Tải bản đầy đủ (.docx) (66 trang)

BÀI TẬP LỚN :CHUYÊN ĐỀ KĨ THUẬT CƠ KHÍ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (6.32 MB, 66 trang )

BÀI TẬP LỚN :CHUYÊN ĐỀ KĨ THUẬT CƠ KHÍ
ĐỀ TÀI :TÌM HIỂU CÁC MẠCH IN 3D TRÊN THẾ GIỚI
KHÁI NIỆM PHÂN LOẠI
Khái niệm
Công nghệ in 3D hay công nghệ tạo mẫu nhanh là cách thức để thực hiện

I.
i.

việc in 3D, hay cách thức đểmáy in 3D hoạt động. Ngày nay công nghệ in
3D phát triển rất đa dạng, với mỗi sản phẩm 3D có thể được in ra với nhiều
loại vật liệu khác nhau, vật liệu dạng khối, dạng lỏng, dạng bột bụi. Với mỗi
loại vật liệu cũng có nhiều phương thức để in như sử dụng tia laser, dụng cụ
ii.

cắt, đùn ép nhựa … Cách thức in thì có in từ dưới lên, in từ đỉnh xuống.
Phân loại các mạch in 3D
-Vật liệu:
• Dạng khối
• Dạng lỏng
• Dạng bột bụi
-Phương thức:




Tia laser
dụng cụ cắt
đùn ép nhựa
-Cách thức in:




II.

in từ dưới lên
in từ đỉnh đầu xuống
LỊCH SỬ PHÁT TRIỂN
Công nghệ in 3d được hình thành như thế nào?
Công nghệ in 3d được hình thành từ việc tạo mẫu
Tạo mẫu được hình thành trong 3 thời kì cơ bản:
1.

Thời

kỳ

đầu:

tạo

mẫu

bằng

tay

Thời kỳ đầu tiên ra đời cách đây vài thế kỷ. Trong thời kỳ này, các mẫu điển
hình không có độ phức tạp cao và chế tạo một mẫu trung bình mất khoảng 4
tuần. Phương pháp tạo mẫu phụ thuộc vào tay nghề và thực hiện công việc
một cách cực kỳ nặng nhọc. Cho đến ngày nay phương pháp tạo mẫu thủ

công này vẫn còn sử dụng khá phổ biến, trong các trường ĐH về mỹ thuật có
ngành Tạo Dáng, thì chính là nó đó. Hiện nay phương pháp tạo mẫu này
1


mang hơi hướm nghệ thuật, hàng chế tác riêng nhiều hơn là tạo mẫu trong
sản

xuất

hàng

loạt.

Tạo mẫu thủ công

2.

Thời

kỳ

thứ

hai:

phần

mềm


2

tạo

mẫu

hay

tạo

mẫu

ảo


Thời kỳ thứ hai của tạo mẫu phát triển rất sớm, khoảng giữa thập niên 70.
Thời kỳ này đã có phần mềm tạo mẫu hay tạo mẫu ảo. Việc ứng dụng
CAD/CAE/CAM đã trở nên rất phổ biến. Phần mềm tạo mẫu sẽ phát họa trên
máy vi tính những suy tưởng, ý tưởng mới. Các mẫu này như là một mô hình
vật lý: được kiểm tra, phân tích cũng như đo ứng suất và sẽ được hiệu chỉnh
cho phù hợp nếu chúng chưa đạt yêu cầu. Thí dụ như phân tích ứng suất và
sức căng bề mặt chất lỏng có thể dự đoán chính xác được bởi vì có thể xác
định

chính

xác

các


thuộc

tính



tính

chất

của

vật

liệu.

Hơn nữa, các mẫu trong thời kỳ này trở nên phức tạp hơn nhiều so với thời kỳ
đầu (khoảng trên hai lần). Vì thế, thời gian yêu cầu cho việc tạo mẫu có
khuynh hướng tăng lên khoảng 16 tuần, tính chất vật lý của mẫu vẫn còn phụ
thuộc vào các phương pháp tạo mẫu cơ bản trước. Tuy nhiên, việc vận dụng
các máy gia công chính xác đã cải thiện tốt hơn các tính chất vật lý của mẫu.

3


Tạo mẫu thời kỳ 2

3.

Thời


kỳ

thứ

ba:

quá

trình

tạo

mẫu

nhanh

Việc phát minh ra các thiết bị tạo mẫu nhanh là một phát minh quan trọng.
Những phát minh này đã đáp ứng được yêu cầu của giới kinh doanh trong
thời kỳ này: giảm thời gian sản xuất, tăng độ phức tạp của mẫu, giảm chi phí.
Ở thời điểm này người tiêu dùng yêu cầu các sản phẩm cả về chất lượng lẫn
mẫu mã, nên mức độ phức tạp của chi tiết cũng tăng lên, gấp ba lần mức độ
phức tạp mà các chi tiết đã được làm vào những năm của thập niên 70.
Nhưng nhờ vào công nghệ tạo mẫu nhanh nên thời gian trung bình để tạo
thành một chi tiết chỉ còn lại 3 tuần so với 16 tuần ở thời kỳ thứ hai. Năm
1988, hơn 20 công nghệ tạo mẫu nhanh đã được nghiên cứu.

Công nghệ in 3d

4



Ta thấy rằng nhu cầu tạo nên mẫu sản phẩm ban đầu là một nhu cầu thiết yếu
trong quá trình sản xuất, trước khi sản xuất hàng loạt một sản phẩm nào cũng
phải cần tạo mẫu sản phẩm trước để kiểm tra tính hiện thực và khả thi. Nếu
mẫu sản phẩm càng chính xác bao nhiêu, càng nhanh bao nhiêu thì sẽ càng
tránh được những lỗi mắc phải trong quá trình sản xuất sau này và càng tiết
kiệm

được

chi

phí

sản

xuất

bấy

nhiêu.

Những ai đã đọc quyển sách về Steve Job thì sẽ thấy rằng Ive đã phải làm rất
nhiều mẫu Iphone bằng bọt biển để S.Job xem trước khi sản xuất ra chiếc
Iphone

ngày

nay.


Nên "công nghệ tạo mẫu nhanh" mang toàn bộ ý nghĩa của nó, "công nghệ":
đảm bảo độ chính xác, "tạo mẫu nhanh" đảm bảo thời gian nhanh chóng .
CÔNG

NGHỆ

IN

3D

BẮT

ĐẦU

TỪ

LÚC

NÀO?

Chiếc máy in 3D đầu tiên được phát minh vào năm 1986 bởi Charles Hull,

5


được chế tạo dựa trên một kỹ thuật gọi là steriolithography (SLA).

6



Charles Hull cha đẻ của công nghệ in 3d

Cho đến ngày nay, công nghệ in 3d SLA của Hull vẫn còn là một trong các
phương pháp in 3D chính xác nhất, với độ dày mỗi lớp nhỏ nhất có thể thực
hiện lên đến 0.015mm (15 microns). Quy trình in 3D đã mở rộng rất nhiều kể
từ

khi

nguyên

mẫu

của

Hull,

đặc

biệt



trong

10

năm


qua.

Công nghệ này vẫn còn tương đối xa lạ đối với công chúng cho đến thập kỷ
thứ hai của thế kỷ 21 ( tức là từ năm 2010). Chính phủ Mỹ đã kết hợp đầu tư
và khởi động những dự án thương mại công nghệ in 3d và kể từ thời điểm đó
đã tạo nên một làn sóng mới phát triển chưa từng có cho sự phổ biến của
công

nghệ

in

3d

ngày

nay.

Đầu tiên, chính quyền Tổng thống Barack Obama đã đầu tư 30 triệu USD để
thành lập National Additive Manufacturing Innovation Institute (NAMII) (VIỆN
CÔNG NGHỆ SẢN XUẤT PHỤ TRỢ MỚI )
vào năm 2012 như là một cách để giúp đỡ nhằm khôi phục ngành công
nghiệp sản xuất tại Mỹ. NAMII hoạt động như một tổ chức bảo trợ cho một
mạng lưới các trường đại học và các công ty nhằm mục đích cải tiến công
nghệ in 3D để nhanh chóng triển khai sản phẩm mới trong lĩnh vực sản xuất.
Thứ hai, trên thế giới bắt đầu hình thành một làn sóng mới phổ biến công
nghệ máy in 3d tập trung vào phong trào DIY (do it yourself ) đang phát triển
mạnh mẽ hiện nay. Và hiện nay có rất nhiều công ty cung cấp dịch vụ in 3D
hoặc bán máy in 3D giá rẻ, với mức giá chỉ vào khoảng vài trăm đến vài ngàn
đô


la.

7


Công nghệ máy in 3d giá rẻ
Như vậy in 3d (3d printing) là cụm từ chỉ mới được sử dụng phổ biến khoảng
vài năm trở lại đây từ khi công nghệ này được phổ biến hóa mà thôi. Cụm từ
này đã xuất hiện từ rất sớm nhưng lúc đó nó chỉ được xem là một ngách nhỏ
của ngành công nghệ tạo mẫu nhanh
Có bao nhiêu loại công nghệ máy in 3D và có từ lúc nào?
n 3D là một công nghệ đang được phát triển với tốc độ khá nhanh và ứng
dụng của công nghệ này trải dài trên nhiều lĩnh vực. Tuy nhiên, công nghệ in
3D đã được khai sinh từ những năm 80 của thế kỷ trước và qua thời gian, in
3D đã được cải tiến với nhiều biến thể nhằm đáp ứng với nhiều nhu cầu in ân
tạo hình khác nhau. Trong bài viết hôm nay, chúng ta hãy cùng tìm hiểu về các
công nghệ in 3D và những mốc thời gian đáng nhớ.

Năm 1984 - Thời khắc khai sinh ra công nghệ máy in 3D
8


Lịch sử phát triển công nghệ in 3D

Charles Hull là người đầu tiên phát minh ra Stereolithography - một phương
pháp đột phá tạo ra một đối tượng 3D hữu tình từ những dữ liệu kỹ thuật số .
Công nghệ này được sử dụng để chế tạo ra các vật phẩm 3D chỉ từ những
hình ảnh trên máy tính và công nghệ này cho phép người dùng kiểm tra các
mẫu thiết kế một cách nhanh chóng, chính xác trước khi quyết định đầu tư

sản

xuất

hàng

loạt.

Năm 1986, Charles Hull đăng ký bản quyền phát minh Stereolithography. Sau
đó, ông thành lập công ty 3D System và phát triển máy in 3D thương mại đầu
9


tiên

được

gọi



Stereolithography

Apparatus

(SLA).

SLA là công nghệ sử dụng tia sáng (tia laser, tia UV hoặc tia sáng bình
thường) làm đông cứng lớp photopolymer lỏng (polymer quang hóa - polymer
đóng rắn khi có ánh sáng chiếu vào) được chứa trong bồn, từng lớp từng lớp

để hình thành nên vật thể 3D. Đây là công nghệ đầu tiên và cũng là công nghệ
đem lại độ dày layer nhỏ nhất hiện nay (độ chi tiết tốt nhất)
Cùng năm này các phát minh về LOM, SLS, DTM, EOS cũng được đăng ký
bản

quyền.

Năm 1987, 3D System phát triển dòng sản phẩm SLA-250, đây là phiên bản
máy

in

3D

đầu

tiên

được

giới

thiệu

ra

công

chúng.


Năm 1987, một công ty khác có tên Object đã giới thiệu công nghệ Jetted
Photopolymer ( J-P)
Về công nghệ J-P, thật ra công nghệ này cũng giống như công nghệ SLA
nhưng thay vì nguyên liệu được chứa trong bồn thì nguyên liệu được phun
giống như máy in phun, đi kèm với đầu phun là đèn chiếu UV làm đông cứng
lớp photopolymer vừa phun ra. Vì vậy, công nghệ cho phép in nhiều loại vật
liệu trên cùng một vật thể in, mỗi bình mực in là 1 loại vật liệu.
Năm 1988 – Scott Crump phát minh ra công nghệ Fused Deposition Modeling
( FDM).
Công nghệ FDM sử dụng nguyên liệu đầu vào là sợi nhựa, sau đó được nung
nóng chảy ra và đầu phun kéo các sợi nhựa chảy này theo biên dạng của mặt
cắt từng layer, và đắp từng lớp layer chồng lên nhau để tạo ra sản phẩm 3D.
Đây là công nghệ phổ biến nhất hiện nay vì nó đơn giản và dễ chế tạo. Những
máy in DIY giá rẻ hiện nay đều sử dụng công nghệ này, giá thành chỉ khoảng
vài trăm đến vài nghìn đô la. Tuy nhiên, do những nhược điểm cố hữu của
công nghệ nên máy in DIY chỉ có thể đáp ứng được những yêu cầu trung
bình.
10


Năm

1989



Scott

Crump


thành

lập

công

ty Stratasys.

Năm 1989 – DTM bắt đầu bán ra dòng máy in Selective Laser Sintering (SLS).
Công nghệ SLS sử dụng nguyên liệu dạng bột được chứa trong các bồn, các
layer được xếp chồng lên nhau bằng các bánh lăn (roller), vừa cuộn vừa kéo
san phẳng vật liệu ra thành lớp mỏng. Biên dạng layer được hình thành bằng
cách dùng tia laser chiếu cho nóng chảy bột để bột lớp layer trên liên kết với
layer dưới.
Cũng trong năm 1989 – Viện Công nghệ Massachusetts Institute of
Technology ( MIT) đăng ký phát minh “3 Dimensional Printing techniques
(3DP)”.
Công nghệ này sử dụng nguyên lý tạo lớp layer giống như công nghệ SLS ở
trên, còn phần liên kết các layer với nhau thì giống với công nghệ máy in phun
2D bình thường. Mực in lúc này vừa là màu sắc, vừa là keo liên kết các hạt
bột với nhau. Công nghệ này có thể in được màu sắc cho vật thể giống như
máy in phun màu . Chữ 3dp chính là 3D Printing hay in 3D hiện nay chúng ta
đang dùng.
Năm 1995 – Công ty Z Corporation đã mua lại giấy phép độc quyền từ MIT để
sử dụng công nghệ 3DP và bắt đầu sản xuất các máy in 3D.
Năm 1991 – Helisys bán chiếc máy đầu tiên dùng công nghệ Laminated
Object

Manufacturing


(LOM).

Công nghệ LOM sử dụng nguyên liệu đầu vào là các vật liệu có thể dát mỏng
như giấy, gỗ … dạng cuộn hay tờ, mỗi layer chính là mỗi tờ giấy hay lát gỗ,
biên dạng layer được cắt ra bằng laser hay dụng CỤ cắt rồi dán chồng lên
nhau tạo nên vật thể 3D. Đối với công nghệ này có thể tạo ra vật thể có màu
sắc theo đúng thiết kế.

11


Năm 1992 – Stratasys bán chiếc máy FDM đầu tiên: “3D Modeler”.
Năm 1996 – Stratasys giới thiệu dòng máy in 3D ”Genisys”. Cùng năm này Z
Corporation cũng giới thiệu dòng “Z402″ trong khi 3D Systems cũng giới thiệu
dòng máy “Actua 2100″. Từ đây, cụm từ “Máy in 3D ” được sử dụng lần đầu
tiên

để

chỉ

những

chiếc

máy

tạo

mẫu


nhanh.

Năm 2006 – Dự án máy in 3D mã nguồn mở được khởi động có tên Reprap.
Dự án sử dụng công nghệ FDM nhằm mục đích tạo ra những máy in 3D có
thể sao chép chính bản thân nó. Bạn có thể điều chỉnh hay sửa đổi nó tùy ý
nhưng

phải

tuân

theo

điều

luật

GNU

General

Public

Licence.

Năm 2008 – Phiên bản đầu tiên của Reprap được phát hành. Nó có thể sản
xuất

được


50%

các

bộ

12

phậncủa

chính

mình.


Máy in 3d RepRap

Năm 2008 - Objet Geometries Ltd. đã tạo ra cuộc cách mạng trong ngành tạo
mẫu nhanh khi giới thiệu Connex500™. Đây là chiếc máy đầu tiên trên thế
giới có thể tạo ra sản phẩm 3D với nhiều loại vật liệu khác nhau trong cùng 1
thời

điểm.

Máy in 3d nhiều vật liệu cùng lúc Connex500™

Tháng 12, năm 2010 - Organovo Inc. một công ty y học tái tạo nghiên cứu
trong lĩnh vực in 3D sinh học đã công bố việc chế tạo ra hoàn chỉnh mạch máu
đầu


tiên

hoàn

toàn

bằng

13

công

nghệ

in

3D.


Mạch máu in bằng công nghệ máy in 3D

Tháng 1, năm 2011 - Các nhà nghiên cứu tại trường Đại Học Cornell đã xây
dựng

chiếc

máy

in


thức

ăn

đầu

tiên

bằng

công

nghệ

in

3D.

Tháng 7, năm 2011 - Các nhà nghiên cứu của ĐH Exeter, ĐH Brunel cùng với
các nhà lập trình Delcam đã phát triển máy in 3d có thể in ra các sản phẩm từ
chocolate.

14


In chocolate bằng công nghệ máy in 3D

15



Tháng 10, năm 2011 - Công ty i.materialise trở thành dịch vụ in 3D đầu tiên
trên toàn thế giới áp dụng vật liệu in là vàng 14K và bạc, mở ra một khả năng
mới, thêm lựa chọn để chế tác ít tốn kém hơn cho các nhà thiết kế đồ trang
sức.

Trang sức vàng 14K và bạc được in bằng công nghệ in 3D

Qua sự hình thành và ra đời của các công nghệ in 3D ta thấy có 4 công nghệ
in 3D chính đó là SLA, SLS, LOM, FDM . Ngoài ra có nhiều công nghệ khác
nhưng chủ yếu vẫn dựa cơ bản trên 4 loại công nghệ trên. (J-P phát triển từ
SLA, 3DP phát triển từ SLS, những máy in 3D kim loại, gốm, … sử dụng chủ
yếu

dựa

trên

công
16

nghệ

SLS)


Từ đây ta cũng thấy rằng “in 3D” hay “3D Printing” là cụm từ để chỉ một loại
công nghệ trong ngành tạo mẫu nhanh thôi. Nhưng hiện nay cụm từ này đã
trở nên phổ biến đến mức nó thay thế luôn cả cụm từ “tạo mẫu nhanh” ở
phương diện những máy tạo mẫu nhanh cá nhân giá rẻ. Và các bạn cần phải

phân biệt rằng các máy in 3D giá rẻ hiện nay trên thị trường tuy được gọi là
máy in 3D ( 3D Printer) nhưng công nghệ được áp dụng lên nó là công nghệ
FDM chứ không phải công nghệ 3DP (3D Printing).

Đặc trưng của công nghệ FDM
Công nghệ in FDM là công nghệ phổ biến trên thị trường in 3D giá rẻ
hiện tại vì nó có các ưu điểm vượt trội như giao diện với người dung thông
minh dễ dàng vận hành phần mềm không đòi hỏi trình độ chuyên môn
cao, qua lớp đào tạo ngắn có thể vận hành tốt với phần mềm.nó là một
ứng dụng của mã nguồn mở RepRap.một mã nguồn mở được tạo ra để
hỗ trợ ngành in 3D.
Dự án mã nguồn mở RepRap và cuộc cách mạng máy in 3D
Dự án RepRap
Dự án RepRap là sáng kiến để phát triển máy tạo mẫu nhanh (máy in 3D) có
thể tạo ra các bộ phận quan trọng của chính nó. RepRap là viết tắt
của replicating rapid prototyper. Bất kỳ ai với bộ linh kiện đầy đủ đều có thể
lắp ráp thành công một chiếc máy RepRap. Điều đó cũng có nghĩa là nếu có
một chiếc máy RepRap thì có thể tự in cho mình hoặc cho bạn bè một chiếc
máy RepRap khác. Trên thực tế, RepRap còn được biết đến như máy in 3D
mã nguồn mở, giá rẻ và phổ biến nhất trên thế giới

[

Lịch sử
RepRap được thành lập vào năm 2005 bởi Tiến sĩ Adrian Bowyer[3][4], một giảng viên
cơ khí cao cấp tại Đại học Bath thuộc Vương quốc Anh. Ngày 23 tháng 3 năm 2005,
Blog RepRap bắt đầu hoạt động. Mùa hè năm 2005, Tài trợ cho sự phát triển ban
đầu tại trường Đại học Bath được lấy từ Hội đồng Nghiên cứu Kỹ thuật và Khoa học
Vật lý thuộc Vương quốc Anh.
Ngày 13 tháng 9 năm 2006, Những mẫu thử nghiệm thành công RepRap đầu tiên.

Ngày 9 tháng 2 năm 2008, RepRap 1.0 có tên là "Darwin" đã tiến hành vận hành thử
và thành công. Sau đó vào ngày 29 tháng 5 năm 2008, nhóm nghiên cứu đã cho ra

17


đời một máy RepRap Darwin hoàn chỉnh. Đến ngày 30 tháng 11 năm 2008. Wade
Bortz(đại học Hawaii, Mỹ) là người đầu tiên bên ngoài nhóm nghiên cứu tiến hành
chế tạo mẫu máy riêng của mình.
Vào ngày 20 tháng 4 năm 2009, Bảng mạch điện tử đầu tiên được sản xuất tự động
với một RepRap. Sử dụng một hệ thống điều khiển tự động để tạo ra sản phẩm. Các
mẫu thiết kế thế hệ thứ hai, gọi là "Mendel’’ ra đời vào ngày 2 tháng 10 năm 2009, có
hình dạng giống như một lăng kính tam giác. Đến ngày 13 Tháng 10 Năm 2009,
RepRap phiên bản 2.0 "Mendel" được hoàn thành.
Ngày 27 tháng 1 năm 2010, Viện Foresight công bố giải "Kartik M. Gada
Humanitarian Innovation Prize" để khuyến khích các nhà nghiên cứu. Đến ngày 31
tháng 8 năm 2010, Những mẫu thiết kế thế hệ thứ ba, "Huxley", được chính thức đặt
tên. Phát triển dựa trên phiên bản Mendel với kích thước nhỏ hơn 30% ban đầu.

Cuộc cách mạng máy in 3d trong 10 năm trở lại đây
1984 Charles Hull phát triển công nghệ có thể tạo ra được một vật thể hữa hình vật
lý 3D từ các dữ liệu số
1986 Charles Hull đặt tên cho công nghệ của mình là Stereolithography và đăng ký
bản quyền phát minh của mình.
Charles Hull thành lập công ty 3D System và phát triển máy in 3D thương mại đầu
tiên được gọi là Stereolithography Apparatus (SLA)

Cùng năm này các phát minh về LOM, SLS, DTM, EOS cũng được đăng ký bản
quyền.
1987 3D System phát triển dòng sản phẩm SLA-250, đây là phiên bản máy in 3D

đầu tiên được giới thiệu ra công chúng.
1988 – Scott Crump phát minh ra công nghệ Fused Deposition Modeling (FDM).

1989 – Scott Crump thành lập Stratasys.
1991 – Helisys bán chiếc máy đầu tiên dùng công nghệ Laminated Object
Manufacturing (LOM).

1992 – Stratasys bán chiếc máy FDM đầu tiên : “3D Modeler”.

18


1992 – DTM bắt đầu bán ra dòng máy Selective Laser Sintering (SLS).

1993 – Công ty Solidscape được thành lập để chế tạo ra dòng máy in 3d dựa trên
công nghệ in phun , máy có thể tạo ra những sản phẩm nhỏ với chất lượng bề mặt
rất cao .
1993 – Viện Công nghệ Massachusetts Institute of Technology (MIT) đăng ký
phát minh “3 Dimensional Printing techniques (3DP)”. Công nghệ này giống với
công nghệ máy in phun 2d bình thường . Đây cũng là khởi điểm của cụm từ ”In 3D”

1995 – Công ty Z Corporation đã mua lại giấy phép độc quyền từ MIT để sử dụng
công nghệ 3DP và bắt đầu sản xuất các máy in 3d.
1996 – Stratasys giới thiệu dòng máy in 3d ”Genisys”.
Cùng năm này Z Corporation cũng giới thiệu dòng “Z402″.
3D Systems cũng giới thiệu dòng máy “Actua 2100″.
Tới lúc này thì cụm từ “Máy in 3D ” được sử dụng lần đầu tiên để chỉ những chiếc
máy tạo mẫu nhanh.
1997 - EOS bán mảng kinh doanh máy in 3d công nghệ stereolithography cho 3-D
Systems nhưng vẫn là nhà sản xuất máy in 3d lớn nhất Châu Âu.

2005 – Z Corp. giới thiệu dòng máy Spectrum Z510. Đây là dòng máy in 3d đầu tiên
tạo ra những sản phẩm có nhiều màu sắc chất lượng cao.

19


Máy in 3d nhiều màu sắc Z510
2006 – Dự án máy in 3d mã nguồn mở được khởi động – Reprap – mục đích có thể
tạo ra những máy in 3d có thể sao chép chính bản thân nó. Bạn có thể điều chỉnh
hay sửa đổi nó tùy ý nhưng phải tuân theo điều luật GNU General Public Licence.
2008 – Phiên bản đầu tiên của Reprap được phát hành. Nó có thể sản xuất
được 50 % các bộ phậncủa chính mình.

Máy in 3d RepRap

20


2008 - Objet Geometries Ltd. đã tạo ra cuộc cách mạng trong ngành tạo mẫu
nhanh khi giới thiệu Connex500™. Đây là chiếc máy đầu tiên trên thế giới có thể tạo
ra sản phẩm 3d với nhiều loại vật liệu khác nhau trong cùng 1 thời điểm.

Máy in 3d nhiều vật liệu cùng lúc Connex500™
11/2010 - Urbee chiếc xe nguyên mẫu đầu tiên được giới thiệu. Đây là chiếc xe đầu
tiên trên thế giới mà toàn bộ phần vỏ body được in ra từ máy in 3d. Tất cả các bộ
phận bên ngoài, kể cả kính chắn gió đều được tạo ra từ máy in 3d Fortus khổ lớn
của Stratasys.

21



Chiếc xe đầu tiên được in bằng công nghệ máy in 3d
12/2010 - Organovo Inc. một công ty y học tái tạo nghiên cứu trong lĩnh vực in 3d
sinh học đã công bố việc chế tạo ra hoàn chỉnh mạch máu đầu tiên hoàn toàn bằng
công nghệ in 3d.

Mạch máu in bằng công nghệ máy in 3d
22


1/2011 - Các nhà nghiên cứu tại trường Đại Học Cornell đã xây dựng chiếc máy in
thức ăn đầu tiên bằng công nghệ in 3d.
6/2011 - Shapeways và Continuum Fashion đã giới thiệu những chiếc bikini được
in 3d đầu tiên.

Bikini được in bẳng công nghệ máy in 3d
7/2011 - Các nhà nghiên cứu của ĐH Exeter, ĐH Brunel cùng với các nhà lập
trình Delcam đã phát triển máy in 3d có thể in ra các sản phẩm từ chocolate.

23


In chocolate bằng công nghệ máy in 3d
8/2011 - Chiếc máy bay được in 3d đầu tiên bởi các kỹ sư thuộc trường ĐH
Southampton.
10/2011 - Công ty i.materialise trở thành dịch vụ in 3D đầu tiên trên toàn thế giới áp
dụng vật liệu in là vàng 14K và bạc, mở ra một khả năng mới, thêm lựa chọn để chế
tác ít tốn kém hơn cho các nhà thiết kế đồ trang sức.

24



Trang sức vàng 14K và bạc được in bằng công nghệ in 3d
2012 - Các bác sĩ và kỹ sư tại Hà Lan đã sử dụng một máy in 3D được làm
bởi LayerWise để in ba chiều hàm dưới giả, sau đó cấy ghép cho một người phụ nữ
83 tuổi bị nhiễm trùng xương mãn tính. Công nghệ này hiện đang được nghiên cứu
để thúc đẩy sự tăng trưởng của tế bào xương mới.

Hàm răng dưới được in bằng công nghệ máy in 3d
Qua sự hình thành và ra đời của các công nghệ in 3d ta thấy có 5 công nghệ in 3d
chính đó là SLA, SLS, LOM, 3DP, FDM . cuộc cách mạng in 3d ngày càng phát triển
trong tương lai không xa in 3D sẽ là cuộc cách mạng công nghệ lớn vì nó tham gia
vào hầu hết các lĩnh vực nghiên cứu sang tạo ý tưởng, đời sống xã hội.......

Ứng dụng trong các lĩnh vực[
Trang phục

25


×