Khóa luận tốt nghiệp Trịnh khánh Huyền - K60D
MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn khóa luận
Trong suốt cuộc đời hoạt động cách mạng của mình, để đạt tới mục
tiêu, lý tưởng cách mạng, cùng với việc khẳng định trước tiên phải có “Đảng
cách mạng” để lãnh đạo, dẫn dắt con thuyền cách mạng, Hồ Chí Minh hết sức
quan tâm đến việc xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân nhằm tập hợp, huy
động mọi lực lượng cách mạng, phát huy sức mạnh dân tộc và sức mạnh thời
đại để giành thắng lợi.
Tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đoàn kết dân tộc trước hết thể hiện tư
tưởng nhân văn của Người, là sự kế thừa truyền thống yêu nước, tinh thần
cộng đồng của dân tộc Việt Nam, nền văn hóa Việt Nam, tư tưởng đoàn kết
quốc tế của chủ nghĩa Mác - Lênin, được xây dựng, bổ sung và phát triển
trong thực tiễn cách mạng Việt Nam. Thực tiễn cách mạng Việt Nam đã minh
chứng, khi nào Đảng ta, dân tộc ta đoàn kết một lòng, thực hiện triệt để tư
tưởng đại đoàn kết của Người, thì cách mạng giành được nhiều thành công.
Trong giai đoạn hiện nay, để thực hiện thắng lợi sự nghiệp đổi mới, đẩy
mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, đòi hỏi Đảng, Nhà nước phải xây dựng
và phát huy cao độ sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc. Sự nghiệp đổi mới
ngày càng phát triển, thúc đẩy quá trình hội nhập của nước ta vào nền kinh tế
thế giới ngày càng mạnh mẽ thì ý nghĩa của bài học nói trên càng có tính thời
sự sâu sắc. Vì vậy, yêu cầu thấm nhuần và vận dụng sáng tạo Tư tưởng Hồ
Chí Minh về đại đoàn kết dân tộc là một điều kiện không thể thiếu, giúp
chúng ta tìm ra những đối sách phù hợp, đưa sự nghiệp đổi mới tiếp tục tiến
lên giành thắng lợi mới. Trong thời gian qua, nhìn chung khối đại đoàn kết
toàn dân tộc trên nền tảng liên minh giai cấp công nhân với giai cấp nông dân
và đội ngũ trí thức được mở rộng hơn, là nhân tố quan trọng thúc đẩy sự phát
triển kinh tế - xã hội của đất nước. Tuy nhiên, vấn đề đại đoàn kết dân tộc
hiện nay cần phải được xem xét và giải quyết tận gốc rễ trên quan điểm thực
1
Khóa luận tốt nghiệp Trịnh khánh Huyền - K60D
sự khoa học và cách mạng. Một thực tế đặt ra trong sự nghiệp đổi mới, đặt ra
yêu cầu cao về tập hợp sức mạnh của nhân dân thì việc đoàn kết tập hợp nhân
dân và các đoàn thể, các tổ chức xã hội còn nhiều hạn chế ở một số vùng đồng
bào theo đạo, đồng bào dân tộc thiểu số… Do vậy, cần thiết phải huy động
sức mạnh của khối đại đoàn kết dân tộc theo tư tưởng Hồ Chí Minh, chúng ta
mới có thể đưa đất nước tiến vững chắc trên con đường công nghiệp hóa, hiện
đại hóa, theo định hướng xã hội chủ nghĩa, thực hiện dân giàu, nước mạnh,
dân chủ, công bằng, văn minh.
Mai Châu là một huyện vùng cao phía Tây Bắc có vị trí chiến lược vô
cùng quan trọng của tỉnh Hòa Bình là cửa ngõ lên Tây Bắc và sang Lào.
Huyện có đông dân tộc anh em sinh sống với những phong tục tập quán, trình
độ học vấn, điều kiện kinh tế, tôn giáo, tín ngưỡng khác nhau…, nên dễ bị các
thế lực phản động lội kéo, dụ dỗ gây mất đoàn kết trong cơ sở Đảng, cũng
như trong các tổ chức quần chúng trong địa bàn huyện. Đặc biệt là trong giai
đoạn hiện nay, khi thế giới đang phát triển nhanh chóng với những tiến bộ của
khoa học công nghệ, cùng với mặt trái của nền kinh tế thị trường con người
thường đề cao lợi ích vật chất mà coi nhẹ những giá trị truyền thống tốt đẹp
của dân tộc, tình cảm làng xóm, tình cảm giữa con người với nhau cũng dần
bị phai nhạt đi. Do đó, vấn đề xây dựng khối đại đoàn kết dân tộc trong cả
nước nói chung và trên địa bàn huyện nói riêng là rất quan trọng và cần thiết.
Với mong muốn hiểu rõ và góp phần làm sáng tỏ thêm những quan
điểm, tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh về đại đoàn kết dân tộc, từ đó đưa
ra một số nội dung vận dụng, đề xuất nhằm củng cố và tăng cường khối đại
đoàn kết dân tộc nói chung và khối đại đoàn kết dân tộc trên địa bàn huyện
Mai Châu tỉnh Hòa Bình nói riêng, nên tôi đã chọn đề tài “Vận dụng tư
tưởng Hồ Chí Minh về đại đoàn kết dân tộc trong xây dựng khối đại đoàn
kết dân tộc ở huyện Mai Châu - tỉnh Hòa Bình (2008 - 2013)” làm đề tài
khóa luận tốt nghiệp của mình.
2
Khóa luận tốt nghiệp Trịnh khánh Huyền - K60D
2. Tình hình nghiên cứu
Đại đoàn kết dân tộc luôn là vấn đề có ý nghĩa chiến lược quan trọng
của cách mạng nước ta. Do đó, đã có rất nhiều công trình nghiên cứu, bài viết
liên quan đến vấn đề này.
- Tác phẩm “Trường Chinh Tuyển tập (1937 - 1954)”, Nhà xuất bản Sự
thật, Hà Nội, trong đó có bài viết “Mặt trận dân tộc thống nhất và vấn đề đại
đoàn kết”.
- Tác phẩm “Chiến lược đại đoàn kết Hồ Chí Minh”, của tác giả Phùng
Hữu Phú (Chủ biên), Nhà xuất bản Sự thật, Hà Nội, 1995.
- Tác phẩm “Mấy vấn đề lý luận và thực tiễn cấp bách liên quan đến
mối quan hệ dân tộc hiện nay”, của tác giả Phan Hữu Dật (Chủ biên), Nhà
xuất bản Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2001.
- Tác phẩm Mặt trận dân tộc thống nhất Việt Nam những chặng đường
vẻ vang, Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia - Sự thật, Hà Nội (2011), trong đó
có bài viết “Tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đoàn kết dân tộc và mặt trận dân
tộc thống nhất” do các tác giả PGS, TS. Phạm Ngọc Anh, TS. Lê Văn Thịnh.
- Tổng Bí thư Nông Đức Mạnh (2008) đã có bài viết “Thành tựu của đất
nước là sức mạnh của đại đoàn kết dân tộc”, Tạp chí cộng sản, số 2 (1946).
- “Về tư tưởng đại đoàn kết của Hồ Chí Minh”, của Lê Ngọc, Tạp chí
Lịch sử Đảng, số 3- 1993.
- “Một số suy nghĩ về việc vận dụng, phát triển chiến lược đại đoàn kết
Hồ Chí Minh trong sự nghiệp đổi mới”, của Phùng Hữu Phú, Tạp chí
Lịch sử Đảng, số 3- 1993.
- “Tư tưởng Hồ Chí Minh về đoàn kết rộng rãi và chặt chẽ”, của Hạnh
Nguyễn, Tạp chí Mặt trận, số 72, năm 2009.
- “Chủ tịch Hồ Chí Minh, người sáng lập Mặt trận dân tộc thống nhất
và suốt đời xây dựng khối đại đoàn kết dân tộc”, của Vũ Kim Trọng, Tạp chí
xây dựng Đảng, năm 2010.
3
Khóa luận tốt nghiệp Trịnh khánh Huyền - K60D
Các tác phẩm và bài viết nêu trên đã đi sâu phân tích tư tưởng Hồ Chí
Minh về đại đoàn kết dân tộc ở nhiều góc độ khác nhau, trên cơ sở chọn lọc
và kế thừa các kết quả đã được nghiên cứu và công bố, tôi hy vọng khóa luận
của mình sẽ góp phần làm sáng tỏ thêm tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề đại
đoàn kết dân tộc, cũng như việc vận dụng vào thực tiễn công tác xây dựng
khối đại đoàn kết dân tộc trên địa bàn huyện Mai Châu tỉnh Hòa Bình.
3. Mục đích, nhiệm vụ của khóa luận
- Mục đích nghiên cứu:
+ Nghiên cứu, tìm hiểu và làm rõ những nội dung cơ bản của tư tưởng
Hồ Chí Minh về đại đoàn kết dân tộc.
+ Vận dụng để đánh giá thực trạng khối đại đoàn kết dân tộc ở huyện
Mai Châu.
+ Quá trình vận dụng, phương hướng, giải pháp nhằm xây dựng và củng
cố khối đại đoàn kết dân tộc trên địa bàn huyện Mai Châu, tỉnh Hòa Bình.
- Nhiệm vụ nghiên cứu:
+ Nghiên cứu vấn đề lý luận chung về đại đoàn kết dân tộc trong tư
tưởng Hồ Chí Minh.
+ Đánh giá thực trạng việc vận dụng tư tưởng đại đoàn kết dân tộc của
Chủ tịch Hồ Chí Minh trong xây dựng khối đại đoàn kết dân tộc ở huyện Mai
Châu, tỉnh Hòa Bình.
+ Rút ra bài học kinh nghiệm, đề xuất nhằm củng cố và xây dựng khối
đại đoàn kết dân tộc trên địa bàn huyện.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu: Tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đoàn kết dân tộc
và vận dụng vào thực tiễn công tác xây dựng khối đại đoàn kết dân tộc ở
huyện Mai Châu, tỉnh Hòa Bình.
4
Khóa luận tốt nghiệp Trịnh khánh Huyền - K60D
- Phạm vi nghiên cứu: Vận dụng Tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đoàn
kết dân tộc vào thực tiễn công tác xây dựng khối đại đoàn kết dân tộc ở huyện
Mai Châu, tỉnh Hòa Bình giai đoạn 2008 - 2013.
5. Phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp nghiên cứu: Khóa luận sử dụng phương pháp duy vật
biện chứng mácxít, phương pháp logic, phương pháp lịch sử và các phương
pháp cụ thể như phân tích, so sánh, tổng hợp, thống kê…
6. Đóng góp của khóa luận
- Về lý luận: Khóa luận góp phần làm rõ nội dung Tư tưởng Hồ Chí
Minh về đại đoàn kết dân tộc.
- Về thực tiễn:
+ Khóa luận có thể làm tài liệu tham khảo phục vụ cho công tác nghiên
cứu, giảng dạy, học tập và tuyên truyền Tư tưởng Hồ Chí Minh.
+ Cung cấp những luận chứng về cơ sở khoa học và thực tiễn cho lãnh
đạo huyện Mai Châu trong việc xây dựng khối đại đoàn kết dân tộc.
7. Kết cấu của khóa luận
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục,
khóa luận gồm 2 chương:
Chương 1: Tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đoàn kết dân tộc
Chương 2: Huyện Mai Châu - Tỉnh Hòa Bình với việc vận dụng Tư
tưởng Hồ Chí Minh về đại đoàn kết dân tộc trong công tác xây dựng khối đại
đoàn kết toàn dân tộc (2008 - 2013)
5
Khóa luận tốt nghiệp Trịnh khánh Huyền - K60D
Chương 1
TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ ĐẠI ĐOÀN KẾT DÂN TỘC
1.1. Khái niệm tư tưởng Hồ Chí Minh
1.1.1. Khái niệm tư tưởng
Tư tưởng là sự phản ánh hiện thực trong ý thức, là biểu hiện quan hệ
của con người với thế giới xung quanh. “Tư tưởng” ở đây không phải dùng
với ý nghĩa tinh thần - tư tưởng, ý thức tư tưởng của một cá nhân, một cộng
đồng, mà với nghĩa là một hệ thống những quan điểm, quan niệm, luận điểm
được xây dựng trên một nền tảng triết học (thế giới quan và phương pháp
luận) nhất quán, đại biểu cho ý chí, nguyện vọng của một giai cấp, một dân
tộc, được hình thành trên cơ sở thực tiễn nhất định và trở lại chỉ đạo hoạt
động thực tiễn, cải tạo hiện thực.
1.1.2. Khái niệm tư tưởng Hồ Chí Minh
Quá trình nhận thức của Đảng ta về tư tưởng Hồ Chí Minh đi từ thấp
đến cao, những vấn đề cụ thể đến hệ thống hoàn chỉnh.
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII (tháng 6 - 1991) đánh dấu một
mốc quan trọng trong nhận thức của Đảng về tư tưởng Hồ Chí Minh.
Kể từ sau Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII của Đảng, công tác
nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh được tiến hành nghiêm túc và đạt được
những kết quả quan trọng. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng
(tháng 4 - 2001) xác định khá toàn diện và có hệ thống những vấn đề cốt yếu
thuộc nội hàm khái niệm tư tưởng Hồ Chí Minh.
Đến Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng (tháng 1 - 2011)
xác định khá toàn diện và có hệ thống những vấn đề cốt yếu thuộc nội hàm
khái niệm tư tưởng Hồ Chí Minh “Tư tưởng Hồ Chí Minh là một hệ thống
quan điểm toàn diện và sâu sắc về những vấn đề cơ bản của cách mạng Việt
6
Khóa luận tốt nghiệp Trịnh khánh Huyền - K60D
Nam, kết quả của sự vận dụng sáng tạo và phát triển chủ nghĩa Mác - Lênin
vào điều kiện cụ thể nước ta, kế thừa và phát triển các giá trị truyền thống tốt
đẹp của dân tộc, tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại; là tài sản tinh thần vô
cùng to lớn và quý giá của Đảng và dân tộc ta, mãi mãi soi đường cho sự
nghiệp cách mạng của nhân dân ta giành thắng lợi".[6, tr.88]
1.2. Cơ sở hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đoàn kết
dân tộc
Tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đoàn kết dân tộc có nguồn gốc từ nhiều
yếu tố và được hình thành trên cơ sở kế thừa và phát triển chủ nghĩa yêu nước
và truyền thống đoàn kết của dân tộc, tinh hoa văn hóa nhân loại, đặc biệt là
vận dụng và phát triển sáng tạo, chủ nghĩa Mác - Lênin phù hợp với tình hình
và điều kiện cụ thể Việt Nam trong từng giai đoạn cách mạng.
1.2.1. Truyền thống yêu nước, nhân ái, tinh thần cố kết cộng đồng
của dân tộc Việt Nam
Tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đoàn kết dân tộc được hình thành trên
những cơ sở tư tưởng - lý luận và thực tiễn rất phong phú. Trước hết, đó là
tinh thần yêu nước gắn liền với ý thức cộng đồng, ý thức cố kết dân tộc, đoàn
kết dân tộc được hình thành và củng cố trong hàng nghìn năm lịch sử đấu
tranh dựng nước và giữ nước của cả dân tộc, tạo thành một truyền thống bền
vững, thấm sâu vào tư tưởng, tình cảm, tâm hồn của mỗi con người Việt Nam.
Tinh thần, ý thức ấy đã tạo nên sức mạnh vô địch của cả một dân tộc để chiến
thắng mọi thiên tai địch họa, làm cho đất nước được trường tồn, bản sắc dân
tộc được giữ vững.
Tất cả đã ghi dấu ấn trong cấu trúc xã hội truyền thống, tạo thành quan
hệ ba tầng chặt chẽ: gia đình - làng xã - quốc gia (nhà - làng - nước) và cũng
trở thành sợi dây liên kết các dân tộc, các giai tầng trong xã hội Việt Nam.
7
Khóa luận tốt nghiệp Trịnh khánh Huyền - K60D
Truyền thống ấy đã được tiếp nối trong tư tưởng tập hợp lực lượng dân
tộc của các nhà yêu nước trong cuộc đấu tranh chống thực dân Pháp xâm lược
và các thế lực phong kiến tiếp tay cho ngoại bang.
Hồ Chí Minh đã sớm tiếp thu được truyền thống yêu nước - nhân nghĩa
- đoàn kết của dân tộc. Người đã khẳng định “từ xưa đến nay, mỗi khi Tổ
quốc bị xâm lăng thì tinh thần (yêu nước) ấy lại sôi nổi, nó kết thành một làn
sóng vô cùng mạnh mẽ, to lớn (đoàn kết), nó lướt qua mọi sự hiểm nguy, khó
khăn, nó nhấn chìm tất cả lũ bán nước và lũ cướp nước”. Hơn nữa, còn phải
phát huy truyền thống đó trong giai đoạn cách mạng mới của dân tộc: “phải ra
sức giải thích, tuyên truyền, tổ chức, lãnh đạo, làm cho tinh thần yêu nước của
tất cả mọi người đều được thực hành vào công việc yêu nước, công việc
kháng chiến”. [15, tr.172]
1.2.2. Quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin coi cách mạng là sự
nghiệp của quần chúng nhân dân
Cơ sở lý luận quan trọng nhất đối với quá trình hành thành tư tưởng Hồ
Chí Minh về đại đoàn kết dân tộc là những quan điểm cơ bản của chủ nghĩa
Mác - Lênin, cách mạng là sự nghiệp của quần chúng, nhân dân là người sáng
tạo ra lịch sử, giai cấp vô sản lãnh đạo cách mạng phải trở thành dân tộc, liên
minh công nông là cơ sở để xây dựng lực lượng to lớn của cách mạng, đoàn
kết dân tộc phải gắn với đoàn kết quốc tế.
Hồ Chí Minh đến với chủ nghĩa Mác - Lênin chủ yếu vừa hoạt động
cách mạng, vừa nghiên cứu chủ nghĩa Mác - Lênin, tìm hiểu về cách mạng
Tháng Mười, vì vậy Người đã sớm nắm được linh hồn của chủ nghĩa Mác -
Lênin, những vấn đề cốt lõi nhất của học thuyết cách mạng và khoa học của
C.Mác, Ph.Ăngghen vàV.I.Lênin. Nhờ đó, Người đã có cơ sở khoa học để
đánh giá chính xác yếu tố tích cực cũng như những hạn chế trong các di sản
truyền thống, trong tư tưởng tập hợp lực lượng của các nhà yêu nước Việt
Nam tiền bối và các nhà cách mạng trên thế giới, những bài học kinh nghiệm
rút ra từ cuộc cách mạng các nước, từ đó hình thành và hoàn chỉnh tư tưởng
của Người về đại đoàn kết dân tộc.
8
Khóa luận tốt nghiệp Trịnh khánh Huyền - K60D
1.2.3. Tổng kết những kinh nghiệm thành công và thất bại của các
phong trào cách mạng Việt Nam và thế giới
Về mặt thực tiễn, tư tưởng đại đoàn kết dân tộc của Hồ Chí Minh được
hình thành trên cơ sở tổng kết những kinh nghiệm của phong trào cách mạng
Việt Nam và phong trào cách mạng của nhiều nước trên thế giới, nhất là
phong trào giải phóng dân tộc ở các nước thuộc địa. Những thành công hay
thất bại của các phong trào ấy đều được Người nghiên cứu để rút ra những bài
học cần thiết cho việc hình thành tư tưởng về đại đoàn kết dân tộc.
Phong trào yêu nước Việt Nam đã diễn ra rất mạnh mẽ từ khi thực dân
Pháp xâm lược nước ta. Từ các phong trào Cần Vương, Văn Thân, Yên Thế
vào cuối thế kỷ XIX, đến các phong trào Đông Du, Duy Tân, chống thuế đầu
thế kỷ XX, các thế hệ người Việt Nam yêu nước đã nối tiếp nhau vùng dậy
chống ngoại xâm, nhưng đều thất bại. Thực tiễn hào hùng, bi tráng của dân
tộc đã chứng tỏ rằng, bước vào thời đại mới, chỉ có tinh thần yêu nước thì
không thể đánh bại được các thế lực đế quốc xâm lược. Vận mệnh của đất
nước đòi hỏi phải có một lực lượng lãnh đạo mới, đề ra được một đường lối
cách mạng đúng đắn, phù hợp với quy luật phát triển của lịch sử và những
yêu cầu của thời đại mới, đủ sức quy tụ được cả dân tộc vào cuộc đấu tranh
chống đế quốc thực dân, xây dựng được khối đại đoàn kết dân tộc bền vững
thì mới giành được thắng lợi. Trước khi ra đi tìm đường cứu nước, Hồ Chí
Minh đã thấy được những hạn chế trong việc tập hợp lực lượng của các nhà
yêu nước tiền bối, những yêu cầu khách quan mới của lịch sử dân tộc.
Trong quá trình đi tìm đường cứu nước, Hồ Chí Minh đã tiến hành
khảo sát tình hình các nước tư bản chủ nghĩa và các nước thuộc địa ở hầu
khắp các châu lục. Người đã nghiên cứu các cuộc cách mạng tư sản, đặc biệt
là Cách mạng Mỹ và Cách mạng Pháp, nguyên nhân dẫn đến thắng lợi của
giai cấp tư sản, cũng như tại sao những cuộc cách mạng tư sản vẫn chỉ là cách
9
Khóa luận tốt nghiệp Trịnh khánh Huyền - K60D
mạng không đến nơi. Tổng kết những kinh nghiệm thực tiễn đấu tranh của các
dân tộc thuộc địa, Hồ Chí Minh thấy rõ sức mạnh tiềm ẩn to lớn của họ và
cũng thấy rõ những hạn chế, các dân tộc thuộc địa chưa có được sự lãnh đạo
đúng đắn, chưa biết đoàn kết lại, chưa có tổ chức và chưa biết tổ chức.
Cách mạng Tháng Mười Nga cùng với V.I.Lênin, người lãnh đạo thắng
lợi cuộc cách mạng đó, đã đưa Hồ Chí Minh đến bước ngoặt quyết định trong
việc tìm đường cứu nước. Từ chỗ chỉ biết đến cách mạng Tháng Mười một
cách cảm tính, Người đã nghiên cứu để hiểu một cách thấu đáo con đường
Cách mạng Tháng Mười và những bài học kinh nghiệm quý báu mà cuộc cách
mạng này đã đem lại cho phong trào cách mạng thế giới, đặc biệt là bài học
về huy động, tập hợp lực lượng quần chúng công nông đông đảo để giành và
giữ chính quyền cách mạng, để đánh tan sự can thiệp của 14 nước đế quốc
muốn bóp chết Nhà nước Xôviết non trẻ, để xây dựng chế độ xã hội xã hội
chủ nghĩa, mở ra một thời đại mới cho lịch sử nhân loại.
1.3. Vai trò của đại đoàn kết dân tộc trong sự nghiệp cách mạng
Tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đoàn kết dân tộc là một hệ thống những
luận điểm, nguyên tắc, phương pháp giáo dục, tập hợp và tổ chức lực lượng
cách mạng nhằm phát huy cao nhất sức mạnh dân tộc trong sự nghiệp đấu
tranh vì độc lập dân tộc, dân chủ và chủ nghĩa xã hội. Nói cách khác, tư tưởng
Hồ Chí Minh về đại đoàn kết dân tộc, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh
thời đại là tư tưởng xây dựng, củng cố và mở rộng lực lượng cách mạng trong
sự nghiệp giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, giải phóng con người và
xây dựng xã hội mới.
1.3.1. Đại đoàn kết dân tộc là vấn đề chiến lược, bảo đảm thành công
của cách mạng
Hồ Chí Minh chỉ ra rằng, trong thời đại mới, để đánh bại các thế lực đế
quốc thực dân nhằm giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp và giải phóng con
10
Khóa luận tốt nghiệp Trịnh khánh Huyền - K60D
người, nếu chỉ có tinh thần yêu nước thì chưa đủ, cách mạng muốn thành
công và thành công đến nơi, phải tập hợp được tất cả mọi lực lượng có thể tập
hợp, xây dựng được khối đại đoàn kết dân tộc bền vững. Chính vì vậy, trong
tư tưởng Hồ Chí Minh, đại đoàn kết dân tộc là vấn đề có ý nghĩa chiến lược,
cơ bản, nhất quán và lâu dài, xuyên suốt tiến trình cách mạng.
Để quy tụ được mọi lực lượng vào khối đại đoàn kết toàn dân, cần phải
có chính sách và phương pháp phù hợp với từng đối tượng. Trong từng thời
kỳ, từng giai đoạn cách mạng, trước những yêu cầu và nhiệm vụ khác nhau,
chính sách và phương pháp tập hợp có thể và cần thiết phải điều chỉnh cho
phù hợp với từng đối tượng khác nhau, song đại đoàn kết dân tộc phải luôn
được nhận thức là vấn đề sống còn, quyết định thành bại của cách mạng.
Chính sách mặt trận của Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh đặt ra là
để thực hiện đoàn kết dân tộc. Nhờ tư tưởng nhất quán và chính sách mặt
trận đúng đắn, Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã xây dựng thành công
khối đại đoàn kết dân tộc, đưa cách mạng Việt Nam giành được nhiều
thắng lợi to lớn. Hồ Chí Minh viết: “Đoàn kết trong Mặt trận Việt Minh,
nhân dân ta đã làm Cách mạng tháng Tám thành công, lập nên nước Việt
Nam Dân chủ Cộng hòa.
Đoàn kết trong Mặt trận Liên Việt, nhân dân ta đã kháng chiến thắng
lợi, lập lại hòa bình ở Đông Dương, hoàn toàn giải phóng miền Bắc.
Đoàn kết trong Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, nhân dân ta đã giành được
thắng lợi trong công cuộc khôi phục kinh tế, cải tạo chủ nghĩa và trong sự
nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc”. [18, tr.604]
Từ thực tiễn, Hồ Chí Minh đã khái quát thành nhiều luận điểm có tính
chân lý về vai trò của khối đại đoàn kết.
Đoàn kết làm ra sức mạnh. Hồ Chí Minh rất nhiều lần nhấn mạnh luận
điểm này. Người viết: “Đoàn kết là sức mạnh của chúng ta. Đoàn kết chặt
chẽ, thì chúng ta nhất định có thể khắc phục mọi khó khăn, phát triển mọi
11
Khóa luận tốt nghiệp Trịnh khánh Huyền - K60D
thuận lợi và làm trọn nhiệm vụ nhân dân giao phó” [16, tr.392]; “Đoàn kết là
một lực lượng vô địch của chúng ta để khắc phục khó khăn, giành lấy thắng
lợi” [16, tr.397]; “Đoàn kết là sức mạnh, đoàn kết là thắng lợi” [19, tr.22];
“Đoàn kết là sức mạnh, là then chốt của thành công”…[19, tr.154]
1.3.2. Đại đoàn kết dân tộc là mục tiêu, nhiệm vụ hàng đầu của
cách mạng
Đại đoàn kết dân tộc là nhiệm vụ hàng đầu của Đảng, đồng thời cũng là
nhiệm vụ hàng đầu trong mọi giai đoạn cách mạng. Nhấn mạnh vấn đề này là
nhấn mạnh tới vai trò của thực lực cách mạng. Bởi vì, cách mạng muốn thành
công nếu chỉ có đường lối đúng thì chưa đủ, mà trên cơ sở của đường lối
đúng, Đảng phải cụ thể hóa thành những mục tiêu, nhiệm vụ và phương pháp
cách mạng phù hợp với từng giai đoạn lịch sử để lôi kéo, tập hợp quần chúng,
tạo thực lực cho cách mạng. Thực lực đó chính là khối đại đoàn kết dân tộc.
Năm 1963, khi nói chuyện với cán bộ tuyên truyền và huấn luyện miền núi về
cách mạng xã hội chủ nghĩa, Hồ Chí Minh chỉ rõ: “Trước Cách mạng Tháng
Tám và trong kháng chiến, thì nhiệm vụ tuyên huấn là làm cho đồng bào các
dân tộc hiểu được mấy việc: Một là đoàn kết. Hai là làm cách mạng hay
kháng chiến để đòi độc lập. Chỉ đơn giản thế thôi. Bây giờ mục đích của
tuyên truyền huấn luyện là: Một là đoàn kết. Hai là xây dựng chủ nghĩa xã
hội. Ba là đấu tranh thống nhất nước nhà”. [19, tr.130]
Hồ Chí Minh còn chỉ ra rằng, đại đoàn kết dân tộc không phải chỉ là
mục tiêu của Đảng, mà còn là nhiệm vụ hàng đầu của cả dân tộc. Bởi vì, cách
mạng là sự nghiệp của quần chúng. Từ trong phong trào đấu tranh để tự giải
phóng và xây dựng xã hội mới tốt đẹp, quần chúng nảy sinh nhu cầu đoàn kết
và sự hợp tác. Đảng Cộng sản phải có sứ mệnh thức tỉnh, tập hợp, hướng dẫn
quần chúng, truyền những nhu cầu, những đòi hỏi khách quan, tự phát của
quần chúng thành những đòi hỏi tự giác, thành hiện thực có tổ chức trong
khối đại đoàn kết, tạo thành sức mạnh tổng hợp trong cuộc đấu tranh vì độc
lập cho dân tộc, tự do cho nhân dân và hạnh phúc cho con người.
12
Khóa luận tốt nghiệp Trịnh khánh Huyền - K60D
1.4. Nội dung của đại đoàn kết dân tộc
1.4.1. Đại đoàn kết dân tộc là đại đoàn kết toàn dân
Đứng trên lập trường của giai cấp công nhân và quan điểm quần chúng,
Hồ Chí Minh đã đề cập vấn đề DÂN và NHÂN DÂN một cách rõ ràng, toàn
diện, có sức thuyết phục, thu phục lòng người. Các khái niệm này có biên độ
rất rộng lớn. Hồ Chí Minh thường dùng khái niệm này để chỉ “mọi con dân
nước Việt”, “mỗi một người con Rồng cháu Tiên”, không phân biệt dân tộc
đa số hay thiểu số, có tín ngưỡng hay không tín ngưỡng, không phân biệt
“già, trẻ, gái, trai, giàu nghèo, quý tiện”. Như vậy, dân và nhân dân trong tư
tưởng của Hồ Chí Minh vừa được hiểu với tư cách là mỗi con người Việt
Nam cụ thể, vừa là một tập hợp đông đảo quần chúng nhân dân, với những
mối liên hệ cả quá khứ và hiện tại, họ là chủ thể của khối đại đoàn kết dân tộc
và đại đoàn kết dân tộc thực chất là đại đoàn kết toàn dân.
Nói đại đoàn kết dân tộc cũng có nghĩa là phải tập hợp được tất cả mọi
người dân vào một khối trong cuộc đấu tranh chung. Theo ý nghĩa đó, nội
hàm khái niệm đại đoàn kết trong tư tưởng Hồ Chí Minh rất phong phú, nó
bao gồm nhiều tầng, nhiều cấp độ các quan hệ liên kết qua lại giữa các thành
viên, các bộ phận, các lực lượng xã hội của dân tộc từ nhỏ đến lớn, từ thấp
đến cao, từ trong ra ngoài, từ trên xuống dưới… Hồ Chí Minh đã nhiều lần
nói: “Đoàn kết của ta không những rộng rãi mà còn đoàn kết lâu dài… Ta
đoàn kết để đấu tranh cho thống nhất và độc lập của Tổ quốc; ta còn phải
đoàn kết để xây dựng nước nhà. Ai có tài, có đức, có lòng phụng sự Tổ quốc
và phục vụ nhân dân thì ta đoàn kết với họ” [16, tr.438]. Từ “ta” ở đây là chủ
thể, vừa là Đảng Cộng sản Việt Nam nói riêng, vừa là mọi người dân Việt
Nam nói chung.
Người còn chỉ rõ, trong quá trình xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân
phải đứng vững trên lập trường giai cấp công nhân, giải quyết hài hòa mối
13
Khóa luận tốt nghiệp Trịnh khánh Huyền - K60D
quan hệ giai cấp - dân tộc để tập hợp lực lượng, không được phép bỏ sót một
lực lượng nào, miễn là lực lượng đó có lòng trung thành và sẵn sàng phục vụ
Tổ quốc, không là Việt gian, không phản bội lại quyền lợi của của dân chúng
là được. Với tinh thần đoàn kết rộng rãi như vậy, Hồ Chí Minh đã định hướng
cho việc xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân trong suốt tiến trình cách mạng
Việt Nam, từ cách mạng giải phóng dân tộc tới cách mạng dân chủ nhân dân
và từ cách mạng dân chủ nhân dân tới cách mạng xã hội chủ nghĩa.
1.4.2. Đại đoàn kết dân tộc phải biến thành sức mạnh vật chất, có tổ
chức là Mặt trận dân tộc thống nhất dưới sự lãnh đạo của Đảng
Trong tư tưởng Hồ Chí Minh, đại đoàn kết dân tộc không thể chỉ dừng
lại ở quan niệm, ở những lời kêu gọi, những lời hiệu triệu mà phải trở thành
một chiến lược cách mạng, trở thành khẩu hiệu hành động của toàn Đảng,
toàn dân tộc. Nó phải biến thành sức mạnh vật chất, trở thành lực lượng vật
chất có tổ chức, tổ chức đó chính là mặt trận dân tộc thống nhất.
Toàn dân tộc chỉ trở thành lực lượng to lớn, có sức mạnh vô địch
trong đấu tranh bảo vệ và xây dựng Tổ quốc khi được tập hợp, tổ chức lại
thành một khối vững chắc, được giác ngộ về mục tiêu chiến đấu chung và
hoạt động theo một đường lối chính trị đúng đắn. Nếu không được như vậy
thì quần chúng nhân dân dù có đông tới hàng triệu, hàng trăm triệu con
người cũng chỉ là một số đông không có sức mạnh. Thất bại của các phong
trào yêu nước và giải phóng dân tộc ở Việt Nam trước khi Đảng ra đời đã
chứng minh rất rõ điều này.
Về một phương diện nào đó, có thể khẳng định rằng, quá trình tìm
đường cứu nước của Hồ Chí Minh cũng là quá trình tìm kiếm mô hình và
cách thức tổ chức quần chúng nhân dân, nhằm tạo sức mạnh cho quần chúng
trong cuộc đấu tranh để tự giải phóng mình và giải phóng xã hội. Chính vì
vậy, ngay sau khi tìm thấy con đường cứu nước, Hồ Chí Minh đã rất chú ý
đưa quần chúng nhân dân vào những tổ chức yêu nước phù hợp với từng giai
14
Khóa luận tốt nghiệp Trịnh khánh Huyền - K60D
cấp, từng ngành nghề, từng giới, từng lứa tuổi, từng tôn giáo, phù hợp với
từng giai đoạn của cách mạng. Đó có thể là các hội ái hữu hay tương trợ, công
hội hay nông hội, đoàn thanh niên hay hội phụ nữ, đội thiếu niên nhi đồng hay
hội phụ lão, hội Phật giáo cứu quốc, Công giáo yêu nước hay những nghiệp
đoàn… Trong đó, bao trùm nhất là mặt trận dân tộc thống nhất.
Mặt trận dân tộc thống nhất là nơi quy tụ mọi tổ chức và cá nhân yêu
nước, nơi tập hợp mọi con dân nước Việt, không chỉ ở trong nước mà còn bao
gồm cả những người Việt Nam định cư ở nước ngoài, dù ở bất cứ phương trời
nào nếu tấm lòng vẫn hướng về quê hương, đất nước, về Tổ quốc Việt Nam
đều được coi là thành viên của mặt trận.
Tùy theo từng thời kỳ, căn cứ vào yêu cầu và nhiệm vụ cách mạng,
cương lĩnh và điều lệ của mặt trận dân tộc thống nhất có thể có những nét
khác nhau, tên gọi của mặt trận dân tộc thống nhất theo đó, cũng có thể khác
nhau: Hội phản đế đồng minh (1930), Mặt trận Dân chủ (1936), Mặt trận
nhân dân phản đế (1939), Mặt trận Việt Minh (1941), Mặt trận Liên Việt
(1946), Mặt trận dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam (1960), Mặt trận Tổ
quốc Việt Nam (1955, 1976). Song thực chất chỉ là một, đó là tổ chức chính
trị - xã hội rộng lớn của nhân dân Việt Nam, nơi quy tụ, tập hợp đông đảo các
giai cấp, tầng lớp, dân tộc, tôn giáo, đảng phái, các tổ chức và cá nhân yêu
nước ở trong và ngoài nước, phấn đấu vì mục tiêu chung là độc lập dân tộc,
thống nhất của Tổ quốc, tự do và hạnh phúc của nhân dân.
Theo Hồ Chí Minh, Mặt trận dân tộc thống nhất phải được xây dựng
theo các nguyên tắc sau đây:
- Thứ nhất, Mặt trận dân tộc thống nhất phải được xây dựng trên nền
tảng khối liên minh công - nông - trí thức, đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng
- Thứ hai, Mặt trận dân tộc thống nhất phải hoạt động trên cơ sở bảo
đảm lợi ích tối cao của dân tộc, quyền lợi cơ bản của các tầng lớp nhân dân
15
Khóa luận tốt nghiệp Trịnh khánh Huyền - K60D
- Thứ ba, Mặt trận dân tộc thống nhất phải hoạt động theo nguyên tắc
hiệp thương dân chủ, bảo đảm đoàn kết ngày càng rộng rãi và bền vững
- Thứ tư, Mặt trận dân tộc thống nhất là khối đại đoàn kết chặt chẽ, lâu
dài, đoàn kết thực sự, chân thành, thân ái giúp đỡ nhau cùng tiến bộ
1.5. Điều kiện để thực hiện đại đoàn kết dân tộc
1.5.1. Để xây dựng khối đại đoàn kết dân tộc phải kế thừa truyền
thống yêu nước, nhân nghĩa, đoàn kết của dân tộc và lòng khoan dung độ
lượng của con người
Để xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân phải kế thừa truyền thống yêu
nước - nhân nghĩa - đoàn kết của dân tộc. Truyền thống này được hình thành,
củng cố và phát triển trong suốt quá trình dựng nước và giữ nước hàng ngàn
năm của cả dân tộc, trở thành giá trị bền vững, thấm sâu vào tư tưởng, tình
cảm, tâm hồn của mỗi người con Việt Nam, được lưu truyền qua các thế hệ từ
thời các vua Hùng dựng nước tới Bà Trưng, Bà Triệu, Trần Hưng Đạo, Lê
Lợi, Quang Trung…
Phải có lòng khoan dung, độ lượng với con người. Hồ Chí Minh chỉ rõ,
trong mỗi cá nhân cũng như mỗi cộng đồng đều có những ưu điểm, khuyết
điểm, mặt tốt, mặt xấu… Cho nên, vì lợi ích của cách mạng cần phải có lòng
khoan dung độ lượng, trân trọng cái phần thiện dù nhỏ nhất ở mỗi con người,
mới có thể tập hợp, quy tụ rộng rãi mọi lực lượng.
Lòng khoan dung, độ lượng ở Hồ Chí Minh không phải là một sách
lược nhất thời, một thủ đoạn chính trị mà là sự tiếp nối và phát triển truyền
thống nhân ái, bao dung của dân tộc, từ chính mục tiêu của cuộc cách mạng
mà Người suốt đời theo đuổi. Đó là tư tưởng nhất quán, được thể hiện trong
đường lối, chính sách của Đảng đối với những người làm việc dưới chế độ cũ
và những người nhất thời lầm lạc biết hối cải. Người tuyên bố: “Bất kì ai mà
thật thà tán thành hòa bình, thống nhất, độc lập, dân chủ thì dù những người
đó trước đây chống chúng ta, bây giờ chúng ta cũng thật thà đoàn kết với họ”
16
Khóa luận tốt nghiệp Trịnh khánh Huyền - K60D
[16, tr.438]. Người tha thiết kêu gọi tất cả ai có lòng yêu nước, không phân
biệt tầng lớp, tín ngưỡng, chính kiến và trước đây đã đứng về phe nào, hãy
cùng nhau đoàn kết vì nước, vì dân. Để thực hiện được đoàn kết, cần xóa bỏ
hết mọi thành kiến, cần phải thật thà hợp tác và giúp đỡ lẫn nhau cùng tiến bộ.
Người cho rằng, trong mỗi con người Việt Nam “ai cũng có ít hay nhiều tấm
lòng yêu nước” tiềm ẩn bên trong. Tấm lòng yêu nước đó có khi bị bụi bậm
che mờ, chỉ cần làm thức tỉnh lương tri con người thì lòng yêu nước đó lại
bộc lộ. Với niềm tin vào sự hướng thiện của mỗi con người vì lợi ích tối cao
của dân tộc, Hồ Chí Minh đã chân thành lôi kéo, tập hợp được chung quanh
mình nhiều người trước đây vốn là quan đại thần của Nam triều cũ, như:
Thượng thư Bùi Bằng Đoàn, Khâm sai đại thần Phan Kế Toại… vào khối đại
đoàn kết toàn dân, tạo điều kiện để họ có đóng góp vào sự nghiệp kháng
chiến, kiến quốc của dân tộc.
1.5.2. Đoàn kết phải được xây dựng trên cơ sở đảm bảo những lợi
ích tối cao của dân tộc, lợi ích của nhân dân lao động và các quyền thiêng
liêng của con người
Đây là một trong những nguyên tắc quan trọng nhất trong tư tưởng đại
đoàn kết của Hồ Chí Minh. Hạt nhân của nguyên tắc này là giải quyết đúng
đắn mối quan hệ lợi ích phức tạp, chồng chéo giữa cá nhân - tập thể, gia đình
- xã hội, bộ phận - toàn thể, giai cấp - dân tộc, quốc gia - quốc tế theo phương
châm chỉ đạo là dân tộc trên hết, Tổ quốc trên hết và tất cả do con người.
Theo Hồ Chí Minh, lợi ích tối cao của dân tộc là độc lập, chủ quyền và
toàn vẹn lãnh thổ, là bình đẳng, dân chủ, tự do. Lợi ích tối cao này là ngọn cờ
đoàn kết, là sức mạnh dân tộc và là nguyên tắc bất di bất dịch của cách mạng
Việt Nam. Đó cũng là nguyên tắc bất biến trong tư tưởng Hồ Chí Minh để
Người tìm ra những phương pháp thực hiện nguyên tắc đó trong chiến lược
đại đoàn kết dân tộc mình. Tóm lại, muốn đoàn kết, đại đoàn kết toàn dân
phải giải quyết đúng đắn các mối quan hệ lợi ích dân tộc. Song, khi giải quyết
các mối quan hệ lợi ích này phải đặt quyền lợi dân tộc, quyền lợi Tổ quốc,
quyền lợi toàn dân lên trên hết, lên trước hết.
17
Khóa luận tốt nghiệp Trịnh khánh Huyền - K60D
1.5.3. Tin vào dân, dựa vào dân, phấn đấu vì quyền lợi của dân
Tin vào dân, dựa vào dân là một nguyên tắc cơ bản trong tư tưởng đại
đoàn kết Hồ Chí Minh. Bởi vì, theo Người dân là gốc rễ, là nền tảng của đại
đoàn kết, dân là chủ thể của đại đoàn kết, là nguồn sức mạnh vô tận, và vô
địch của khối đại đoàn kết, quyết định thắng lợi của cách mạng. Để thực hành
đoàn kết rộng rãi cần có niềm tin vào nhân dân. Với Hồ Chí Minh, yêu dân,
tin dân, dựa vào dân, sống đấu tranh vì hạnh phúc của nhân dân là nguyên tắc
tối cao. Nguyên tắc này dựa trên cơ sở:
Một là, sự tiếp nối truyền thống dân tộc “nước lấy dân làm gốc”, “chở
thuyền và làm lật thuyền cũng là dân”. Hồ Chí Minh cũng từng nói “Dễ mười
lần không dân cũng chịu, khó trăm lần dân liệu cũng xong” [14, tr.293]. Với
Hồ Chí Minh, “Trong bầu trời không gì quý bằng nhân dân. Trong thế giới
không gì mạnh bằng lực lượng đoàn kết của nhân dân” [17, tr.276].
Hai là, quán triệt sâu sắc nguyên lý Mácxít cách mạng là sự nghiệp của
quần chúng. Theo người DÂN là chỗ dựa vững chắc của Đảng, là nguồn sức
mạnh vô tận và vô địch của khối đại đoàn kết, quyết định thắng lợi của cách
mạng, là nền, gốc và chủ thể của Mặt trận.
Tin vào dân, dựa vào dân trong tư tưởng đại đoàn kết Hồ Chí Minh là
tin vào, dựa vào tinh thần yêu nước, ý chí giành độc lập tự do, xây dựng một
đất nước Việt Nam hòa bình, thống nhất, độc lập dân chủ và giàu mạnh.
1.5.4. Đoàn kết tự giác, có tổ chức, có lãnh đạo
Trong quá trình thực hiện đại đoàn kết, xây dựng và phát triển lực
lượng cách mạng, Hồ Chí Minh luôn nhất quán nhận thức khoa học đó là
đoàn kết không phải là ngẫu nhiên, tự phát, nhất thời mà là một tập hợp bền
vững của các lực lượng xã hội có định hướng, có tổ chức lãnh đạo. Đoàn kết
phải có tổ chức, có kỷ luật, có lãnh đạo. Cụ thể:
Về tổ chức: Đoàn kết phải được tổ chức trong các đoàn thể quần chúng
cách mạng hay trong các đoàn thể chính trị - xã hội của Mặt trận dân tộc
thống nhất.
18
Khóa luận tốt nghiệp Trịnh khánh Huyền - K60D
Về kỷ luật: Tổ chức của Mặt trận và các đoàn thể phải có kỷ luật mà
mỗi thành viên phải tự giác tuân theo.
Về lãnh đạo: Lãnh đạo khối đại đoàn kết dân tộc là Đảng Cộng sản
Việt Nam. Hồ Chí Minh khẳng định Đảng Cộng sản là người lãnh đạo khối
đại đoàn kết toàn dân, nhưng Người chỉ rõ Đảng Cộng sản cũng là một bộ
phận hữu cơ của Mặt trận, song “Phải tỏ ra là một bộ phận trung thành nhất,
hoạt động nhất và chân thực nhất” [13, tr.139] của Mặt trận.
Để khối đại đoàn kết toàn dân vững mạnh, Hồ Chí Minh chỉ rõ, trước
hết Đảng phải đoàn kết nhất trí, nhất là cán bộ lãnh đạo Đảng, đây là yếu tố
quyết định sự tồn tại và sức mạnh của khối đại đoàn kết. Người nhấn mạnh:
“Đoàn kết là một truyền thống cực kì quý báu của Đảng và nhân dân ta. Các
đồng chí từ Trung ương đến các chi bộ cần phải giữ gìn sự đoàn kết nhất trí
của Đảng như giữ gìn con ngươi của mắt mình”. [20, tr.497]
1.5.5. Đại đoàn kết rộng rãi, lâu dài, đoàn kết chặt chẽ theo lập
trường giai cấp công nhân
Hồ Chí Minh đã nhiều lần nói “Đoàn kết của ta không những rộng rãi
mà còn đoàn kết lâu dài… Ta đoàn kết để đấu tranh cho thống nhất và độc lập
của Tổ quốc, ta còn phải đoàn kết để xây dựng nước nhà” [16, tr.438]. Như
vậy theo Hồ Chí Minh, đoàn kết toàn dân trong các tổ chức Mặt trận dân tộc
thống nhất phải rộng rãi và lâu dài, đoàn kết không phải là một thủ đoạn chính
trị, mà còn là một chính sách dân tộc, một chính sách nhất quán của Đảng và
Nhà nước ta.
Theo Người, Đảng Cộng sản Việt Nam phải đoàn kết lâu dài với các
đảng phái và các đoàn thể yêu nước khác trong mặt trận dân tộc thống nhất,
không phải đoàn kết nhất thời.
Về đoàn kết rộng rãi hay đại đoàn kết, theo tư tưởng Hồ Chí Minh là
đoàn kết hết thảy các lực lượng, các cá nhân yêu nước trong dân tộc, không
19
Khóa luận tốt nghiệp Trịnh khánh Huyền - K60D
để bỏ sót một lực lượng, một cá nhân nào đứng ngoài các tổ chức của Mặt
trận dân tộc thống nhất, nhưng đoàn kết phải được tổ chức theo lập trường
giai cấp công nhân.
Nguyên tắc đoàn kết rộng rãi, lâu dài theo lập trường giai cấp công
nhân là kết quả của nhà tổ chức vĩ đại Hồ Chí Minh, biến khẩu hiệu nổi tiếng:
“Đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết. Thành công, thành công, đại thành công”
[18, tr.607] thành hiện thực, thành sức mạnh tinh thần, trí tuệ, thành sức mạnh
vật chất vô cùng to lớn đánh thắng những thế lực thù địch, xây dựng và bảo
vệ Tổ quốc ngày càng vững mạnh.
1.6. Phương pháp đại đoàn kết dân tộc
1.6.1. Phương pháp tuyên truyền, giáo dục, vận động quần chúng
Tuyên truyền, giáo dục, vận động quần chúng đoàn kết phải thực sự
khoa học. Do vậy, vấn đề có ý nghĩa quan trọng hàng đầu là việc tìm tòi lựa
chọn các nội dung tuyền truyền, giáo dục, vận động phù hợp với từng đối
tượng, phù hợp với nguyện vọng, quyền lợi của quần chúng.
Nội dung tuyên truyền, giáo dục, vận động quần chúng được Hồ Chí
Minh đặc biệt coi trọng và xác định đúng ngay từ đầu. Đó là nguyện vọng
chung, sâu xa của cả dân tộc (đó là hòa bình, thống nhất, độc lập, dân giàu,
nước mạnh). Ngoài ra, Hồ Chí Minh còn chú ý tới cả nguyện vọng riêng của
mỗi giai cấp, mỗi tầng lớp nhân dân (chẳng hạn ruộng đất cho nông dân
nghèo). Nội dung giáo dục, tuyên truyền, vận động quần chúng đoàn kết phải
đáp ứng được hai yêu cầu chung và riêng.
Hồ Chí Minh đã chỉ rõ nội dung tuyền truyền, vận động sát hợp với
từng giai cấp, từng cộng đồng xã hội như đối với giai cấp công nhân, nông
dân, trí thức, văn nghệ sĩ, cán bộ chiến sĩ lực lượng vũ trang nhân dân, với
thanh niên, phụ nữ, đồng bào dân tộc ít người, với cộng đồng tôn giáo, với
quan lại, nhân sĩ yêu nước, với những người lầm đường lạc lối… Hồ Chí
20
Khóa luận tốt nghiệp Trịnh khánh Huyền - K60D
Minh thấu hiểu tất cả, phấn đấu hy sinh vì tất cả những khát vọng, những ước
mơ sâu lắng của dân tộc và của mỗi con người. Do vậy, tư tưởng đại đoàn kết
của Người có sức mạnh to lớn tập hợp đoàn kết toàn dân.
1.6.2. Phương pháp xây dựng, kiện toàn không ngừng phát triển hệ
thống chính trị cách mạng
Theo Hồ Chí Minh, sự thống nhất bền vững của hệ thống chính trị là
nhân tố quyết định sự tồn tại và sức mạnh đại đoàn kết toàn dân.
Về Đảng Cộng sản, theo Người Đảng Cộng sản Việt Nam có vai trò
quyết định đối với sự hình thành, phát triển và sức mạnh của đại đoàn kết
trong hệ thống chính trị cách mạng.
Về Nhà nước cách mạng, theo Hồ Chí Minh hoạt động của Nhà nước
có ảnh hưởng rất lớn đến đoàn kết toàn dân và đoàn kết quốc tế. Để khối đại
đoàn kết toàn dân tồn tại, Hồ Chí Minh đặc biệt quan tâm đến việc xây dựng,
củng cố Nhà nước cách mạng, nhất là Ủy ban nhân dân các cấp, nơi trực tiếp
tổ chức, quản lý điều hành mọi hoạt động của đời sống xã hội.
Về các đoàn thể chính trị - xã hội, theo Hồ Chí Minh đây là sợi dây gắn
kết Đảng với nhân dân, gắn kết nhân dân với nhau, thực hiện đoàn kết và
cũng là nơi thể hiện sức mạnh đoàn kết. Vì vậy, theo Người xây dựng củng
cố, phát triển, đoàn kết các tổ chức quần chúng hay các đoàn thể chính trị -
xã hội trong Mặt trận dân tộc thống nhất thực sự là vấn đề chiến lược.
1.6.3. Phương pháp xử lý các mối quan hệ nhằm mở rộng tới
mức cao nhất trận tuyến cách mạng và thu hẹp tới mức tối đa trận
tuyến thù địch
Trong cuộc đấu tranh dân tộc, đấu tranh giai cấp trong phạm vi một nước
cũng như trên thế giới bao giờ cũng phân định thành ba tuyến lực lượng: cách
mạng - trung gian - phản cách mạng. Cuộc đấu tranh giữa cách mạng và phản
21
Khóa luận tốt nghiệp Trịnh khánh Huyền - K60D
cách mạng, thành bại của cuộc cách mạng không chỉ phụ thuộc vào sức mạnh
của hai lực lượng đối địch, mà nó còn phụ thuộc một phần rất lớn vào việc bên
nào lôi kéo được lực lượng trung gian. Phương pháp đại đoàn kết của Hồ Chí
Minh là phương pháp xử lý mối tương quan ba chiều đó, phương pháp xử lý các
mối quan hệ của Hồ Chí Minh theo phương châm dĩ bất biến ứng vạn biến.
Trong phương pháp đại đoàn kết của Hồ Chí Minh có phương pháp xử
lý mối quan hệ ba chiều là cách mạng - trung gian - phản cách mạng. Hồ Chí
Minh đã xử lí hài hòa giữa chiến lược và sách lược, giữa cứng rắn trong
nguyên tắc và mềm dẻo linh hoạt trong giải pháp, từ đó làm cho mọi tầng lớp
nhân dân tin vào chính sách đại đoàn kết của Đảng Cộng sản Việt Nam, tạo ta
lực - thế - thời cho cách mạng để giành lấy thắng lợi.
22
Khóa luận tốt nghiệp Trịnh khánh Huyền - K60D
Tiểu kết chương 1
Tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đoàn kết dân tộc có ý nghĩa vô cùng
quan trọng đối với cách mạng Việt Nam. Nó không những giải đáp đúng
đắn cho bài toán của cách mạng Việt Nam thời kỳ đấu tranh cách mạng, mà
còn trong thời hòa bình xây dựng đất nước, và luôn còn nguyên giá trị.
Thực tiễn cách mạng Việt Nam đã và đang chứng minh sức sống kì diệu
của tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đoàn kết dân tộc. Tư tưởng đó đã thấm
sâu vào ý thức, tình cảm của tất cả mọi người dân Việt Nam yêu nước và
biến nó thành hành động cách mạng của hàng triệu, hàng triệu con người,
kết thành sức mạnh vô địch trong sự nghiệp cách mạng giải phóng dân tộc,
xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Lịch sử cách mạng Việt Nam hơn nửa thế kỷ
qua cho thấy, lúc nào, nơi nào tư tưởng đại đoàn kết dân tộc của Hồ Chí
Minh được quán triệt thì khi đó, nơi đó cách mạng phát triển mạnh mẽ và
giành được thắng lợi. Vì vậy, trung thành và kiên định đi theo ngọn cờ đại
đoàn kết dân tộc của Hồ Chí Minh, nghiên cứu, kế thừa, vận dụng và phát
triển sáng tạo tư tưởng đại đoàn kết dân tộc của Người là một trong những
nhân tố quan trọng giúp chúng ta vượt qua mọi khó khăn, thử thách, hoàn
thành nhiệm vụ, góp phần xây dựng thành công một nước Việt Nam độc
lập, dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.
* *
*
23
Khóa luận tốt nghiệp Trịnh khánh Huyền - K60D
Chương 2
HUYỆN MAI CHÂU - TỈNH HÒA BÌNH VỚI VIỆC VẬN DỤNG
TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ ĐẠI ĐOÀN KẾT DÂN TỘC
TRONG CÔNG TÁC XÂY DỰNG KHỐI ĐẠI ĐOÀN KẾT
TOÀN DÂN TỘC (2008 - 2013)
2.1. Khái quát chung về huyện Mai Châu
2.1.1. Vị trí địa lý và điều kiện tự nhiên
Mai Châu trước kia được gọi là Mường Mai, được hình thành vào
khoảng thế kỷ XIII. Thời nhà Trần, Mường Mai thuộc lộ Đà Giang, thị
trấn Gia Hưng, xứ Hưng Hóa. Dưới triều Nguyễn, Mai Châu gồm tổng
Thanh Mai và tổng Bạch Mai. Kể từ thời Pháp thuộc, châu Mai Châu
thuộc phủ Chợ Bờ, tỉnh Mường Hòa Bình. Tháng 10 - 1890, châu Mai
Châu và châu Đà Bắc được hợp làm một gọi là Mai Đà. Sau một thời gian
tồn tại, châu Mai Đà lại tách thành hai và được giữ nguyên đến năm 1941
thì Mai Châu và Đà Bắc lại tái hợp thành châu Mai Đà. Sau khi cuộc
kháng chiến chống thực dân Pháp thắng lợi, xuất phát từ yêu cầu thực tiễn
của cách mạng, ngày 21-9-1956, Thủ tướng Chính phủ kí nghị định chia
huyện Mai Đà thành huyện Mai Châu và Đà Bắc.
- Về vị trí địa lí:
Mai Châu, một huyện vùng cao phía Tây Bắc có vị trí chiến lược quan
trọng của tỉnh Hòa Bình. Huyện nằm trong tọa độ địa lý 20
0
24 - 20
0
45 vĩ độ
Bắc và 104
0
31 - 105
0
16 kinh độ Đông. Theo số liệu thống kê năm 2009,
huyện Mai Châu có tổng diện tích tự nhiên là 564km
2
(chiếm 11,1% tổng diện
tích toàn tỉnh). Phía Tây Bắc giáp huyện Mộc Châu (tỉnh Sơn La), phía Tây
Nam giáp huyện Quan Hóa (tỉnh Thanh Hóa), phía Đông Bắc giáp huyện Đà
Bắc, phía Đông Nam giáp huyện Tân Lạc vì vậy đây là cửa ngõ lên Tây Bắc
và sang Lào.
24
Khóa luận tốt nghiệp Trịnh khánh Huyền - K60D
Sông Mã (con sông chảy từ biên giới Việt - Lào về địa phận phía Nam
Mai Châu tới thành phố Thanh Hóa), sông Đà (với vùng lòng hồ Hòa Bình
rộng lớn nối với tỉnh Sơn La) đã trở thành con đường thủy thuận lợi cho việc
giao lưu kinh tế - văn hóa của huyện với một phần phía Bắc nước Lào và các
tỉnh khu IV với khu vực Tây Bắc. Với vị trí chiến lược ấy, Mai Châu có lợi
thế trong việc xây dựng căn cứ, một thế đất tiến có thể đánh, lui có thể giữ.
Trong suốt chiều dài lịch sử của dân tộc, Mai Châu từng là địa bàn hoạt động
chống giặc xâm lăng, đây cũng từng là hậu cứ của chiến trường Liên khu III,
là một phần trong hành lang giao thông chiến lược giữa Liên khu III, Liên
khu IV và khu vực Tây Bắc, Bắc Lào. Mặc dù là một huyện miền núi, có vị trí
xa tỉnh lỵ Hòa Bình, nhưng huyện có vai trò quan trọng trong việc phát triển
kinh tế của tỉnh, có thị trường giao lưu với hai tỉnh bạn (Sơn La và Thanh
Hóa). Từ khi công trình thủy điện Sơn La được xây dựng, thì vị trí địa lí của
huyện Mai Châu là một thế mạnh để phát triển kinh tế.
- Về điều kiện tự nhiên:
Về địa hình, Mai Châu là vùng đất có tiếng từ xưa. Theo sách Hưng
Hóa phong tục của tác giả Hoàng Bỉnh chép năm 1778: Châu Mai tức (Mai
Châu ngày nay) địa thế dài như dải áo, hai bên núi đá dựng đứng, dân ở vào
giữa, đất đai màu mỡ, ruộng cấy được cả chiêm lẫn mùa… Địa hình Mai
Châu khá phức tạp, bị chia cắt bởi nhiều hệ thống khe, suối và núi cao, nhìn
tổng thể thấp dần theo chiều từ Tây Bắc xuống Đông Nam, tựa mình bên dãy
Trường Sơn giống như một hình thang mà đáy lớn từ Đông Bắc đến Đông
Nam, đáy nhỏ từ Tây đến Tây Bắc, toàn huyện chia thành hai vùng rõ rệt:
vùng thấp dọc các con suối Xia, suối Mùn và đường quốc lộ 15A, đất đai
tương đối bằng phẳng, màu mỡ, có diện tích gần 2000ha (đây chính là vựa
thóc của huyện), vùng cao như một vành đai khổng lồ bao quanh toàn bộ
huyện, có diện tích 400km
2
với núi non hiểm trở, giao thông đi lại khó khăn,
độ dốc trung bình từ 30 đến 35
0
, độ cao trung bình so với mực nước biển
25