá trình phát triển cá thể, có
một số gen được hoạt hoá (mà trước đây bị ức chế) để cho biểu hiện trạng
thái mới, một số gen khác lại bị đình chỉ hoạt động. Điều này xảy ra theo một
chương trình đã được mã hoá trong cấu trúc phân tử ADN của mỗi tế bào.
Mặt khác, khi tế bào nằm trong khối mô của cơ thể thường bị ức chế bởi các
tế bào xung quanh. Khi tách riêng tế bào tạo điều kiện thuận lợi cho các gen
được hoạt hoá. Quá trình phân hoá được xảy ra theo một chương trình định sẵn
[10].
3.4. Điều kiện và môi trƣờng nuôi cấy mô tế bào thực vật
Môi trường nuôi cấy là yếu tố quyết định cho sự phân hoá tế bào và cơ
quan nuôi cấy.
a) Điều kiện nuôi cấy mô tế bào thực vật


* Điều kiện vô trùng
Nuôi cấy in vitro là nuôi cấy trong điều kiện vô trùng. Nếu không đảm
bảo tốt điều kiện vô trùng nuôi cấy thì môi trường sẽ bị nhiễm, mô nuôi cấy
sẽ bị chết. Điều kiện vô trùng có ý nghĩa quyết đến sự thành bại của nuôi cấy
mô invitro.
Phương pháp vô trùng vật liệu thông dụng nhất hiện nay là dùng các
chất hóa học, tia cực tím có khả năng diệt nấm và vi khuẩn.
Vô trùng ban đầu là một thao tác khó, có ý nghĩa quyết định đến thành
công trong nuôi cấy mô tế bào. Tuy nhiên, nếu tìm được nồng độ và thời gian
xử lý thích hợp sẽ cho tỷ lệ sống cao, thông thường hay sử dụng một số hóa
0

chất như: HgCl2 0.1%, NaHCl 10%, cồn 76 …để khử trùng.
Phương tiện khử trùng: Nồi hấp vô trùng, tủ sấy, buồng cấy và tủ cấy
vô trùng, phòng nuôi cây.
* Điều kiện ánh sáng và nhiệt độ

Ánh sáng và nhiệt độ là hai yếu tố chính có ảnh hưởng cơ bản đến quá
trình sinh trưởng của mô nuôi cấy.
Ánh sáng:
Sự phát sinh hình thái của mô nuôi cấy chịu ảnh hưởng từ các yếu tố
như: thời gian chiếu sáng, cường độ ánh sáng và chất lượng ánh sáng. Thời
gian chiếu sáng tác động đến quá trình phát triển của mô nuôi cấy. Thời gian
chiếu sáng thích hợp với đa số các loài cây là 12 – 18h/ngày. Cường độ ánh
sáng tác động đến sự phát sinh hình thái của mô nuôi cấy.
Theo Ammirato (1986): Cường độ ánh sáng cao kích thích sự sinh
trưởng của mô sẹo, ngược lại, cường độ ánh sáng thấp kích thích sự tạo chồi.
Nhìn chung, cường độ ánh sáng thích hợp cho mô nuôi cấy là 1000 - 7000lux
(Morein, 1974), ngoài ra chất lượng ánh sáng cũng ảnh hưởng tới sự phát


×