Tải bản đầy đủ (.docx) (26 trang)

ô nhiễm nguồn nước tại các làng nghề

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (973.3 KB, 26 trang )

MỤC LỤC


DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT

BOD5
:

Nhu cầu oxy sinh hóa

COD:

Nhu cầu oxy hóa học

SS:

Chất rắn lơ lửng

CBNSTP:

Chế biến nông sản thực phẩm

N, P :

Nitơ, Photpho

Pb, Zn, Fe:

Chì, Kẽm, Sắt

TCCP:



Tiêu chuẩn cho phép

TCVN:

Tiêu chuẩn Việt Nam

BTNMT :

Bộ tài nguyên môi trường


DANH MỤC CÁC BẢNG BIỂU

Biểu đồ Phân bố các làng nghề theo vùng miền
1.2.2
Bảng

Trình độ kỹ thuật ở các làng nghề

1.2.3
Bảng 1.3 Các dạng chất thải trong nước theo loại hình sản xuất
Bảng

Đặc trưng nước thải tại các làng nghề CBNSTP

3.1.1
Bảng

Tổng lượng nước thải và bã thải từ sản xuất tinh bột


3.1.2
Bảng 3.2 Phân tích môi trường nước mặt tại các làng nghề tái chế kim loại
Bảng 3.3 Phân tích môi trường nước mặt tại các làng nghề ươm tơ
Bảng

Chất lượng nước thải sản xuất của làng nghề sơn mài Hạ Thái-Hà Tây

3.4.1

và Tương Bình Hiệp, Bình Dương

Bảng

Kết quả phân tích nước mặt tại thôn An Hoà

3.4.2

ĐẶT VẤN ĐỀ


Việc phát triển làng nghề là một phần của công cuộc công nghiệp hoá - hiện
đại hoá nông nghiệp và nông thôn trong những năm đầu của thế kỷ 21. Phát triển
mạnh những ngành nghề truyền thống, đẩy mạnh xuất khẩu các sản phẩm có giá trị
kinh tế cao, sử dụng được nhiều lao động địa phương là lợi thế của kinh tế làng
nghề. Đời sống nông dân ở nhiều vùng nông thôn trong cả nước đã khá lên từ sản
xuất nông nghiệp đồng thời với việc khôi phục và phát triển các làng nghề. Nhiều
làng nghề đã nêu được bài học về làm giàu ở nông thôn. Tuy nhiên chính những nơi
này đã và đang phải đối mặt với tình trạng ô nhiễm môi trường mỗi, đặc biệt tình
trạng ô nhiễm nguồn nước mặt xung quanh các làng nghề đang ngày càng trở nên

trầm trọng. Nguồn nước ô nhiễm cũng chính là nguồn nước phục vụ cho nhu cầu
sản xuất và sinh hoạt của người dân trong làng, tạo ra một vòng xoắn luẩn quẩn mà
không chỉ có nguồn nước gánh chịu hậu quả, mà chính người dân đang đánh mất
sức khỏe của chính mình.
Nguyên nhân gây ô nhiễm nguồn nước chính là từ các tính chất đặc thù của
làng nghề như: quy mô nhỏ, công nghệ thủ công lạc hậu, phát triển không đồng bộ,
chủ yếu chịu sự chi phối của các thị trường kém ổn định, chạy đua theo lợi nhuận,
không nhiều kinh phí để đầu tư cho công tác xử lí nước thải thì việc xả nước thải ra
nguồn nước tự nhiên mang lại hiệu quả kinh tế. Và một thực tế nữa là do hiểu biết
của chính những người dân ở các làng nghề về tác động của hoạt động sản xuất đến
sức khoẻ bản thân và những người xung quanh còn hạn chế.
Nhận thức được vấn đề trên em xin thực hiện chuyên đề: “ hiện trạng ô nhiễm
nguồn nước mặt do nước thải từ các làng nghề ở Việt Nam” với mục tiêu:
1. Mô tả thực trạng ô nhiễm nguồn nước mặt do nước thải từ làng nghề ở Việt

Nam.
2. Một số kiến nghị nhằm giảm tác động gây ô nhiễm nguồn nước xung quanh
các làng nghề.


Chương 1
TỔNG QUAN

1. Nước và ô nhiễm nước
1.1.1.

Khái niệm nguồn nước mặt

Nước là một hợp chất hóa học của oxy và hydrô, có công thức hóa học là H2O.
Nếu tính theo khối lượng thì trong nước có hydrô chiếm 11.11% còn oxy chiếm

88.89%. Nước là yếu tố chủ yếu của hệ sinh thái, là nhu cầu cơ bản của moi sự sống
trên trái đất và cần thiết cho các hoạt động kinh tế - xã hội của loài người. Nước là
một trong những nhân tố quyết định chất lượng môi trường sống, ở đâu có nước là
ở đó có sự sống.
Tài nguyên nước ở trên thế giới theo tính toán hiện nay là 1,39 tỷ km, tập trung
trong thủy quyển 97,2%(1,35 tỷ km3), còn lại trong khí quyển và thạch quyển. 94%
lượng nước là nước mặn, 2% là nước ngọt tập trung trong băng ở hai cực, 0,6% là
nước ngầm, còn lại là nước sông và hồ. Lượng nước trong khí quyển khoảng
0,001%, trong sinh quyển là 0,002%, trong sông suối 0,00007% tổng lượng nước
trên trái đất. Lượng nước ngọt con người sử dụng xuất phát từ nước mưa( lượng
mưa trên trái đất 105000km3/năm) lượng nước con người sử dụng trong một năm
khoảng 35000km3, trong đó 8% cho sinh hooạt, 23% cho công nghiệp và 63% cho
hoạt động nông nghiệp.
1.1.2.

Khái niệm ô nhiễm nước


Mỗi mục đích sử dụng cần có tiêu chuẩn và phương pháp đánh giá riêng về
mức độ phù hợp cho nhu cầu sử dụng. Để xem xét liệu nguồn nước có đạt yêu cầu sử
dụng cho từng mục đích hay không ta cần so sánh với tiêu chuẩn chất lượng nước
do các tổ chức chuyên môn quốc tế hoặc do nhà nước qui định. Trong các tiêu chuẩn
chất lượng nước người ta chọn lọc mét sè thông số lí, hóa, sinh đặc trưng. Mỗi một
thông số được qui định một giá trị tối đa cho phepsao cho có mặt của các tác nhân
đó trong nguồn nước ở nồng độ không gây ảnh hưởng tới sức khỏe con người, sự
phát riển của tôm cá, hoặc sự phát triển của cây trồng.
Cùng với sụ phát triỉen của loài người, con người đã và đang làm cho môi
trường nước bị ô nhiễm.Ô nhiễm môi trường nước được chia thành hai dạng: tự
nhiên và nhân tạo và được định nghĩa như là sù thay đổi chất lượng nước làm cho
nước độc hại và không sử dụng được. Theo luật Tài nguyên nước của nước CỘNG

HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM thì ô nhiễm nguồn nước là sự thay đổi tính chất
vật lý. Hóa học và thành phần sinh học của nước vi phạm tiêu chuẩn cho phép.
Sự ô nhiễm nước là sự có mặt của nhiều hay mét chất lạ trong môi trưòng
nước dù chất đó có độc hại hay không bới vì khi vượt quá ngưỡng chịu đựng của
sinh vật thì chất đó sẽ trở nên độc hại.
Ô nhiễm nước tự nhiên do các yếu tố tự nhiên( núi lửa, bão, lũ lụt) có thể
nghiêm trọng nhưng không thường xuyên và không phải là nguyên nhân chính gây
suy thoái chất lượng nước toàn cầu.
Ô nhiễm nhân tạo là nguyên nhân quan trọng và phổ biến nhất được phân
thành các loại:




ô nhiễm do các chất hữu cơ thối rữa
ô nhiễm do các nguồn từ hệ thống đốt nóng
ô nhiễm do các chất độc hại




ô nhiễm do chất trơ



ô nhiễm do các nguyên tố và các chất phóng xạ.

Một số đặc điểm sự phát triển làng nghề tại Việt Nam

1.2.


1.2.1.

Càc làng nghề chính ở Việt Nam

- Làng nghề chế biến lương thực, thực phẩm và chăn nuôi: có số lượng
lớn,chiếm 20% tổng số làng nghề, phân bố khá đều trên cả nước, phần nhiều sử
dụng lao động lúc nông nhàn, không yêu cầu trình độ cao, hình thức sản xuất thủ
công và gần như ít thay đổi về quy trình sản xuất so với thời điểm khi hình thành
nghề. Phần lớn các làng nghề chế biến lương thực, thực phẩm nước ta là các làng
nghề thủ công truyền thống nổi tiếng như nấu ruợu, làm bánh đa, đậu phụ, miến
dong, bún…
- Làng nghề dệt nhuộm, ươm tơ, thuộc da: nhiều làng có từ lâu đời, có các sản
phẩm mang tính lịch sử, văn hoá, mang đậm nét địa phương. Những sản phẩm như
lụa tơ tằm, thổ cẩm, dệt may không chỉ là những sản phẩm có giá trị mà còn là
những tác phẩm nghệ thuật đuợc đánh giá cao. Quy trình sản xuất không thay đổi
nhiều, với nhiều lao động có tay nghề cao. Tại các làng nghề nhóm này, lao động
nghề thường là lao động chính.
- Làng nghề sản xuất vật liệu xây dựng và khai thác đá: hình thành từ hàng
trăm năm nay, tập trung ở những vùng có khả năng cung cấp nguyên liệu cơ bản
cho hoạt động xây dựng. lao động gần như thủ công hoàn toàn, quy trình công nghệ
thô sơ, tỷ lệ cơ khí hoá thấp, ít thay đổi.
- Làng nghề tái chế phế liệu: chủ yếu là các làng nghề mới hình thành, số lượng
ít nhưng lại phát triển nhanh về quy mô và loại hình tái chế (chất thải, kim loại,


giấy, nhựa, vải đã qua sử dụng. Đa số các làng nghề tái chế nằm ở phía Bắc, công
nghệ sản xuất được cơ khí hoá một phần.
- Làng nghề thủ công mỹ nghệ: bao gồm các làng nghề gốm, sành sứ, thuỷ tinh
mỹ nghệ, sơn mài, làm nón, dệt chiếu, thêu ren. Đây là nhóm làng nghề chiếm tỷ

trọng lớn về số lượng (gần 40% tồng số làng nghề), có truyền thống lâu đời, sản
phẩm có giá trị cao, mang đậm nét văn hoá, và đặc điểm địa phương, dân tộc. Quy
trình sản xuất gần như không thay đổi, lao động thủ công, nhưng đòi hỏi tay nghề
cao, chuyên môn hoá, tỉ mỉ và sáng tạo.
- Các nhóm ngành khác: bao gồm các làng nghề chế tạo nông cụ thô sơ như cày
bừa, cuốc xẻng, mộc gia dụng, đóng thuyền, làm quạt giấy, dây thừng, đan vó, đan
lưới… Những làng nghề nhóm này xuất hiện từ lâu, sản phẩm phục vụ trực tiếp cho
nhu cầu sinh hoạt và sản xuất của địa phương. Lao động phần lớn là thủ công với số
lượng và chất lượng ổn định.
1.2.2.

Phân bố làng nghề trên cả nước

Với các chỉ tiêu đã đề ra, cho nay, Việt Nam có khoảng 2017 làng nghề, thuộc 11
nhóm ngành nghề khác nhau, trong đó gồm 1,4 triệu hộ tham gia sản xuất (cả hộ
kiêm), thu hút hơn 11 triệu lao động. Nhiều tỉnh có số lượng các làng nghề lớn như
Hà Tây (cũ) với 280 làng nghề, Bắc Ninh (187), Hải Dương (65), Hưng Yên (48)… với
hàng trăm ngành nghề khác nhau, phương thức sản xuất đa dạng. Tuy nhiên, sự
phân bố và phát triển các làng nghề lại không đồng đều trong cả nước. Các làng nghề
ở miền Bắc phát triển hơn ở miền Trung và miền Nam, chiếm gần 70% số lượng các
làng nghề trong cả nước (1594 làng nghề), trong đó tập trung nhiều nhất và mạnh
nhất là ở vùng đồng bằng sông Hồng. Miền Trung có khoảng 111 làng nghề, còn lại ở
miền Nam hơn 300 làng nghề [Hiệp Hội làng nghề Việt Nam, 2009].

Biểu đồ 1.2.2 : phân bố các làng nghề theo vùng miền
1.2.3. Đặc điểm của làng nghề ảnh hưởng đến ô nhiễm môi trường
- Quy mô sản xuất nhỏ, phần lớn ở quy mô hộ gia đình (chiếm 72% cơ sở sản
xuất)



-

Nếp sống tiểu nông của người chủ sản xuất nhỏ có nguồn gốc nông dân đã
ảnh hưởng mạnh đến sản xuất tại làng nghề, làm tăng mức độ ô nhiễm môi

trường.
- Quan hệ sản xuất mang đặc thù của quan hệ gia đình, dòng tộc, làng xã.
- Công nghệ sản xuất và thiết bị phần lớn ở trình độ lạc hậu, chắp vá.
- Vốn đầu tư của các cơ sở sản xuất tại các làng nghề thấp, khó có điều kiện
phát triển và đổi mới công nghệ theo hướng thân thiện với môi trường.
- Trình độ lao động chủ yếu là lao động thủ công, học nghề, văn hoá thấp nên
hạn chế nhận thức đối với công tác bảo vệ môi trường.
- Nhiều làng nghề chưa quan tâm đến xây dựng hạ tầng kỹ thuật cho bảo vệ
môi trường.
Bảng 1.2.3: Trình độ kỹ thuật ở các làng nghề
ĐVT: %

Trình độ kỹ thuật

Thủ công, bán cơ

Chế biến nông,
lâm, thuỷ sản

Thủ công mỹ
nghệ và vật
liệu xây dựng

Các ngành
dịch vụ


Các
ngành
khác

61.51

70.69

43.90

59.44

38.49

29.31

56.10

40.56

0

0

0

0

khí

Cơ khí
Tự động hoá

(Nguồn: Đề tài KC 08 – 09, 2005)

1.3.

Tổng quan ô nhiễm môi trường nói chung và môi trường nước nói
riêng trong các làng nghề.
Các chất thải phát sinh từ nhiều làng nghề đã và đang làm suy thoái môi

trường nghiêm trọng, tác động trực tiếp đến sức khoẻ người dân và ngày càng trở
thành vấn đền bức xúc. Ô nhiễm môi trường làng nghề có một số đặc điểm sau:




Ô nhiễm môi trường làng nghề là dạng ô nhiễm phân tán trong phạm vi một khu

vực (nông thôn, làng, xã…). Do quy mô sản xuất nhỏ, phân tán, đan xen với khu sinh
hoạt nên đây là loại hình ô nhiễm khó quy hoạch và kiểm soát.


Ô nhiễm môi trường tại làng nghề mang đậm nét đặc thù của hoạt động sản

xuất theo ngành nghề và loại hình sản phẩm và tác động trực tiếp đến môi trường
nước, đất, khí trong khu vực.


Ô nhiễm môi trường tại các làng nghề thường khá cao tại khu vực sản xuất và


ảnh hưởng trực tiếp đến sức khoẻ của người lao động.
Khối lượng và đặc trưng nước thải sản xuất ở các làng nghề phụ thuộc chủ
yếu vào công nghệ và nguyên liệu dùng trong sản xuất. Chê biến lương thực, thực
phẩm, chăn nuôi, giết mổ gia súc, gia cầm, ươm tơ, dệt nhuộm… là những ngành sản
xuất có nhu cầu nước rất lớn và cũng xả thải ra khối lượng lớn nước thải với mức
độ ô nhiễm hữu cơ cao đến rất cao. Ngược lại, một số ngành như tái chế, chế tác kim
loại, đúc đồng, nhôm… nhu cầu nước không lớn nhưng nước thải bị ô nhiễm các
chất rất độc hại như các hoá chất axit, muối kim loại, xyanua và các kim loại nặng
như Hd, Pb, Cr, Zn, Cu…
-

Các làng nghề chế biến lương thực, thực phẩm, chăn nuôi và giết mổ: khối lượng
nước thải sản xuất rất lớn với thải lượng các chất ô nhiễm hữu cơ cao

-

Các làng nghề dệt nhuộm, ươm tơ, thuộc da: nước thải sản xuất có độ màu cao,
chứa nhiều hoá chất, độ muối cao.

-

Các làng nghề tái chế phế liệu: nước thải sản xuất chứa nhiều hoá chất độc hại

-

Các làng nghề thủ công mỹ nghệ: nước thải sản xuất của một số làng nghề sơn mài
và mây tre đan chứa nhiều loại hoá chất độc.
Bảng 1.3: các dạng chất thải trong nước theo loại hình sản xuất
Loại hình sản xuất


Các dạng chất thải trong môi trường nước


1. Chế biến lương thực, BOD, COD, chất rắn lơ lửng, tổng N, Tổng P,
thực phẩm, chăn nuôi, giết Coliform
mổ
2. Dệt nhuộm, ươm tơ, BOD, COD, độ màu, Tổng N, hoá chất, thuốc tẩy, Cr 6+
thuộc da

(thuộc da)

3. Thủ công mỹ nghệ, thêu BOD, COD, chất rắn lơ lửng, độ màu, dẫu mỡ công
ren

nghiệp

- Gốm sứ
- Sơn mài, gỗ mỹ nghệ, chế
tác đá.
4. Tái chế
- Tái chế giấy

- pH, BOD5, COD, tổng N, tổng P, độ màu

- Tái chế kim loại

- COD, dầu mỡ, CN-, kim loại

- Tái chế nhựa


- BOD, COD, tổng N, tổng P, dẫu mỡ, độ màu

5. Vật liệu xây dựng, khai Chất rắn lơ lửng, Si, Cr
thác đá
(trích nguồn: Báo cáo môi trường quốc gia năm 2008)
Chương 3
HIỆN TRẠNG Ô NHIỄM NGUỒN NƯỚC MẶT DO NƯỚC THẢI TẠI LÀNG NGHỀ
TẠI VIỆT NAM
Hiện nay, tình trạng phổ biến của các hộ, cơ sở sản xuất nghề ở nông thôn là sử
dụng ngay diện tích ở làm nơi sản xuất. Khi quy mô sản xuất tăng lên hoặc sử dụng
thiết bị, hóa chất đã làm cho môi trường sống bị ô nhiễm nặng nề, nhất là ở các làng
nghề tái chế phế liệu và chế biến thực phẩm. Cho đến nay, phần lớn nước thải tại các
làng nghề đều thải thẳng ra ngoài không qua bất kỳ khâu xử lý nào. Đây chính là
nguyên nhân khiến cho tình trạng ô nhiễm nguồn nước tại các làng nghề ngày càng tồi
tệ hơn.


Ô nhiễm nguồn nước mặt tại làng nghề chế biến nông sản thực phẩm

3.1.

Vấn đề ô nhiễm nước tại các làng nghề chế biến nông sản thực phẩm ngày càng
trầm trọng. Chế biến nông sản thực phẩm là loại hình sản xuất có nhu cầu lớn về sử
dụng nước và đồng thời cũng thải ra một lượng nước không nhỏ. Nước thải của các
làng nghề này có đặc tính chung là rất giàu chất hữu cơ, dễ phân huỷ sinh học.
-

Ngành chế biến nông sản là ngành có nhu cầu nước rất lớn và thải ra một lượng
nước không nhỏ giàu chất hữu cơ gây ô nhiễm môi trường. Tùy theo quy trình

chế biến, nước thải chế biến nông sản thực phẩm có BOD 5 lên tới 2500 5000mg/l, COD 13300 - 20000mg/l (nước tách bột đen trong sản xuất tinh bột
sắn). Nước thải cống chung của các làng nghề này đều vượt quy chuẩn cho
phép từ 5 - 32 lần. Theo khảo sát thực trạng môi trường sản xuất thạch dừa khô
tại phường 7, tx Bến Tre, tỉnh Bến Tre của

. kết quả phân tích các thông số ô

nhiễm đặc trưng nhất bao gồm pH, DO, COD, BOD 5, SS, NTổng, PTổng, Coliform
trong nước thải của các cơ sở sản xuất thạch dừa tại phường 7 so sánh với cột B
của QCVN 24:2009/BTNMT đều vượt qua tiêu chuẩn cho phép như chỉ số
COD gấp 40-160 lần tiêu chuẩn, BOD gấp 40 lần, chỉ số SS, Nitơ, photpho,
coliform gấp gần 10 lần tiêu chuẩn cho phép[3]
Theo “Đánh giá hiện trạng ô nhiễm môi trường phục vụ phát triển bền vững làng
nghề chế biến thực phẩm Dương Liễu, huyện Hoài Đức, thành phố Hà Nội” sản xuất
tinh bột là nghề tạo ra một khối lượng thải rất lớn. Để tạo ra một tấn tinh bột sắn thành
phẩm cần 2 tấn sắn củ, đồng thời tạo ra 0,9 tấn bã, rác thải và 13 m 3 nước thải. Tương
tự như vậy với một tấn tinh bột dong thành phẩm cũng cần tới 3,3 tấn dong củ, đồng
thời thải ra 2 tấn bã, rác thải và 41 m3 nước. Lượng thải này chiếm tới 88% rác thải và
96% tổng lượng nước thải trong sản xuất của toàn xã[6]
Bảng 3.1.2. Tổng lượng nước thải và bã thải từ sản xuất tinh bột làng nghề
Dương Liễu.


Tinh bột sắn

Tinh bột dong


Sản lượng
m

(tấn)
200

Rác thải

Nước

Sản

Rác thải

rắn

thải

lượng

rắn

(tấn)

3

(m )

(tấn)

(tấn)

Nước thải

(m3)

60.000

54.000

780.000

17.000

34.000

697.000

70.000

63.000

910.000

20.000

41.300

820.000

5
200
8


Toàn bộ nước thải từ sản xuất được thải trực tiếp vào hệ thống cống
nước, mương nước của xã rồi chảy vào sông Nhuệ, sông Đáy , hai nhánh sông
lớn nhất của toàn khu vực Hoài Đức hàng năm phải hứng chịu hàng triệu m 3
nước thải với màu đen sẫm, mùi hôi chua nồng nặc, kèm theo đó hàm lượng
huyền phù vượt quá TCCP hàng chục lần, BOD, COD vượt quá TCCP hàng chục,
hàng trăm lần. Nhất là hàm lượng vi khuẩn rất lớn, là nguyên nhân ủ mầm bệnh
cho chính làng nghề và các vùng lân cận. Kết quả phân tích một số mẫu nước tại
làng nghề năm 2009 cho thấy tất cả các chỉ tiêu đều vượt quá TCCP, hàm lượng
BOD, COD, SS và coliform đều rất cao. Hàm lượng BOD và COD trong nước thải
trước các hộ sản xuất tinh bột sắn, dong, lọc tinh bột vượt quá TCCP từ 60 đến 113
lần; hàm lượng SS gấp từ 2 đến 4 lần; N tổng, P tổng gấp từ 2 đến 5 lần; đặc biệt
lượng coliform vượt quá TCCP từ 50 đến 100, đến 180 lần.

Trong cuốn làng nghề Việt Nam và môi trường, GS.TS. Đặng Kim Chi đã
cảnh báo " Các làng nghề chê biến nông sản thực phẩm, nhất là các làng nghê sản
xuất tinh bột, nấu rượu, nuôi và giết mổ gia súc có độ ô nhiễm rất cao. Định mức
nước thài cho 1 tấn sản phẩm là 60 - 100 m3, với tải trọng BOD5 - 380-400 kg/tấn
sản phẩm, COD = 600 - 650 kg/tấn sản phẩm. Kêt quả khảo sát cũng cho thấy 100%


làng nghề sản xuất chế biến nông sản thực phẩm thuộc loại ô nhiễm nặng. Mức độ ô
nhiễm nguồn nước thải CBNS được thể hiện qua bảng.
Bảng 3.1.1: Đặc trưng nước thải tại các làng nghề CBNSTP
Chỉ
tiêu

Đơn vị

Phú
ĐôHà

Nội


hội,
Thái
Bình

Thôn
Đoài,
Bắc
Ninh

Tân
Độ,

Tây

Phong
Lộc
Nam
Định

Quang
Bình,
Kiến
Xươn
g

TCV
N

5945
1995
(cột
B)

26,3

Qua
ng
Minh
,
Kiến
Xươ
ng,
T.Bìn
h
27,5

Nhiệ
t độ

ºC

27,7

26,5

-

25


27,5

40

PH

-

6,1

7,09

5,3

3,7

-

4,7

5,1

5,5-9

SS
COD
BOD5
N
P

Coli
form

mg/l
mg/l
mg/l
mg/l
mg/l
MPN/1
00ml

414
2967
1850
20,9
2,79
-

198
1880
1040
27,5
0,78
-

1434
1421
1008
27
14

26.10

2671
2993
2003
121
39
37.10

266
3868
1700
1002
44,2
-

1206
976
642
32
4,2
13. 104

1764
1080
1271
67
23
21. 104


100
100
50
60
6
104

4

4

(Theo cuốn làng nghề Việt Nam và môi trường- Đặng Kim Chi)
3.2.

Ô nhiễm nguồn nước mặt tại làng nghề tái chế phế thải
Làng nghề tái chế phế thải gồm: tái chế giấy, tái chế kim loại, tái chế nhựa ..., là

một ngành mới được hình thành tuy nhiên trong những năm qua đã phát triển khá
nhanh. Ở các làng này ô nhiễm môi trường nước diễn ra khá nghiêm trọng do đặc điểm
sử dụng nhiều nước. Trong quá trình rửa sạch chất thải, nước thải mang theo khá nhiều
các tạp chất làm ô nhiễm môi trường.
 Làng nghề làm giấy: Đối với các làng nghề làm giấy, ô nhiễm nguồn nước là vấn đề

cơ bản do nước thải từ các phân xưởng xeo giấy, nấu bột giấy không qua xử lý
mang theo một hàm lượng lớn các chất hữu cơ phân hủy từ nguyên liệu, các hóa
chất sử dụng như xút, lignin, nước javen, phèn kép, phẩm màu, nhựa thông... Các kết
quả khảo sát tại hai làng nghề Phong Khê và Phú Lâm (Bắc Ninh) cho thấy, hàm


lượng cặn lơ lửng vượt TCVN 5942-1995 từ 5-10 lần và BOD vượt 6- 12 lần, NH3

vượt 3-7 lần, ngoài ra các chỉ tiêu khác như pH, DO và coliform cũng vượt TCCP [4]
Kết quả nghiên cứu của TS.Đặng Kim Chi tại làng nghề tái chế giấy Dương Ổ
(Bắc Ninh) nước có hàm lượng COD là 630 - 1260 mg/l vượt quá tiêu chuẩn cho phép
từ 2 - 12 lần, ngoài ra hàm lượng Phenol rất cao (0.2 mg/l) vượt tiêu chuẩn cho phép
10 lần. Ở làng nghề tái chế kim loại nước thải của quá trình tẩy rửa và mạ kim loại
chứa bụi kim loại, bụi silicat, rỉ sắt, dầu mỡ, hoá chất axit, xút, các kim loại như: Cr 2+,
Pb2+..., gây ô nhiễm nghiêm trọng nguồn nước.
 Nước thải của các cơ sở mạ ở các làng nghề hầu hết không được xử lý và thải thẳng

ra mương thoát nước của làng gây ô nhiễm nặng nề môi trường nước, đất. Ví dụ ở
làng nghề Phùng Xá (Hà Tây), nồng độ Crom, Fe, Mn, xyanua trong nước thải cao
hơn TCVN 5945-1995 từ 1,1 - 700 lần, nồng độ CN- ở trong hai mẫu nước giếng
khơi của làng và nhà dân vượt TCVN 5944 -1995 từ 3 - 6 lần. Nước thải của quá
trình tẩy dũa ở xã Quang Trung (Nam Định) hiện nay không được kiểm soát chặt
chẽ, các hộ thải bỏ không an toàn xuống mương làng gây chết hoa màu và động vật
dưới nước. Nồng độ dầu mỡ, khoáng, sắt, Clo dư trong nước thải cao hơn TCVN
5945-1995.


Làng nghề tái chế kim loại (nhôm, chì, đồng, kẽm): Đây là loại hình làng nghề
gây ô nhiễm môi trường và ảnh hưởng đến sức khỏe cộng đồng nhiều nhất do công
nghệ lạc hậu và không có các giải pháp kiểm soát ô nhiễm Nước mặt và đất tại các
làng nghề này cũng bị ô nhiễm nặng, hàm lượng kim loại nặng (ví dụ như chì) vượt
TCCP nhiều lần, thậm chí còn xuất hiện hàm lượng xianua đáng kể, làm cho các loài
thủy sinh không thể tồn tại trong nước ao hồ tại làng Đồng Mai (Hà Tây) và Văn Môn
(Hưng Yên)[5]. Trên báo Thương mại số 35, 2003 có bài viết “Xám xịt làng chì” đã
viết: Làng nghề tái chế Đông Mai có 200 hộ tham gia sản xuất, 25 lò nấu chì, tiêu thụ
16-18 tấn ắcquy hỏng/ngày, thu 8-10 tấn chì, thải ra 500kg bụi chì và từ 7-8 vỏ bình
ắcquy và axít H2SO4..Ao và nước giếng có hàm lượng chì trung bình 0,77mg/l, vượt
tiêu chuẩn cho phép 15 lần, đặc biệt ao đãi chì và đổ xỉ hàm lượng 3,278mg/l, vượt

tiêu chuẩn cho phép 65 lần. Trong bèo chứa 430,3mg chì/kg, rau muống 168,15mg
chì/kg tại ao chứa nước thải pha ắcquy. Gây ảnh hưởng lớn đến sức khỏe người dân:
100% người lao động nhiễm bụi chì, hàm lượng chì trong nước tiểu là 0,25-0,56mg/l
(đối với người bình thường khoảng 0,06mg/l), hàm lượng chì trong máu người lao
động là 135mg/l, 48 trẻ em bị dị tật, 97 trẻ em bị viêm phổi, thiếu máu, xanh xao, tỷ lệ
người mắc bệnh thần kinh, bại liệt não, lao phổi cao hơn các nơi khác từ 2-3 lần
Tái chế kim loại Đa Hội, Bắc Ninh tái chế nhôm chì Văn Môn sử dụng nhiều
than, củi, dầu FO DO làm lượng chất thải theo nguồn nước có nhiều tạp chất và ion
kim loại, riêng thép vượt TCCP tới 93 lần, Zn 4,7 lần, dầu mỡ 2,77 lần, Pb vượt 24
lần… Nước thải chảy vào mương đổ vào làm cho dòng sông trở nên đen kịt, đặc quánh
[4].

Tại làng tái chế kim loại Đa Hội khi tái chế thép hoạt động ngày và đêm, thải ra

môi trường gần 3,5 tấn rác thải công nghiệp, chủ yếu là phế liệu loại, vẩy sắt, vụn
sắt, đất cát, bao bì, xỉ than… đổ ra các ao hồ, bờ đê và mặt sông. Do công việc tôi
thép đòi hỏi nhiệt độ cao, nên toàn bộ lượng nước thải của Đa Hội ước tính bằng
hàng ngàn m3/ngày đêm, có nhiệt độ từ 40 – 50 0C, mang theo nhiều cặn sắt, thép
đồng, man-gan và váng dầu mỡ cũng được xả trực tiếp ra các kênh mương, cánh
đồng, càng làm cho nhiều diện tích canh tác bị ô nhiễm nặng [4].
Dưới đây là kết quả phân tích môi trường nước mặt tại một số làng nghề tái chế
kim loại trong cuốn Làng nghề Việt Nam và môi trường


Bảng 3.2. phân tích môi trường nước mặt tại các làng nghề tái chế kim loại

(Theo cuốn Làng nghề Việt Nam và môi trường-Đặng Kim
Chi)
Từ bản nhận thấy nguồn nước mặt tại các làng nghề tái chế kim loại đang có
dấu hiệu ô nhiễm, đặc biệt các kim loại nặng như chì, kẽm là các kim loại có tác hại

lớn đến sức khỏe, từ nguồn nước mặt các kim loại nặng sẽ nhiễm vào nước sinh hoạt
và rau quả, cây trồng được tưới nguồn nước này. Nước mặt tại làng nghề Xuân Tiến Nam Định có hàm lượng Pb 2+ lán gấp 2 lần TCCP, hàm lượng Zn vượt TCCP 0,6
mg/l.
3.3.

Ô nhiễm nguồn nước mặt tại làng nghề dệt nhuộm, ươm tơ

Ổ nhiễm do nưốc thải là vấn đề môi trường lớn nhất đối với các làng nghề dệt
nhuộm. Đây là ngành sử dụng nhiều nước, nhiêu hóa chất thuốc nhuộm, bên cạnh
đó các cơ sở thường nhỏ lẻ, sản xuất đan xen với nơi ở, nhận thức về bảo vệ môi
trường của người lao động chưa cao nên ô nhiễm do nước thải làng nghề dệt
nhuộm ngày càng trở nên nghiêm trọng.
Để tẩy trắng sản phẩm, lượng hoá chất dùng để sản xuất cho 100m vải cần khoảng
0,25 kg Javen, 0,2 kg silicat, 0,2 kg H2O2. Phẩm màu công nghiệp dùng để nhuộm hấp


xuất phát từ nhiều nguồn khác nhau, người dân làm nghề không nắm được thành phần,
độc tính của thuốc nhuộm. Nguồn thải làng nghề dệt nhuộm, ngoài nước thải có thành
phần thông thường như: các chất hữu cơ, NH 3, NO2-, PO3-, còn có một lượng lớn các
hoá chất là thành phần thuốc nhuộm (trong đó có một số hợp chất rất độc với con
người và môi trường sinh thái như các hợp chất diazô), các chất màu làm cho nước
nhiễm màu. Thông thường lượng thuốc nhuộm đi cùng nước thải chiếm tới 25%. Làng
nghề ươm tơ: sản xuất 1kg kén tơ cần sử dụng 1,5 kg than, 0, 08 kg củi, 01 tạ kén sử
dụng 1m3 nước, chất thải phát sinh từ sản xuất tơ tằm, nước thải có chứa các chất hữu
cơ, nitơ, tơ sợi vì thế nước thải dễ phân huỷ làm ô nhiễm nguồn nước mặt và gây mùi
khó chịu tại khu vực làng nghề [1]
Bảng 3.3. phân tích môi trường nước mặt tại các làng nghề ươm tơ

(Theo cuốn Làng nghề Việt Nam và môi trường-Đặng Kim
Chi)

Từ bảng ta thấy nguồn nước mặt tại các làng nghề ươm tơ, dệt lụa đều thay đổi tính
chất vượt qua tiêu chuẩn cho phép, đặc biệt tại các nguồn nước ao diện tích nhỏ lưu
thông nguồn nước khác ít như nước ao tại làng nghề Cổ Chất-Nam Định : COD, BOD
cao gấp 10 lần TCCP, PH, nhiệt độ, độ màu, Amoni đều cao hơn nhiều lần so với tiêu


chuẩn, và với nguồn nước khác, làm tiêu diệt hệ sinh thái dưới nước, nồng độ chất hữu
cơ cao tạo môi trường thuận lợi cho vi khuẩn gây bệnh phát triển.
3.4.

Ô nhiễm nguồn nước mặt tại các làng nghề thủ công mỹ nghệ, thêu ren
Nhu cầu nước của loại hình làng nghề này nhỏ, các làng nghề này hiện tượng ô

nhiễm môi trường nước diễn ra ít nghiêm trọng như các làng nghề chế biến NSTP và
các làng nghề tái chế. Nước cần nhiều cho sản xuất sơn mài, mạ bạc.
Trong cuốn làng nghề Việt Nam và môi trường, GS.TS. Đặng Kim Chi: Kết quả
phân tích cho thấy nước thải sản xuất sơn mài có BOD5, COD và SS lớn, nước thải
của làng nghề mạ bạc có chứa hàm lượng lớn các kim loại nặng. Độ pH thấp (pH =
5,1) do trong quá trình mạ phải sử dụng một lượng lổn axit (H 2S04). Hàm lượng
xianua (CN ) là 1,75 mg/1 (gấp 1,5 TCCP), hàm lượng Zn 2+: 4,2 mg/1 (gấp 2,1 lần
TCCP). Sự ô nhiễm nước thải do sản xuất sơn mài thể hiện qua Bảng 3.4.1 chất
lượng nước thải sản xuất của làng nghề sơn mài Hạ Thái-Hà Tây và Tương Bình
Hiệp, Bình Dương

Bảng 3.4.1: Chất lượng nước thải sản xuất của làng nghề sơn mài Hạ Thái-Hà
Tây và Tương Bình Hiệp, Bình Dương


(Theo cuốn Làng nghề Việt Nam và môi trường-Đặng Kim Chi)
Tại các làng nghề thêu ren, nước được sử dụng cho việc giặt là sản phẩm được

thải trực tiếp ra nguồn nước mặt tự nhiên. Theo nghiên cứu “hiện trạng môi trường
làng nghề thêu ren An Hòa, Thanh Hà, Hà Nam” th.sĩ Phạm Văn Thành- Đại học nông
nghiệp Hà Nội. Các tiêu chuẩn các chất trong nước của một số hộ sản xuất đều vượt xa
mức cho phép. Hàm lượng COD cao hơn tiêu chuẩn loại B theo QCVN 14: 2008/BTNMT
từ 1,56 - 1, 64 lần, nồng độ amoni cao gấp 1,5 – 2, 1 lần. Chảy vào mương tiêu thoát nước
ngoài nước thải công nghiệp từ các cơ sở giặt là còn có nước thải sinh hoạt, chăn nuôi của các
hộ dân cư trong làng. Tại mương tiêu thoát nước, nồng độ các chất dinh dưỡng cao: Amoni
cao gấp gần 4 lần tiêu chuẩn thải loại B theo QCVN 14: 2008/BTNMT. Mức độ ô nhiễm chất
hữu cơ là: COD cao gấp 1, 74 lần và BOD cao gấp 1, 2 lần tiêu chuẩn loại B theo tiêu chuẩn
thải QCVN 14: 2008/BTNMT. Kết quả phân tích nước thải cho được thể hiện ở bảng sau:
Bảng 3.4.2: Kết quả phân tích nước thải làng thêu ren An Hoà


STT

Thông số

Đơn

QCVN

vị Kết quả

tính

pH

14:

2008/BTNMT


Mẫu 1

Mẫu 2

Mẫu 3

A

B

9,15

9,09

7,55

5-9

5-9

Amoni

mg/l - N

21

18,7

38,95


5

10

Nitrite

mg/l - N

0,069

0,054

0,053

-

-

Tổng P

mg/l

2,56

2,78

1,18

5


10

COD

mg/l

164

156

174

50

100

BOD

mg/l

60

60

90

30

50


TSS

mg/l

26

39

80

50

100

H 2S

mg/l

0,099

0,108

0,017

1

4

Ghi chú:

Mẫu 1: nước thải giặt là hộ Nguyễn Đình Trung (An Hoà, Thanh Hà)
Mẫu 2: nước thải giặt là hộ bà Phạm Thị Tâm
Mẫu 3: nước mương tiêu thoát nước
Nước thải giặt là tại các hộ thêu ren có nồng độ amoni, nitrite gấp 2 lần TCCP,
COD, BOD cao hơn tiêu chuẩn. Mương tiêu thoát nước là nơi đổ nước thải của nhiều
hộ sản xuất, là nơi lưu thông nguồn nước mặt khác, cũng là nguồn nước cho tưới tiêu
liên, có thể nằm sau hoặc xen kẽ các khu dân cư. Nguồn nước mặt tại các mương thoát
nước chứa có nồng độ amoni gấp 3 lân TCCP, COD, BOD5 cao hơn mức cho phép.
3.5.

Ô nhiễm nguồn nước mặt tại các làng nghề vật liệu xây dựng

Sản xuất vật liệu xây dựng như làng nghề sản xuất vôi, nung gạch, khai thác đá. Các
làng nghề này chủ yếu gây ô nhiễm không khí, đất do tạo ra nhiều khí thải và chất thải
rắn, tác động không nhiều đến nguồn nước.
3.6.

Một số hình ảnh ô nhiễm nguồn nước tại làng nghề


Mương của làng nghề bị ô nhiễm

KẾT LUẬN VÀ GIẢI PHÁP
1. kết luận
- Sự phát triển của các làng nghề có vai trò quan trọng đối với phát triển kinh tế xã hội
hiện nay ở nông thôn. Tuy nhiên, chúng ta cần phải quan tâm đến những hệ quả xấu từ
việc sản xuất và phát triển của các làng nghề tác động lên môi trường nói chung và
nguồn nước mặt nói riêng tại các làng nghề đang bị đe dọa nghiêm trọng. Từ các
nghiên cứu đã nêu ra ở trên đã thể hiện mức độ ô nhiễm nguồn nước do nước thải
từ các làng nghề, hầu hết các làng nghề đều có mức độ ô nhiễm khá cao COD, BOD 5

đều vượt TCCP, nguồn nước tại làng tái chế kim và các loại có nồng độ kim loại ( Pb,
Zn) cao hay các làng nghề ươm tơ nguồn nước bị ô nhiễm chất hữu cơ ( amoni,
nitrite)


- Từ thực trạng trên cho thấy mức độ ô nhiễm nguồn nước gây ảnh hưởng lớn tới sức
khỏe của người dân tại nơi có làng nghề ô nhiễm là vấn đề cần quan tâm giải quyết
hàng đầu
- Việc áp dụng các giải pháp phải tùy thuộc vào điều kiện cụ thể của từng loại hình
làng nghề và từng địa phương.
- Công tác bảo vệ môi trường sản xuất tại làng nghề đang là đòi hỏi cấp thiết. Làm sao
để vừa phát triển kinh tế vừa bảo vệ môi trường sản xuất tại các làng nghề hiệu quả
hơn.
2. giải pháp
- Để phát triển bền vững các làng nghề và khắc phục tình trạng ô nhiễm môi trường
nói chung, nguồn nước mặt nói riêng tại các làng nghề như hiện nay thì vai trò của
các cơ quan Nhà nước vô cùng quan trọng.
+ Nhà nước cần tiến hành quy hoạch, tổ chức, phân bố lại sản xuất tại các làng nghề
cho phù hợp với tính chất đặc thù của từng loại hình làng nghề.
+ Bên cạnh đó, Nhà nước cần tăng cường đầu tư, hỗ trợ về tài chính (thông qua nguồn
vốn vay ưu đãi) để các làng nghề sản xuất đổi mới trang thiết bị phục vụ sản xuất thay
thế dần công cụ thủ công lạc hậu, hỗ trợ quy trình xử lí nước thải ngay trong các cơ
sở sản xuất trước khi thải ra nguồn nước tự nhiên.
+ Hình thành tổ chức quản lý môi trường tại các làng nghề, tạo nên sự liên kết chặt chẽ
giữa các nhà quản lý, nhà môi trường, nhà lập kế hoạch với cộng đồng làng nghề.
+ Xử lý triệt để các cơ sở làng nghề sản xuất gây ô nhiễm môi trường
- Một nhân tố có tác động mạnh mẽ đến bảo vệ môi trường ở các làng nghề chính là
người sản xuất và cộng đồng tại các làng nghề
+ Vì vậy các cơ quan nhà nước cần tăng cường công tác phổ biến, giáo dục, tuyên
truyền vận động về vệ sinh môi trường cũng như ý thức về bảo vệ an toàn lao động

đến tận hộ sản xuất cá thể và tổ chức sản xuất.


+ Nâng cao dân trí nhằm nâng cao ý thức của người dân tại các làng nghề để tự họ
nhận thấy việc bảo vệ môi trường làng nghề chính là bảo vệ lợi ích thiết thực và sức
khỏe lâu dài của cộng đồng cũng như sản phẩm của họ.
+ Nâng cao trình độ lao động chuyên môn cho người lao động
- Đối với người chủ sản xuất tại các làng nghề
+ Cần đầu tư vốn để tăng cường mua sắm các trang thiết bị sản xuấ t, hỗ trỡ đầu tư
quy trình xử lí nước thải.
+ Sử dụng công nghệ sản xuất it gây hại cho môi trường
+ Cần thường xuyên tiến hành vệ sinh môi trường nơi làm việc
+ Trang bị dụng cụ an toàn lao động cho người lao động.
+ Tuân thủ các quy định về vệ sinh môi trường một cách chặt chẽ
TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Phạm Văn Thành “Hiện trạng môi trường làng nghề thêu ren An Hòa, xã
Thanh Hà, Huyện Thanh Liêm, tỉnh Hà Nam và một số giải pháp giảm thiểu ô
nhiễm

môi

trường”

,

đại

học


Nông

nghiệp



Nội.

Đọc

tại

/>
2. Cuốn “làng nghề Việt Nam và môi trường” của PGS.TS Đặng Kim Chi. Nhà xuất
bản Khoa học kĩ thuật, 2005

3. Võ Thị Hồng Thi, 2012 “Khảo sát hiện trạng môi trường làng nghề sản xuất
thạch dừa thô tại phường 7, TX. Bến Tre, tỉnh Bến Tre”. Đọc tại
/>
4. Đoàn Lê Bảo Ý, Huỳnh Phương Thảo, 2010 “Ô nhiễm làng nghề tái chế kim
loại”, Đại học khoa học tự nhiên, Đại học quốc gia TP. Hồ Chí Minh


Đọc

tại

/>
truong-o-lang-nghe-tai-che-kim-loai.htm


5. Thạc sĩ Nguyễn Trinh Hương “ môi trường và sức khỏe cộng đồng tại làng

nghề Việt Nam”, Viện Nghiên cứu KHKT Bảo hộ Lao động
Đọc tại />6. Phạm ngọc Linh, 2012 “Đánh giá hiện trạng ô nhiễm môi trường phục vụ phát
triển bền vững làng nghề chế biến thực phẩm Dương Liễu, huyện Hoài Đức,
thành phố Hà Nội”, Đại học Quốc Gia Hà Nội
7. VTV1, 2014 “Bế tắc trong xử lí môi trường làng nghề tái chế”. Xem tại
/>

×