Tải bản đầy đủ (.doc) (15 trang)

Phân tích tư tưởng hồ chí minh về đại đoàn kết dân tộc, vận dụng tư tưởng đó trong công cuộc xây dựng đất nước hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (85.73 KB, 15 trang )

IBài thảo luận:
“Phân tích tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đoàn kết dân tộc, vận dụng tư tưởng
đó trong công cuộc xây dựng đất nước hiện nay”
Chủ tịch Hồ Chí Minh, anh hùng giải phóng dân tộc vĩ đại, nhà văn hóa kiệt
xuất của dân tộc ta và của nhân loại, đã để lại cho chúng ta một di sản tinh
thần vô giá, một hệ thống tư tưởng về nhiều mặt. Trong đó tư tưởng về đại
đoàn kết là tư tưởng nổi bật, có giá trị trường tồn đối với quá trình phát triển
của dân tộc ta và của toàn nhân loại. Đấy là tư tưởng xuyên suốt và nhất
quán trong tư duy lý luận và trong hoạt động thực tiễn của Hồ Chí Minh và
đã trở thành chiến lược cách mạng của Đảng ta, gắn liền với những thắng lợi
vẻ vang của dân tộc.
1.NHỮNG QUAN ĐIỂM CƠ BẢN CỦA HỒ CHÍ MINH VỀ ĐẠI ĐOÀN
KẾT DÂN TỘC
Khái niệm đại đoàn kết dân tộc trong tư tưởng Hồ Chí Minh: là một hệ
thống những luận điểm, nguyên tắc, phương pháp giáo dục. Tập hợp và tổ
chức cách mạng và tiến bộ nhằm phát huy đến mức cao nhất sức mạnh dân
tộc và sức mạnh thời đại trong sự nghiệp đấu tranh vì độc lập dân tộc, dân
chủ và chủ nghĩa xã hội. Nói một cách khác, đó là tư tưởng xây dựng, củng
cố, mở rộng lực lượng cách mạng trong sự nghiệp giải phóng dân tộc, giải
phóng giai đoạn, giải phóng con người.
1.1.Đại đoàn kết dân tộc là vấn đề chiến lược, bảo đảm thành công của cách
mạng.
Với Hồ Chí Minh, đoàn kết là một truyền thống cực kỳ quý báu của nhân
dân ta. Người cho rằng: “ muốn giải phóng các dân tộc bị áp bức và nhân
dân lao động phải tự mình cứu lấy mình bằng đấu tranh vũ trang cách mạng,
bằng cách mạng vô sản.
-Đoàn kết không phải là thủ đoạn chính trị nhất thời mà tư tưởng đoàn kết là

tưởng cơ bản, nhất quán, xuyên suốt tiến trình cách mạng Việt Nam.
-Đoàn kết quyết định thành công cách mạng vì: đoàn kết tạo nên sức mạnh,
là then chốt của thành công. Muốn đưa cách mạng đến thắng lợi phải có lực


lượng đủ mạnh, muốn có lực lượng phải quy tụ cả dân tộc vào một mối
thống nhất.Giữa đoàn kết và thắng lợi có mối quan hệ chặt chẽ, qui mô, mức
độ của thành công.
-Đoàn kết phải luôn được nhận thức là vấn đề sống còn của cách mạng.
Ví dụ:
Tại sao Pháp – một đất nước có ưu thế về vật chất, về phương tiện chiến
tranh hiện đại lại phải thua một Việt Nam nghèo nàn, lạc hậu trong cuộc


chiến xâm lược? Đó là vì đồng bào Việt Nam đã đoàn kết như chủ tịch Hồ
Chí Minh nói:
“Toàn dân Việt Nam chỉ có một lòng: Quyết không làm nô lệ
Chỉ có một chí: Quyết không chịu mất nướ
Chỉ có một mục đích: Quyết kháng chiến để tranh thủ thống nhất và độc lập
cho Tổ quốc
Sự đồng tâm của đồng bào ta đúc thành một bức tường đồng vững chắc xung
quanh Tổ quốc. Dù địch hung tàn, xảo quyệt đến mức nào, đụng đầu nhằm
bức tường đó, chúng cũng phải thất bại”.
Để thấy rõ hơn vị trí của sức mạnh lực lượng toàn dân đoàn kết trong thắng
lợi của
Cách Mạng Tháng Tám, chủ tịch Hồ Chí Minh còn chỉ ra:
“Vì sao có cuộc thắng lợi đó?
Một phần là vì tình hình quốc tế thuận lợi cho ta. Nhất là vì lực lượng của
toàn dân đoàn kết. Tất cả các dân tộc, các giai cấp, các địa phương, các tôn
giáo đều nổi dậy theo là cờ Việt Nam để tranh lại quyền độc lập cho Tổ
quốc.
Lực lượng toàn dân là lực lượng vĩ đại hơn hết. Không ai thắng được lực
lượng đó”
Từ thực tiễn đó, Hồ Chí Minh đã rút ra kết luận:
“Sử dạy cho ta bài học này:

Lúc nào dân ta đoàn kết muôn người như một thì nước ta độc lập, tự do. Trái
lại, lúc nào
dân ta không đoàn kết thì bị nước ngoài xâm lấn”.
Và Người khuyên dân ta rằng:
“Dân ta xin nhớ chữ đồng:
Đồng tình, đồng sức, đồng lòng, đồng minh”
Đây chính là con đường đưa dân ta tới độc lập, tự do.
1.2.Đoàn kết dân tộc là mục tiêu, nhiệm vụ hàng đầu của cách mạng
Hồ Chí Minh cho rằng “ đại đoàn kết dân tộc không chỉ là mục tiêu, nhiệm
vụ hàng đầu của đảng mà còn là mục tiêu, nhiệm vụ hàng đầu của cả dân
tộc”. Bởi vì, đại đoàn kết dân tộc chính là nhiệm vụ của quần chúng, do
quần chúng, vì quần chúng. Đảng có sứ mệnh thức tỉnh, tập hợp, đoàn kết
quần chúng tạo thành sức mạnh vô địch trong cuộc đấu tranh vì độc lập cho
dân tộc, tự do cho nhân dân, hạnh phúc cho con người.
1.3. Đại đoàn kết dân tộc là đại đoàn kết toàn dân.
Theo tư tưởng Hồ Chí Minh, “dân” chỉ mọi con dân đất Việt, con rồng cháu
tiên, không phân biệt dân tộc đa số, người tín ngưỡng với người không tín
ngưỡng, không phân biệt già trẻ , gái, trai, giàu, nghèo. Nói dến đại đoàn kết
dân tộc cũng có nghĩa phải tập hợp mọi người dân vào một khối trong cuộc


đấu tranh chung. Người đã nhiều lần nói rõ: “ ta đoàn kết để đấu tranh cho
thống nhất và độc lập tổ quốc; ta còn phải đoàn kết để xây dựng nước nhà.
Ai có tài, có đức, có sức, có lòng phụng sự tổ quốc và phụng sự nhân dân thì
ta đoàn kết với họ”
Muốn thực hiện đại đoàn kết toàn dân thì phải kế thừa truyền thống yêu
nước- nhân nghĩa- đoàn kết của dân tộc, phải có tấm lòng khoan dung, độ
lượng với con người. Xác định khối đại đoàn kết là liên minh công nông, trí
thức. Tin vào dân, dựa vào dân, phấn đấu vì quyền lợi của dân.
Người cho rằng: liên minh công nông- lao động trí óc làm nền tảng cho khối

đại đoàn kết toàn dân, nền tảng được củng cố vững chắc thì khối đại đoàn
kết dân tộc càng được mở rộng, không e ngại bất cứ thế lực nào có thể làm
suy yếu khối đại đoàn kết dân tộc.
1.4. Đại đoàn kết dân tộc phải biến thành sức mạnh vật chất có tổ chức là
Mặt trận dân tộc thống nhất dưới sự lãnh đạo của Đảng:
Mặt trận dân tộc thống nhất phải được xây dựng theo những nguyên tắc:
+ Trên nền tảng liên minh công nông (sau thêm lao động trí óc) dưới sự lãnh
đạo của Đảng.
+ Mặt trận hoạt động theo nguyên tắc hiệp thương, dân chủ lấy việc thống
nhất lợi
ích của tầng lớp nhân dân làm cơ sở để củng cố và không ngừng mở rộng.
+ Đoàn kết lâu dài, chặt chẽ, đoàn kết thực sự, chân thành, thân ái giúp đỡ
nhau cùng tiến bộ. Phương châm đoàn kết các giai cấp, các tầng lớp khác
nhau của Hồ Chí Minh là: “Cầu đồng tồn dị” – lấy cái chung , đề cao cái
chung, để hạn chế cái riêng, cái khác biệt.
Đầu năm 1951, tại hội nghị đại biểu Mặt trận Liên – Việt toàn quốc, Bác
nói: “Đại đoàn kết tức là trước hết phải đoàn kết đại đa số nhân dân, mà đại
đa số nhân dân ta là công nhân, nông dân và các tầng lớp lao động khác…
Bất kỳ ai mà thật thà tán thành hoà
bình, thống nhất, độc lập, dân chủ thì dù những người đó trước đây chống
chúng ta, bây giờ chúng ta cũng thật thà đoàn kết với họ”. Bác chỉ rõ: “Đoàn
kết là một chính sách dân tộc, không phải là một thủ đoạn chính trị. Ta đoàn
kết để đấu tranh cho thống nhất và độc lập của tổ quốc, ta còn phải đoàn kết
để xây dựng nước nhà. Ai có tài, có đức, có sức, có lòng phụng sự tổ quốc
và phục vụ nhân dân thì ta đoàn kết với họ”. Bác còn nhấn
mạnh:”Đoàn kết rộng rại, chặt chẽ, đồng thời phải củng cố. Nền có vững,
nhà mới chắc chắn, gốc có tốt thì cây mới tốt tươi. Trong chính sách đoàn
kết phải chống hai khuynh hướng sai lầm: cô độc, hẹp hòi và đoàn kết vô
nguyên tắc”.
Cũng tại đại hội đó, Bác còn phát biểu:



“Tôi rất sung sướng được lãnh cái trách nhiệm kết thúc lễ khai mạc của Đại
hội thống nhất Việt Minh – Liên Việt.
Lòng sung sướng ấy là của chung toàn dân, của cả Đại hội, nhưng riêng cho
tôi là một sự sung sướng không thể tả, một người đã cùng các vị tranh đấu
trong bấy nhiêu năm cho khối đại đoàn kết toàn dân. Hôm nay, trông thấy
rừng cây đại đoàn kết ấy đã nở hoa kết quả và gốc rễ của nó đang ăn sâu lan
rộng khắp toàn dân, và nó có một cái tương lai “trường xuân bất lão”. Vì vậy
cho nên lòng tôi sung sướng vô cùng.”
Người đã nói lên không chỉ niềm vui vô hạn trước sự lớn mạnh của Mặt trận
dân tộc thống nhất, mà còn là sự cần thiết phải mở rộng và củng cố Mặt trận
cũng như niềm tin vào sự phát triển bền vững của khối đại đoàn kết dân tộc
lâu dài về sau. Điều này được thể hiện trong toàn bộ tiến trình cách mạng
Việt Nam, khi Hồ Chí Minh còn sống cũng như sau khi Người đã mất
2.NGUYÊN TẮC ĐẠI ĐOÀN KẾT CỦA HỒ CHÍ MINH
Dù cách mạng Việt Nam trải qua những thời kỳ lịch sử khác nhau, song
chiến lược đại đoàn kết dân tộc của Hồ Chí Minh luôn được xây dựng, hoàn
thiện và tuân theo những nguyên tắc nhất qứan sau:
2.1. Đại đoàn kết phải được xây dựng trên cơ sở bảo đảm những lợi ích tối
cao của dân tộc, lợi ích của nhân dân lao động và quyền thiêng liêng của con
người:
Bởi vì trong mỗi quốc gia, mỗi dân tộc bao giờ cũng tồn tại những tầng lớp,
giai cấp khác nhau. Mỗi giai cấp, mỗi tầng lớp lại có lợi ích khác nhau
nhưng tất cả các lợi ích khác nhau đó đều có một điểm chung là lợi ích dân
tộc. Quyền lợi của các tầng lớp, giai cấp có thực hiện được hay không còn
phụ thuộc vào dân tộc đó có được độc lập tự do, có đoàn kết hay không và
việc nhận thức, giải quyết đúng đắn các quan hệ lợi ích đó như thế nào.
Nguyên tắc đại đoàn kết dân tộc Hồ Chí Minh là tìm kiếm, trân trọng và phát
huy những yếu tố tương đồng, thu hẹp đến mức thấp nhất những yếu tố khác

biệt, mâu thuẫn và Người bao giờ cũng tìm ra những yếu tố của đoàn kết dân
tộc thay cho sự đào sâu tách biệt, thực hiện sự quy tụ thay cho việc loại trừ
những yếu tố khác nhau về lợi ích.
Theo Hồ Chí Minh, lợi ích tối cao của dân tộc là độc lập, chủ quyền và toàn
vẹn lãnh thổ, là bình đẳng, dân chủ, tự do. Lợi ích tối cao này là ngọn cờ
đoàn kết, là sức mạnh dân tộc và là nguyên tắc bất di bất dịch của cách mạng
Việt Nam. Đó cũng là nguyên tắc bất biến trong tư tưởng Hồ Chí Minh để
Người tìm ra những phương pháp để thực hiện nguyên tắc đó trong chiến
lược đại đoàn kết dân tộc của mình.
2.1.1 Tin vào dân, dựa vào dân, phấn đấu vì quyền lợi của dân
Đây là nguyên tắc xuất phát từ tư tưởng lấy dân làm gốc của ông cha ta được
Người kế thừa và nâng lên một bước và là phạm trù cơ bãn của chủ nghĩa


duy vật lịch sử: cách mạng là sự nghiệp của quần chúng, nhân dân là người
sáng tạo ra lịch sử. Tin vào dân, dựa vào dân và lấy dân làm gốc có nghĩa là
phải tin tưởng vững chắc vào sức mạnh to lớn và năng lực sáng tạo của nhân
dân, phải đánh giá đúng vai trò của lực lượng nhân dân. Người viết: “Có lực
lượng dân chúng việc to tát mấy, khó khăn mấy cũng
làm được. Không có thì việc gì làm cũng không xong. Dân chúng biết giải
quyết nhiều vấn đề một cách giản đơn, mau chóng, đầy đủ mà những người
tài giỏi, những đoàn thể to lớn nghĩ mãi không ra”.
2.2Đại đoàn kết một cách tự giác, có tổ chức, có lãnh đạo; đại đoàn kết rộng
rãi, lau dài, bền vững:
Theo Hồ Chí Minh, có đoàn kết mới tạo nên sức mạnh của cách mạng.
Muốn đoàn kết thì trước hết phải có Đảng cách mạng để trong thì vận động,
tổ chức dân chúng, ngoài thì liên minh với các dân tộc bị áp bức và giai cấp
vô sản ở mọi nơi. Như vậy, để đoàn kết và lãnh đạo cách mạng, điều kiện
tiên quyết là phải có một Đảng cách mạng với tính cách là Bộ tham mưu, là
hạt nhân để tập hợp quần chúng trong nước và tổ chức, giữ mối liên hệ với

bè bạn ở ngoài nước. Đảng cách mạng muốn thống nhất về chính trị và tư
tưởng, đảm bảo được vai trò đó, thì phải giữ vững bản chất của giai cấp công
nhân, phải được vũ trang bằng chủ nghĩa chân chính, khoa học và cách mạng
nhất là chủ nghĩa Mác – Lênin:”Để làm trọn trách nhiệm người lãnh đạo
cách mạng, Đảng ta phải dựa vào giai cấp công nhân, lấy liên minh công
nông làm nền tảng vững chắc để đoàn kết các tầng lớp khác trong nhân dân.
Có như thế mới phát triển và củng cố được lực lượng cách mạng và đưa cách
mạng đến thắng lợi cuối cùng”.
Đại đoàn kết một cách tự giác là một tập hợp bền vững của các lực lượng xã
hội có định hướng, tổ chức và có lãnh đạo. Đây là sự khác biệt mang tính
nguyên tắc của tư tưởng Hồ Chí Minh về chiến lược đại đoàn kết dân tộc với
tư tưởng đoàn kết, tập hợp lực lượng của các nhà yêu nước Việt Nam tiền
bối và một số lãnh tụ cách mạng trong khu vực và trên thế giới. Đi vào quần
chúng, thức tỉnh quần chúng, đoàn kết quần chúng vào cuộc đấu tranh tự giải
phóng mình theo nguyên tắc của chủ nghĩa Mác – Lênin là mục tiêu nhất
quán của Hồ Chí Minh là đại đoàn kết dân tộc lập trường vô sản, mà sức
mạnh chủ yếu của nó là liên minh công nông.
2.3Đại đoàn kết chân thành, thân ái, thẳng thắn theo nguyên tắc tự phê bình,
phê bình vì sự thống nhất bền vững:
Giữa các bộ phận của khối đại đoàn kết dân tộc, bên cạnh những điểm tương
đồng còn có những điểm khác nhau cần phải giải quyết theo con đường đối
thoại, bàn bạc để đi đến sự nhất trí; bên cạnh những nhân tố tích cực vẫn có
những tiêu cực cần phải khắc phục. Để giải quyết vấn đề này, một mặt Hồ
Chí Minh nhấn mạnh phương châm “cầu đồng tồn dị”; mặt khác, Người nêu


rõ: Đoàn kết phải gắn với đấu tranh, đấu tranh để tăng cường đoàn kết và
căn dặn mọi người phải ngăn ngừa tình trạng đoàn kết xuôi chiều, nêu cao
tinh thần phê bình và tự phê bình để biểu dương mặt tốt, khắc phục những
mặt chưa tốt, củng cố đoàn kết: “Đoàn kết that sự nghĩa là mục đích phải

nhất trí và lập trường cũng phải nhất trí. Đoàn kết thực sự nghĩa là vừa đoàn
kết, vừa đấu tranh, học hỏi những cái tốt của nhau, phê bình những cái sai
của nhau và phê bình trên lập trường thân ái, vì nước, vì dân”. Trong quá
trình xây dựng, củng cố và phát triển, Đảng ta và Mặt trận dân tộc thống
nhất luôn đấu tranh chống khuynh hướng hẹp hòi, một chiều, chống coi nhẹ
việc tranh thủ tất cả những lực lượng có thể tranh thủ được; đồng thời chống
khuynh huớng đoàn kết mà không có đấu tranh đúng mức trong khối đại
đoàn kết dân tộc. “Chúng ta làm cách mạng
nhằm mục đích cải tạo thế giới, cải tạo xã hội. Muốn cải tạo thế giới và cải
tạo xã hội thì trước hết phải tự cải tạo bản thân chúng ta”.
2.4Đại đoàn kết dân tộc phải gắn liền với đoàn kết quốc tế; chủ nghĩa yêu
nước chân chính phải gắn liền với chủ nghĩa quốc tế trong sáng của giai cấp
công nhân:
Ngay từ khi con đường cứu nước vừa sáng tỏ, Hồ Chí Minh đã xác định con
đường cách mạng Việt Nam là một bộ phận của cách mạng thế giới và chỉ
có thể giành được thắng lợi hoàn toàn khi có sự đoàn kết chặt chẽ với phong
trào cách mạng thế giới. Về sau, trong quá trình cách mạng, tư tưởng cuả
Người về vấn đề đoàn kết với cách mạng thế giới càng được làm sáng tỏ hơn
và đầy đủ hơn: Đó là vấn đề cách mạng trong nước phải gắn với phong trào
và phong trào giải phóng dân tộc trên thế giới. Cụ thể hơn là với nhân dân
Pháp, Mỹ, nhân dân Liên Xô, Trung Quốc và các nước xã hội chủ nghĩa
khác, với phong trào đấu tranh vì hoà bình, độc lập dân tộc và tiến bộ xã hội
của nhân dân thế giới. Tư tưởng Hồ Chí Minh đã định hướng cho việc hình
thành 3 tầng Mặt trận: Mặt trận đại đoàn kết dân tộc; Mặt trận đoàn kết ViệtMiên-Lào và Mặt trận nhân dân thế giới đoàn kết với Việt Nam trong cuộc
đấu tranh chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ xâm lược. Đây là sự phát
triển rực rỡ và là thắng lợi to lớn của tư tưởng Hồ Chí minh về đại đoàn kết.
Như vậy đại đoàn kết dân tộc phải là cơ sở và phải đi đến việc thực hiện
đoàn kết quốc tế, nếu đại đoàn kết dân tộc là một trong những yếu tố quyết
định thắng lợi của cách mạng Việt Nam, thì đoàn kết quốc tế cũng là yếu tố
hết sức quan trọng giúp cho cách mạng dân tộc dân chủ ở Việt Nam đi đến

thắng lợi hoàn toàn và đưa cách mạng Việt Nam lên giai đoạn cách mạng xã
hội chủ nghĩa.
3. VẬN DỤNG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ ĐOÀN KẾT DÂN TỘC
TRONG VIỆC ĐẨY MẠNH CÔNG CUỘC ĐỔI MỚI Ở NƯỚC TA HIỆN
NAY


3. Đảng ta đã vận dụng quan điểm về đại đoàn kết dân tộc trong thời kỳ
công nghiệp hoá - Hiện đại hoá
3.1. Thực trạng chung:
Hiện nay, nước ta đã thu được những thành tựu cơ bản. Dưới sự lãnh đạo
của đảng, việt nam đang xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa, xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân,
vì dân. Việt nam đang chủ động hội nhập kinh tế quốc tế, mở cửa sẵn sàng là
bạn là đối tác tin cậy của các nước trong cộng đồng quốc tế phấn đấu vì hòa
bình độc lập và phát triển.
Trong những năm đổi mới, nền kinh tế của đất nước tiếp tục phát triển với
nhịp độ cao so với các nước khác trong khu vực. Tình hình chính trị của đất
nước luôn luôn giữ được ổn định. Tình hình xã hội có tiến bộ. Đời sống vật
chất tinh thần của nhân dân không ngừng được cải thiện. Vị thế của đất nước
không ngừng được nâng cao trên trường quốc tế. Thế và lực của đất nước ta
mạnh lên rất nhiều so với những năm trước đổi mới cho phép nước ta tiếp
tục phát huy nôi lực kết hợp với tranh thủ ngoại lực để phát triển nhanh và
bền vững, trước mắt phấn đấu đến năm 2020 về cơ bản làm cho việt nam trở
thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại; nguồn lực con người,
năng lực khoa học và công nghệ, kết cấu hạ tầng, tiềm lực kinh tế, quốc
phòng, an ninh được tăng cường; thể chế kinh tế thị trường định hướng xã
hội chủ nghĩa được hình thành về cơ bản; vị thế của nước ta trên trường
quốc tế tiếp tục được nâng cao.
Mặt khác, việt nam đang đứng trước cơ hội lớn và thách thức lớn đan xen

nhau.
Sự nghiệp đổi mới của nước ta trong những năm tới, có cơ hội để phát triển
của đất nước. Đó là lợi thế so sánh để phát triển do nhiều yếu tố, trong đó
yếu tố nội lực là hết sức quan trọng. Những cơ hội tạo cho đất nước ta có thể
đi tắt, đón đầu, tiếp thu nhanh những thành tựu của cách mạng khoa học và
công nghệ trên thế giới. Mặt khác, chúng ta rút ra được nhiều bài học từ cả
những thành công và yếu kém của gần hai chục năm tiến hành sự nghiệp đổi
mới để đẩy mạnh sự nghiệp cách mạng, nhất là trong thời kỳ đẩy mạnh công
nghiệp hóa, hiện đại hóa. Những thành tựu và thời cơ đã cho phép nước ta
tiếp tục đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, xây dựng nền kinh tế độc
lập tự chủ, đưa việt nam trở thành một nước công nghiệp, tiếp tục ưu tiên
phát triển lực lượng sản xuất, đồng thời xây dựng quan hệ sản xuất phù hợp
theo định hướng xã hội chủ nghĩa, phát huy hơn nữa nội lực.
Tuy vậy, chúng ta cũng đang đứng trước những thách thức, nguy cơ hay
những khó khăn lớn trên con đường phát triển của đất nước. Ví như nạn
tham nhũng, tệ quan liêu cũng như sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo


đức, lối sống của một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên đã và đang cản
trở việc thực hiện có hiệu quả đường lối, chủ trương, chính sách của đảng và
nhà nước, gây bất bình và làm giảm niềm tin trong nhân dân. Các thế lực
phản động không ngừng tìm mọi cách thực hiện âm mưu "diễn biến hòa
bình", chống phá sự nghiệp cách mạng của nhân dân ta do đảng cộng sản
việt nam lãnh đạo.Mặt khác, các thế lực thù địch ra sức phá hoại khối đại
đoàn kết của nhân dân ta, luôn kích động cái gọi là “dân chủ, nhân quyền”,
kích động vấn đề dân tộc, tôn giáo hòng li gián, chia rẽ nội bộ Đảng, Nhà
nước và nhân dân ta.
Sự nghiệp xây dựng, phát triển đất nước vì mục tiêu "dân giàu, nước mạnh,
xã hội công bằng, dân chủ, văn minh" đang đòi hỏi toàn ðảng, toàn quân và
toàn dân thực hiện chiến lược đại đoàn kết toàn dân tộc ở chiều sâu.

đặc biệt, khối đại đoàn kết toàn dân tộc trên nền tảng liên minh giai cấp công
nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ tri thức được mở rộng hơn, là nhân tố
quan trọng thúc đẩy sự phát triển kinh tế xã hội của đất nước.
3.2. Nhiệm vụ và yêu cầu:
Cách đây 64 năm, vào ngày 2/9/1945, chủ tịch hồ chí minh đã đọc bản tuyên
ngôn độc lập khai sinh ra nước việt nam dân chủ cộng hoà. 66 năm đã qua đi
nhưng bài học về tinh thần đoàn kết dân tộc trong tư tưởng hồ chí minh vẫn
còn nguyên giá trị. Qua 20 năm thực hiện công cuộc đổi mới, với nhiều chủ
trương lớn của đảng, chính sách của nhà nước hợp lòng dân, khối đại đoàn
kết dân tộc trên nền tảng liên minh giai cấp công nhân với giai cấp nông dân
và đội ngũ trí thức được mở rộng hơn, là nhân tố quan trọng thúc đẩy sự
phát triển kinh tế - xã hội, giữ vững ổn định chính trị của đất nước. Các hình
thức tập hợp nhân dân đa dạng hơn và có bước phát triển mới, dân chủ xã
hội được phát huy; bước đầu đã hình thành không khí dân chủ, cởi mở trong
xã hội.
Có thể khẳng định: chính sách đại đoàn kết toàn dân tộc của đảng đã thực sự
là một bộ phận của đường lối đổi mới và góp phần to lớn vào những thành
quả của đất nước.
Tuy nhiên, khối đại đoàn kết toàn dân tộc, mối quan hệ giữa đảng, nhà nước
và nhân dân đang đứng trước những thách thức mới. Lòng tin vào đảng, nhà
nước và chế độ của một bộ phận nhân dân chưa vững chắc, tâm trạng của
nhân dân có những diễn biến phức tạp, lo lắng về sự phân hoá giàu nghèo,
về việc làm và đời sống. Nhân dân bất bình trước những bất công xã hội,
trước tệ tham nhũng, quan liêu, lãng phí, v.v…
Sở dĩ có những khuyết điểm, yếu kém trên là do: đảng ta chưa kịp thời phân
tích và dự báo đầy đủ những biến đổi trong cơ cấu giai cấp - xã hội trong
quá trình đổi mới đất nước và những mâu thuẫn nảy sinh trong nội bộ nhân
dân để kịp thời có chủ trương, chính sách phù hợp; có tổ chức đảng, chính



quyền còn coi thường dân, coi nhẹ công tác dân vận - mặt trận; ở không ít
nơi còn tư tưởng định kiến, hẹp hòi làm cản trở cho việc thực hiện chủ
trương đại đoàn kết toàn dân tộc của đảng; một bộ phận không nhỏ cán bộ,
đảng viên thoái hoá, biến chất, v.v… không thực hiện được vai trò tiên
phong gương mẫu.
33. Vận dụng tư tưởng hồ chí minh trong công cuộc đổi mới hiện nay:
3.3.1. Phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc:
để thực hiện thắng lợi sự nghiệp đổi mới, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện
đại hóa, đòi hỏi đảng, nhà nước phải xây dựng và phát huy cao độ sức mạnh
đại đoàn kết toàn dân tộc, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại.
Trong thời gian qua, nhìn chung, khối đại đoàn kết toàn dân tộc trên nền
tảng liên minh giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức
được mở rộng hơn, là nhân tố quan trọng thúc đẩy sự phát triển kinh tế, xã
hội, giữ vững ổn định chính trị xã hội của đất nước. Tuy nhiên, trong khi sự
nghiệp đổi mới đang có yêu cầu cao về tập hợp sức mạnh của nhân dân thì
việc tập hợp nhân dân vào mặt trận và các đoàn thể, các tổ chức xã hội còn
nhiều hạn chế, nhất là ở khu vực kinh tế tư nhân, khu vực doanh nghiệp có
vốn đầu tư nước ngoài, ở một số vùng có đông đồng bào theo đạo, đồng bào
dân tộc thiểu số...
trong công cuộc đổi mới, mặt trận tổ quốc việt nam với tính chất là một tổ
chức liên minh chính trị, liên hiệp tự nguyện rộng lớn nhất của nhân dân ta,
nơi thể hiện ý chí và nguyện vọng của mọi tầng lớp nhân dân, nơi hiệp
thương và thống nhất hành động của các thành viên, đã phối hợp với chính
quyền giải quyết ngày càng có hiệu quả những vấn đề bức xúc của nhân dân,
thực hiện dân chủ, đổi mới xã hội, chăm lo lợi ích chính đáng của các tầng
lớp nhân dân; tham gia ngày càng thiết thực vào việc xây dựng, giám sát,
bảo vệ đảng và chính quyền.
Với tư cách là cơ sở chính trị của chính quyền nhân dân, mặt trận tổ quốc
việt nam đã phối hợp ngày càng nhiều hơn với chính quyền các cấp từ trung
ương đến địa phương trong việc thực hiện các nhiệm vụ kinh tế - xã hội, an

ninh, quốc phòng và đối ngoại nhằm cùng nhau nỗ lực xây dựng và bảo vệ
tổ quốc. trước yêu cầu của nhiệm vụ mới, mặt trận tổ quốc việt nam phải chủ
động góp phần cùng đảng và nhà nước xây dựng và hoàn thiện một số chính
sách chung để sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc trở thành động lực chủ
yếu và là nhân tố có ý nghĩa quyết định, bảo đảm thắng lợi bền vững của sự
nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ quốc.
kế thừa và phát huy truyền thống vẻ vang, mặt trận tổ quốc việt nam chủ
trương “đoàn kết rộng rãi, đoàn kết chân thành mọi thành viên trong xã hội
có thể đoàn kết được, không phân biệt quá khứ, thành phần giai cấp, dân tộc,
tôn giáo, ở trong nước hay ở nước ngoài trên cơ sở mục tiêu chung là giữ


vững độc lập thống nhất chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ quốc gia vì mục
tiêu “dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”; đoàn kết
giữa nhân dân với nhân dân các nước trên thế giới; phát huy sức mạnh đại
đoàn kết toàn dân tộc để trở thành động lực chủ yếu để xây dựng và bảo vệ
vững chắc tổ quốc”.
trong những năm trước mắt, mặt trận tập trung đẩy mạnh hơn nữa các cuộc
vận động, các phong trào thi đua yêu nước, nhất là cuộc vận động “toàn dân
đoàn kết xây dựng đời sống văn hoá ở khu dân cư” và cuộc vận động “ngày
vì người nghèo”, phấn đấu xoá xong nhà dột nát cho người nghèo, góp phần
cùng đảng và nhà nước thực hiện mục tiêu đến năm 2010 đưa đất nước ta ra
khỏitình trạng nước kém phát triển.
3.3.2. Khơi dậy và phát huy tinh thần đại đoàn kết dân tộc:
trong thực tiễn, việc chuyển sức mạnh đoàn kết dân tộc trong thời kỳ giữ
nước sang thời kỳ dựng nước không phải là việc dễ dàng, lịch sử đang đòi
hỏi những nỗ lực lớn của đảng và nhà nước ta trong lĩnh vực này. Vận dụng
tư tưởng hồ chí minh trong xu thế hiện nay là hội nhập kinh tế quốc tế, một
loạt vấn đề đặt ra mà chúng ta phải chú ý:
- khơi dậy và phát huy cao độ sức manh nội lực, phải xuất phát từ lợi ích dân

tộc, từ phát huy nội lực dân tộc mà mở rộng quan hệ hợp tác quốc tế, tranh
thủ mọi khả năng có thể tranh thủ được để xây dựng, phát triển đất nước.
- trong điều kiện xây dựng nền kinh tế thị trường đinh hướng xã hội chủ
nghĩa, để khơi dậy và phát huy tối đa nội lực, nâng cao ý chí tự cường dân
tộc, trong chính sách đại đoàn kết, phải chú ý phát huy tính năng động của
mỗi người, mỗi bộ phận để mọi việc từ lãnh đạo, quản lý, đến sản xuất kinh
doanh, học tập và lao động đều có năng suất, chất lượng, hiệu quả ngày càng
cao. Đồng thời, phải khắc phục được những tiêu cực của kinh tế thị trường,
đặc biệt tâm lý chạy theo đồng tiền, cạnh tranh không lành mạnh làm phai
nhạt truyền thống đoàn kết, tình nghĩa tương thân tương ái của dân tộc, giải
quyết đói nghèo, thu hẹp khoảng cách, ranh giới giữa kinh và thượng, giữa
nông thôn và thành thị, cũng cố khối đại đoàn kết 54 dân tộc anh em, chăm
lo đời sống đồng bào dân tộc ít người, đặc biệt là vùng sâu, vùng xa, tôn
trọng tín ngưỡng tôn giáo, các tập quán tốt đẹp của dân tộc, kiên quyết loại
bỏ những âm mưu lợi dụng tôn giáo, tà giáo để gây rối.
- phải xây dựng hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh. Phải chống các tệ
nạn xã hội, nhất là tệ nạn tham nhũng, quan liêu, vi phạm quyền làm chủ của
nhân dân, phải biết lắng nghe những ý nguyện chính đáng của nhân dân,
phải kịp thời giải quyết những oan ức của nhân dân, làm cho lòng dân được
yên. Phải tiếp tục đổi mới chính sách giai cấp, chính sách xã hội, đặc biệt coi
trọng việc xây dựng mặt trận, đổi mới, hoàn thiện chính sách dân tộc, chính
sách tôn giáo, chính sách đối với công nhân, với nông dân, với trí thức,


chính sách đối với cộng đồng người việt nam ở nước ngoài, chính sách đối
với các thành phần kinh tế, tập hợp đến mức rộng rãi nhất mọi nhân tài, vật
lực vào sự nghiệp đẩy mạnh công nghiệp hóa hiện đại hóa đất nước.
- trong điều kiện thực hiện chính sách mở cửa, hội nhập quốc tế, đa phương
hóa, đa dạng hóa quan hệ đối ngoại trong xu thế khu vực hóa, toàn cầu hóa
kinh tế ngày càng phát triển, đòi hỏi phải củng cố sự đoàn kết với phong trào

cách mạng các nước, đồng thời phải nắm vững phương châm ngoại giao
mềm dẻo, có nguyên tắc nhằm thực hiện thắng lợi chính sách đối ngoại hiện
nay của đảng và nhà nước ta là: việt nam muốn là bạn và đói tác tin cậy với
tất cả các nước trong cộng đồng quốc tế, vì hòa bình, hợp tác và phát triển.
trong tình hình thế giới hiện nay, đòi hỏi chúng ta phải có những chủ trương
đúng đắn, sáng tạo trong việc nắm bắt cơ hội, vượt qua thử thách, đẩy lùi
nguy cơ, để vừa nâng cao hiệu quả hợp tác quốc tế, vừa giữ vững bản sắc
dân tộc, giữ vững đinh hướng xã hội chủ nghĩa. ngoài ra, đảng và nhà nước
ta phải chủ trương phát huy mạnh mẽ sức mạnh dân tộc - sức mạnh của chủ
nghĩa yêu nước, sức mạnh của người làm chủ, sức mạnh đại đoàn kết toàn
dân, trên cơ sở sức mạnh bên trong mà tranh thủ và vận dụng sự đồng tình,
ủng hộ rộng rãi của lực lượng bên ngoài.
3.3.3
xác đinh hướng đi :
đại đoàn kết dân tộc - cội nguồn sức mạnh của đất nước là yếu tố quyết định
cho phát triển ngày nay, nước ta không còn những kẻ xâm lược. Nhưng kẻ
thù vẫn còn. Một trong những kẻ thù đó là sự nghèo nàn, lạc hậu. Lạc hậu
thì sẽ tụt hậu. Tụt hậu thì khó thoát khỏi vòng lệ thuộc. Tất cả những ai có
thể góp một phần vào việc chống kẻ thù đó đều nên và có thể có mặt trong
hàng ngũ của chúng ta. từ ngày đảng ta có chủ trương đổi mới, tư tưởng hòa
hợp dân tộc lại được phục hưng và ứng nghiệm với nhiều kết quả khả quan.
Quan điểm kinh tế nhiều thành phần, quan điểm kinh tế mở, tư tưởng vn làm
bạn với tất cả các nước trên thế giới, khép lại quá khứ, hướng về tương lai...
Đã giúp cho nước ta khai thác được cả nội lực và ngoại lực để vượt khỏi
khủng hoảng, liên tiếp thu được những thành quả về mọi mặt.
bây giờ, chúng ta đã có một nước vn độc lập, thống nhất và đang trên đường
tiến tới thực hiện lý tưởng dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ
và văn minh. Chúng ta đã từng bước nâng cao uy tín quốc tế. Do đó, chúng
ta càng có sức cảm hóa nhiều hơn. Những kinh nghiệm quốc tế vừa qua càng
chỉ rõ thêm rằng nếu chỉ dùng đối đầu và bạo lực để giải quyết những thù

hận thì chỉ đẻ ra thù hận. Nếu dùng cách cảm hóa để giải quyết thù hận thì
có thể triệt tiêu được thù hận và tạo ra sức mạnh càng ngày càng dồi dào
hơn. nếu cứ còn chia rẽ do hận vì bại, kiêu vì thắng, thì có ích gì cho bản
thân, cho đất nước, cho hình ảnh vn trên trường quốc tế? nhìn ra thế giới,


càng nghiệm thấy rằng tài nguyên lớn nhất cho mọi quốc gia chính là tài
nguyên con người. Nếu quy tụ được sức người, thì nhiều nguồn lực khác
cũng có thể được quy tụ. Con người mà không quy tụ thì mọi nguồn lực
khác cũng rơi rụng. xây dựng, kiện toàn hệ thống chính trị trong sạch, vững
mạnh:
- xây dựng đảng cộng sản việt nam vững mạnh
- xây dựng nhà nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa việt nam trong sạch, vững
mạnh, thể hiện quyềnlàm chủ của nhân dân.
- luôn luôn chăm lo xây dựng mặt trận và các đoàn thể nhân dân
hệ thống chính trị ở việt nam được cấu thành bởi 3 thành tố: đảng lãnh đạo,
nhà nước quản lý và nhân dân làm chủ. Đây là một thể thống nhất, không
đối lập và không tách rời nhau.vấn đề làm chủ của nhân dân được thể hiện rõ
qua quyền giám sát của dân thông qua việc các đại biểu quốc hội chất vấn
các thành viên chính phủ tại mỗi kỳ họp quốc hội; người dân có quyền tham
gia vào các tổ chức chính trị, xã hội, đoàn thể. Việc thực hiện quy chế dân
chủ ở cơ sở cho phép người dân được tham gia trực tiếp vào việc lập kế
hoạch, quản lý và thực thi các chính sách phát triển tại địa phương. Người
dân cũng được tạo điều kiện phát triển kinh tế trong khuôn khổ pháp luật.
dựa vào sức mạnh của toàn dân, lấy dân làm gốc: sự nghiệp đổi mới là sự
nghiệp của dân, do dân, vì dân, cho nên mọi chủ trương chính sách của đảng
ta đều xuất phát từ dân, dựa vào dân mà thực hiện. Do đó cần phải phát triển
nguồn nhân lực con người, đào tạo đội ngũ cán bộ tốt, đủ năng lực, phẩm
chất đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, khơi dậy, phát
huy sức mạnh đoàn kết dân tộc, coi dân chủ là mục tiêu, là động lực để xây

dựng đất nước, chú trọng nâng cao ý thức làm chủ cho nhândân.
" dễ trăm lần không dân cũng chịu, khó vạn lần dân liệu cũng xong ".
dân là gốc của nước. Vận dụng và phát triển tư tưởng hồ chí minh, chúng ta
coi đại đoàn kết toàn dân trên cơ sở liên minh giữa công nhân với nông dân
và trí thức do đảng lãnh đạo là động lực chủ yếu để phát triển đất nước. Vì
vậy, chúng ta cần phải:
- thường xuyên chăm lo xây dựng và phát triển nguồn lực con người. Cần
xây dựng và phát triển nguồn nhân lực trên cơ sở:
+ bồi dưỡng tư tưởng yêu nước kết hợp với tinh thần quốc tế chân chính
+ có đạo đức, lối sống cách mạng trong sáng, cần, kiệm, liêm, chính, chí
công vô tư, không tham nhũng và mắc các tiêu cực khác.
+ đội ngũ nhân lực có trình độ cao
- tiếp tục xây dựng và củng cố khối đại đoàn kết toàn dân tộc. Đoàn kết tạo
thành sức mạnh vô biên. Lịch sử nước nhà và lịch sử thế giới cho thấy rằng,
thời kỳ nào dân tộc không đoàn kết thì thời kỳ đó dân tộc không phát triển
lên được, thậm chí sẽ bị mất nước, bởi các thế lực ngoại bang xâm chiếm.


- tôn trọng quyền làm chủ của dân. Xã hội càng phát triển thì trình độ dân
chủ của một xã hội càng cao. Dân phải tôn trọng, phải phát huy được tính
tích cực của mình trong các lĩnh vực của đời sống xã hội. Kinh tế thị trường
đã và đang tạo ra những mặt tích cực đáng kể cho sự phát triển kinh tế- xã
hội nhưng đồng thời cũng có những mặt trái, làm trầm trọng thêm một số
tiêu cực đã có trước đây và nảy sinh một số tiêu cực mới. Mọi âm mưu và
hành động, dù là nhỏ, làm tổn hại đến khối đại đoàn kết toàn dân tộc đều là
có tội đối với đất nước, cần được lên án.
- tạo điều kiện cho nhân dân làm tròn nghĩa vụ công dân. phát triển con
người:
trong thế giới ngày nay, nguồn lực hàng đầu là trí thức. Nói như thế không
có nghĩa là đề cao những con người trí thức cụ thể, mà nói đến một điều kiện

không thể thiếu cho sự phát triển: trong cuộc đua tranh để phát triển, không
thể chỉ dựa vào nhiệt tình và ý chí, mà phải dựa vào kiến thức, học vấn, sự
nhận thức các quy luật của thiên nhiên và của xã hội.
theo kinh nghiệm lịch sử của thế giới và bản thân nước ta, nhất là qua những
kinh nghiệm của bác hồ, thấy rằng trí thức tận tụy hay không là tùy thuộc
vào chúng ta có tin dùng trí thức hay không, có giao cho họ đảm nhiệm
những trọng trách mà họ xứng đáng được đảm nhiệm hay không.
điều đó không tùy thuộc vào bản thân trí thức, mà vào lãnh đạo: có đủ khả
năng thu phục nhân tâm và nhân tài hay không. Thu hút được nhân tài cũng
là một tài năng.
Hiện nay, nước ta đã có một giai cấp công nhân ngày càng đông đảo, hoạt
động trong nhiều ngành công nghiệp khác nhau, trong các thành phần kinh
tế khác nhau. Yêu cầu về trình độ nghề nghiệp ngày càng cao, nhất là trong
điều kiện công nghệ ngày càng hiện đại, tin học hoá và tự động hoá ngày
càng nhiều. Nếu có chính sách phù hợp thì người công nhân sẽ có những
sáng kiến, sáng tạo lớn. Có thể nói sản xuất hiện đại vẫn đòi hỏi và rèn luyện
người công nhân những phẩm chất ưu việt của riêng người công nhân. Đó là
tính kỷ luật, chính xác, tính tập thể, là ý thức chính trị tốt. Đó cũng là những
phẩm chất mà người cán bộ, nhất là cán bộ lãnh đạo, quản lý cần có. Vì vậy
hiện nay, chú ý phát triển đội ngũ cán bộ xuất thân từ giai cấp công nhân vẫn
là một hướng đi đúng cần quan tâm.
Đất nước ta cũng có một đội ngũ trí thức khá lớn. Họ có mặt trong nhiều
ngành, nhiều lĩnh vực từ sản xuất công nghiệp, nông nghiệp, nghiên cứu
khoa học tự nhiên, khoa học xã hội, khoa học công nghệ, văn hoá nghệ
thuật... Họ xuất thân từ các giai cấp và tầng lớp khác nhau kể cả nông dân,
công nhân. Họ có mối liên hệ khá gần gũi với các giai cấp và tầng lớp khác,
với quần chúng lao động. Họ có thể hiểu rõ tâm tư nguyện vọng, những giá


trị của quần chúng lao động. Rất nhiều người trong số đó có khả năng lãnh

đạo, quản lý.
Để xây dựng đội ngũ cán bộ các cấp hiện nay, kể cả cán bộ lãnh đạo, quản lý
cấp cao, chúng ta phải khắc phục những định kiến vẫn còn rơi rớt. Đó là tâm
lý coi thường những người xuất thân từ các giai cấp lao động, đặc biệt từ
giai cấp công nhân, nghĩ rằng họ quen lao động chân tay, ít chữ nghĩa, ít
hiểu biết, hạn chế tầm nhìn đối với những vấn đề đại sự quốc gia. Do đó chỉ
chú ý vào những người "có học", đã qua trường lớp chính quy, bài bản.
Ngược lại, có tâm lý coi thường hoặc kỳ thị những người trí thức, coi họ chỉ
sách vở, quan liêu, không thực tế, thiếu hiểu biết cuộc đời. Thậm chí coi họ
là điển hình của thói tiểu tư sản, cá nhân chủ nghĩa, yếu đuối. Do đó chỉ chú
ý đối với những người đã từng kinh qua "thực tiễn".
Tuy nhiên, nhìn một cách thực tế, hậu quả của cả hai khuynh hướng đều
không tốt. Chúng ta phải đề phòng một khuynh hướng nửa vời trong đội ngũ
cán bộ, một mặt chạy theo vỏ trí thức, với những văn bằng, học vị nọ kia
chứ không thực sự là trí thức, mặt khác cũng không có lập trường quan
điểm, tác phong công nhân thực sự. Đây là một tình trạng chứa đựng nguy
cơ của chủ nghĩa cơ hội trong đội ngũ cán bộ của chúng ta. để ngọn lửa yêu
nước và đại đoàn kết dân tộc sáng mãi
Chúng ta cần ôn lại mấy bài học lớn của bác:
- đất nước vn, giang sơn vn cùng mọi thành quả của nền văn hóa vn không
phải là của riêng ai, của một giai cấp hay đảng phái nào, mà là tài sản chung
của mọi người vn, của cả dân tộc vn.
- đã thế thì mọi người vn đều có trách nhiệm và có quyền được đóng góp
vào việc tô điểm cho giang sơn đó, làm giàu thêm và đẹp thêm cho nền văn
hóa đó. lại vì thế nên phải làm sao để cho mọi người vn đều được sống với
giang sơn gấm vóc này, được hưởng mọi giá trị vật chất và tinh thần của nền
văn hóa này.
V. KẾT LUẬN:
Trong tất cả mọi người việt nam sống ở trong nước hay ở nước ngoài đều
luôn luôn tiềm ẩn tinh thần, ý thức dân tộc trong tâm thức của họ. Vì vậy,

khơi nguồn và phát triển đến đỉnh cao sức mạnh dân tộc và trí tuệ của con
người việt nam, thực thi chiến lược đại đoàn kết dân tộc của hồ chí minh
một cách sáng tạo, quy tụ lực lượng dân tộc bằng nội dung và hình thức tổ
chức thích hợp với mọi đối tượng tập thể và cá nhân trên cơ sở lấy liên minh
công nông và trí thức làm nòng cốt do đảng cộng sản lãnh đạo, phấn đấu vì
độc lập của tổ quốc, tự do, hạnh phúc của của toàn dân là một bài học kinh
nghiệm lịch sử có giá trị bền vững lâu dài, đặc biệt có ý nghĩa chính trị quan
trọng trong sự nghiệp thực thi đường lối đổi mới, thực hiện cương lĩnh xây
dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội hiện nay.


cách mạng nước ta đã bước sang giai đoạn mới có sự khác biệt về chất so
với thời kỳ đấu tranh bảo vệ tổ quốc và giải phóng đất nước, thậm chí cũng
đã khác rất nhiều so với 20 năm trước. Đại hội ix và x của đảng ta đã xác
định đại đoàn kết toàn dân tộc là một động lực chủ yếu của sự phát triển đất
nước. Do vậy, công tác cán bộ phải quán triệt hơn nữa quan điểm và bài học
kinh nghiệm của đảng và bác hồ về việc kết hợp quan điểm giai cấp và phát
huy truyền thống đại đoàn kết toàn dân tộc. Từ thực tiễn lịch sử chứng minh
rằng giữa giai cấp công nhân và đại đoàn kết dân tộc có quan hệ biện chứng,
không hề đối lập nhau: nếu là công nhân (và chỉ có công nhân thực sự) thì
mới thực hiện được đại đoàn kết toàn dân tộc. Đứng trên lập trường khác
không thể đại đoàn kết toàn dân tộc thực sự được. Ngược lại, thực hiện đại
đoàn kết dân tộc chính là thực hiện quan điểm của giai cấp công nhân, phù
hợp với lợi ích của giai cấp công nhân. Theo quan điểm này, làm thế nào tận
dụng được hết tất cả tài năng không phân biệt giai cấp, nguồn gốc xuất thân,
là người việt nam trong nước hay người việt nam ở nước ngoài, chính là thể
hiện quan điểm giai cấp công nhân của đảng ta. Lựa chọn cán bộ phải căn cứ
chủ yếu vào nhận thức và hành động thực tiễn của mỗi người chứng tỏ rằng
đang phấn đấu cho độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, phấn đấu cho dân
giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.




×