SV: Nguyễn Thị Bích Phương GS. TS. Nguyễn Kế Tuấn
Lời mở đầu
Khi nước ta chuyển sang cơ chế thị trường có sự định hướng của nhà nước
thì các làng nghề thủ công truyền thống ở nhiều địa phương cũng được phục hồi
và phát triển sản nhanh chóng. Sản phẩm của các làng nghề không chỉ đáp ứng
nhu cầu trong nước mà còn vươn ra thị trường nước ngoài thu được nguồn ngoại
tệ lớn và cải thiện đời sống nhân dân. Phát triển các làng nghề là một hướng đi
rất đúng vì tạo thêm việc làm cho người dân tại các làng nghề lại giữ gìn bản sắc
văn hoá dân tộc. Bên cạnh những dấu hiệu đáng mừng ấy, một nỗi lo lắng và
day dứt là nguy cơ ô nhiễm môi trường tại các làng nghề truyền thống. Nguy cơ
này phát sinh chính từ hoạt động đặc thù của các làng nghề như: quy mô nhỏ,
manh mún, công nghệ thủ công lạc hậu, không đồng bộ phát triển tự phát chủ
yếu chịu sự chi phối của thị trường. Và một thực tế nữa là do sự thiếu hiểu biết
của chính những người dân ở các làng nghề về sự tác động của hoạt động sản
xuất đến sức khoẻ của bản thân và những người xung quanh.
Vấn đề ô nhiễm ở các làng nghề đáng báo động như hiện nay thì các doanh
nghiệp và hộ gia đình đã làm gì? Các cơ quan nhà nước và các địa phương có
những giải pháp nào để khắc phục triệt để tình trạng trên. Đề án này sẽ đi xem
xét thực trạng và giải pháp nhằm giảm thiểu tình trạng ô nhiễm môi trường tại
các làng nghề. Nội dung của đề án gồm ba phần:
Phần 1: phát triển nghề truyền thống và tác động đến môi trường sinh thái.
Phần 2: thực trạng ô nhiễm môi trường tại các làng nghề.
Phần 3: phương hướng và giải pháp nhằm giảm thiểu tình trạng ô nhiễm
môi trường làng nghề.
Mặc dù đã có nhiều cố gắng để trình bầy, nhưng không tránh khỏi các
thiếu sót, rất mong được sự góp ý của thầy và các bạn đọc.
1
SV: Nguyễn Thị Bích Phương GS. TS. Nguyễn Kế Tuấn
Phần 1: Phát triển nghề truyền thống và tác động đến môi
trường sinh thái
1. Phát triển nghề truyền thống tại Việt Nam
Làng nghề nước ta thường là làng nghề đã có từ rất lâu, nhất là khi có chính
sách đổi mới nền kinh tế đã đem lại luồng sinh khí mới cho các làng nghề thủ
công truyền thống tại Việt Nam. Sau một khoảng thời gian bế tắc và ì ạch thì 10
năm gần đây do cơ chế thoáng và mở cửa của thị trường, chính sách hỗ trợ của
nhà nước và do sự năng động tâm huyết vời nghề của người dân, các làng nghề
thủ công không ngừng thay da đổi thịt đã tạo nên một diện mạo mới cho nông
thôi Việt Nam.
Theo số liệu gần đây nhất, Việt Nam hiện nay có 1450 làng nghề phân bố
tại 58 tỉnh và thành phố trong cả nước riêng đồng bằng sông Hồng có khoảng
800 làng nghề; Hà Tây có 280; Thái Bình có 187; Bắc Ninh có 59; Thanh Hoá
có 127. Trong 10 năm vừa qua tốc độ tăng trưởng tại các làng nghề là 8%/năm,
tính theo giá trị đầu ra.Các làng nghề được phân chia thành các loại lớn như sau:
Ươm tơ,
dệt nhuộm,
đồ da
Chế biến
nông sản,
thực phẩm
Tái chế
phế
liệu
Thủ công
mỹ nghệ
Vật liệu,
xây dựng
gốm sứ
Nghế khác
Miền Bắc 138 134 61 404 17 222
Miền Trung 24 42 24 121 9 77
Miền Nam 11 21 5 93 5 42
Tổng cộng 173 197 90 618 31 341
Phân bố làng nghề ở vùng nông thôn Việt Nam
Làng nghề là giải pháp phát triển kinh tế nông thôn rất có hiệu quả. Lao
động nghề đã giải quyết được vấn đề lao động dư thừa và lao động trong thời
gian nông nhàn. Có 27% số hộ nông dân sản xuất nông nghiệp kiêm các ngành
2
SV: Nguyễn Thị Bích Phương GS. TS. Nguyễn Kế Tuấn
nghề và 13% số hộ chuyên về nghành nghề. Lao động tại các làng nghề đã thu
hùt được 10 triệu lao động thường xuyên. Đó cũng là nguồn thu nhập đáng kể tại
các hộ gia đình, tại nhiều làng hoạt động nghế không còn là hoạt động phụ nữa
mà đã là thu nhập chính của các hộ gia đình. Ví dụ như làng Đồng Kỵ ở Từ Sơn,
Bắc Ninh chuyên sản xuất đồ gỗ có thu nhập rất cao, hầu như các hộ gia đình ở
đây đã không sản xuất nông nghiệp nữa.
2. Phát triển nghề truyền thống tác động đến môi trường sinh thái
Bên cạnh những dấu hiệu đáng mừng ấy là nỗi lo lắng và day dứt không
kém là nguy cơ ô nhiễm môi trường tại các làng nghề. Nguy cơ này phát sinh
chính từ đặc thù của các làng nghề như quy mô nhỏ manh mún, công nghệ thủ
công lạc hậu không đồng bộ và cũng do sự thiếu hiểu biết của người dân trong
việc bảo vệ môi trường, bảo vệ sức khỏe của chính mình và mọi người xung
quanh. Hơn nữa các làng nghề có mật độ dân cư đông đúc, vì vậy thiếu mặt
bằng sản xuất, các xưởng sản xuất xen kẽ với khu dân cư. Theo lẽ thường tình
các làng nghề phàt triển thì thu hút càng nhiều lao động. Trước hết là con em các
làng nghề không phải ly hương tìm đường cứu sống, thứ nữa là làng nghề phát
triển sẽ thu hút thêm lao động các vùng lân cận làm cho dân cư ở đây càng thêm
đông đúc. Tình trạng phổ biến tại các làng nghề là nơi sản xuất trùng với nơi ở
nên quy mô sản xuất càng mở rộng thì diện tích đất ở càng hẹp và sử dụng thiết
bị, hoá chất càng nhiều làm cho môi trường sống càng thêm ô nhiễm nặng nề.
Mỗi một làng nghề đều có đặc thù riêng nên mức độ ô nhiễm môi trường hay
loại ô nhiễm riêng như ô nhiễm về nguồn nước; ô nhiễm không khí; ô nhiễm
tiếng ồn… Nhưng bất kỳ loại ô nhiễm nào cũng ảnh hưởng đến sức khỏe, môi
trường sống của người dân.
3
SV: Nguyễn Thị Bích Phương GS. TS. Nguyễn Kế Tuấn
Phần hai: Thực trạng ô nhiễm môi trường tại các làng nghề
1. Làng nghề chế biến nông sản, thực phẩm
Trước hết chúng ta hãy đi xem xét đặc điểm và thực trạng ô nhiễm tại các
làng nghề chế biến nông sản, thực phẩm. Theo thống kê mới nhất, Việt Nam
có 197 làng nghề chế biến nông sản thực phẩm, chủ yếu tập trung ở miền Bắc là
142 làng, miền Trung 42 làng và 21 làng ở miền Nam. Các hộ gia đình thường
có tâm lý và thói quen sản xuất trên quy mô nhỏ, khép kín, tự phát nên hạn chế
đầu tư trang thiết bị, đổi mới công nghệ dẫn đến hiệu quả sản xuất không cao,
tiêu tốn nguồn nhiên liệu đồng thời thải ra môi trường lươngj lớn chất thải đặc
biệt là chất thải hữu cơ. Đối với môi trường không khí, đặc trưng nhất là mùi hôi
thối của nguyên vật liệu tồn đọng lâu ngày và do sự phân huỷ của các hợp chất
hưu cơ trong chất thải rắn và chất thải từ cống rãnh kênh mương. Quá trình phân
giải yếm khí các chất hữu cơ sinh ra khí độc ảnh hưởng rất xấu đến sức khỏe của
người dân. Đặc biệt phải kể đến các nghề sản xuất nước mắm, do phơi ướt ngoài
trời nên mùi hôi tanh khắp nơi. Hay ô nhiễm tại “làng xương” ở xã Hoà Bình,
Thường Tín, Hà Tây: mỗi ngày làng nhập về khoảng 30 tấn xương các loại sau
đó thải hàng tấn mẩu phế thải ra bờ mương hoặc ngoài đồng vì chưa có bãi tập
kết. Hơn nữa các hộ gia đình còn đổ ra những nước thải vừa đỏ vừa đen mùi hôi
thối không thể chịu nổi. Phần lớn các nước và rác đều được thải trực tiếp ra
ngoài không qua bất kỳ khâu xử lý nào. Chất lượng nước ngầm tại đây đều có
dấu hiệu ô nhiêm với hàm lượng COD, TS, NH
4
+
… ở nước giếng rất cao (được
mô tả ở bảng sau).
4
SV: Nguyễn Thị Bích Phương GS. TS. Nguyễn Kế Tuấn
Chỉ tiêu
Tiêu chuẩn
cho phép
Tinh bột
Bình Minh
Bún Phú
Đô
Nước mắm
Hải Thanh
Rượu
Tân Đô
Đậu phụ
Quang Bình
pH 5.5-9 4.6 6.1 9,59 12 5.1
SS(mg/l) 100 926 414 10 266 1.764
COD(ml/g) 100 1.858 2.967 597 3.868 1.271
BOD5(ml/g) 50 743 1.850 250 1.700 1.080
SN(ml/g) 60 145,6 20,9 9,26 1.002 67
SP(ml/g) 6 27,5 2,79 0,034 44,2 23
Chỉ tiêu tại một số làng nghề chế biến nông sản
Nhìn vào bảng số liệu trên ta thấy đa phần các nước thải đều bị ô nhiễm
nặng thậm trí dân cư ở những vùng này phải mua nước ngột từ nơi khác để sử
dụng. Mặt khác các làng nghề này đều tận thu phế liệu để chăn nuôi. Nước thải
từ nguồn này cũng gây ô nhiễm môi trường không khí và nước đáng kể. Theo
kết quả điều tra y tế ta mới thấy rõ hết được ảnh hưởng của môi trường đến sức
khoẻ của người dân như: phụ khoa ở phụ nữ là 13-38%; viêm da là 4,5-23%;
đường hô hấp là 6-18%; đau mắt là 9-15%. Nguyên nhân chính là môi trường
sinh hoạt không bảo đảm vệ sinh, nguồn nước sạch khan hiếm.
Xét một ví dụ cụ thể tình trạng ô nhiễm môi trường làng nghề tại Dương
Liễu, Hoài Đức, Hà Tây chuyên chế biến các sản phẩm nông sản đã có uy tín
trên thị trường như miền dong, đỗ xanh bóc tách, bún khô, phở khô… Khi về
làng, ấn tượng đầu tiên không phải là những ngôi nhà tầng khanh trang mới
được xây dựng mà là rác và ruồi muỗi. Rác có khắp ở các nơi với đủ các loại
như rác khô, sợi, nước cốt… tràn ra mặt đất chảy xuống cống, ao hồ, mương
máng với những mùi đặc trưng phả vào không khí. Không khí, đất đều đang bị ô
nhiễm nghiêm trọng. Trong làng có khoảng 2000 hộ sản xuất và trung bình mỗi
ngày thải ra 433 tấn giác thải các loại chưa qua xử lý. Nhiều nhất là nước thải và
rác thải từ việc làm miến, ngày đêm thải ra những thứ đen ngòm, đặc quánh
chồng chất lên nhau cao hàng mét. Trước kia làng có rầt nhiều ao hồ, mương
5
SV: Nguyễn Thị Bích Phương GS. TS. Nguyễn Kế Tuấn
rãnh đan chéo nhau nhưng bây giờ đã bị rác thải “san bằng” trở thành bãi phơi
miến, là nơi để ruồi, nhặng phát triển.
2. Ô nhiễm môi trường tại các làng vật liệu xây dựng và gốm xứ:
Hiện nay nước ta hiện có 31 làng sản xuất vật liệu xây dựng và gốm xứ
phân bố đều trên cả nước và tập chung tại các vùng có khả năng cung cấp
nguyên liệu cho hoạt động sản xuất. Số lượng làng nghề tăng theo nhu cầu của
thị trường. Hoạt động sản xuất bao gồm khai thác đá, nung vôi đóng gạch ngói,
gốm xứ. Một số làng được biết tới nhiều như: gốm xứ Bát Tràng ở Gia Lâm, Hà
Nội; Đáp Cầu, Bắc Ninh; Phước Lâm, Khánh Hoà; Dạ Trạch, Hưng Yên… Các
tác động chủ yếu đến môi trường là do bụi và khói lò nung. Quy mô nung gạch,
vôi chủ yếu theo phương pháp thủ công sử dụng nguyên liệu là than, khí thải ra
từ các lò nung là CO, SO, SO
2
…bởi vì thiết kế không đúng quy cách do vậy quá
trình cháy không hết. Đã có một số lò nung gốm xứ thay lò đốt than bằng lò đốt
gas vừa khỏi ô nhiễm môi trường vừa nâng cao năng suất sản phẩm, rút ngắn
thời gian nung đốt tính ra thì hiệu quả kinh tế vẫn cao hơn khi sử dụng lò than
nhưng chi phí ban đầu khá tốn kém. Một số hộ gia đình đã chuyển sang lò gas
nhưng Đối với các làng nghề khai thác đá, ô nhiễm chủ yếu là bụi từ khu vực
khai thác và tiếng ồn do nổ mìn của các hoạt động của máy khoan, đục, nghiền,
xay… Việc khai thác 1m
3
đá nguyên khai qua chế biến sẽ sinh ra 0,1-0,5kg bụi
giầu silic,vượt tiêu chuẩn cho phép từ 3-5 lần và tiếng ồn thưong xuyên ở mức
cao. Lượng khí thải từ các lò gạch thủ công còn ảnh hưởng đến hoa mầu và mùa
màng của nông dân tại các làng nghề và các vùng lân cận xung quanh nữa.
Ngoài ra việc khai thác không đúng quy hoạch gây thoái hoá đất, phá huỷ thảm
thực vật, tăng nguy cơ xói mòn và giảm độ phì nhiêu của đất, hậu quả cũng gây
ảnh hưởng đến chất lượng mùa màng. Người dân làng nghề sản xuất vật liệu xây
dựng trực tiếp sống trong môi trường có nồng độ bụi, khí độc cao công việc
6
SV: Nguyễn Thị Bích Phương GS. TS. Nguyễn Kế Tuấn
nặng nhọc nên tỷ lệ mắc các đường hô hấp, da và các bệnh về mắt và các rối
loạn thần kinh cao. Làng nghề Đông Tâm, Thanh Hoá và làng nghề Kiện Khê,
Hà Nam có tỷ lệ mắc bệnh nghề nghiệp do sản xuất trên 50%. Ngoài ra, các vấn
đề về an toàn lao động cũng chưa được quan tâm thoả đáng ở các làng nghề này
dẫn tới nhiều tai nạn lao động như bỏng hơi, bỏng nhiệt, bị mảnh vỡ đá. nổ
mìn…
3. Làng nghề tái chất thải: giấy, nhựa, kim loại…
Đây là nhóm làng nghề tận phế liệu làm nguyên liệu cho sản xuất, nhờ đó
giảm chi phí đầu tư và giảm lượng chất thải gây ô nhiễm môi trường nên các
làng nghề rất được khuyến khích phát triển. Mặt khác, trong khi chưa có các cơ
sở lớn tái chế chất thải, thì các làng nghề tái chất thải đã trở thành một mạng
lưới thu gom phế liệu và chất thải. Các nghành tái chế được chia làm ba loại
chính đó là: giấy, kim loại và nhựa. Chủ yếu tập chung ở miền Bắc và nghành
tái chế kim loại là chủ yếu (có 81 làng tái chế kim loại trong tổng số 90 làng
nghề tái chế). Số lượng làng tái chế không lớn nhưng tỷ lệ cơ giới hoá cao hơn
các làng nghề khác rất nhiều, chiếm từ 50-70%. Khi nói về các làng tái chế phế
liệu thì không thể không nhắc tới làng tái chế giấy ở Dương Ổ, Bắc Ninh sản
xuất hàng năm là 12.000 tấn với rất nhiều chủng loại, thu hút hơn 5.000 lao
động. Hay tái chế sắt nhôm ở Vân Chàng, Nam Định thu hút trên 3.000 lao động
với sức sản xuất 90 tấn phế liệu/ngày, mức lương trung bình của một người lao
động là 600-700nghìn/tháng. Hay làng nghề khắc đá tại Phước Kiều, Quảng
Nam - Đà Nẵng được biết tới bởi những tác phẩm nghệ thuật rất cao như cung
đình Hếu, trùng tu di tích Ăng Ko…
Do đặc thù là các làng nghề mới và sản xuất theo quy mô hộ gia đình nên
tính năng động và sáng tạo trong việc nắm bắt thi trường và sản phẩm rất rõ ở
7
SV: Nguyễn Thị Bích Phương GS. TS. Nguyễn Kế Tuấn
các làng nghề này. Cũng do đặc tính quá tư hữu này mà vấn đề môi trường ở đây
vô cùng nghiêm trọng. Trên báo Thương mại số 35, 2003 có bài viết “Xám xịt
làng chì” như sau:
“Không đi làm thì ai cho 3-4 trăm nghìn một thán. Hại thì ai mà chả biết
nhưng không có ăn thì vài ngày là chết chứ nhiễm chì thì nào có chết ngay” (dân
làng Đồng Mai, Văn Lâm, Hưng Yên).
Làng nghề tái chế Đông Mai có 200 hộ tham gia sản xuất, 25 lò nấu chì,
tiêu thụ 16-18 tấn ắcquy hỏng/ngày, thu 8-10 tấn chì, thải ra 500kg bụi chì và từ
7-8 vỏ bình ắcquy và axít H
2
SO
4
, thu nhập bình quân đầu người là 3 triệu
đồng/năm.
Ô nhiễm môi trường khí: Tầm nhìn hạn chế là 3-4km, hơi axít và khói chì
bao phủ, lúa chết vì khói chì, bụi chì bám vào cây.
Ô nhiễm môi trường nước: Ao và nước giếng có hàm lượng chì trung bình
0,77mg/l, vượt tiêu chuẩn cho phép 15 lần, đặc biệt ao đãi chì và đổ xỉ hàm
lượng 3,278mg/l, vượt tiêu chuẩn cho phép 65 lần. Trong bèo chứa 430,3mg
chì/kg, rau muống 168,15mg chì/kg tại ao chứa nước thải pha ắcquy.
Ô nhiễm môi trường đất: Đường trong xóm lát bằng vỏ ắcquy hỏng, đất
khô cằn, năng suất cây trồng giảm mạnh.
Sức khoẻ: 100% người lao động nhiễm bụi chì, hàm lượng chì trong nước
tiểu là 0,25-0,56mg/l (đối với người bình thường khoảng 0,06mg/l), hàm lượng
chì trong máu người lao động là 135mg/l, 48 trẻ em bị dị tật, 97 trẻ em bị viêm
phổi, thiếu máu, xanh xao, tỷ lệ người mắc bệnh thần kinh, bại liệt não, lao phổi
cao hơn các nơi khác từ 2-3 lần.
8
SV: Nguyễn Thị Bích Phương GS. TS. Nguyễn Kế Tuấn
Bài báo trên đã là một minh chứng khá cụ thể và dễ hiểu về tình trạng ô
nhiễm tại các làng nghề tái chế phế liệu chì.
Nếu ai có cơ hội đến thăm các xưởng sản xuất, tái chế giấy phế liệu ở
Phong Khê, Bắc Ninh cách Hà Nội khoảng 50km đi về phía Bắc thì mỗi khi
dùng giấy ăn ở các quán bình dân rất phổ biến thì chắc hẳn mọi người phải “cân
nhắc” sử dụng. Nước thải không được xử lý qua bất kỳ công đoạn nào và được
thải trực tiếp ra ngoài do vậy hoá chất dư, bột giấy và lượng chất hữu cơ còn lại
rất nhiều. Hơn nữa, không khí ở đây chứa rất nhiều bụi giấy, hơi kiềm, Clo do
dùng nước ra Javen để tẩy trắng và hơi H
2
S rất có hại cho sức khoẻ. Tại một số
vị trí sản xuất, hàm lượng Clo vượt tiêu chuẩn cho phép tới 3 lần, hơi H
2
S tại các
bãi rác, cống rãnh vượt tiêu chuẩn cho phép 1-3 lần.
Đối với các làng nghề tái chế nhựa, do đặc thù nguyên liệu thu gom từ
nhiều nguồn và đều là nhựa phế thải có dính nhiều tạp chất, nên trong quá trình
công nghệ sử dụng rất nhiều nứơc để rửa phế liệu. Tính riêng làng nghề tái chế
Minh Khai hàng năm thải ra khoảng 455.000m
3
nước thải. Thành phần của này
rất phức tạp, vì chứa rất nhiều chất thải vô cơ và hữu cơ dính trên nhựa trong
quá trình sử dụng, trong đó có một số chất độc hại như bình chứa thuốc sâu, hoá
chất, vi sinh vật độc hại.
Tóm lại ô nhiễm tại các làng nghề tái chế thuộc mức độ ô nhiễm nặng
(nguồn nước bị nhiễm chì, kim loại nặng; không khí chứa nhiều hoá chất độc
hại…).
9
SV: Nguyễn Thị Bích Phương GS. TS. Nguyễn Kế Tuấn
Được mô tả bởi bảng số liệu sau đây:
Nơi lấy mẫu Cr
2+
∑Fe Pb
2+
Cu
2+
Zn
2+
Al
3+
Chỉ Đạo-Bắc
Ninh
0,04 0,4 0,35 0,1 0,6 -
Vân Chàng-
Nam Định
63 – 178 12 0,9 1,5 8,7 10,4
Phước Kiều-
Quảng Nam
0,2 7,6 0,6 3,1 1,8 2,1
Tiêu chuẩn Việt
Nam
1 5 0,1 1 1 -
Hàm lượng một số kim loại nặng trong nước tại các làng nghề
Do việc thu gom và thải thải bỏ bừa bãi, nên ảnh hưởng đến môi trường
sinh thái và sức khoẻ của người dân hết sức nghiêm trọng. Hầu hết các ao cá
trong làng không thể nuôi cá, do đã tiếp nhận một lượng chất thải khá lớn từ
hoạt động sản xuất với nồng độ ô nhiễm cao, vượt quá khả năng tự làm sạch của
môi trường và do rác thải bừa bãi gây bồi lắng và cản trở của sông hồ và cản trở
của nước sông hồ. Ví dụ tại sông Vân Chàng, Nam Định, nơi đón nhận tất cả các
nguồn nước thải của “nền công nghiệp làng” có mầu đen kịt, mùi hôi rất khó
chịu và độ lưu thông của dòng nước rất thấp. Bụi bám thành lớp trên mái nhà,
khi trời mưa sẽ cuốn theo lớp hoá chất này xuống bề mật đất sau đó ngấm vào
mạch nước ngầm, còn nếu xối vào tay chân sẽ gây phồng rộp rất rất dát. Lượng
nước thải chưa được xử lý được đổ thẳng ra sông chứa một lượng lớn nhiều loại
axít mạnh và đặc biệt có hàm lượng chất độc xianua vượt 65-117 lần so với tiêu
chuẩn cho phép. Thậm chí một đoạn sông Vân Chàng không có một sinh vật nào
có thể sống được. Một số bệnh phổ biến ở đây là bệnh ngoài da, viêm ngứa, đau
mắt hột (hơn 90% dân số bị mắc), và nhiều người bị chết vì ung thư. Tỷ lệ chị
em phụ nữ đẻ non hoặc chết yểu đặc biệt là đẻ ra quái thai ngày càng có triệu
10
SV: Nguyễn Thị Bích Phương GS. TS. Nguyễn Kế Tuấn
chứng ra tăng. Tuổi thọ trung bình của người dân ở đây là 55 tuổi thấp nhiều
hơn so với tuổi thọ trung bình so với cả nước.
Kết quả điều tra cho thấy tỷ lệ mắc bệnh nghề nghiệp ở các làng nghề chế
tái cao hơn các làng nghề không sản xuất từ 15-25%, tỷ lệ mắc bệnh ở trẻ em và
phụ nữ từ 30-45%. Các bệnh mắc phải thường là về đường hô hấp, viêm phế
quản, viêm phổi ở trẻ em, viêm phụ khoa ở phụ nữ, tuổi thọ trung bình tại đây
thấp thường là 55-65 tuổi và các bệnh dịch như tiêu chảy, đau mắt đỏ, ngộ độc
ngày một tăng, đặc biệt tại các làng nghề tái chế kim loại.
4. Làng nghề dệt nhuộm
Nước ta hiện nay có 173 làng nghề dệt nhuộm chiếm 10% trong tổng số
làng nghề, chủ yếu tập chung ở Hà Tây và các vùng núi phía Bắc. Tại các dân
tộc thiểu số niềm núi phía Bắc là nền kinh tế tự cung, tự cấp nên sản phẩm dệt
nhuộm chủ yếu là phục vụ nhu cầu trong gia đình, thì tình trạng ô nhiễm môi
trường ở đây không đáng lo ngại lắm. Vì quy mô sản xuất là hộ gia đình, nguyên
liệu chủ yếu là thực vật không có hoá chất cộng thêm môi trường rất trong lành
nhưng nền kinh tế cực kỳ khó khăn. Công nghệ tại các làng nghề dệt nhuộm khá
phong phú. Tại các vùng, miền khác nhau thường có công nghệ sản xuất và mặt
hàng truyền thống khác nhau, mang nét đặc trưng riêng. Có thể kể tên một số
làng nghề nổi tiếng như dệt lụa Vạn Phúc- Hà Đông, nhuộm sợi chỉ Tân Triều-
Hà Nội, dệt nhuộm khăn mặt Thái Phương-Thái Bình và Tương Giang - Bắc
Ninh… Phần lớn máy móc thiết bị sử dụng tại các làng nghề là thiết bị thô sơ, tự
tạo hoặc do các cơ sở sản xuất trong nước gia công lắp ráp. Phương thức sản
xuất thường là gián đoạn, thiết bị thiếu đồng bộ dẫn đến việc giảm hiệu quả sử
dụng nguyên vật liệu đồng thời vấn đề ô nhiễm môi trường trở nên bức xúc hơn.
11
SV: Nguyễn Thị Bích Phương GS. TS. Nguyễn Kế Tuấn
Ô nhiễm nước thải là vấn đề lớn nhất đối với các làng nghề dệt nhuộm. Do
sản xuất có sử dụng nhiều nước, hoá chất, thuốc nhuộm nên thành phần các chất
ô nhiễm có trong nước thải làng nghề dệt nhuộm gồm các tạp chất tự nhiên tách
ra từ sợi vải như: chất bẩn, dầu sáp, hợp chất chứa nitơ trong quá trình nấu tẩy,
nhuộm tơ và các chất sử dụng trong quá trình sử dụng vải như hồ tinh bột,
NaOH, H
2
SO
4
, HCl, Na
2
CO
3
, các loại thuốc nhuộm, chất tẩy giặt. Khoảng 10-
30% lượng thuốc nhuộm và hoá chất sử dụng bị thải ra ngoài cùng nước thải.
Ô nhiễm môi trường không khí ở các làng nghề dệt nhuộm chủ yếu là bụi
và hơi hoá chất. Bụi bông sinh ra trong quá trình giàn sợi, xe sợi, dệt vải,. Hơi
hoá chất phát sinh trong quá trình nấu, tẩy, nhuộm do sử dụng hoá chất ở nhiệt
độ cao và các thiết bị sản xuất đều là các thiết bị hở làm cho hơi hoá chất như
xút, axít bay ra ảnh hưởng trực tiếp đến công nhân sản xuất và những người
xung quanh. Khí thải lò đốt chứa nhiều chất gây ô nhiễm môi trường như CO
2
,
SO
2
, NO, NO
2
, NO
3
, N
2
O
5
… và bụi. Tại các làng nghề này hầu như chưa có hệ
thống hút bụi thông gió để giảm lượng bụi bông trong khu vực sản xuất, người
lao động chủ yếu dùng khẩu trang để bảo vệ sức khoẻ của mình. Tình trạng do
hơi hoá chất cũng chưa có biện pháp khác phục. Các cơ sở sản xuất đều không
có ống khói và đều không có hệ thống xử lý khí thải lò đốt.
Điều kiệm làm việc tại các làng nghề này đều có độ ồn cao, thiếu ánh sáng,
chế độ gió và môi trường không trong lành, thời gian làm việc kéo dài. Kết quả
điều tra y tế tại các làng nghề cho thấy các bệnh về ngoài da, viêm mũi, viêm
họng, suy nhược thần kinh là các bệnh rất phổ biến. Nguyêu nhân tác động đến
sức khoẻ do sản xuất chiếm tới 20% ở làng nghề tơ tằm Bảo Lộc, Lâm Đồng,
chiếm 55% ở làng nghề dệt nhuộm Thái Phương, Thái Bình, chiếm 45% ở Vạn
Phúc, Hà Đông, Hà Tây. Các bệnh này ngưòi dân thường coi nhẹ và do điều
kiện sống quá thấp nên họ thường quan tâm đến miếng cơm, manh áo nhiều hơn
12
SV: Nguyễn Thị Bích Phương GS. TS. Nguyễn Kế Tuấn
do vậy vấn đề sức khoẻ chưa được chăm sóc thoải đáng. Kể cả các tổ chức xã
hội hay các hiệp hội làng nghề, các công trình nghiêm cứu khoa học để giảm
thiểu, khắc phục ô nhiễm môi trường tại các làng nghề dệt nhuộm đều bị lãng
quên. Hiện nay đã có các dự án về việc kết hợp nghành du lịch với các làng nghề
dệt truyền thống như làng Vạn Phúc-Hà Đông được đưa ra làm thí điểm nhưng
vì vấn đề ô nhiễm tại đây mà các tour du lịch ấy tỏ ra kém hiệu quả mặc dù ý
tưởng được đưa ra rất hay. Hy vọng trong thời gian tới, một số sản phẩm của các
làng nghề dệt nhuộm có chất lượng tốt, độc đáo còn môi trường làng nghề lại
trong lành.
5. Làng thủ công nnỹ nghệ:
Trong số 1450 làng nghề thủ công trong cả nước, số lượng các làng nghề
thủ công mỹ nghệ là cao nhất chiếm 618 làng. Các loại thủ công mỹ nghệ chính
bao gồm:
-Mây tre đan, thêu ren, sản phẩm cói, đồ gỗ mỹ nghệ, sơn mài
-Gốm sứ mỹ nghệ
-Các sản phẩm khác
Sản xuất thủ công mỹ nghệ là ngành sản xuất gán với truyền thốn lâu đời,
nhiều sản phẩm có giá trị văn hoá cao, mang đậm bản sắc văn hoá dân tộc.
Nhiều sản phẩm thủ công mỹ nghệ yêu cầu chất lượng có giá trị cao cả về giá trị
lẫn thẩm mỹ nghệ thuật nên các lao động trong các cơ sở sản xuất phải có tay
nghề cao. Tại một số làng nghề, quá trình sản xuất được chuyên môn hoá một
cách chặt chẽ, lao động chuyên môn được lựa chọn rất kỹ càng. Tuy nhiên công
nghệ sản xuất mang tính thủ công nên giá trị nghệ thuật của mỗi sản phẩm rất
khác nhau, dưới mỗi một bàn tay nghệ nhân khác nhau thì mỗi tác phẩm lại chứa
một giá trị khác nhau.
13
SV: Nguyễn Thị Bích Phương GS. TS. Nguyễn Kế Tuấn
Các làng nghề thủ công mỹ nghệ cũng đang đứng trước những khó khăn
về môi trường. Do hạn chế về vốn và kỹ thuật nên nhiều nơi chưa quản lý chặt
chẽ vấn đề thu gom, xử lý chất thải của sản xuất, khói bụi độc hại. Tại nhiều
làng nghề, môi trường đã bị xuống cấp nghiêm trọng. Hầu hết các cơ sở sản xuất
trong làng chỉ chú trọng đến sản xuất, kinh doanh không chăm lo đến bảo vệ
môi trường sinh thái, kết quả là ở một số nơi quy mô sản xuất đã vượt quá sức
chịu đựng của môi trường.
Phân loại theo tác động của sản xuất đến môi trường thì có thể chia làm ba
nhóm lớn sau đây:
Nhóm không gây ô nhiễm môi trường: làm nón, dệt chiếu, đan cói…
- Nhóm gây ô nhiễm nhẹ: đan nát mây tre, cỏ tế, đồ gỗ, đá mỹ nghệ, sơn
mài…
- Nhóm gây ô nhiễm nặng: gốm, sứ và chạm mạ bạc…
Đối với môi trường nước, loại hình gây ô nhiễm nghiêm trọng nhất là các
làng nghề sơn mài và chạm bạc. Lượng nước tiêu thụ tuy không lớn nhưng có
chứa hàm lượng chất ô nhiễm rất cao. Tại làng nghề sơn mài Hạ Thái (Hà Tây)
hàm lượng COD, BOD và SS đều cao hơn tiêu chuẩn cho phép từ 1,8 đến 3,5
lần. Đối với làng nghề chạm bạc, nước thải từ công nghệ mạ có sử dụng nhiều
hoá chất như axít H
2
SO
4
, HNO
3
, các muối thuỷ ngân, muối bạc, xianua. Sự có
mặt của các hoá chất này làm cho nước thải mạ bạc có độ pH thấp, hàm xianua,
kẽm, thuỷ ngân cao hơn tiêu chuẩn cho phép. Cũng như hầu hết các làng nghề
khác, nguồn nước thải này được hoà lẫn vào nguồn nước thải sinh hoạt và thải ra
theo hệ thống mương chung.
Ô nhiễm môi trường không khí chủ yếu chia làm ba loại. Ô nhiễm bụi từ
các làng nghề sản xuất gốm xứ và chế chế tác đá mỹ nghệ do sử dụng nguyên
14
SV: Nguyễn Thị Bích Phương GS. TS. Nguyễn Kế Tuấn
liệu là đất đá. Ô nhiễm các khí thải lò đốt như CO, CO
2
, SO
2
, NO
X,
do sử dụng
các lò đốt thủ công có hiệu suất đốt thấp và không có hệ thống sử lý khói lò. Các
lò đốt lại thường bố trí thiếu quy hoạch, nằm lẫn trong khu dân cư nên khí thải
khó phát tán, ảnh hưởng trực tiếp đến sức khoẻ người lao động. Đối với các làng
nghề sơn mài, mây tre đan, đồ gỗ mỹ nghệ, các sản phẩm thường được sấy,
ngâm tẩm hoá chất. Các cơ sở sản xuất trong làng nghề lại thường có mặt bằng
sản xuất chập hẹp. Nhà ở thường ở lẫn với xưởng sản xuất và nơi chứa nguyên
liệu, sản phẩm. Các khu vực sản xuất lại thiếu phương tiện bảo đảm môi trường
lao động từ đèn chiếu sáng đến quạt thông gió, hút hơi độc. Do đó vấn đề của
người lao động trực tiếp và người dân sống trong làng bị ảnh hưởng xấu, rõ ràng
nhất là thời điểm sản xuất cao điểm.
Tại các làng nghề thủ công mỹ nghệ, tỷ lệ bệnh nghề nghiệp từ các hoạt
động nghề thấp hơn so với các làng nghề khác. Tuy nhiên do đặc thù công nghệ
thủ công, lao động tỷ mỷ, thời gian làm việc lâu và chủ yếu ở tư thế ngồi nên tỷ
lệ mắc bệnh đau lưng ở các làng nghề rất cao (tỷ lệ mắc bệnh của các người đến
khám có nơi nên tới 100% như ở làng nghề Hạ Thái – Hà Tây). Đối với các làng
nghề gốm sứ, chế tác đá, người lao động phải tiếp xúc với các nguồn ô nhiễm
không khí, mà hầu như không sử dụng cụ lao động, nên tỷ lệ mắc bệnh phổi,
bệnh viêm xoang. Ngoài ra do điều kiện lao động và sinh hoạt đan xen, điều
kiện vệ sinh kém nên còn gây phát sinh các bệnh ở phụ nữ và trẻ em khác.
15
SV: Nguyễn Thị Bích Phương GS. TS. Nguyễn Kế Tuấn
Phần 3: Phương hướng và giải pháp giảm thiểu môi trường
làng nghề truyền thống
1.Phương hướng cải thiện môi trường làng nghề
Để cải thiện hiện trạng môi trường tại các làng nghề, thì trước hết phải tạo
cho các làng nghề phát triển sản xuất một cách có quy hoạch và hợp lý. Làng
nghề vẫn đang tự tìmh hướng đi, phát triển hay tự tàn lụi. Làng nghề có phát
triển được, thì đầu tư cho vấn đề môi trường mới được chú trọng. Tuy nhiên
trong nền kinh tế thị trường, có biết bao nhiêu rào cản đối với sự phát triển bền
vững của làng nghề, nhất là các làng nghề truyền thống với các sản phẩm truyền
thống không phải luôn phù hợp với nhu cầu thị trường. Vậy hướng đi nào là
thích hợp cho sự phát triển của một làng nghề. Có hai hướng chính để giảm
thiểu vấn đề ô nhiễm môi trường tại các làng nghề:
Nhóm thứ nhất là các công cụ mang tính chất bắt buộc các hộ sản xuất ví
dụ như xử phạt hành chính khi các hộ sản xuất vi phạm luật làm ô nhiễm môi
trường. Trong khi điều kiệm kinh tế còn khó khăn hay làm chưa đủ ăn, thì họ
phải đặt lợi ích kinh tế lên trước mặc dù họ biết làm như vậy là ảnh hưởng xấu
đến môi trường, đến sức khoẻ của mình. Hơn nữa, nếu chỉ có một mình hộ gia
đình mình thực hiện tốt các quy định mà các hộ khác trong làng không làm thì
môi trường cũng đâu có thể thay đổi là bao. Còn nếu như đầu tư một công nghệ
mới thì số vốn bỏ ra quá lớn. Do vậy người dân thường chấp nhận nộp phạt nếu
như bị kiểm tra, bắt buộc chứ họ sẽ không tự nguyện đến nộp phạt.
Nhóm thứ hai là sự hỗ trợ của chính quyền địa phương kết hợp với viện
công nghệ, các tổ chức xã hội … giúp các làng nghề truyền thống vừa phát triển
16
SV: Nguyễn Thị Bích Phương GS. TS. Nguyễn Kế Tuấn
bền vững lại giảm thiểu tình trạng ô nhiễm môi trường. Sau đây là một số hướng
đi chính.
1.1 Chuyển đổi làng nghề thành khu lưu giữ các di sản văn hoá và khu du
lịch với các sản phẩm đặc trưng có tính nghệ thuật cao:
Kết hợp phát triển làng nghề với hoạt động du lịch ở Việt Nam. Đứa văn
hoá Việt Nam thành một trong những điểm nhấn thu hút khách du lịch đã được
thí điểm và thu được những thành công bước đầu thông qua một số tour du lịch
văn hoá qua một số làng nghề như ở Hà Tây hay Hà Nội. Ví dụ như ở Gốm Sứ,
Bát Tràng các du khách còn có thể tự tay làm các sản phẩm theo ý mình. Một
cách khác là đa dạng hoá các sản phẩm làng nghề theo hướng này, thì điều quan
trọng nhất là giữ gìn bản sắc văn hoá của làng nghề, phát triển sản phẩm mang
tính đặc trưng văn hóa và tính nghệ thuật cao. Giá trị vật liệu không chỉ tính
bằng giá nguyên liệu và công lao động, mà chủ yếu được đánh giá bằng tính
nghệ thuật và tính văn hoá của sản phẩm như vậy sẽ mang lại giá trị rất cao.
Điều thu hút khách du lịch không chỉ là sản phẩm của làng nghề, mà chính là
hoạt động sản xuất truyền thống ở làng nghề. Với cách kết hợp theo mô hình
này, vấn đề vệ sinh môi trường sẽ đặt ra như một tiêu chí quan trọng trong việc
hoạch định các làng nghề. Điều kiệm môi trường cũng sẽ là một trong những
yếu tố thu hút khách du lịch. Việc phát triển làng nghề theo hướng này chủ yếu
nên áp dụng với các làng nghề truyền thống lâu đời, có các mặt hàng mang tính
đặc thù văn hoá Việt Nam, đặc biệt là các làng nghề thủ công mỹ nghệ.
Trên thực tế, chất lượng các mặt hàng thủ công mỹ nghệ, mặt hàng truyền
thống nhìn chung không cao. Nhiều sản phẩm thiếu sự trau chuốt, mẫu đơn điệu
và tính thẩm mỹ yếu, do đó không thu hút được nhiều khách hàng. Nhiều làng
nghề đã có những đầu tư vào việc nghiên cứu mẫu mã sản phẩm, đề cao tính
nghệ thuật của sản phẩm nhờ đó không chỉ tăng mức tiêu thụ mà còn thu hút
17
SV: Nguyễn Thị Bích Phương GS. TS. Nguyễn Kế Tuấn
khách du lịch đến thưởng thức không khí sản xuất tại làng nghề như gốm xứ Bát
Tràng - Hà Nội, làng nghề Non Nước - Đà Nẵng. Nhưng một thực tế đáng buồn
hiện nay là ý tưởng thì rất hay nhưng đi vào thực tế thì gặp rất nhiều khó khăn,
và không thu được hiểu quả cao.
1.2 Xây dựng các cụm công nghiệp vừa và nhỏ nông thôn:
Mô hình này thích hợp với các làng nghề tiểu thủ công nghiệp mới. Mô
hình sản xuất tập chung ở khu vực gần làng xã, thuận tiện cho việc quy hoạch
tổng thể mà vẫn giữ được lợi thế đặc trưng sản xuất của làng nghề. Ví dụ UBND
tỉnh Hà Tây đã ra quyết địng số 495 phê duyệt kết quả trúng thầu dự án đầu tư
xây dựng đỉêm công nghiệp mở rộng làng nghề Đa Sỹ - thành phố Hà Đông vào
ngày 23/3/2007. Bởi vì nhu cầu hình thành các cụm công nghiệp vừa và nhỏ ở
nông thôn hiện nay đang rất bức xúc xuất phát từ nhu cầu cuộc sống, từ áp lực
nên môi trường sống của người dân và cũng phù hợp với chủ trương công
nghiệp hoá - hiện đại hoá nông thôn của Đảng và Nhà nước ta. Tuy nhiên việc
này phải tổ chức sao cho có hệ thống, trật tự và phát triển bền vững tạo nhiều
sản phẩm cho xã hội và tránh gây ô nhiễm môi trường. Vì vậy cần phải có
những hướng dẫn cụ thể và chỉ dẫn cần thiết cho địa phương lập quy hoạch và tổ
chức không gian, bố trí hợp lý các cơ sở sản xuất nông nghiệp và các ngành
nghề nông thôn nằm rải rác tại các làng xã tại các cụm công nghiệp vừa và nhỏ.
Tuy nhiên để xây được các cụm công nghiệp thích hợp thì còn rất nhiều các câu
hỏi mà các nhà quy hoạch và hoạch định chính sách cần phải làm rõ như:
- Liệu có một mô hình nào cho các cụm công nghiệp ở nông thôn áp dụng
chung cho cả nước được không?
18
SV: Nguyễn Thị Bích Phương GS. TS. Nguyễn Kế Tuấn
- Quy mô thích ứng (diện tích, cư sở hạ tầng, công nghệ xử lý môi trường,
mật độ xây dựng ) của từng khu, cụm công nghiệp cho từng loại nghành nghề
như thế nào là thích hợp?
- Vấn đề bảo vệ môi trường, cảnh quan, bảo tồn không gian, giữ gìn di sản
văn hóa như thế nào?
- Trình tự lập quy hoạch, phê duyệt, xây dựng các mô hình quản lý các
cụm, khu công nghiệp như thế nào?
- Nhà nước có chính sách nào để phát triển cụm công nghiệp: vốn, đất đai,
cơ sở hạ tầng, khoa học công nghệ…?
Những thế mạnh của làng nghề tiểu thủ công nghiệp được phát huy trong
bối cảnh hiện đại, vừa tạo vị thế của ngành thủ công, vừa bảo tồn bản sắc dân
tộc lại thuần tiện trong việc xử lý chất thải bảo vệ môi trường. Công nghệ là một
trong bốn yếu tố quan trọng để tạo ra sự thành công rất cho bất kỳ dự án, hoạt
động nào của một tổ chức nhất là trong việc xử lý chất thải.
2. Áp dụng giải pháp cải thiện môi trường làng nghề:
-Giải pháp hàng đầu là nâng cao dân trí cho dân làng nghề để họ hiểu được
những tác hại của việc giảm tác hại của việc suy giảm chất lượng môi trường
sống cho hoạt động sản xuất làng nghề, qua đó họ xẽ nhận thức được và từ đó có
ý thức bảo vệ môi trường làng nghề.
-Tăng cường và tổ chức hệ thống quản lý môi trường làng nghề từ quy mô
tỉnh, huyện, xã tới thôn xóm. Đưa chính sách quản lý môi trường phù hợp với
điều kiện tự nhiên của từng địa phương, như việc quy định về chế độ đóng góp
môi trường, chế độ thưởng phạt, kể cả thuế môi trường đối với các hoạt động
phát sinh hoặc giảm thiểu ô nhiễm.
19
SV: Nguyễn Thị Bích Phương GS. TS. Nguyễn Kế Tuấn
Hỗ trợ, cung cấp thêm thông tin, khuyến khích các làng nghề, các hộ sản
xuất, cơ sở, xí nghiệp tư nhân hoạt động làng nghề áp dụng các công nghệ nhằm
giảm thiểu ô nhiễm do sản xuất gây nên. Ví dụ các công nghệ và thiết bị mới
“thân thiện” với môi trường, các giải pháp sản xuất sạch sẽ hơn.
Sau đây là mô hình công nghệ xử lý tái sử dụng nước thải tại các hộ gia
đình chế biến nông sản thực phẩm. Đó là kết quả nghiên cứu của đề tài cấp Nhà
nước KC 07 - 07 và bằng nhiều nguồn vốn đầu tư, dự án thử nghiệm mô hình
cônh nghệ xử lý, tái sử chất thải chế biến tinh bột tại thôn Thị Ngoại - Tân Hoà -
Quốc Oai - Hà Tây đã thực hiện nội dung sau: quy hoạch môi trường cho thôn
Thị Ngoại; quy hoạch tuyến tiêu thoát nước thải; quy hoạch xử lý, tái sử dụng
nước thải và chất thải hữu cơ theo kiểu phân tán. Xây dựng mô hình xử lý nước
thải và chất thải hữu cơ như sau:
20
SV: Nguyễn Thị Bích Phương GS. TS. Nguyễn Kế Tuấn
ng
Sơ đồ hệ thống công trình xử lý nước thải quy mô cụm dân cư
Hiện nay đã có rất nhiều công nghệ mới hay nhưng công trình nghiên cứu
nhằm giảm thiểu tình trạng ô nhiễm môi trường, nhưng những công nghệ hay
các công trình nghiên cứu ấy áp dụng thành công được vào thực tế hay không
còn phụ thuộc rất nhiều vào những yếu tố khác. Những cơ quan quản lý nhà
nước nào sẽ đứng ra đảm nhận công việc này, khi mà còn chưa thống nhất quản
lý giữa sở công nghiệp, sở nông nghiệp và phát triển nông thôn, sở khoa học và
công nghệ? Phải thừa nhận rằng trong vài năm gần đây, đã có một số đề tai tập
chung nghiên cứu nhằm cải thiện môi trường làng nghề, nhưng chỉ dừng ở mức
mô hình mẫu mà chưa được nhân rộng tới các làng nghề tương tự.
21
Hỗn hợp nước thải tập trung vào hệ thốthu gom
phân tán theo cụm dân cư
Hố ga và song chắn rác
Bể xử lý kỵ khí BAR.CS 25m3/ng.đ. Được bổ
sung chế phẩm vi sinh
Hồ sinh học 02 bậc
Cánh đồng tưới nước thải – tái sử dụng nước thải
để tưới lúa
Bể BIOGA, hố ủ để xử lý chất thải
chăn nuôi
Nước mưa được xả ra kênh tiêu chính
Nước thải không tái sử dụng được xả
ra kênh tiêu chính
SV: Nguyễn Thị Bích Phương GS. TS. Nguyễn Kế Tuấn
Kết luận
Những ưu điểm của phát triển làng nghề truyền thống và ảnh hưởng của ô
nhiễm môi trường thì ai cũng biết nhưng cơ quan quản lý nhà nước, các tổ chức
phi chính phủ và bà con nông dân đã làm được những gì để phát triển làng nghề
và khắc phục tình trạng ô nhiễm ấy? Vấn đề ô nhiễm làng nghề phải do chính bà
con nông dân làng nghề tham gia giải quyết, đó là sự sống còn của làng nghề
trong tương lại, nhưng bên cạnh đó cần được sự quan tâm giúp đỡ của cộng
đồng, từ cấp quản lý Tung ương đến địa phương và của đông đảo tầng lớp nhân
dân trong xã hội.
22
SV: Nguyễn Thị Bích Phương GS. TS. Nguyễn Kế Tuấn
Tài liệu tham khảo
1. PGS.TS Nguyễn Kế Tuấn (CB): Kinh tế và quản lý công nghiệp, NXB Kinh tê
Quốc dân.
2. TS Trần Thanh Lâm: Quản lý môi trường bằng công cụ kinh tế, NXB Lao Động.
3. PGS.TS Nguyễn Hữu Khải: Thương hiệu hàng thủ công mỹ nghệ truyền thống,
NXB Lao Động.
4. GS.TS Lê Quý An: Việt Nam môi trường và cuộc sống, NXB Chính trị Quốc Gia.
5. TG Nguyễn thị Tươi: Ô nhiễm làng nghề bài toán khó giải, Thời báo tài chính Việt
Nam. Ngày 28/03/2003.
6. Cơ chế tài chính hỗ trợ các Doanh nghiệp bảo vệ môi trường, Tạp chí hoạt động
Khoa học, số 12/2001
7. TS Lê Kim Cúc: Mô hình công nghệ xử lý - tái sử dụng nước thải vùng chế biến
tinh bột tại Tân Hoá, Quốc Oai, Hà Tây, Tài nguyên và Môi trường, tháng
12/2006.
8. Phóng sự: Nguyễn Vũ - Xuân Phong, làng nghề Dương Liễu” gồng mình trong ô
nhiễm”, Báo Hà Tây số 28 ra ngày 6.3.2007.
9. Bao giờ làng nghề ở Bắc Ninh hết ô nhiễm? www. Bacninh.gov.vn
10. Thực trạng điều kiện làm việc, sức khoẻ của làng nghề. http:/
yduocbonphuong.com
11. Hội thảo thiên nhiên và môi trường Việt Nam trung tâm công nghệ thông tin.
Vacne. Org.vn
23
SV: Nguyễn Thị Bích Phương GS. TS. Nguyễn Kế Tuấn
MỤC LỤC
Lời mở đầu 1
Phần 1: Phát triển nghề truyền thống và tác động đến môi trường sinh
thái 2
1. Phát triển nghề truyền thống tại Việt Nam 2
2. Phát triển nghề truyền thống tác động đến môi trường sinh thái 3
Phần hai: Thực trạng ô nhiễm môi trường tại các làng nghề 4
2. Ô nhiễm môi trường tại các làng vật liệu xây dựng và gốm xứ: 6
3. Làng nghề tái chất thải: giấy, nhựa, kim loại… 7
4. Làng nghề dệt nhuộm 11
5. Làng thủ công nnỹ nghệ: 13
Phần 3: Phương hướng và giải pháp giảm thiểu môi trường làng nghề
truyền thống 16
1.Phương hướng cải thiện môi trường làng nghề 16
1.1 Chuyển đổi làng nghề thành khu lưu giữ các di sản văn hoá và khu
du lịch với các sản phẩm đặc trưng có tính nghệ thuật cao: 17
1.2 Xây dựng các cụm công nghiệp vừa và nhỏ nông thôn: 18
2. Áp dụng giải pháp cải thiện môi trường làng nghề: 19
Kết luận 22
Tài liệu tham khảo 23
24