Tải bản đầy đủ (.doc) (5 trang)

VĂN XUÔI LÃNG mạn 1930 – 1945

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (144.99 KB, 5 trang )

VĂN XUÔI LÃNG MẠN 1930 – 1945
(Hai đứa trẻ, Chữ người tử tù)
I/ Khái quát về văn xuôi lãng mạn VN: (Đặc trưng thể loại và bút pháp nghệ thuật)
1.Các nhân vật, tình huống hình ảnh được nhà văn sáng tạo ra nhằm thỏa mãn nhu cầu
biểu hiện lí tưởng và tình cảm của tác giả.
- Các nhà văn lãng mạn thường tìm kiếm những giá trị cao đẹp trong những cảnh đời tăm tối,
tầm thường; khám phá cái cao cả trong những số phận bị ruồng bỏ, chà đạp.
VD: + TL – HĐT: xúc động, trân trọng cái khát vọng được đổi đời, được sống hạnh phúc
hơn của những con người bé nhỏ bị lãng quên nơi phố huyện nghèo xưa.
+ Nguyễn Tuân – CNTT: tìm thấy sự tỏa sáng của nhân cách người tử tù nơi ngục thất
tăm tối; sự vươn lên cái đẹp, cái thiên lương của một ngục quan, trong một nhà tù xã hội PK xấu
xa, suy tàn.
- Nhân vật của văn xuôi lãng mạn hành động theo sự tưởng tượng chủ quan của nhà văn và
trực tiếp thể hiện tư tưởng của tác giả.
VD: HĐT: L và A tuy còn nhỏ nhưng phải thay mẹ trông coi một quán tạp hóa nhỏ để kiếm
sống. Hàng đêm các em lại cố thức để đón chuyến tàu đêm đi qua phố huyện. Con tầu với những
toa sang trọng, đèn sáng trưng chiếu sáng xuống mặt đường và tiếng còi rít lên rầm rộ như mang
theo cả một thế giới khác đối lập với cái phố huyện tăm tối, tĩnh lặng. Nó như thắp lên trong tâm
hồn của các em một niềm khát vọng dẫu mơ hồ nhưng thật xúc động, đáng trân trọng. -> Nhà văn
muốn qua đó thể hiện khát vọng của những con người bé nhỏ bị lãng quên trong xã hội cũ.
- Văn học lãng mạn là tự do biểu hiện tình cảm của cái tôi cá nhân, các nhà văn lãng mạn
thường tuyệt đối hóa vai trò của cái tôi cá nhân, đặt chúng cao hơn thực tế khách đời sống để thể
hiện tư tưởng của mình.
VD: CNTT: Thể hiện quan điểm thẩm mĩ riêng của NT: Cái đẹp gắn với văn hóa dân tộc, gắn
với cái thiện, có sức cảm hóa cái xấu, cái ác và cái đẹp luôn bất tử với đời.
2. Văn học LM thường được viết bởi cảm hứng LM
- Nhà văn thường hướng tới những cái phi thường có tính biệt lệ.
VD: CNTT: Một không khí thiêng liêng khác thường, con người cũng tài hoa, dũng liệt một
cách rất đỗi nghệ sĩ như HC.
- Xây dựng những hình tượng con người vượt lên thực tại của đời sống của hoàn cảnh, hướng
tới một cái gì tốt đẹp và thánh thiện hơn hiện thực. Có khi đó chỉ là những khát võng dẫu mơ hồ


nhưng cũng đủ để niềm tin của con người có điểm tựa.
VD: Khát vọng chờ chuyến tầu đêm qua phố huyện nghèo chính là được viết theo cảm hứng
lãng mạn bay bổng ấy. Hai chị em Liên đợi tầu không xuất phát từ nhu cầu vậ chất. Hai đứa trẻ
chờ tầu bởi nhu cầu tinh thần, chuyến tầu đêm là cả một niềm vui lớn. Con tầu mang đến phố
huyện một luồng ánh sáng rực rỡ và những âm thanh sôi động xua đi không khí tĩnh lặng của phố
huyện nghèo. Bên cạnh đó, con tầu khiến chị em L như trở về với quá khứ tươi đẹp, con tầu chạy
tới từ HN, chạy tới từ tuổi thơ đã qua. Hai chị em đã có thời sống ở HN xa xăm, tươi đẹp, huyên
náo, hai chị em từng được đi chơi bờ hồ, được ăn những thức quà ngon, uống những cốc nước lạnh
xanh đỏ. Con tầu đã đánh thức dậy một miền kí ức tuổi thơ tươi đẹp để cân bằng lại cuộc đời không
mấy niềm vui, hp nơi phố huyện nghèo. Vì vậy khi tầu đến, L và A đứng cả dậy hướng về phía con
tầu và khi con tầu đi rồi L vẫn lặng theo mơ tưởng.
- Lãng mạn nhưng vẫn được kết hợp nhuần nhuyễn với chất hiện thực tạo nên vẻ đẹp riêng
của văn xuôi lãng mạn.
VD: Cảnh cho chữ trong TNTT được miêu tả một cách chân thực, cụ thể, chi tiết: Thời gian:
lúc nửa đêm; không gian: trại giam tỉnh Sơn; sự việc: diễn ra giữa 3 nhân vật HC, viên quản ngục,
thầy thơ lại. Tuy nhiên cảnh hiện thực mà lại lãng mạn gợi liên tưởng tới sự bất tử của cái đẹp.
Ngọn đuốc rừng rực trong bong đêm gợi liên tưởng tới tài năng khí phách, thiên lương; mùi thơm
của chậu mực và mầu trắng tinh của tấm lụa bạch -> vẻ đẹp của tấm long và tài năng
* Phong cách riêng của các nhà văn:
VD: TL: Sự kết hợp lãng mạn và hiện thực được thể hiện rõ nét trong HĐT:


- Đó là kiểu truyện ngắn trữ tình, truyện không có cốt truyện nhưng vẫn tràn đầy không khí
và lãng mạn.
- TL là một thành viên của nhóm Tự lực văn đoàn nhưng có một gương mặt rất riêng. Nếu
các tác giả của TLVĐ thường hướng ngòi bút của mình vào những con người thuộc tầng lớp trung
lưu, cành vàng lá ngọc thì TL lại dành sự quan tâm tới những con người nhỏ bé chịu nhiều thiệt
thòi trong xã hội.
- Văn của TLVĐ thường đượm nỗi buồn lãng mạn còn văn của TL thường chất chứa nỗi đau
hiện thực. Có thể gọi văn của TL là hương hoàng lan được trưng cất từ những nỗi đau đời. Đặt TL

cạnh tự lực văn đoàn chất hiện nỗi lên đậm nét trên những trang viết -> Truyện ngăn của TL như
những bài thơ trữ tình đượm buồn.
- Với bút pháp và cảm xúc lãng mạn thì cảnh thiên nhiên phố huyện mang một vẻ đẹp trữ tình
thơ mộng… Giọng văn của TL cũng êm đềm, cảm xúc: “Chiều, chiều rồi,một chiều… quê hương”.
- Với cảm nhận và bút pháp hiện thực thì cuộc sống nơi phố huyện là một bức tranh nghèo
khổ, sơ xác, tiêu điều, tăm tối. Bởi những cảnh ngày tàn, chợ tàn và những kiếp người tàn đến cả
đồ vật được nói đến cũng nát tàn: một ngôi quán ọp ẹp, một cái chõng sắp gãy, một manh chiếu
rách, một thau sắt rúm ró - > cảm giác về cuộc sống cứ lụi đi, tàn đi. Giọng văn của TL cũng buồn
thấm thía.
- Chất lãng mạn kết hợp với hiện thực khiến truyện của TL đẹp như những bài thơ trữ tình
đượm buồn.
3. Văn học lãng mạn thường sử dụng thủ pháp tương phản, đối lập, thích khoa trương,
phóng đại, sử dụng ngôn ngữ giàu sức biểu hiện cảm xúc.
VD:- Cảnh tượng cho chữ trong CNTT là một đoạn văn giầu kịch tính, sử dụng thành công
nghệ thuật đối lập, tương phản:
+ Đối lập tương phản về cảnh:
\ Về không gian: Chơi chữ là một thú chơi tao nhã thường được diễn ra ở các thư phòng, lại
được diễn ra tại phòng giam “Tối, chật hẹp, ẩm ướt, tường đầy mạng nhện, đất bừa bãi phân chuột,
phân gián”.
\ Về thời gian: Cảnh cho chữ lại không diễn ra lúc thanh thiên bạch nhật lại được diễn ra lúc
nửa đêm khi lính canh đã ngủ, đêm cuối cùng của tử tù HC.
-> Cả không gian và thời gian đều tăm tối.
\ Tương phản với cái tăm tối, bẩn thỉu ấy là ánh sáng: ánh sáng đỏ rực của bó đuốc tẩm dầu,
là mầu trắng tinh của tấm lụa bạch còn nguyên vẹn lần hồ, là mùi thơm của chậu mực bốc lên.
Tuyệt vời hơn tương phản với cái tăm tối ấy của ngục thất là sự sáng tạo ra cái đẹp: cái đẹp của
nghệ thuật, cái đẹp của tài năng, của dũng khí và nhân cách.
+ Tương phản về nhân vật: Vị thế và tư thế của các nhân vật trong cảnh cho chữ cũng có sự
thay bậc, đổi ngôi:
\ HC là một người tù, “cổ đeo gong, chân vướng xiềng đang đậm tô nét chữ trên tấm lụa bạch
trắng tinh” nhưng phong thái ung dung, đĩnh đạc của một người tự do nhất, uy quyền nhất vì ông là

người sáng tạo ra cái đẹp, tượng trưng cho cái đẹp và phẩm giá của con ng. HC đang viết những con
chữ cuối cùng cho đời nhưng không phải đi vào cõi chết mà đi vào cõi bất tử bởi cái tài, khí phách
và nhân cách của ông đang được người tôn kính, giữ gìn bằng tất cả thiên lương.
\ Viên quản ngục là người có uy quyền nhất lại đang “khúm núm” nhặt những đồng tiền kẽm
đánh dấu ô cho HC viết chữ. Đây không phải là cử chỉ sợ sệt luồn cúi mà là sự ngưỡng mộ, trân
trọng những dòng chữ cuối cùng của HC. Nhưng nét chữ vuông, tươi tắn nó nói nên cái hoài bão
tung hoành của một đời con người, những nét chữ đó kết tinh tài năng, tâm huyết, vẻ đẹp của một
con người mà ông từng ngưỡng mộ. Người nghệ sĩ tài hoa có thể bị hãm hại nhưng cái đẹp phi
thường thì bất tử khi ở đời vẫn có thiên lương. Ánh sáng bó đuốc phải chăng là ánh sáng thiên
lương mà người tử tù đang chiếu lên để lay tỉnh ngục quan. Chi tiết ngục quan khúm núm và ngục
quan vái tử tù trong nước mắt nghẹn ngào “kẻ mê muội này xin bãi lĩnh”, đây là cái vái lậy trước
một nhân cách hiếm có cùng với lời thề danh dự. Có thể khi HC bị giải vào kinh chịu án chem cũng
là lúc viên quản ngục trả áo mũ để về quê để giữ thiên lương cho lành vững bởi con người chỉ xứng
đáng được thưởng thức cái đẹp khi giữ được thiên lương.
\ Thầy thơ lại là một người tự do nhưng lại run run bưng chậu mực giúp HC viết chữ. Ông
run run vì xúc động và trân trọng “giờ phút thiêng liêng xưa nay chưa từng có” này.
2


+ Những từ ngữ Hán-Việt cổ kính như thiên lương, bức châm, bái lĩnh được sử dụng nhuần
nhiễn vừa phù hợp với không khí, cảnh tượng vừa góp phần tạo nên sự thiêng hóa nhân vật theo bút
pháp lãng mạn.
- TL cũng sử dụng rất đắt thủ pháp tương phản:
\ Tương phản giữa bóng tối và ánh sáng:
. Bóng tối: Khi chiều muộn ánh sáng còn yếu ớt. Khi màn đêm buông xuống bóng tối cứ lan
dần, lấn dần từng con phố, từng ngõ xóm để rồi nhấn chìm phố huyện trong màn đêm: “tối hết cả,
con đường thăm thẳm ra song, con đường qua chợ về nhà, các ngõ vào làng càng sẫm đen hơn nữa”.
Bóng tối được gợi đi, gợi lại như những nét vẽ phong phú như một mô típ đầy ám ảnh, ám ảnh nhất
là khi bóng tổi như một bức tường dầy cản cả âm thanh khiến “trống cầm canh ở huyện đánh tung
lên một tiếng ngắn khô khan, không vang động ra xa, rồi chìm ngay vào bóng tối.

. Ánh sáng của phố huyện lúc này chỉ là những khe sáng từ nhà ai hắt ra; là hột sáng của
những ánh đèn tù mù vặn nhỏ; là chấm sáng từ ánh đèn cuối toa tầu -> Tất cả để nhỏ nhoi, yếu ớt
trước vũ trụ thăm thẳm trong bóng tối.
Nếu ví tác phẩm của TL như một bài thơ, lại là bài thơ hay thì phải có “thi nhãn” tức con mắt
thơ tỏa sáng cả thế giới nghệ thuật của tác phẩm. Đâu là con mắt thơ trong tác phẩm HĐT?
@. Đó là ngọn đèn dầu nơi hàng nước của chị Tí được nhắc đi, nhắc lại nhiều lần, là chi tiết
nghệ thuật giầu ý nghĩa. Ngọn đèn lay động trên chõng hàng của chị Tí, ngọn đèn con của chị Tí,
vầng sáng ngọn đèn của chị Tí và ngọn đèn con tù mù leo lét ấy chỉ chiếu sáng một vùng đất nhỏ đó
vừa là hình ảnh thực nhưng đồng thời gợi sự liên tưởng tới những kiếp người nhỏ bé bị lãng quên
đang sống lay lắt trong đêm trường xã hội cũ. Những cư dân phố huyện kiếm sống trong đêm, mỗi
người cần đem theo một ngọn đèn và chính họ cũng như những ngọn đèn leo lét.
@. Đó là Hình ảnh những ngôi sao lấp lánh, cũng được miêu tả nhiều lần. Trời bắt đầu vào
đêm “vòm trời hàng ngàn ngôi sao ganh nhau lấp lánh”. Càng về khuya, “qua kẽ lá của cây bang,
ngàn sao vẫn lấp lánh”. Và khi con tầu đi qua, tiếng vang động nhỏ dần, mất dần trong bóng tối thì
“sao trên trời vẫn lấp lánh”. Sự tương phản giữa ánh sap lấp lánh trên trời với ánh đèn tù mù dưới
mặt đất đã làm vút lên một niềm tin và một chất thơ lãng mạn. Điều đó cần thiết biết bao trong hoàn
cảnh con người đang phải sống lay lắt trong bóng tối, trong nghèo khổ, lam lũ, tẻ nhạt và bế tắc.
\ Tương phản quá khứ, hiện tại ( của Liên ), nhờ đó bộc lộ được chủ đề tác phẩm.
+ Hiện tại nghèo khổ: “ Mấy đứa trẻ con nhà nghèo ở ven chợ cúi lom khom trên mặt đất đi
lại tìm tòi. Chúng nhặt nhạnh thanh nứa, thanh tre, hay bất cứ cái gì có thể dùng được của các người
bán hàng để lại, Liên trông thấy động lòng thương nhưng chính chị cũng không có tiền để mà cho
chúng nó.”
+ Quá khứ vui vẻ : “Liên nhớ lại khi ở Hà Nội,chịđược hưởng những thức quà ngon, lạ - bấy
giờ mẹ Liên nhiều tiền - được đi chơi bờ hồ uống những cốc nước lạnh xanh đỏ. Ngoài ra, kỷ niệm
nhớ lại không rõ rệt, chỉ là một vùng sáng rực và lấp lánh. Hà Nội nhiều đèn quá! Từ khi nhà Liên
dọn về đây, từ khi có cái cửa hàng này, đêm nào Liên và em cũng phải ngồi trên chiếc chõng tre
dưới gốc bàng với cái tối của quang cảnh phố chung quanh”
II. Nội dung và nghệ thuật trong truyện ngắn HĐT
1. Giá trị nghệ thuật:
a. Cốt truyện: HĐT là kiểu truyện dường như không có cốt truyện, cốt truyện khộng dựa trên

những sự kiện, tình tiết mà dựa trên những diễn biến tâm trạng của nhân vật.
b. Về nhân vật: Không chú ý miêu tả ngoại hình và hành động mà quan tâm tới đời sống nội
tâm, đời sống tình cảm.
c. Về miêu tả cảnh: Cảnh vật được miêu tả tinh tế với những hình ảnh, màu sắc, âm thanh, mùi
vị hòa quyện vào nhau gợi cái hồn riêng của quê hương VN xưa. Đặc biệt hình ảnh bóng tối được
gợi đi, gợi lại như một mô típ đầy ám ảnh. Cảnh lại được cảm nhận qua cái nhìn tâm trạng của nhân
vật L: “Liên thấy”, “L mải nhìn”, “L nhớ lại”, “L tưởng”,” L lặng theo”.
L là thiếu nữ mới lớn, dịu hiền nhân hậu và đa cảm. Điều này có ý nghĩa đặc biệt vì nó làm
cho cảnh vật thấm đượm cảm xúc, làm cho cảnh vật vốn đơn sơ, tẻ nhạt vẫn mang cai thi vị riêng
của nó, làm cho TG được lạ hóa qua cảm tưởng, qua cảm giác của HĐT. Tương xứng với khung
cảnh là tâm trạng và cảm xúc của nhân vật L như những nấc thanh tâm lí: L man mác buồn thương
trước cảnh chiều tàn, L buồn khắc khoải và thấm thía hơn khi bóng đêm khi bóng đêm buông
xuống, L buồn nuối tiếc, ngơ ngẩn mơ tưởng khát khao khi đoàn tầu đi qua. Cách miêu tả đoàn tầu
3


từ xa đến gần, quan sát bằng nhiều giác quan: thính giác, thị giác và bằng nhiều sắc thái cảm giác:
hồi ức, thực tại, tương lai.
Hình ảnh đoàn tầu tương phản với các cảnh vật nơi phố huyện càng thấm thìa niềm mong ước
khiêm nhường mà trong sáng, tốt đẹp. Một nét tâm lí rất thật, rất điển hình của những người dân
quanh quẩn nơi thôn quê nghèo xưa mà cuộc sống bị trim khuất, mỏi mòn trong tăm tối.
d. Về ngôn ngữ: Ngôn ngữ truyện giầu cảm xúc, giọng văn điềm tĩnh, nhẹ nhàng như ẩn
chứa một tâm sự kín đáo có sức gợi và khơi sâu và cảm xúc người đọc. Nó như một thứ thơ bằng
văn xuôi.
2. Nội dung tư tưởng:
a. Thể hiện giá trị hiện thực và nhân đạo sâu sắc:
- Giá trị hiện thực:
+ Truyện là một bức tranh chân thực và đượm buồn về một miền đất, một miền đời bị lãng
quên: Một phố huyện nghèo xa vắng với phiên chợ nghèo xơ xác, tiêu điều; những ngọn đèn tù mù
như đang lụi dần; những kiếp đời lụi tàn như mẹ con chị Tí, những đứa trẻ nghèo, gia đình bác

Xẩm, bà cụ Thi điên và HĐT. Họ sống nghèo khổ, tăm tối như trim trong cái ao đời tù túng .Những
cảnh vật qua ngòi bút của TL lại gợi cảm vô cùng.
+ Ngòi bút hiện thực của TL đậm chất trữ tình. TL đã viết bằng chính kí ức tuổi ấu thơ của
mình gắn với phố huyện Cẩm Giàng tỉnh Hải Dương. Mỗi chi tiết, hình ảnh đều chân thật, xúc động
vô cùng.
- Giá trị nhân đạo:
+ Truyện thể hiện niềm thương cảm sâu sắc của nhà văn dành cho nhưng con người nhỏ bé,
chịu nhiều thiệt thòi trong xã hội cũ. Ở mảnh đất đó, những số phận con người sống trong tăm tối,
không biết tới niềm vui và hạnh phúc, họ cũng ước mơ nhưng ước mơ của họ thật nhỏ nhoi, tội
nghiệp. Ước mơ chỉ là nhìn thấy con tầu qua phố huyện trong giây lát rồi phố huyện lại trim vào
bóng tối. TL không chỉ thấu hiểu, thương cảm mà còn rung lên tiếng chuông cảnh tỉnh: những con
người bé nhỏ, thiệt thòi dễ bị XH lãng quên và vùi lấp trong tăm tối, xã hội cần quan tâm đến họ.
Họ có thể vô danh nhưng đừng để họ trở thành vô nghĩa.
+ Truyện khẳng định, đề cao ước mơ hạnh phúc, khát vọng đổi đời của con người. Thông
điệp mà nhà văn muốn gửi đến với người đọc là tư tưởng nhân đạo sâu sắc này: Những con người
phố huyện đêm đêm thức chờ đoàn tầu để được sống trong không khí sôi động và luồng ánh sáng
rực rỡ. Dù con tầu chỉ xuất hiện trong giây lát nhưng cũng đủ khuấy lên một niềm mơ ước. HĐT
thật đáng thương mà cũng thật đáng trọng: chúng đáng thường vì chúng như hai mầm cây mới lớn
mà đã còi cọc trên mảnh đất khô cằn; chúng đáng trọng vì những mầm cây còi cọc ấy vẫn cố vươn
lên, vẫn hi vọng đươm hoa, kết trái. Truyện HĐT đã đem đến trong lòng người đọc khát vọng yêu
thương và tin tưởng vào cuộc sống.
+ HĐT còn là bước phát triển của tư tưởng nhân đạo của văn học 1930 – 1945. Đó là sự thức
tỉnh ý thức cá nhân (VD Tỏa nhị Kiều – Xuân Diệu; Đời thừa – Nam Cao). HĐT đã tiếp tục tư
tưởng nhân đạo này để bênh vực cho quyền sống tốt đẹp của những con người bé nhỏ, thiệt thòi.
=> HĐT đã chứa đựng cái tâm, cái tài của nhà văn lãng mạn TL dành cho đồng bào, quê
hương, đất nước mình.
III. Nội dung và nghệ thuật của Chữ người tử tù.
1. Giá trị nghệ thuật:
a. Nguyễn Tuân đã xây dựng được một tình huống truyện độc đáo: cuộc gặp gỡ éo le, kì lạ
giữa hai nhân vật HC với viên QN:

- Về không gian: chốn ngục thất mà HC là tử tù còn viên QN là người có uy quyền trông coi
ngục thất.
- Về thời gian: đêm cuối cùng trước khí HC bị chịu án chém.
- Đó là một cuộc gặp gỡ éo le giữa một tử tù ngang tang, khí phách và có nhân cách cao đẹp
lại viết chữ nho rất đẹp với một người coi tù thích chữ đẹp, đặc biệt là chữ của tử tù HC.
- Trên bình diện xã hội họ gặp nhau trong cảnh ngộ và vị thế đối kháng: HC cầm đầu khởi
nghĩa chống lại triều đình, bị coi là giặc, bị khép tội đại nghịch và chờ án chém; còn viên quản ngục
đang phụng mệnh triều đình, là kẻ đại diện cho bộ máy cai trị của chế độ đó. Nhưng điều kì diệu là
2 kẻ tưởng đối nghịch ấy đã trở thành tri âm, tri kỉ.
- Nhưng ở một chiều sâu khác, đây là một cuộc gặp gỡ tất yếu:
4


+ Ở phương diện nghệ thuật, HC là một tài năng hiếm thấy, “một ngôi sao hôm nhấp nháy,
một ngôi sao chính vị” mà tài viết chữ nho có một không hai trên đời “cả vùng tỉnh Sơn ta đều
khen”. Viên QN tuy là người không có tài nhưng lại là người biết quý trọng cái tài, ông coi chữ của
HC là báu vật mà cả đời khao khát.
+ Ở phương diện cá nhân con người:
\ HC sắp chết chém mà vẫn hiên ngang, cao cả, bất chấp ngục tù và cái chết; còn ngục quan
đang phụng mệnh triều đình lại giám biệt đãi tử tù trong nhà ngục.
\ HC là một người trọng nghĩa, khinh thường danh lợi, tấm lòng biết gạn đục, khơi trong, đem
cái tâm để đãi người biết quý trọng cái đẹp, trọng cái tâm và cái tài; còn viên QN là một tấm lòng
trong thiên hạ “một thanh âm trong trẻo giữa một bản đàn mà nhạc luật hỗn loạn, xô bồ”.
Như vậy họ đã gặp nhau ở cả nhân cách và khí phách. Nhưng điều quan trọng chính là cái
chữ của người tử tù như chất keo kết dính những thứ đó lại với nhau. Chơi chữ hay thư pháp là một
nghệ thuật lâu đời. Trong đó vẻ đẹp của họa kết hợp với cái tinh túy của văn tạo nên những bức câu
đối, hoành phi, tứ bình vô giá. Người viết chữ và người biết thưởng thức chữ đều là người có tâm
hồn thanh cao mới có thể gặp nhau, mới có thể trở thành tri âm, tri kỉ. Nhưng ông trời nhiều lúc
chơi ác đem đầy ải những cái thuần khiết vào giữa một đống cặn bã và những con người có tâm tính
tốt ngay thẳng lại phải ăn đời, ở kiếp với một lũ quay quắt. Đúng là một tình huống éo le nhưng tất

yếu giữa những người thực chất là tri âm, tri kĩ. Cuộc gặp gỡ này là thử thách, làm nổi bật vẻ đẹp
các nhân vật, làm cho truyện giầu kịch tính.
b. Nghệ thuật tạo không khí cổ xưa cho tác phẩm: Những chi tiết về cảnh, người của một
thời vang bóng. Sử dụng một loạt từ ngữ Hán-Việt rất đắt như: phiến chat, thầy bát, thầy thơ lại,
viên QN, thiên lương, án thư, pháp trường, bộ tứ bình, bức trung đường, bái lĩnh… tạo nên mầu sắc
lịch sử, cổ kính, bi tráng.
d. Sử dụng triệt để thủ pháp tương phản đối lập, cách khắc họa nhân vật theo bút pháp
lãng mạn, làm nổi bật gay gắt giữa cái đẹp và cái xấu, cái thiện và cái ác, lí tưởng và hiện
thực. Cảnh cho chữ là cảnh chói sáng nhất trong tác phẩm. Nó vừa thiêng liêng vừa tràn ngập ánh
hào quang của cái đẹp. Cái đẹp tỏa ra từ phẩm chất, khí phách, nhân cách của các nhân vật đặc biệt
toát ra từ vẻ đẹp, cái hay của chữ người tử tù HC đã tạo thành chất thơ huyền diệu của tác phẩm.
2. Về nội dung tư tưởng:
- Tác phẩm trở thành bài ca về cái đẹp, về những con người tài hoa sống đẹp, và sáng tạo ra
cái đẹp; là bài ca về lòng quý trọng cái đẹp cái tài; bài ca về sự gặp gỡ giữa những tấm lòng đối với
cái đẹp với nhân cách đẹp và những tấm lòng thiên lương với nhau. Qua đó tác phẩm đã thể hiện
được quan điểm thẩm mĩ của Nguyễn Tuân. Nhà văn khẳng định cái đẹp phải gắn với cái thiện (Lời
khuyên của HC với viên quản ngục ở cuối truyện mang hàm ý: cái đẹp có thể nảy sinh từ mảnh đất
chết nhưng không thể sống chung với tội ác, con người chỉ xứng đáng được thưởng thức cái đẹp khi
giữ được thiên lương), cái đẹp phải có sức mạnh cảm hóa cái xấu, cái ác; cái đẹp luôn chiến thắng
và trở thành bất tử.
- Ca ngợi chữ người tử tù, ca ngợi và luyến tiếc một nhã thú văn hóa cổ truyền của dân tộc
đang lụi tàn dần trong xã hội thực dân, truyện CNTT là một áng văn yêu nước, mang tinh thần dân
tộc đậm đà. Lòng yêu nước thầm kín nhưng thiết tha còn được thể hiện trong hình tượng nhân vật
HC. Nhân vật này được xây dựng một phần bởi nguyên mẫu ngoài đời là Huấn đạo Cao Bá Quát
(Nhà nho văn võ song toàn mà tài văn đã được người đời ca ngời Siêu thần thánh Quát hoặc Văn
như Siêu Quát vô tiền Hán; Không chỉ có tài năng mà còn có nhân cách đẹp đã gửi lại qua một câu
nói nổi tiếng: Nhất sinh đê thủ bái mai hoa). Với hình tượng HC, nhà văn đã kín đáo thể hiện niềm
ngưỡng mộ, sự ca ngợi những người anh hung đã hi sinh vì nước, vì dân, mà hoàn cảnh lúc đó chưa
cho phép tác giả được công khai ca ngợi.


5



×