Tải bản đầy đủ (.pdf) (167 trang)

Tiểu luận Hoạt động của một số đảng cộng sản khu vực nam á từ năm 1991 đến năm 2011

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.57 MB, 167 trang )

6
Chương 1
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU
1.1. TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU TẠI VIỆT NAM

Tại Việt Nam, các công trình nghiên cứu liên quan đến đề tài tập trung vào
ba hướng: (i) nghiên cứu chung về khu vực Nam Á; (ii) đề cập trong phần nghiên
cứu, đánh giá chung về phong trào cộng sản quốc tế; và (iii) hoạt động của một số
đảng cụ thể thời gian gần đây. Trong số đó, các công trình về nghiên cứu chung về
khu vực Nam Á và phong trào cộng sản quốc tế chiếm phần chủ đạo.
Nội dung chính của các công trình đề cập đến những nhân tố chính ảnh
hưởng đến sự vận động của các đảng cộng sản tại Nam Á, nhất là tình hình thế giới,
khu vực và phong trào cộng sản quốc tế, đồng thời phác họa những xu hướng phát
triển của các đảng. Các tác giả đều có nhận định chung là sau Chiến tranh lạnh, hầu
hết các đảng cộng sản trong khu vực nhanh chóng tìm cách vượt qua những khó
khăn và tác động bất lợi của sự sụp đổ Liên Xô và Đông Âu để tiếp tục duy trì hoạt
động và từng bước phục hồi về mặt tổ chức, điều chỉnh đường lối chiến lược, sách
lược, phương thức đấu tranh và đã thích nghi linh hoạt với điều kiện thực tiễn mới.
Tuy nhiên, cũng như phong trào cộng sản quốc tế nói chung, tình hình các đảng
cộng sản ở Nam Á đang gặp rất nhiều khó khăn, thách thức và con đường phát triển
còn nhiều quanh co, khúc khuỷu, thậm chí có những bước lùi.
Dưới đây là một số tác phẩm nổi bật, đáng chú ý sau:
Thứ nhất, về tình hình khu vực Nam Á: Bao gồm các đề tài nghiên cứu của
các Bộ/Ban, sách tham khảo của Viện Nghiên cứu Ấn Độ và Tây Nam Á và tài liệu
tham khảo của Thông tấn xã Việt Nam... như Đề tài cấp Bộ của Bộ Ngoại giao
(2002), Quan hệ Ấn Độ-Pakistan và tác động đến an ninh khu vực Nam Á; Đề tài
cấp Bộ của Bộ Ngoại giao (2003), Quan hệ giữa Việt Nam với các nước Nam Á từ
năm 1945 đến năm 2003; Đề tài cấp Bộ của Ban Đối ngoại Trung ương (2006),
Chính sách Hướng Đông của Ấn Độ trong giai đoạn mới; Bộ Ngoại giao (2011), Ấn
Độ và quan hệ Việt Nam - Ấn Độ, Nxb Thế giới, Hà Nội; Đỗ Đức Định (1999), 50
năm kinh tế Ấn Độ, Nxb Thế giới, Hà Nội; Ngân hàng Thế giới (2010), Kinh tế Nam


Á năm 2010: Tiến lên, Hướng Đông; J.S Uberoi (2011), Ấn Độ mãi mãi huy hoàng,
Nxb Media Transasia India Limited (bản dịch của Nhà xuất bản Thế giới); Thông


7
tấn xã Việt Nam (2006), “Ấn Độ và vấn đề an ninh châu Á”, Tài liệu tham khảo đặc
biệt, ngày 29/6; Thông tấn xã Việt Nam (2006), “Ấn Độ, cường quốc đang lên”, Tài liệu
tham khảo, (3)...
Trong số đó, một số công trình nghiên cứu đáng chú ý là:
Đề tài cấp Bộ của Bộ Ngoại giao (2002), Quan hệ Ấn Độ-Pakistan và tác
động đến an ninh khu vực Nam Á làm rõ lịch sử mối quan hệ giữa Ấn Độ với
Pakistan, nhất là nguồn gốc của những vấn đề tồn tại giữa hai nước cũng như hệ lụy
của nó đến tình hình an ninh khu vực Nam Á hiện nay. Đề tài chỉ ra rằng vấn đề
tranh chấp biên giới lãnh thổ giữa Ấn Độ và Pakistan ở khu vực Kashmir đã tồn tại
kể từ khi Anh công nhận nền độc lập của cả hai nước suốt nhiều năm qua, là vấn đề
chính cản trở việc bình thường hóa quan hệ và đã dẫn đến 3 cuộc chiến tranh lớn
giữa hai nước vào các năm 1947, 1965 và 1971. Mối quan hệ căng thẳng giữa Ấn
Độ và Pakistan đã gây nên bầu không khí chính trị-an ninh bất ổn tại khu vực do Ấn
Độ và Pakistan là hai nước đóng vai trò quan trọng trong khu vực. Ngoài ra, việc
các nước lớn ngoài khu vực như Mỹ, Trung Quốc và Nga lợi dụng mối quan hệ
căng thẳng này để phục vụ lợi ích riêng càng khiến cho tình hình chính trị-an ninh
khu vực trở nên bấp bênh hơn.
Đề tài cấp Bộ của Bộ Ngoại giao (2003),Quan hệ giữa Việt Nam với các
nước Nam Á từ năm 1945 đến năm 2003. Đề tài tập trung vào một số điểm: Thứ
nhất, nêu những đặc điểm về địa lý, lịch sử, nhân chủng, tôn giáo, văn hoá, một số
nét về đặc điểm kinh tế, quan hệ đối nội và đối ngoại và tầm quan trọng của khu
vực Nam Á với Việt Nam cũng như của Việt Nam với các nước Nam Á. Thứ hai,
Đề tài đã phân tích, đánh giá bối cảnh, việc tập hợp lực lượng trong khu vực và thế
giới; tình hình khu vực Nam Á, những nguyên nhân xuất phát từ đường lối đối nội
đối ngoại của từng nước Nam Á tác động đến Việt Nam cũng như của tình hình

chung của Việt Nam tác động đến từng nước Nam Á. Thứ ba, Đề tài chỉ ra những
thuận lợi và khó khăn trong việc tăng cường quan hệ giữa Việt Nam và các nước
Nam Á.
Đề tài cấp Bộ của Ban Đối ngoại Trung ương (2006), Chính sách Hướng
Đông của Ấn Độ trong giai đoạn mới. Điểm đáng chú ý là bên cạnh khái quát lịch
sử quan hệ Ấn Độ - Đông Nam Á về kinh tế, văn hoá và chính trị, phân tích những
nhân tố quốc tế, khu vực và trong nước dẫn đến sự hình thành của chính sách


8
“Hướng Đông” của Ấn Độ trong những năm 1990, Đề tài đã dành một phần phân
tích môi trường chính trị-an ninh khu vực Nam Á từ sau Chiến tranh lạnh, sự điều
chỉnh chiến lược các nước lớn như Mỹ, Trung Quốc, Nhật Bản, Nga tại khu vực và
mối quan hệ giữa Việt Nam và Ấn Độ. Đề tài cho rằng từ đầu những năm 1990, xu
hướng bất ổn định ngày càng gia tăng ở khu vực Nam Á. Các cuộc bạo động ở
Pakistan và Nepal, của người Chakmar ở Bangladesh hay người Tamin ở Sri Lanka
đã trở thành mối đe dọa đối với các nhà nước hiện hành ở khu vực. Quan hệ giữa
Ấn Độ và Pakistan không ngừng xấu đi. Cơ chế hợp tác khu vực Nam Á mặc dù đã
được xác lập với việc hình thành Hiệp hội hợp tác khu vực Nam Á (SAAC) nhưng
hoạt động kém hiệu quả, ngay từ khi thành lập, cơ chế này đã mang trong nó rất
nhiều hạn chế. Trên lĩnh vực kinh tế, hầu hết các nước Nam Á là những nước phát
triển ở trình độ thấp, cần nhiều vốn và kỹ thuật. Ấn Độ là nước phát triển vào bậc
nhất trong khu vực cũng gặp nhiều khó khăn, không đủ khả năng đáp ứng nhu cầu
về vốn và kỹ thuật của các nước thành viên khác.
Chuyên đề Ban Đối ngoại Trung ương (2002), Cục diện chính trị-an ninh
khu vực Nam Á đầu thế kỷ XXI. Nội dung của chuyên đề tập trung khái quát một số
nét nổi bật của tình hình chính trị-an ninh khu vực Nam Á những năm đầu thế kỷ
XXI, đánh giá sự điều chỉnh chiến lược của các nước lớn như Mỹ, Trung Quốc, Nga
và Ấn Độ, mối quan hệ giữa Ấn Độ và Pakistan. Trên cơ sở đó, dự báo triển vọng
chính trị-an ninh khu vực thời gian tới.

Cuốn Ngô Xuân Bình chủ biên (2013), Nghiên cứu Ấn Độ tại Việt Nam, Nxb
Khoa học Xã hội, Hà Nội tập hợp những bài nghiên cứu của các học giả Việt Nam
trong năm 2013 về Ấn Độ và quan hệ Việt Nam - Ấn Độ trên các lĩnh vực như kinh
tế, chính trị-an ninh, văn hóa-xã hội và quan hệ của Ấn Độ với các nước và Việt
Nam.
Cuốn Ngô Xuân Bình chủ biên (2013), Những vấn đề kinh tế-chính trị cơ
bản của Ấn Độ thập niên đầu thế kỷ XXI và dự báo xu hướng đến năm 2020, Nxb
Từ điển Bách khoa, Hà Nội phân tích một cách toàn diện về thực trạng phát triển
của Ấn Độ, đánh giá những tác động tích cực và tiêu cực của Ấn Độ đến sự phát
triển chung của thế giới. Đặc biệt, tác phẩm đã cung cấp cái nhìn tổng quan về đất
nước Ấn Độ như vị trí địa lý, dân cử, lịch sử, văn hóa và nét đặc trưng của hệ thống
chính trị Ấn Độ.


9
Cuốn Ngô Xuân Bình chủ biên (2013), Việt Nam - Ấn Độ và Tây Nam Á:
Những mối liên hệ trong lịch sử và hiện tại, Nxb Từ điển Bách khoa đã tập hợp các
bài tham luận hội thảo quốc tế đề cập đến ba mảng nội dung chính là quan hệ Việt
Nam – Ấn Độ, quan hệ Việt Nam – Tây Nam Á và quan hệ Ấn Độ - Tây Nam Á
trên các lĩnh vực quan hệ văn hóa, tôn giáo, ngôn ngữ, chính trị, kinh tế, an ninh
quốc phòng...
Cuốn Anjana Mothar Chandra (2010), 5000 lịch sử văn hóa Ấn Độ, Nxb Văn
hóa-Thông tin, Hà Nội giới thiệu tất cả các giai đoạn lịch sử chính của Ấn Độ từ
những ngày đầu mới hình thành của nền văn minh lưu vực sông Ấn đến sự chia cắt
Tiểu lục địa Ấn Độ và những năm sau khi giành độc lập của Ấn Độ. Đặc biệt, tác
phẩm phân tích làm rõ sự chuyển đổi của Ấn Độ từ một nước không phát triển,
đông dân số thành một trong những nước có nền kinh tế phát triển nhanh nhất thế
giới.
Thứ hai, về phong trào cộng sản quốc tế: Báo cáo kết quả tổng kết thực tiễn
Ban Đối ngoại Trung ương (2004), Tình hình phong trào cộng sản và công nhân

quốc tế, phong trào hòa bình, dân chủ trên thế giới đã phân tích những nét chính
trong tình hình phong trào cộng sản và công nhân quốc tế kể từ sau Chiến tranh lạnh
và đưa ra những dự báo về triển vọng thời gian tới.
Tác giả Nguyễn Thị Quế (2005), Phong trào cộng sản ở một số nước liên
minh Châu Âu thời kỳ sau chiến tranh lạnh, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội đã tập
trung phân tích những nhân tố tác động chủ yếu đối với phong trào cộng sản ở các
nước thuộc Liên minh châu Âu, sự khủng hoảng của phong trào ở các nước này
trong nửa đầu thập niên 90 của thế kỷ XX, sự phục hồi, củng cố của phong trào từ
nửa sau thập niên 90 đến nay và triển vọng của phong trào trong những thập niên
đầu thế kỷ XXI. Đồng thời, cuốn sách cũng phân tích vai trò, mối quan hệ truyền
thống, sự phát triển của quan hệ giữa các đảng cộng sản và công nhân một số nước
Liên minh châu Âu với Đảng Cộng sản Việt Nam trong giai đoạn cách mạng mới.
Tuy nhiên, hoạt động của các đảng cộng sản khu vực Nam Á như Đảng Cộng sản
Ấn Độ, Đảng Cộng sản Nepal Mác-xít Lê-nin-nít thống nhất cũng được tác giả nêu
khái quát trong phần đánh giá về phong trào cộng sản ở khu vực các nước đang phát
triển châu Á, trong đó tác giả cho rằng “các đảng đã hoạt động tích cực, có sơ sở xã
hội và ảnh hưởng khá mạnh trong xã hội”.


10

Viện Quan hệ Quốc tế (2005), Lịch sử phong trào cộng sản và công nhân
quốc tế, Nxb Lý luận Chính trị, Hà Nội đề cập đầy đủ, có hệ thống về lịch sử phong
trào cộng sản, công nhân quốc tế từ khi xuất hiện chính đảng đến nay, trong đó phân
tích tình hình phong trào cộng sản quốc tế từ đầu thập kỷ 90 đến những năm đầu thế
kỷ XXI.
Cuốn Nguyễn Hoàng Giáp chủ biên (2006), Sự phối hợp hoạt động của các
Đảng cộng sản và cánh tả trên thế giới hiện nay, Nxb Lý luận chính trị, Hà Nội.
Tác phẩm làm rõ nội dung hoạt động quốc tế và một số hình thức phối hợp hoạt
động chủ yếu của các đảng cộng sản, cánh tả trên thế giới từ thập niên 90 của thế kỷ

XX đến nay; nêu bật những đóng góp của Đảng ta trên phương diện này; đồng thời,
các tác giả cũng nêu dự báo về triển vọng phối hợp hoạt động và tập hợp lực lượng
của phong trào cộng sản quốc tế trong hai thập niên đầu thế kỷ XXI. Tuy nhiên, tác
giả chủ yếu tập trung vào khu vực Mỹ Latinh, các nước tư bản phát triển, các nước
thuộc Liên Xô, Đông Âu cũ và Trung Đông.
Đề tài cấp Bộ do Nguyễn Mạnh Hùng chủ nhiệm (2012), Sự tham gia của
Đảng ta tại các diễn đàn đa phương chính đảng: Thực trạng và phương hướng
trong thời gian tới, mã số KHBĐ(2011)-27 phân tích làm rõ vai trò của các diễn
đàn đa phương chính đảng trong đời sống chính trị thế giới hiện nay, đánh giá thực
trạng cũng như đưa ra một số đề xuất về phương hướng, nội dung và hình thức tăng
cường sự tham gia của Đảng CSVN tại các diễn đàn đa phương chính đảng.
Cuốn PGS.TS Nguyễn Hoàng Giáp và PGS.TS Nguyễn Thị Quế (đồng chủ
biên) (2014), Phong trào cộng sản quốc tế hiện nay và triển vọng, Nxb Chính trị
quốc gia, Hà Nội. Các tác giả đánh giá thực trạng của phong trào cộng sản quốc tế
hiện nay, lý giải rõ về mức độ phục hồi và những thách thức mà phong trào đang
đối mặt, vai trò và tính hiệu quả của các hình thức phối hợp hoạt động và yêu cầu
mới về thực hành chủ nghĩa quốc tế của giai cấp công nhân. Trên cơ sở đánh giá
thực trạng, các tác giả đã dự báo về triển vọng, xu hướng vận động của phong trào
đến năm 2020. Về thực trạng của phong trào, các tác giả cho rằng phong trào cộng
sản quốc tế hiện nay chưa ra khỏi khủng hoảng nhưng đã vượt qua được thời kỳ khó
khăn nhất và có những bước hồi phục nhất định. Tuy nhiên về triển vọng thời gian
tới, phong trào vẫn sẽ đối mặt nhiều thách thức do đường lối của nhiều đảng chưa
theo kịp với yêu cầu, còn lúng túng trong hoạt động, chưa thu hút được đông đảo


11
các tầng lớp nhân dân lao động, nguồn lực tài chính chính hạn hẹp, vấn đề đoàn kết,
hợp tác, phối hợp giữa các đảng còn nhiều bất cập.
Ngoài ra còn có các bài viết trên các Tạp chí: Lưu Văn An, Nguyễn Hoàng
(2001), “Những chuyển động mới của phong trào cộng sản quốc tế hiện nay”, Tạp

chí Cộng sản, số 20/2001; Nguyễn Hoàng Giáp - Nguyễn Thị Quế (2004), “Phong
trào cộng sản ở các nước tư bản phát triển trước các vấn đề lý luận chính trị đặt ra
trong thời kỳ sau chiến tranh lạnh”, Tạp chí Lý luận chính trị, số 11/2004; Vũ Văn
Hoà (2006), “Diễn đàn Aten: hình thức hoạt động chung của phong trào cộng sản,
công nhân quốc tế hiện nay”, Tạp chí Cộng sản, số 108, 2006; Nguyễn Hoàng Giáp
- Nguyễn Thị Quế (2007), “Phong trào cộng sản quốc tế trong giai đoạn hiện nay”,
Tạp chí Cộng sản, số 11/2007; Thái Văn Long (2007), “Phong trào cộng sản và
công nhân quốc tế trong bối cảnh toàn cầu hoá”, Tạp chí Cộng sản, số 10/2007;
Nguyễn Mạnh Hùng (2006), “Tình hình phong trào cộng sản và công nhân quốc tế
ngày nay”, Tạp chí Lý luận chính trị, số 7/2006...
Thứ ba, về hoạt động của các đảng cộng sản Nam Á có một số bài nghiên
cứu về hoạt động của các đảng cộng sản tại Ấn Độ như Trịnh Thị Hoa (2004), “Đảng
Cộng sản Ấn Độ (Mác-xít)”, Tạp chí Xây dựng Đảng; Lê Gia Kiên (2009), “Đảng
Cộng sản Ấn Độ và Đảng Cộng sản Ấn Độ - Mác-xít: Quá khứ và triển vọng”, Tạp chí
Cộng sản, số 795; Nguyễn Trọng Kiên (2013), “Phong trào cộng sản, cánh tả tại Ấn
Độ: Tình hình và triển vọng”, Tạp chí Cộng sản, số 851... Các tác giả khái quát quá
trình vận động của phong trào cộng sản tại Ấn Độ từ khi ra đời đến năm 2013, phân
tích thực trạng, nguyên nhân thành công và hạn chế trong quá trình vận động của
Mặt trận cánh tả tại Ấn Độ - nòng cốt là Đảng Cộng sản Ấn Độ và Đảng Cộng sản
Ấn Độ Mác-xít. Dự báo triển vọng sắp tới, các tác giả cho rằng Mặt trận Cánh tả sẽ
gặp không ít khó khăn do không còn có được cơ sở ủng hộ rỗng rãi như trước và không
có được nguồn lực tài chính dồi dào để cho chiến dịch tranh cử được coi là rất tốn kém
ở Ấn Độ nhưng vẫn sẽ là những lực lượng chính trị quan trọng trên chính trường Ấn
Độ và có nhiều đóng góp cho bảo vệ quyền lợi của nhân dân lao động.
Bên cạnh đó còn có đại sử ký về hoạt động của các đảng và các báo cáo về đại
hội các đảng của Ban Đối ngoại Trung ương từ năm 1991 đến năm 2011.


12


1.2. TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU TRÊN THẾ GIỚI

Ở nước ngoài, Đề tài nhận được sự chú ý, quan tâm nhiều hơn của các nhà
nghiên cứu, đặc biệt tại khu vực Nam Á, thể hiện qua số lượng bài viết nhiều hơn và
phạm vi nghiên cứu rộng hơn, sâu hơn, tập trung vào hai hướng: (i) tóm lược lịch sử
của các đảng; (ii) quan điểm, đánh giá của các đảng về một số vấn đề lý luận và
thực tiễn. Hầu hết các công trình nghiên cứu đã khái quát một cách sơ lược về quá
trình hoạt động cũng như quan điểm, chủ trương, đường lối của các đảng qua từng
giai đoạn lịch sử.
Thứ nhất, về lịch sử của các đảng: Tuyển tập 26 tập Harkishan Singh
Surjeet, Communist Movement in India, National Book Center (Tạm dịch Phong
trào cộng sản tại Ấn Độ) viết về quá trình ra đời và phát triển của phong trào cộng
sản tại Ấn Độ đến năm 1998. Trong đó từ Tập 23 đến Tập 26 đề cập đến sự vận
động của phong trào từ năm 1991 đến 1998, đặc biệt tập trung vào hoạt động của
Đảng Cộng sản Ấn Độ (Mác-xít). Các tuyển tập đã khái quát và phân tích kỹ về
thực trạng của phong trào từ những ngày đầu thành lập cho đến năm 1998, trong đó
lý giải nguyên nhân thành công, thất bại cũng như những vấn đề đang đặt ra của
phong trào.
Tuyển tập trên được tác giả rút gọn lại trong cuốn Harkishan Singh Surjeet
(1993), An Outline History of the Communist Movement in India, National Book
Center, New Delhi (Tạm dịch Lịch sử tóm tắt phong trào cộng sản Ấn Độ) và sau
đó tiếp tục được hoàn thiện, bổ sung trong cuốn Harkishan Singh Surjeet (1998),
March of the Communist Movement in India, National Book Agency Private
Limited, Calcutta, India (Tạm dịch: Sự vận động của Phong trào cộng sản ở Ấn
Độ).
Cuốn Harkishan Singh Surjeet (1993), An outline History of the Communist
Movement in India, National Book Center, New Delhi, 1993 (Tạm dịch: Lịch sử
tóm tắt phong trào cộng sản Ấn Độ) gồm 20 trang, tác giả đã phân tích cụ thể quá
trình hình thành Đảng cộng sản Ấn Độ đến Đại hội 14 của Đảng Cộng sản Ấn Độ
(Mác-xít) (tháng 1/1992). Đáng chú ý, Chương III của cuốn sách đưa ra nhiều thông

tin giá trị về ảnh hưởng quan điểm Mác-xít trong giai cấp công nhân và tri thức yêu
nước của Ấn Độ; Chương IX lý giải nguyên nhân phân liệt trong phong trào cộng
sản Ấn Độ; trong khi Chương XX chỉ ra những tác động to lớn và những thách thức


13
đối với phong trào cộng sản tại Ấn Độ sau sự sụp đổ Liên Xô và hệ thống XHCN ở
Đông Âu.
Cuốn Harkishan Singh Surjeet (1998), March of the Communist Movement in
India, National Book Agency Private Limited, Calcutta, India (Tạm dịch: Sự vận động
của Phong trào cộng sản ở Ấn Độ) đề cập 02 nội dung quan trọng: i) khái quát quá
trình hình thành và phát triển của phong trào cộng sản Ấn Độ từ khi ra đời đến cuối
những năm 1990 (đóng góp trong cuộc đấu tranh giành độc lập của Ấn Độ (phong trào
đồng khởi những năm 1930, đấu tranh trong thời gian diễn ra cuộc Chiến tranh thế giới
lần thứ 2), thời kỳ phân liệt của phong trào do tác động của mâu thuẫn Xô-Trung, dẫn
tới sự ra đời của Đảng Cộng sản Ấn Độ (Mác-xít)) và ii) phân tích lập trường, quan
điểm, hoạt động của CPI-M trong giai đoạn xây dựng và phát triển của đất nước Ấn Độ
độc lập: Kinh nghiệm của Đảng CPI-M trong việc đấu tranh thành lập Mặt trận thống
nhất, chống trào lưu khủng bố cực đoan, đóng góp của CPI-M trong đấu tranh bảo vệ
nền dân chủ.
Cuốn International Department of the CPSL (1995), History of Communist Party
of Sri Lanka, Party Publication (Tạm dịch: Lịch sử Đảng Cộng sản Sri Lanka, Ban
Quốc tế của Đảng CPSL) nêu rõ thành lập năm 1943, Đảng Cộng sản Sri Lanka
(CPSL) hoạt động trong phong trào công nhân và tham gia đấu tranh giành độc lập
chống thực dân Anh. Sau khi điểm lại quá trình hoạt động của Đảng, tác phẩm đã tập
trung phân tích các chủ trương, chính sách của Đảng sau năm 1991. Nổi bật là quyết
định của Đảng tham gia Liên minh Nhân dân cầm quyền, nhằm mục tiêu bảo vệ và mở
rộng các quyền dân chủ và tự do, mở rộng hệ thống phúc lợi xã hội và bảo đảm công
bằng xã hội; ủng hộ giải pháp hoà bình nhằm chấm dứt cuộc chiến tranh vùng Đông Bắc; tình đoàn kết với nhân dân Cuba trong cuộc đấu tranh phá bỏ sự phong toả kinh tế
của đế quốc đối với Cuba và bảo vệ độc lập chủ quyền của Cuba.

Cuốn CPN-UML (2000), People’s Multi Party Democracy: Policy Papers,
Madan-Ashrit Memorial Foundation, Nepal (Tạm dịch: Cương lĩnh Nền dân chủ đa
đảng của nhân dân) của Đảng Cộng sản Nepal Mác-xít-Lêninnít Thống nhất (CPNUML) tập hợp các kết quả nghiên cứu của gần 100 nhà nghiên cứu tại các cuộc hội
thảo, tọa đàm về những nội dung của Cương lĩnh Nền dân chủ đa đảng của nhân
dân (PMPD). Tác phẩm đã giới thiệu bối cảnh ra đời cũng như những nội dung
chính của Cương lĩnh PMPD, trong đó nêu rõ lập trường, quan điểm của Đảng


14
CPN-UML về các lĩnh vực của đời sống xã hội: chính trị, chính sách kinh tế, lao
động, nông nghiệp, công nghiệp, y tế, giáo dục, văn hóa, quyền con người, phụ nữ,
môi trường và đối ngoại.
Cuốn International Department of Communist Party of Bangladesh (2003), A
brief introduction to the Communist Party of Bangladesh, Party Publication (Tạm
dịch: Giới thiệu tóm tắt về Đảng Cộng sản Bangladesh, Ban Quốc tế, Đảng Cộng
sản Bangladesh) tóm tắt quá trình phát triển từ khi thành lập đến năm 2003. Trong
đó, liên quan đến tình hình Đảng từ sau năm 1991, tác phẩm thông tin về phân liệt
Đảng sau sự thoái trào của CNXH ở Liên Xô và các nước Đông Âu, những nỗ lực
của những đảng viên kiên trung tiếp tục đoàn kết dưới học thuyết chủ nghĩa MácLênin và sự điều chỉnh chiến lược của Đảng sang thực hiện “chuyển hóa dân chủ
cách mạng xã hội và nhà nước”.
Cuốn A.B.Bardhan (2000), 75 years: This is the CPI, CPI Publication, New
Delhi (Tạm dịch 75 năm: Đây là CPI). Tác giả A.B.Bardhan, Tổng Bí thư, nhà hoạt
động lão thành của Đảng CPI và phong trào cộng sản, cánh tả tại Ấn Độ tóm tắt quá
trình ra đời của Đảng và những thành tựu và đóng góp của Đảng trong các giai đoạn
lịch sử đất nước.
Tiếp theo đó, tác giả A.B.Bardhan (2005), 80 years of CPI, CPI Publication,
New Delhi (Tạm dịch 80 năm Đảng Cộng sản Ấn Độ) trên cơ sở tham khảo các tác
phẩm xuất bản trước đó của Đảng đã tổng hợp và khái quát những sự kiện quan trọng
trong suốt quá trình hoạt động cách mạng của Đảng trong 80 năm hình thành và phát
triển từ 26/12/1925-26/12/2005, bao gồm cả thắng lợi lẫn thất bại và sai lầm.

Tác phẩm Communist Party of India (Marxist) (2007), Thirty Years of the Left
Front Government in West Bengal 1997-2007, Progressive Printers, West Bengal (Tạm
dịch:Ba mươi năm Chính quyền Mặt trận cánh tả tại bang West Bengal giai đoạn 19772007). Cuốn sách đã tổng kết, đánh giá quá trình cầm quyền của Mặt trận cánh tả tại
bang West Bengal. Tác phẩm đã khẳng định việc Mặt trận cánh tả nắm quyền trong 30
năm liên tục tại West Bengal là một thành tích to lớn. Nguyên nhân của thành công là sự
ủng hộ mạnh mẽ của quần chúng lao động của West Bengal đối với các chương trình và
chính sách của Chính quyền Mặt trận cánh tả. Quá trình cầm quyền của Mặt trận cánh tả
tại bang West Bengal là một ví dụ điển hình cho chính quyền vì người dân, thông qua
tiến hành cải cách ruộng đất, xây dựng mô hình chính quyền địa phương phi tập trung


15
với Chương trình Panchayati Raj, bảo vệ nền thế tục, quyền dân chủ và công khai, qua
đó trao quyền và thay đổi cuộc sống cho hàng triệu người dân nghèo.
Tác phẩm West Bengal Government (2007), 30 years of Left Front Government in
West Bengal: Issues and reflections, Basumati Corporation Limited (Tạm dịch 30 năm
Chính quyền Mặt trận cánh tả tại bang West Bengal: Một số vấn đề và kết quả thể hiện)
tập hợp 17 bài viết của các tác giả là lãnh đạo chính quyền bang và các nhà nghiên cứu nổi
tiếng của các đảng cộng sản, cánh tả phân tích, đánh giá kết quả và thách thức việc thực
hiện những chính sách của chính quyền bang trên các lĩnh vực chủ yếu trong 30 năm kể từ
khi Mặt trận cánh tả lên nắm quyền ở bang West Bengal.
Hoạt động của Đảng Cộng sản Ấn Độ (CPI) qua các giai đoạn từ khi thành lập
đến năm 2008 cũng được trình bày trong cuốn Anil Rajimwal (2012), History of
Communist Party of India through Congresses, People’s Publishing House PVT.LTD
(Tạm dịch: Lịch sử Đảng Cộng sản Ấn Độ qua các kỳ đại hội). Tác giả đã khái quát
tình hình và nội dung cơ bản tại từng Đại hội Đảng CPI từ khi thành lập năm 1925 đến
Đại hội lần thứ XX (năm 2008). Trong giai đoạn từ 1991-2008, Đảng CPI đã trải qua 7
kỳ Đại hội, trong đó đáng chú ý là Đại hội XV (năm 1993) với việc Đảng thông qua
Cương lĩnh sửa đổi, điều chỉnh bộ máy tổ chức Đảng và biện pháp tập hợp lực lượng;
và Đại hội XVIII (năm 2002) với đánh giá đúng đắn về tình hình thế giới, chính trường

trong nước và việc cần thiết phải củng cố thống nhất, đoàn kết trong phong trào cộng
sản Ấn Độ cả về hệ tư tưởng, chương trình hành động, quan điểm đánh giá về tình hình
trong nước và quốc tế cũng như các nguyên tắc tổ chức.
Tác phẩm International Department of the CPN-UML (2009), History of
Communist Party of Nepal (Unified Marxist Leninist, Party Publication (CPN-UML)
(Tạm dịch: Lịch sử Đảng Cộng sản Nepal (Mác-xít Lênin-nit Thống nhất, Ban Quốc tế,
Đảng CPN-UML) giới thiệu khái quát về lịch sử phát triển của Đảng CPN-UML từ khi
ra đời năm 1949 đến Đại hội VIII của Đảng năm 2009. Trong đó, tác phẩm cũng làm rõ
quan điểm, chủ trương, đường lối cơ bản của Đảng về chính sách đối nội và đối ngoại.
Tác phẩm D.J.Sagar (2009), Political Parties of the world: 7th Edition, John
Harper Publishing giới thiệu tóm tắt thông tin của các đảng CPI, CPI-M tại Ấn Độ, CPNUML tại Nepal, CPSL tại Sri Lanka và CPB tại Bangladesh từ khi thành lập đến giữa
thập niên đầu thế kỷ XXI.


16
Cuốn Renu Chakravartty (2011), Communists in Indian Women’s Movement,
People’s Publishing House, New Delhi (Tạm dịch: Những người cộng sản trong phong
trào phụ nữ Ấn Độ). Với kinh nghiệm 40 năm hoạt động trong phong trào phụ nữ dưới
sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Ấn Độ, tác giả Renu Chakravartty đã tổng kết và phân
tích vai trò của Đảng Cộng sản Ấn Độ trong phong trào phụ nữ tại Ấn Độ, nhất là trong
việc tập hợp, lãnh đạo phụ nữ đấu tranh đòi cải thiện về kinh tế-xã hội.
Cuốn N.N.Manna (2011), CPI in Delhi: Its role in the struggle for freedom and
Trade Union Movement, People’s Publishing House, New Delhi (Tạm dịch Vai trò của
Đảng CPI tại Delhi trong cuộc đấu tranh tự do và trong Phong trào công đoàn). Tác giả
N.N.Manna – đảng viên Đảng Cộng sản Ấn Độ và là nhà hoạt động nổi tiếng trong
phong trào giải phóng dân tộc cũng như phong trào công nhân của Ấn Độ. Tác phẩm
được tác giả viết từ năm 2002 đến năm 2005 phân tích vai trò lãnh đạo của Đảng CPI đối
với phong trào đấu tranh của tổ chức công đoàn Ấn Độ qua các giai đoạn 9 giai đoạn, từ
những năm 1925 đến khi Ấn Độ giành độc lập năm 1947.
Thứ hai, về quan điểm, đánh giá của các đảng về một số vấn đề lý luận và

thực tiễn: Kỷ yếu Hội thảo quốc tế Communist Party of India (Marxist) (1993),
Contemproray world situation and validity of Marxism, CPI(M) Publication (Tạm
dịch Tình hình thế giới đương đại và giá trị của chủ nghĩa Mác). Hội thảo do Đảng
Cộng sản Ấn Độ-Mác xít tổ chức nhân kỷ niệm 175 năm ngày sinh Các Mác” năm
1993. Tác phẩm tập hợp 50 bài tham luận của 24 đảng cộng sản trên thế giới, trong
đó có nhiều đảng cộng sản khu vực Nam Á như Đảng Cộng sản Ấn Độ (CPI), Đảng
Cộng sản Ấn Độ Mác xít (CPI-M), Đảng Cộng sản Nepal Mác-xít Lê-nin-nít Thống
nhất (CPN-UML) thảo luận về giá trị của chủ nghĩa Mác trong bối cảnh phong trào
cộng sản quốc tế rơi vào thoái trào sau sự tan rã của Liên Xô và sụp đổ của hệ thống
CNXH ở Đông Âu. Qua các tham luận, các đảng đều khẳng định CN Mác mang
tính khoa học sáng tạo, vẫn còn giá trị đến ngày nay và tiếp tục là định hướng cho
hoạt động của các đảng.
Cuốn School for Social Scientists (1999), The Emerging mutation in the
socialist world, Chitturpu – 521 132, Krishna District, Andhra Pradesh, India (Tạm
dịch Sự thay đổi trong thế giới xã hội chủ nghĩa, Trường khoa học xã hội, Ấn Độ)
là tập hợp các bài viết của các đảng. Qua nêu quan điểm và đánh giá của mỗi Đảng


17
về tương lai của CNXH, các tác giả đều thừa nhận con đường đi lên CNXH lâu dài
nhưng vẫn khẳng định niềm tin vào CNXH trong tương lai.
Kỷ yếu Hội thảo quốc tế CPN-UML (2000), Proceedings of International
Conference on socialism in the 21st century, Madan-Ashit Memorial Foundation,
Kathmandu (Tạm dịch Hội thảo quốc tế về Chủ nghĩa xã hội trong thế kỷ 21) tập hợp các
bài tham luận của đại diện các đảng cộng sản, cánh tả trên thế giới, trong đó có nhiều
đảng cộng sản khu vực Nam Á: Đảng Cộng sản Ấn Độ, CPI-M, CPN-UML, CPSL,
Đảng Công nhân Pakistan, Đảng Công nhân Bangladesh tại Hội thảo do Đảng CPNUML chủ trì, tổ chức tại Nepal (6-9/11/2000).
Cuốn Sitaram Yechury (2008), Socialism in a changing world, Prajasakti Book
House, Andhra Pradesh, India (Tạm dịch Chủ nghĩa xã hội trong một thế giới đang
biến đổi) là tập hợp các bài viết của đồng chí Sitaram Yechury, Ủy viên Bộ Chính trị,

rưởng Ban Quốc tế Đảng Cộng sản Ấn Độ (Mác-xít) nêu lên quan điểm, đánh giá về
các vấn đề quốc tế và đường lối đối ngoại của Đảng Cộng sản Ấn Độ (Mác-xít) từ sau
Chiến tranh lạnh đến năm 2008. Trong đó, bài viết “Mordern developments of the
capitalism and international working class” (Tạm dịch Những bước phát triển hiện đại
của chủ nghĩa tư bản và giai cấp lao động quốc tế) tái khẳng định quan điểm của đảng
CPI-M tại Đại hội XIV rằng kể từ sau Chiến tranh thế giới thứ II, chủ nghĩa tư bản đã
thích nghi với tình hình thay đổi để tồn tại, củng cố và phát triển. Mặc dù vậy, tác giả
cũng cho rằng chủ nghĩa tư bản cũng đang phải đối phó với tình trạng khủng hoảng,
suy thoái, lạm phát và thất nghiệp gia tăng, chưa kể sự cạnh tranh và đối chọi quyết
liệt giữa các tập đoàn, ngân hàng. Tác giả kết luận bất chấp sự phát triển, khủng
hoảng trong nội bộ của chủ nghĩa tư bản vẫn tiếp tục diễn ra sâu sắc, bất bình ngày
càng gia tăng và hình thành phong trào đoàn kết chống đế quốc thông qua các làn
sóng biểu tình và phản đối. Xu thế quy định tương lai của các phong trào đấu tranh
của giai cấp lao động quốc tế là nếu phong trào nào nắm vững lý luận Mác-Lênin để
áp dụng vào tình hình thực tiễn thì sẽ có cơ hội phát triển mạnh hơn.
Cuốn A.B Bardhan (2002), Crisis of Corporate Capitalism, People’s
Publishing House (Tạm dịch Cuộc khủng hoảng của chủ nghĩa tư bản hợp doanh)
phân tích làm rõ bản chất và những hạn chế của chủ nghĩa tư bản hợp doanh. Bắt
đầu từ những diễn biến của các vụ bê bối và scandal liên quan đến các tập đoàn tư


18
bản nổi tiếng, tác giả đã khẳng định những diễn biến này hoàn toàn không bất ngờ,
bởi đó là bản chất của chủ nghĩa tư bản.
Tham luận của đồng chí Madhav Kumar, nguyên Thủ tướng Nepal, nguyên
Tổng Bí thư Đảng Cộng sản Nepal Mác-xít Lê-nin-nít Thống nhất (CPN-UML) tại
Hội thảo “Challenges and Opportunities for the Left Movement in South Asia”
(Tạm dịch Cơ hội và thách thức đối với phong trào cánh tả tại Nam Á) do Đảng
Cộng sản Sri Lanka (CPSL) tổ chức tại Colombo, ngày 03/7/2013 nhân kỷ niệm 70
năm ngày thành lập Đảng CPSL. Tác giả cho rằng sau khi Liên Xô sụp đổ, các đảng

cộng sản tại Nam Á đã rút ra bài học quý giá rằng khái niệm vận dụng chủ nghĩa
Mác theo thực tiễn khách quan tại một xã hội là hoàn toàn chính xác; mỗi đảng phải
tự đề ra chương trình hành động riêng mình cho phù hợp nhất với các điều kiện
khách quan của mình. Trong bối cảnh mới, các đảng có những thuận lợi là giá trị và
tính đúng đắn của Chủ nghĩa Mác và CNXH vẫn còn nguyên, sự ủng hộ của người
dân; tuy nhiên gặp phải nhiều thách thức to lớn, nhất là chủ nghĩa cực đoan và chủ
nghĩa cơ hội; thoái hóa về tư tưởng và gia tăng chủ nghĩa cục bộ hẹp hòi; thay đổi
cán cân quyền lực toàn cầu; thay đổi đặc điểm kinh tế, lối sống của người dân và di
dân; thiếu sự phối hợp và hoạt động giữa các đảng cánh tả trên thế giới.
Ngoài ra, còn các bài tham luận của các đảng tại Cuộc gặp quốc tế các đảng
cộng sản, công nhân (IMCWP) từ năm 1998 đến năm 2011 và thông tin mà các
đảng cộng sản Nam Á đưa trên website Solidnet (www.solidnet.org) như: Ruhin
Hossain Prince (2011), “Socialism is the future” at the 13th IMCWP; CPB
International Department, CPB's stand on present political situation in Bangladesh;
Manzurul Ahsan Khan (2009), Intervention at the 11th IMCWP; CPI (2011),
Contribution at the 13th IMCWP; Sudhakar Reddy (2010), “The Deepening Crisis of
World Imperialism, and Need for Broad Anti-imperialist Unity” at the 12th IMCWP;
Pallab Sengupta (2009), Welcome Address at the 11th IMCWP; The SolidNet Team
(2000), Brief History of CPI; Sitaram Yechury (2012), “Strengthen the struggles
against escalating imperialist aggressiveness, for satisfying peoples’ socioeconomic-democratic rights and aspirations, for socialism” at the 14th IMCWP;
Sitaram Yechury (2013), Intervention at the 15th IMCWP; Sitaram Yechury (2011),
Intervention at the 13th IMCWP; Sitaram Yechury (2011), Editorial on global
economic crisis, News from CPI-M; Sitaram Yechury (2010), “The deepening


19

systemic crisis of capitalism. The tasks of Communists in defence of sovereignty,
deepening social alliances, strengthening the anti-imperialist front in the struggle
for peace, progress and Socialism” at the 12th IMCWP; Jhala Nath Khanal (2010),

Deliberation for the 12th IMCWP; Madhav Kumar Nepal (2012), Speech at the 14th
IMCWP; K.P. Sharma Oli (2009), Internation at the 11th IMCWP; Raja Collure
(2013), Contribution at the 15th IMCWP; Raja Collure (2012), Contribution at the
14th IMCWP; Raja Collure (2010), Speech at the Internatiol conference in South
Africa; Raja Collure (2011), Contribution at the 13th IMCWP...
1.3. NHỮNG VẤN ĐỀ LUẬN ÁN TẬP TRUNG NGHIÊN CỨU, GIẢI QUYẾT

Qua xem xét, nghiên cứu các công trình liên quan đến các khía cạnh của đề
tài có thể thấy, việc phân tích, đánh giá sâu và toàn diện về hoạt động của các đảng
cộng sản ở Nam Á vẫn là khoảng trống chưa được chú ý và khai thác trong công tác
nghiên cứu về phong trào cộng sản quốc tế tại Việt Nam cũng như trên thế giới.
Điều này được thể hiện qua sự khiêm tốn cả về số lượng lẫn nội dung. Rất ít
tác phẩm đề cập trực tiếp đến chủ đề nghiên cứu; đa số là tác phẩm về tình hình
khu vực Nam Á, phong trào cộng sản quốc tế, tài liệu tuyên truyền của các đảng
và các bài viết/tham luận tại các hội thảo quốc tế.
Việc khái quát bức tranh chung cũng như làm rõ nguyên nhân của thực trạng
về hoạt động của các đảng cộng sản ở Nam Á, từ đó liên hệ đến quan hệ với Đảng
Cộng sản Việt Nam hầu như chưa có tác giả nào đề cập. Nội dung các tác phẩm chỉ
đề cập đơn lẻ, sơ lược, hoặc chỉ nêu một vài khía cạnh của đề tài, chưa khái quát
một cách có hệ thống và toàn diện về hoạt động của các đảng cộng sản khu vực,
chưa cập nhật tình hình các đảng, nhất là trong giai đoạn 10 năm đầu thế kỷ XXI,
chưa phân tích, đánh giá và lý giải về những thành công và hạn chế cũng như
những nhân tố tác động đến hoạt động của các đảng cộng sản khu vực Nam Á.
Cũng có một số tác phẩm nghiên cứu khá hệ thống và toàn diện nhưng chỉ đề cập
đến hoạt động của một số đảng cộng sản có ảnh hưởng và vai trò tương đối tại Ấn
Độ và thời gian nghiên cứu quá lâu.
Vì vậy, đề tài “Hoạt động của một số đảng cộng sản khu vực Nam Á từ năm
1991 đến năm 2011” là hoàn toàn mới ở cả trong và ngoài nước, trong đó tác giả
nghiên cứu trên cơ sở tổng hợp, tiếp cận và kế thừa có chọn lọc các công trình
nghiên cứu khoa học có liên quan đến nội dung của đề tài đã được công bố đồng



20
thời tự tổng hợp, đúc rút từ những tác phẩm gốc như văn kiện, cương lĩnh, nghị
quyết của các đảng cũng như dựa trên kinh nghiệm thực tiễn trong công tác đối
ngoại của Đảng CSVN với các đảng cộng sản Nam Á.
Để triển khai, Luận án sẽ tập trung nghiên cứu và giải quyết một số vấn đề
chính sau:
- Nêu quan niệm về hoạt động của các đảng cộng sản nhằm tạo cơ sở cho
việc phân tích và đánh giá hoạt động của các đảng cộng sản tại Nam Á.
- Phân tích những nhân tố chủ yếu tác động đến hoạt động của các đảng cộng
sản khu vực Nam Á từ năm 1991 đến 2011.
- Phân tích và đánh giá nội dung hoạt động của một số đảng cộng sản Nam Á
trong hai giai đoạn thập niên 90 của thế kỷ XX và thập niên đấu thế kỷ XXI.
- Rút ra một số kinh nghiệm từ hoạt động của các đảng.
- Đánh giá quan hệ giữa Đảng Cộng sản Việt Nam với các đảng cộng sản
khu vực Nam Á từ khi thành lập đến năm 2011, từ đó đề xuất với Đảng CSVN một
số giải pháp nhằm tăng cường quan hệ với các đảng.


21
Chương 2
NHỮNG NHÂN TỐ TÁC ĐỘNG ĐẾN HOẠT ĐỘNG CỦA CÁC ĐẢNG
CỘNG SẢN KHU VỰC NAM Á TỪ NĂM 1991 ĐẾN NĂM 2011
2.1. QUAN NIỆM VỀ HOẠT ĐỘNG CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN

“Hoạt động” hiểu theo nghĩa chung nhất là toàn bộ những hành vi, hành động
của cơ thể sống, bảo đảm cho nó tồn tại và phát triển. Theo quan điểm của chủ nghĩa
duy vật biện chứng, thuộc tính vốn có của thế giới vật chất là vận động, chuyển hóa,
biến đổi không ngừng. Đối với con người và xã hội loài người, hoạt động là thuộc tính

bản chất. Không hoạt động, con người và xã hội không thể tồn tại và phát triển. Sự thay
thế hình thái kinh tế-xã hội này bằng hình thái kinh tế-xã hội khác cao hơn là kết quả
của quá trình hoạt động của con người trong lao động, sáng tạo và đấu tranh. Hoạt
động của con người là nguồn gốc làm biến đổi tự nhiên và xã hội, là nhân tố quyết định
sự hình thành, vận động của các quy luật xã hội. Tuy nhiên, khác với thế giới tự nhiên,
hoạt động của con người là hoạt động có ý thức, “làm những việc khác nhau với mục
đích nhất định” [31, tr.827], nghĩa là trong quá trình hoạt động, con người xác định
mục tiêu, khám phá và tích lũy tri thức về thế giới xung quanh, hoạch định kế hoạch
hành động, có ý chí và niềm tin để theo đuổi mục tiêu đã xác định, luôn tìm tòi, sáng
tạo trong quá trình hoạt động.
Đảng cộng sản là đội tiền phong của giai cấp công nhân, nhân dân lao động
và toàn dân tộc, người lãnh đạo và tổ chức đấu tranh nhằm xóa bỏ chế độ bóc lột, áp
bức của chủ nghĩa tư bản, thiết lập và xây dựng, phát triển chế độ XHCN và CSCN,
nhằm thực hiện sứ mệnh lịch sử toàn thế giới của giai cấp công nhân là giải phóng
giai cấp, giải phóng xã hội, giải phóng con người. Sứ mệnh vĩ đại và cao cả đó của
giai cấp công nhân chỉ có thể được thực hiện thông qua những hành động cách
mạng trên mọi lĩnh vực do đảng cộng sản lãnh đạo. Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng
định “Lực lượng của giai cấp công nhân và nhân dân lao động là rất to lớn, là vô
cùng vô tận. Nhưng lực lượng ấy cần có Đảng lãnh đạo mới chắc chắn thắng lợi”
[19, tr.290]. Không có hành động cách mạng của toàn đảng và lực lượng cách mạng
do đảng lãnh đạo, cách mạng không thể phát triển và thành công. Nhấn mạnh về
tầm quan trọng của hành động cách mạng, C.Mác từng nói “mỗi bước tiến của
phong trào thực sự còn quan trọng hơn một tá cương lĩnh” [16, tr.137-138].


22
Dĩ nhiên, những hành động cách mạng đó phải được dẫn dắt của lý luận cách
mạng đúng đắn, sự kiên định về lập trường chính trị và sự trung thành với lợi ích
của giai cấp công nhân và nhân dân lao động. Tiếp cận hoạt động của đảng cộng sản
như là tổng hòa của các hành vi, hành động của tổ chức đảng và đảng viên trong sự

nghiệp đấu tranh cách mạng nhằm thực hiện mục tiêu, lý tưởng của đảng, có thể
quan niệm như sau:
Hoạt động của đảng cộng sản là tổng hòa các hành vi, hành động cách mạng
của các tổ chức Đảng và đảng viên, tiến hành xây dựng và thực hiện cương lĩnh,
đường lối, chính sách của đảng và các nhiệm vụ cách mạng trên các lĩnh vực của
đời sống xã hội, phấn đấu vì thắng lợi của giai cấp công nhân và sứ mệnh lịch sử,
góp phần vào cuộc đấu tranh của các lực lượng cách mạng, tiến bộ trên thế giới, vì
hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội.
Hoạt động của đảng là hoạt động lãnh đạo, chỉ đạo, vận động và tổ chức thực
hiện các nhiệm vụ của Đảng trên các lĩnh vực đời sống xã hội và các mặt công tác
xây dựng Đảng. Với vai trò là tổ chức chính trị cao nhất của giai cấp công nhân có
chức năng cơ bản là lãnh đạo sự nghiệp cách mạng, đảng lãnh đạo bằng cương lĩnh,
đường lối, chiến lược, các định hướng lớn về chủ trương, chính sách, bằng tuyên
truyền, vận động, giáo dục, thuyết phục quần chúng, tiến hành kiểm tra, giám sát và
bằng sự gương mẫu của đảng viên... Đề cập đến hoạt động của đảng, Chủ tịch Hồ
Chí Minh khẳng định “...trong thì vận động và tổ chức quần chúng, ngoài thì liên
lạc với các dân tộc bị áp bức và vô sản giai cấp mọi nơi” [17, tr.267]. Mỗi đảng viên
trong tất cả hoạt động công tác nào đều phải thể hiện vai trò lãnh đạo, chỉ đạo, vận
động và tổ chức thực hiện. Họ không chỉ có phẩm chất của người lãnh đạo mà phải
có phẩm chất của nhà tổ chức, có năng lực tiến hành các mặt công tác với tính
chuyên nghiệp cao, đồng thời là người dân vận giỏi, được quần chúng tin cậy, noi
theo.
Hoạt động của đảng cộng sản dựa trên cơ sở lý luận là chủ nghĩa Mác-Lênin –
nền tảng tư tưởng và kim chỉ nam cho hành động cách mạng của Đảng, cương lĩnh,
đường lối, quan điểm, chính sách của đảng trong mỗi giai đoạn lịch sử nhất định, cơ sở
thực tiễn hoạt động của Đảng cộng sản là đặc điểm, tình hình kinh tế, chính trị, văn hóa
xã hội của đất nước, bối cảnh quốc tế và khu vực; tình hình Đảng và phong trào cộng
sản, công nhân quốc tế; tính chất, đặc điểm và xu thế thời đại... Trên cơ sở đó, mỗi tổ



23
chức Đảng, mỗi đảng viên trong toàn đảng, bằng tinh thần và trách nhiệm chính trị,
phát huy phẩm chất chính trị, đạo đức, năng lực công tác tiến hành các hoạt động một
cách đầy đủ và sáng tạo, thực hiện thắng lợi các nhiệm vụ cách mạng.
Hoạt động của các đảng cộng sản tập trung chủ yếu vào hoạt động xây dựng
đảng về chính trị, tư tưởng, tổ chức; hoạt động thực hiện các nhiệm vụ cách mạng của
đảng; hoạt động đấu tranh tập hợp lực lượng thông qua tuyên truyền vận động quần
chúng, xây dựng cơ sở chính trị-xã hội của đảng, phối hợp đấu tranh với các lực lượng
chính trị-xã hội khác; và hoạt động đối ngoại, chủ yếu phối hợp trong phong trào cộng
sản quốc tế. Tuy vậy, trong từng giai đoạn nhất định, một số hoạt động có thể được chú
trọng hơn, tùy thuộc vào bối cảnh thế giới, khu vực, đất nước và tình hình mỗi đảng.
Hoạt động của đảng còn được thể hiện thông qua hoạt động của các tổ chức
chính trị-xã hội do đảng tổ chức, lãnh đạo như các tổ chức công đoàn, đoàn thanh
niên cộng sản, hội phụ nữ... Do đó, cùng với phương thức lãnh đạo, đảng chỉ đạo,
hướng dẫn hoạt động của các tổ chức quần chúng, đồng thời có sự phối hợp hành
động giữa các tổ chức đảng với các tổ chức quần chúng do đảng lãnh đạo và với các
lực lượng chính trị-xã hội khác trong mỗi quốc gia và trên thế giới.
Các hoạt động của đảng cộng sản thực hiện theo nguyên tắc lãnh đạo và tổ
chức của đảng, bảo đảm tính tập trung, thống nhất, chặt chẽ và thông suốt trong các
hoạt động, đồng thời phát huy quyền dân chủ, tính tích cực, chủ động, sáng tạo của
các tổ chức, đảng viên và quần chúng của đảng.
Hoạt động lãnh đạo của đảng luôn gắn liền với các hình thức đấu tranh cách
mạng mà mỗi đảng chủ trương tiến hành. Đó là hình thức đấu tranh chính trị hoặc
đấu tranh vũ trang hoặc kết hợp cả hai; đấu tranh hợp pháp hoặc bất hợp pháp hoặc
kết hợp cả hai; đấu tranh trong nghị trường và ngoài nghị trường; tham gia tranh cử
nghị viện, hội đồng dân cử và bộ máy chính quyền ở trung ương hoặc địa phương.
Hoạt động của đảng trong đấu tranh kinh tế có vai trò rất quan trọng để bảo vệ
quyền lợi kinh tế và an sinh xã hội của giai cấp công nhân và nhân dân lao động
chống lại sự bóc lột của giai cấp tư sản và chính sách kinh tế phản động của nhà
nước tư sản. Khi đã trở thành đảng cầm quyền, lãnh đạo xã hội, hoạt động của đảng

trong lĩnh vực kinh tế trở thành nhiệm vụ trung tâm của đảng cộng sản nhằm xây
dựng nền kinh tế phát triển và nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân.


24
Đấu tranh tư tưởng lý luận là hoạt động nhằm bảo vệ nền tảng tư tưởng,
cương lĩnh, đường lối, quan điểm, chính sách của đảng, ngăn chặn và đẩy lùi ảnh
hưởng của hệ tư tưởng tư sản và các tư tưởng sai trái khác trong giai cấp công nhân
và nhân dân lao động, nhất là chủ nghĩa chống cộng, chủ nghĩa cơ hội, xét lại. Hoạt
động trên lĩnh vực đấu tranh tư tưởng lý luận của đảng cộng sản còn truyền bá, giáo
dục chủ nghĩa Mác-Lênin, đường lối, quan điểm của Đảng nhằm nâng cao giác ngộ
chính trị XHCN cho nhân dân, động viên và cổ vũ nhân dân đứng lên đấu tranh
chống lại chế độ áp bức, bóc lột.
Trong những hoàn cảnh lịch sử cụ thể, hoạt động của đảng cộng sản được
tiến hành công khai, được pháp luật thừa nhận và bảo vệ. Tuy nhiên, ở một số nước,
ở một số thời kỳ, đảng cộng sản bị cấm hoạt động; đảng phải hoạt động bí mật với
điều kiện hết sức khó khăn, thậm chí các tổ chức đảng và đảng viên bị truy lùng, bắt
bớ, tù đày, giết hại...
Trong giai đoạn chưa nắm quyền, nội dung hoạt động của các đảng tập trung
vào công tác lý luận, vận động quần chúng đấu tranh nhằm mở rộng ảnh hưởng của
Đảng tiến tới lật đổ chính quyền phong kiến, tư sản để thiết lập chính quyền nhân
dân. Hình thức đấu tranh được các đảng sử dụng là đấu tranh vũ trang, đấu tranh
chính trị, kết hợp cả đấu tranh vũ trang với đấu tranh chính trị và đấu tranh nghị
trường. Từ khi phong trào cách mạng của giai cấp công nhân ra đời cho đến nay,
hầu hết các đảng cộng sản đều sử dụng hình thức bằng bạo lực cách mạng nhằm lật
đổ sự thống trị của giai cấp áp bức và giành chính quyền.
Tuy nhiên, kể từ sau Chiến tranh lạnh, trong bối cảnh hòa bình, hợp tác và
phát triển trở thành xu thế chủ đạo, việc đấu tranh giành chính quyền thông qua bạo
lực cách mạng khó có điều kiện thực hiện. Do vậy hầu hết các đảng cộng sản tại các
nước tư sản hiện nay đều sử dụng con đường nghị viện kết hợp với đấu tranh chính

trị, đấu tranh kinh tế để tiến tới giành chính quyền. Do đó, để giành được chính
quyền, hoạt động của các đảng cộng sản sẽ phải chú trọng hơn vào tập hợp lực
lượng và bầu cử. Mặc dù vậy, đây là nhiệm vụ rất khó khăn bởi các đảng tư sản khi
đã nắm quyền thường sẽ tìm cách chi phối mọi chính sách đối nội, đối ngoại của
nhà nước, lôi kéo đa số nhân dân thông qua các chính sách kinh tế-xã hội, đồng thời
dùng mọi thủ đoạn để ngăn cản các đảng cộng sản. Thực tế, trong vận động bầu cử,


25
chỉ có các đảng lớn, có thế lực, được sự hậu thuẫn của các tập đoàn tư bản lớn và
được luật pháp dành cho những điều kiện thuận lợi có khả năng thắng cử.
Khi nắm chính quyền, một hệ thống chính trị mới được thiết lập, bao gồm:
đảng cộng sản, nhà nước dân chủ kiểu mới, các tổ chức chính trị-xã hội của giai cấp
công nhân và nhân dân lao động, các đảng phái dân chủ đã từng hợp tác với đảng
cộng sản. Trong hệ thống chính trị đó, đảng cộng sản giữ vai trò duy nhất lãnh đạo,
thực hiện quyền thống trị về chính trị của giai cấp công nhân để xây dựng nhà nước
của nhân dân lao động và quá độ đi lên CNXH. Trong điều kiện mới đó, hoạt động
của Đảng cộng sản phải chú trọng vào công tác xây dựng Đảng, nhất là về chính trịtư tưởng vì trong điều kiện nắm quyền, một số cán bộ, Đảng viên dễ rơi vào nguy
cơ chệch hướng và thái hóa biến chất, xa dời quần chúng và triển khai nhiệm vụ
cách mạng trên thực tiễn nhằm cải tạo xã hội cũ, xây dựng xã hội mới XHCN từ cơ
sở hạ tầng đến kiến trúc thượng tầng và từ lực lượng sản xuất đến quan hệ sản xuất.
Như vậy, có thể nói, hoạt động của đảng cộng sản có ý nghĩa quyết định trực
tiếp đến sự phát triển của sự nghiệp cách mạng, làm biến đổi tình hình, cục diện,
tương quan so sánh lực lượng giữa cách mạng và phản cách mạng, tạo ra và thúc
đẩy tình thế, thời cơ cách mạng. Cho nên, thông qua hoạt động của đảng, có thể
thấy được vị thế, vai trò, sức sống và ảnh hưởng của đảng trong xã hội, nhìn thấy
được xu thế, tiền đồ và tương lai của đảng sẽ ra sao và kết quả của sự nghiệp cách
mạng như thế nào. Điều đó đặt ra yêu cầu cho việc xem xét, đánh giá hoạt động của
đảng phải hết sức toàn diện, khách quan, khoa học và đúng đắn, để rút ra những vấn
đề lý luận và thực tiễn cần thiết đối với các đảng cộng sản ở mỗi nước nói chung và

các phong trào cộng sản, công nhân quốc tế nói chung.
2.2. MỘT SỐ NHÂN TỐ TÁC ĐỘNG

2.2.1. Kết quả hoạt động của các đảng cộng sản Nam Á trước năm 1991
2.2.1.1. Ưu điểm
Phong trào cộng sản tại Nam Á được hình thành tương đối sớm, khi không
lâu sau thắng lợi của cuộc Cách mạng tháng Mười Nga năm 1917, Chủ nghĩa MácLênin bắt đầu ảnh hưởng sâu rộng tới các phần tử tiên tiến của giai cấp công nhân
và tầng lớp tiểu tư sản trí thức mới trong phong trào giải phóng dân tộc ở Tiểu lục
địa Nam Á. Từ những năm 1920, được sự giúp đỡ của Quốc tế Cộng sản, các nhóm
cộng sản đầu tiên được thành lập ở 3 khu công nghiệp lớn trong vùng là Calcutta,


26
Bombay và Lahor. Tháng 12/1925, Đảng Cộng sản Ấn Độ chính thức được thành
lập, tiếp đến là Đảng Cộng sản Sri Lanka (năm 1943), các Đảng Cộng sản Đông và
Tây Pakistan (năm 1947), Đảng Cộng sản Pakistan (năm 1948), Đảng Cộng sản
Bangladesh (năm 1948), Đảng Cộng sản Nepal (năm 1949) và sau đó là Đảng Dân
chủ nhân dân Afghanistan (năm 1965). Là đảng ra đời sớm nhất, tại nước lớn nhất
và có truyền thống đấu tranh lâu dài nhất ở khu vực Nam Á, kết hợp với hoàn cảnh
lịch sử, địa lý và xã hội của Nam Á lúc đó, Đảng Cộng sản Ấn Độ (CPI) có mối
quan hệ gắn bó và tầm ảnh hưởng đến hầu hết các đảng cộng sản và cánh tả ở các
nước Nam Á khác.
Một số kết quả tích cực và thế mạnh của các đảng kể từ khi ra đời cho đến
năm 1991 là:
Thứ nhất, truyền thống đấu tranh và tinh thần cách mạng kiên trung. Các đảng
luôn kiên trì và trung thành với lý tưởng của chủ nghĩa Mác-Lênin và mục tiêu CNXH
dù trải qua nhiều giai đoạn thăng trầm và hoạt động trong điều kiện hết sức khó khăn,
do vừa phải tiến hành đấu tranh chống chủ nghĩa đế quốc, phong kiến, tư sản mại bản
lại vừa phải đấu tranh chống những chính sách phản dân chủ, phản nhân dân của các
đảng tư sản cầm quyền và chống lại những hủ tục của hệ thống đẳng cấp, tình trạng

xung đột tôn giáo, ly khai và chủ nghĩa phân biệt cộng đồng…
Trong giai đoạn đầu: Một số đảng chủ trương tiến hành đấu tranh vũ trang
và đã có những đóng góp tích cực vào phong trào đấu tranh chung của nhân dân
chống chế độ phong kiến và chống thực dân Anh giành độc lập dân tộc cho đất
nước mình (như Đảng CPI ở Ấn Độ trong giai đoạn 1925-1947; Đảng CPSL trong
những năm 1940; Đảng CPB trước những năm 1970…).
Trong những năm 1960 đến đầu những năm 1970: Phong trào cộng sản,
cánh tả ở một số nước Nam Á gặp nhiều khó khăn do hoạt động trong bối cảnh tình
hình quốc tế, khu vực và nội bộ phong trào cộng sản quốc tế diễn biến phức tạp.
Bên ngoài, cuộc Chiến tranh lạnh gay gắt giữa hai phe XHCN do Liên Xô đứng đầu
và phe TBCN do Mỹ đứng đầu biến Nam Á trở thành khu vực tranh giành ảnh
hưởng quyết liệt giữa các nước lớn (Mỹ, Liên Xô và Trung Quốc). Trong nước, lực
lượng tư sản cầm quyền ra sức chống phá, khiến nhiều đảng bị đàn áp, bị cấm hoạt
động, phải rút vào hoạt động bí mật hoặc bán công khai. Chưa kể ý thức giác ngộ
chính trị của nông dân còn thấp, nhận thức của đảng viên và quần chúng nhân dân


27
về phong trào cách mạng còn nhiều hạn chế. Trong nội bộ, tư tưởng và nhận thức
của đảng viên cộng sản tại Nam Á bị phân cực bởi mâu thuẫn giữa Liên Xô và
Trung Quốc, nhất là lý luận nền dân chủ dân tộc của Liên Xô với lý luận nền dân
chủ mới của Trung Quốc do Mao Trạch Đông khởi xướng. Các đảng cộng sản Nam
Á bị sa lầy vào cuộc đấu tranh tư tưởng lý luận, bất đồng về chiến lược và sách
lược, bị phân liệt thành các đảng hoặc các nhóm cộng sản “thân Liên Xô” hoặc
“thân Trung Quốc”, bị chia rẽ và mâu thuẫn do một số đảng tiến hành con đường vũ
trang, trong khi số khác ủng hộ con đường bầu cử và đấu tranh nghị trường.
Giai đoạn cuối những năm 1970 đến giữa những năm 1980: Nhiều đảng có
sự điều chỉnh về đường lối, sách lược, từng bước vươn lên khẳng định vị trí của đảng
mình trên chính trường. Qua đấu tranh, các đảng nhận thấy rằng hình thức đấu tranh
vũ trang không còn phù hợp trong bối cảnh quốc tế, khu vực đã thay đổi và với tình

hình cụ thể ở từng nước (giai cấp thống trị còn mạnh lại được sự hỗ trợ của các thế
lực bên ngoài trong khi phong trào chưa đủ mạnh, ý thức giác ngộ của nhân dân còn
thấp…). Từ những năm 1970, hầu hết các đảng chuyển sang tiến hành đấu tranh hoà
bình thông qua con đường nghị trường để giành chính quyền về tay nhân dân lao
động và tiến tới xây dựng chủ nghĩa xã hội ở từng nước.
Giai đoạn từ năm 1989 đến năm 1991 là thời gian khó khăn nhất đối với
phong trào cộng sản tại Nam Á do những tác động bất lợi của tình hình thế giới sau
cuộc khủng hoảng ở Liên Xô và sụp đổ của hệ thống XHCN ở Đông Âu. Hầu hết
các đảng tỏ ra lúng túng về đường lối, tổ chức; nội bộ phân hóa nghiêm trọng, bị
chia rẽ, phân liệt; số lượng đảng viên sụt giảm, thậm chí một số đảng bị tan rã,
chấm dứt hoạt động. Bên ngoài, các đảng đối mặt với sự chống phá ác liệt và hoạt
động khủng bố của các đảng tư sản, lực lượng cực đoan, phân biệt cộng đồng.
Thứ hai, luôn là lực lượng đi tiên phong và đấu tranh mạnh mẽ vì lợi ích của
những người lao động và vì hoà bình, dân sinh, dân chủ trên thế giới. Phong trào
học sinh, sinh viên xuống đường biểu tình chống Mỹ, ủng hộ Việt Nam do các đảng
cộng sản Nam Á lãnh đạo được hình thành từ những năm 1950 đến những năm
1970 đã tạo nên một làn sóng lớn, thu hút đông đảo các tầng lớp nhân dân, chính
đảng tham gia.
Đến những năm 1980, phong trào hòa bình, dân chủ tại khu vực đạt bước
phát triển mới, vượt biên giới quốc gia và khu vực khi các hoạt động vì hòa bình,


28
đoàn kết của các đảng cộng sản, dưới sự ủng hộ và hỗ trợ của Liên Xô và các nước
XHCN, diễn ra sôi động, rầm rộ, góp phần tích cực trong phong trào chung trên thế
giới. Một số lãnh đạo của các đảng cộng sản đã tham gia lãnh đạo các tổ chức hòa
bình, đoàn kết, hữu nghị quốc tế như Hội đồng hòa bình thế giới, Tổ chức đoàn kết
Á-Phi, Liên hiệp công đoàn thế giới, Hội liên hiệp phụ nữ dân chủ thế giới, Liên
hiệp thanh niên sinh viên dân chủ thế giới…
Đặc biệt, tại Ấn Độ, Tổ chức Hòa bình và Hữu nghị toàn Ấn (AIPSO) do

Đảng Cộng sản Ấn Độ lãnh đạo đã tổ chức nhiều hoạt động thiết thực, liên tục tổ
chức các cuộc mít-tinh, kỷ niệm, hội thảo ủng hộ các cuộc đấu tranh giải phóng dân
tộc của nhân dân các nước trên thế giới, chống chiến tranh, chống phân biệt chủng
tộc ở Nam Phi, đòi quyền tự quyết cho người Palestine...
2.2.1.2. Tồn tại, hạn chế
Thứ nhất, hầu hết các đảng chưa thành công trong việc giành chính quyền để
đưa đất nước đi lên CNXH và vị thế trên chính trường còn thấp. Nguyên nhân chính là
các đảng không nắm được ngọn cờ lãnh đạo giải phóng dân tộc, để rơi vào tay các đảng
tư sản. Trừ Đảng Dân chủ Nhân dân Afghanistan (với sự giúp đỡ của Liên Xô) nắm
chính quyền tại Afghanistan từ năm 1978 đến năm 1992, các đảng còn lại chỉ giữ vị
trí là đảng tham chính hoặc đảng đối lập trên chính trường.
Thứ hai, nội bộ phong trào bị chia rẽ do ảnh hưởng bởi những đặc điểm tiêu
cực của khu vực Nam Á như cục bộ địa phương, bất đồng tôn giáo, sắc tộc... và đặc
biệt bị tác động từ mâu thuẫn trong phong trào cộng sản quốc tế những năm 19601970. Mâu thuẫn Xô-Trung gây nhiều thiệt hại cho phong trào cộng sản quốc tế, nhưng
nặng nề nhất là phong trào cộng sản tại Nam Á, vì khu vực Nam Á là nơi Liên Xô và
Trung Quốc đều tranh thủ phát huy ảnh hưởng.
Tại Ấn Độ, những bất đồng đường lối, chính sách đối với đảng Quốc đại cầm
quyền đã ảnh hưởng không nhỏ tới nội bộ phong trào cộng sản Ấn Độ trong thời gian
dài. Đến đầu những năm 1960, sự rạn nứt ngày càng nghiêm trọng khi bị tác động bởi
mâu thuẫn trong phong trào cộng sản, công nhân quốc tế, nhất là giữa Liên Xô và
Trung Quốc. Năm 1964, Đảng CPI bị phân liệt thành hai đảng CPI-M thân Trung Quốc
và CPI thân Liên Xô. Các cuộc bút chiến giữa lãnh đạo hai Đảng liên tục diễn ra trên
báo đảng trong suốt những năm cuối 1970 đã gây tâm lý hoài nghi trong số đông đảng
viên và quần chúng của đảng. Đấu tranh trong nội bộ đảng liên tục diễn ra dẫn đến sự


29
phân liệt của hai đảng vào những năm 1980 (Đảng Cộng sản Toàn Ấn - AICP tách ra
từ CPI, Đảng Cộng sản Ấn Độ Thống nhất - UCPI tách ra từ CPI-M và một số nhóm
cộng sản khác ở các bang…). Hệ quả từ sự phân liệt vẫn để lại đến trước năm 1991 với

việc tồn tại hàng chục nhóm cộng sản tại Ấn Độ, trong đó hai Đảng CPI và CPI-M hoạt
động riêng rẽ.
Tại Bangladesh, Đảng Cộng sản Đông Pakistan chính thức phân liệt thành
hai: một đảng đứng về phía Liên Xô và một đảng đứng về phía Trung Quốc. Phái
ủng hộ Liên Xô là Đảng Cộng sản Bangladesh (trước đây mang tên Đảng Cộng sản
Pakistan) đã thông qua chiến lược cách mạng dân tộc dân chủ, quyết định hợp tác
với chính phủ Liên đoàn Awami trong nhiệm vụ xây dựng đất nước. Phái ủng hộ
Trung Quốc cũng thông qua chiến lược cách mạng dân chủ nhân dân, phản đế và
phản phong và làm cách mạng chống tư sản mại bản dưới sự lãnh đạo của giai cấp
công nhân…. Tuy nhiên, các xu hướng khác nhau tiếp tục phát triển trong phái thân
Trung Quốc dẫn đến việc đảng này tiếp tục bị phân liệt thành nhiều nhóm trong giai
đoạn 1968-1971.
Tại Nepal, bất đồng trong phong trào cộng sản quốc tế những nhăm 1960 đã
khoét sâu thêm chia rẽ trong nội bộ Đảng Cộng sản Nepal (CPN). Từ năm 1962 sau
Đại hội Đảng CPN lần thứ III (tháng 4/1962), quá trình phân liệt trong Đảng CPN
dẫn tới sự hình thành nhiều nhóm cộng sản khác nhau như nhóm Pushpalal thành
lập năm 1968, nhóm Jhapa thành lập năm 1971 đại diện cho phong trào nông dân
cấp tiến hoạt động ở vùng viễn đông của Nepal, nhóm “Đại hội IV”... Đến nay, tuy
quá trình sáp nhập một số nhóm đã diễn ra nhưng tại Nepal vẫn tồn tại hàng chục
nhóm cộng sản khác nhau.
Tại Afghanistan, từ năm 1966, Đảng Dân chủ Nhân dân Afghanistan cũng bị
chia rẽ thành hai nhóm và hoạt động song song, đối đầu nhau, mặc dù cùng chung
cương lĩnh, điều lệ và tên đảng. Sự chia rẽ trong nội bộ phong trào tác động một
phần không nhỏ làm suy yếu Đảng.
Tại Pakistan, bất đồng giữa các đảng cộng sản do tác động tiêu cực từ mâu
thuẫn phong trào cộng sản quốc tế, kết hợp với điều kiện hoạt động khó khăn vì bị
chính quyền quân sự đàn áp khiến các đảng cộng sản ở Pakistan phải rút vào hoạt
động bí mật, mất dần ảnh hưởng và cho tới nay hầu như không xuất hiện trong các
diễn đàn khu vực.



30
Như vậy, từ kết quả hoạt động trong giai đoạn trước năm 1991 có thể thấy rõ
ưu điểm lớn nhất của các đảng cộng sản tại Nam Á là tinh thần trung kiên và truyền
thống, sức đấu tranh bền bỉ, tuy nhiên cơ sở chính trị, ảnh hưởng của các đảng rất
yếu, nội bộ phong trào bất đồng, chia rẽ và chịu tác động bởi những hạn chế mang
tính kinh niên của khu vực Nam Á. Sự tồn tại song song của những ưu điểm và hạn
chế này cho thấy phong trào cộng sản tại khu vực tuy vẫn duy trì nhưng khó có
những bước phát triển đột phá. Đặc điểm này sẽ tiếp tục tác động và quy định quá
trình vận động cũng như hoạt động của các đảng trong giai đoạn 1991-2011.
2.2.2 Bối cảnh thế giới sau Chiến tranh lạnh
2.2.2.1 Cục diện thế giới đa cực ngày càng rõ hơn
Sau Chiến tranh lạnh, thế giới bước vào thời kỳ quá độ hình thành một trật tự
thế giới mới. Qua tương quan so sánh lực lượng, cục diện thế giới hiện nay, nhất là
từ đầu thế kỷ XXI, đang ngày càng định hình rõ theo hướng đa cực [3, tr.183]:
Trong đó, Mỹ vẫn khẳng định vị trí vượt trội nhưng vị thế suy giảm tương đối, phải
chấp nhận vai trò lớn hơn của các nước lớn khác, coi trọng sử dụng biện pháp ngoại
giao và cơ chế đa phương để xử lý các vấn đề toàn cầu [20, tr.56]. Các nước lớn và
trung tâm quyền lực khác, đặc biệt là Trung Quốc đang vươn lên rất nhanh, ngày
càng thu hẹp khoảng cách so với Mỹ cũng như đấu tranh mạnh mẽ để có tiếng nói
lớn hơn trên trường quốc tế.
Thực vậy, sau khi Liên Xô tan rã, Mỹ - với vị trí là siêu cường duy nhất còn
lại và ưu thế vượt trội về khoa học kỹ thuật, kinh tế, chính trị, quân sự và vai trò chủ
đạo trong các thiết chế kinh tế, tài chính, thương mại chủ chốt thế giới – đang thúc
đẩy xây dựng trật tự thế giới đơn cực, trong đó Mỹ giữ vị trí bá chủ thế giới. Tuy
nhiên, Mỹ đang bị suy yếu tương đối, mất dần vai trò là đầu tàu kinh tế thế giới, khả
năng sử dụng sức mạnh quân sự ngày càng hạn chế, nhất là bị sa lầy trong cuộc
chiến tại Afghanistan, Iraq và phải dựa vào sự ủng hộ và hợp tác của các nước lớn
khác cũng như các thể chế đa phương để giải quyết những vấn đề quốc tế lớn.
Các nước lớn và trung tâm quyền lực khác như Trung Quốc, Nga, Nhật Bản,

Liên minh châu Âu (EU) tuy sức mạnh chưa vượt Mỹ nhưng cũng đang tìm cách vươn
lên, mở rộng ảnh hưởng nhằm tiến tới một xây dựng một trật tự thế giới đa cực. Trong
số đó, sự trỗi dậy của Trung Quốc được coi là mối đe dọa tiềm tàng đối với vị trí siêu
cường của Mỹ. Trung Quốc đang tích cực mở rộng ảnh hưởng ở châu Á-Thái Bình


×