Tải bản đầy đủ (.docx) (28 trang)

CÁC GIÁ TRỊ VĂN HÓA ĐẶC TRƯNG CỦA VÙNG TÂY NGUYÊN

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (722.34 KB, 28 trang )

GIỚI
Trong thời đại này nay,nền kinh tế ngày càng phát triển và các quốc gia thế
giới ngày càng xích lại gần nhau thì văn hóa dân tộc ngày càng trở nên trung
tâm của sự chú ý.Văn hóa là một lĩnh vực ngày càng được quan tâm nghiên
cứu ở nhiều trên thế giới và trong đó có văn hoa việt Nam cũng không phải
ngoại lệ.Nền văn hóa xuất hiện trong mọi mặt của cuộc sống với mối liên hệ
hai chiều,mọi lĩnh vực đều mang trong mình tinh hoa văn hóa và văn hóa bao
trùm trong mọi lĩnh vực.Chỉ xét riêng khái niệm" Văn hóa là gì? "Tuy rằng có
những điểm chung ở mỗi khu vực,mỗi dân tộc,mỗi tổ chức lại có định nghĩa
khác.Văn hóa bao giờ cũng là nền tảng quyết định của xã hội,một văn hóa có
sự phát triển mạnh mẽ,sâu sắc,toàn cầu hóa và hội nhập.Văn hóa là cất hồn
của dân tộc,một dân tộc nếu không giữ được bản sắc văn hóa riêng thì dân tộc
sẽ bị lu mờ thậm chí không còn dân tộc nữa.Bài thảo luận của nhóm 10 chúng
tôi sau đây đem đến cho các bạn một cái nhìn khát quát về văn hóa của vùng
Tây Nguyên.Tây Nguyên là vùng văn hóa đa dạng và đặc sắc của Việt
Nam.Đây là xứ sở của những thiên sử thi đậm chất huyền thoại,vùng đất đại
ngàn xanh thẳm,của không gian văn hóa cồng chiêng. Vùng đất khá giàu có về
văn hóa truyền thống của các dân tộc người bản địa,nơi đây đã tạo nên dòng
chảy xuyên suốt từ quá khứ đến hiện tại và tương lai.Sự giàu có ấy được tích
hợp từ những đặc trưng văn hóa riêng của mỗi dân tộc và ngược lại,mỗi dân
tộc lại giữ cho mình nét đặc trưng văn hóa không trộn lẫn.Trong bài thảo luân
của nhóm hôm nay,xin mời các bạn theo dõi và cùng tìm hiểu những nét văn
hóa đặc sắc cuả Tây Nguyên.


o

o

o


o
o
o
o

o

CHƯƠNG I. KHÁI LUẬN
1.1.
Văn hóa là gì?
Văn hóa là sản phẩm của loài người, văn hóa được tạo ra và phát triển
trong quan hệ qua lại giữa con người và xã hội. Song, chính văn hóa lại tham
gia vào việc tạo nên con người, và duy trì sự bền vững và trật tự xã hội. Văn
hóa được truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác thông qua quá trình xã hội
hóa. Văn hóa được tái tạo và phát triển trong quá trình hành động và tương tác
xã hội của con người. Văn hóa là trình độ phát triển của con người và của xã
hội được biểu hiện trong các kiểu và hình thức tổ chức đời sống và hành động
của con người cũng như trong giá trị vật chất và tinh thần mà do con người tạo
ra.
• Khái niện về văn hóa:
Từ văn hóa có rất nhiều nghĩa. Trong tiếng việt,văn hóa được dùng theo nghĩa
thông dụng để chỉ học thức,lối sống. Theo nghĩa chuyên biệt để chỉ trình độ
phát triển của một giai đoạn. Trong khi theo nghĩa rộng,thì văn hóa bao gồm
tất cả,từ những sản phẩm tinh vi,hiện đại,cho đến tín ngưỡng,phong tục,lối
sống...
Theo Đại từ điển tiếng Việt của Trung tâm Ngôn ngữ và Văn hóa Việt Nam Bộ Giáo dục và đào tạo, do Nguyễn Như Ý chủ biên, Nhà xuất bản Văn hóa –
Thông tin, xuất bản năm 1998, thì: "Văn hóa là những giá trị vật chất, tinh
thần do con người sáng tạo ra trong lịch sử".
Trong Từ điển tiếng Việt của Viện Ngôn ngữ học, do Nhà xuất bản Đà Nẵng
và Trung tâm Từ điển học xuất bản năm 2004 thì đưa ra một loạt quan niệm

về văn hóa:
Văn hóa là tổng thể nói chung những giá trị vật chất và tinh thần do con người
sáng tạo ra trong quá trình lịch sử. -văn hóa là một hệ thống hữu cơ các giá trị
vật chất và tinh thần do con người sng1 tạo và tích lũy qua quá trình hoạt động
thực tiễn,trong sự tương tác giữa con người với môi trường tự nhiên xã hội.
Văn hóa là những hoạt động của con người nhằm thỏa mãn nhu cầu đời sống
tinh thần (nói tổng quát);
Văn hóa là tri thức, kiến thức khoa học (nói khái quát);
Văn hóa là trình độ cao trong sinh hoạt xã hội, biểu hiện của văn minh.
Văn hóa còn là cụm từ để chỉ một nền văn hóa của một thời kỳ lịch sử cổ xưa,
được xác định trên cơ sở một tổng thể những di vật có những đặc điểm giống
nhau, ví dụ Văn hóa Hòa Bình, Văn hóa Đông Sơn.
Theo tổ chức giáo dục và khoa học của Liên Hiệp Quốc UNESCO: Văn hóa
bao gồm tất cả những gì làm cho dân tộc này khác với dân tộc kia.


E Như vậy, có thể thấy rằng: Văn hóa là tất cả những giá trị vật thể do con người

sáng tạo ra trên nền của thế giới tự nhiên.
1.2.
Đặc trưng văn hóa
Đặc trưng văn hóa là những nét văn hóa đặc thù của một vùng văn hóa, là cái
để phân biệt giữa vùng văn hóa này và vùng văn hóa khác. Đặc trưng văn hóa
thể hiện nét riêng biệt trong lối sống, cách ăn, mặc, ở và phần nào phản ánh
trình độ phát triển của vùng văn hóa đó. Đặc trưng văn hóa là cái không thể
trộn lẫn.


CHƯƠNG II. CÁC GIÁ TRỊ VĂN HÓA ĐẶC TRƯNG CỦA VÙNG TÂY
NGUYÊN

2.1. Giới thiệu sơ lược về Tây Nguyên
Tây Nguyên Việt Nam là vùng cao nguyên gồm 5 tỉnh,được sắp xếp theo thứ
tự từ bắc xuống nam: Kon Tum, Gia Lai, Đắk Lắk, Đắk Nông, và Lâm Đồng.
2.1.1
Vị trí địa lí, đặc điểm tự nhiên
Tây Nguyên là vùng cao nguyên, giáp Hạ Lào và đông bắc Campuchia.
Thực chất, Tây Nguyên không phải là một cao nguyên duy nhất mà là một
loạt cao nguyên liền kề. Đó là các cao nguyên Kon Tum cao khoảng 500m,
cao nguyên Kon Plông, cao nguyên Kon Hà Nừng, Plâyku cao khoảng 500m,
Đắk Lắk cao khoảng 800m, Mơ Nông cao khoảng 800-1000m, Lâm Viên cao
khoảng 1500m và Di Linh cao khoảng 900-1000m. Tất cả các cao nguyên này
đều được bao bọc vè phía Đông bởi những dãy núi và khối núi cao (chính là
Trường Sơn Nam).
Tây Nguyên có thể chia thành ba tiểu vùng địa hình đồng thời là ba tiểu vùng
khí hậu, gồm Bắc Tây Nguyên (Kon Tum, Gia Lai), Trung Tây Nguyên (Đắk
Lắk, Đắk Nông), Nam Tây Nguyên (Lâm Đồng). Trung Tây Nguyên có độ
cao thấp hơn và nền nhiệt độ cao hơn hai tiểu vùng phía Bắc và Nam.
Với đặc điểm đất đỏ bazan ở độ cao khoảng 500 m đến 600 m so với mặt
biển, Tây Nguyên rất phù hợp với những cây công nghiệp như cà phê, ca cao,
hồ tiêu, dâu tằm. Cây điều và cây cao su cũng đang được phát triển. Cà phê là
cây công nghiệp quan trọng số một ở Tây Nguyên. Tây Nguyên cũng là vùng
trồng cao su lớn thứ hai sau Đông Nam Bộ.
Tây Nguyên là khu vực ở Việt Nam có nhiều diện tích rừng với thảm sinh vật
đa dạng, trữ lượng khoáng sản phong phú hầu như chưa khai thác vàtiềm năng
du lịch lớn.
2.1.2
Khí hậu
Khí hậu được chia làm hai mùa: mùa mưa từ tháng 5 đến hết tháng 10 và mùa
khô từ tháng 11 đến tháng 4, trong đó tháng 3 và tháng 4 là hai tháng nóng và
khô nhất. Do ảnh hưởng của độ cao nên trong khi ở các cao nguyên cao 400500 m khí hậu tương dối mát và mưa nhiều, riêng cao nguyên cao trên 1000 m

(như Đà Lạt) thì khí hậu lại mát mẻ quanh năm như vùng ôn đới.
2.1.3
Dân cư, văn hóa
Nhiều dân tộc thiểu số chung sống với dân tộc Việt (Kinh) ở Tây Nguyên như
Ba Na, Gia Rai, Ê đê, Cơ Ho, Mạ, Xơ Đăng, Mơ Nông...
Vùng đất Tây Nguyên từ xưa vốn là vùng đất tự trị, địa bàn sinh sống của các
bộ tộc thiểu số, chưa phát triển thành một quốc gia hoàn chỉnh. Do đất rộng,
người thưa, các bộ tộc thiểu số ở đây thỉnh thoảng trở thành nạn nhân trước
các cuộc tấn công của vương quốc Champa nhằm cướp bóc nô lệ. Sau khi


Nguyễn Hoàng xây dựng vùng cát cứ phía Nam, các chúa Nguyễn ra sức loại
trừ các ảnh hưởng còn lại của vương quốc Champa và cũng phái một số sứ
đoàn để thiết lập quyền lực ở khu vực Tây Nguyên. Các bộ tộc thiểu số ở đây
dễ dàng chuyển sang chịu sự bảo hộ của người Việt, vốn không có thói quen
buôn bán nô lệ. Tuy nhiên, các bộ tộc ở đây vẫn còn manh mún và mục tiêu
của các chúa Nguyễn nhắm trước đến các vùng đồng bằng, nên chỉ thiết lập
quyền lực rất lỏng lẻo ở đây. Trong một số tài liệu vào thế kỷ 16, 17 đã có
những ghi nhận về các bộ tộc Mọi Ðá Vách (Hré), Mọi Hời (Hroi, Kor, Bru,
Ktu và Pacoh), Mọi Ðá Hàm (Djarai), Mọi Bồ Nông (Mnong) và Bồ Van
(Rhadé Epan), Mọi Vị (Raglai) và Mọi Bà Rịa (Mạ) để chỉ các bộ tộc.
Hiện tại, địa bàn Tây Nguyên có 5 tỉnh là Kon Tum, Gia Lai, Đắk Lắk, Đắk
Nông, Lâm Đồng.
2.2 Văn hóa vùng Tây Nguyên
Các dân tộc thiểu số Tây Nguyên có một nền văn hóa bản địa phong phú và đa
dạng, với văn hóa chữ viết, trang phục, âm nhạc dân gian, văn hóa ẩm thực
độc đáo. Tây Nguyên có nhiều di sản văn hóa vật thể, phi vật thể hết sức quý
giá, như: đàn đá, cồng chiêng cùng các loại hình sinh hoạt văn hóa dân gian,
sinh hoạt cộng đồng phong phú và kho tàng văn học dân gian đặc sắc. Hiện
nay, Tây Nguyên là nơi còn lưu giữ được nhiều di sản văn hóa vật thể và phi

vật thể, vừa có giá trị lịch sử, vừa có giá trị thẩm mỹ độc đáo như: nhà rông,
nhà dài, đàn đá, tượng nhà mồ, các lễ hội và kho tàng văn học dân gian với
những bản trường ca, truyện cổ, truyện ngụ ngôn, lời nói vần, những làn điệu
dân ca đậm đà bản sắc lưu truyền qua nhiều thế hệ. Một trong những di sản
nổi tiếng là không gian văn hóa cồng chiêng Tây Nguyên đã được UNESCO
công nhận là di sản văn hóa phi vật thể đại diện của nhân loại. Cồng chiêng
được sử dụng trong nhiều nghi lễ, tín ngưỡng quan trọng, được xem là ngôn
ngữ giao tiếp hàng đầu của con người với thần thánh và thế giới siêu nhiên.
Cồng chiêng Tây Nguyên không chỉ có sức hấp dẫn đặc biệt ở sự đa dạng, độc
đáo của kỹ thuật diễn tấu mà còn biểu tượng cho cuộc sống của cộng đồng các
dân tộc bản địa, bắt nguồn từ sự tổng hòa các giá trị văn hóa đa dạng, như: giá
trị biểu thị đặc trưng và bản sắc văn hóa vùng; giá trị biểu thị đặc trưng văn
hóa tộc người hoặc nhóm tộc người; giá trị phản ánh đa chiều; giá trị nghệ
thuật; giá trị sử dụng đa dạng; giá trị vật chất; giá trị biểu thị sự giàu sang và
quyền uy; giá thị tinh thần; giá trị cố kết cộng đồng và giá trị lịch sử. Văn hóa
Tây Nguyên rất phong phú, đa dạng, gắn kết chặt chẽ với bản, làng và đặc
trưng luật tục, lễ hội đặc sắc trong không gian rừng đại ngàn mênh mông. Các
lễ hội truyền thống ở Tây Nguyên biểu thị những quan niệm về con người, trở
thành những hội vui với sự tham gia của toàn thể cộng đồng, thậm chí cả các
dòng tộc khác hoặc các buôn lân cận, như lễ cúng bến nước, lễ ăn cơm mới, lễ


cưới cho người trẻ, lễ mừng thọ người già, lễ bỏ mả… Mỗi hội lễ là một tổng
thể nguyên hợp, tiêu biểu cho đời sống văn hóa cổ truyền các dân tộc thiểu số
Tây Nguyên.
2.3. Các đặc trưng văn hóa vùng Tây Nguyên
2.3.1
Không gian văn hóa cồng chiêng Tây Nguyên

-Ngày 25/11/2005, Tổ chức Khoa học, Giáo dục và Văn hóa Liên hiệp

quốc UNESCO đã chính thức ghi danh Không gian văn hóa Cồng chiêng Tây
Nguyên vào danh sách kiệt tác văn hóa phi vật thể và truyền khẩu của nhân
loại.. Sau Nhã nhạc cung đình Huế, đây là di sản thứ hai của Việt Nam được
nhận danh hiệu này.
- Không gian văn hóa
cồng chiêng Tây Nguyên trải
rộng suốt 5 tỉnh Kon Tum,
Gia Lai, Đăk Lăk, Đăk
Nông, Lâm Đồng và chủ
nhân của loại hình văn hóa
đặc sắc này là cư dân các
dân tộc Tây Nguyên: Bana,
Xêđăng, Mnông, Cơho,
Rơmăm, Êđê, Giarai... Cồng
chiêng gắn bó mật thiết với cuộc sống của người Tây Nguyên, là tiếng nói của
tâm linh, tâm hồn con người, để diễn tả niềm vui, nỗi buồn trong cuộc sống,
trong lao động và sinh hoạt hàng ngày của họ.
Không gian văn hóa Cồng Chiêng Tây Nguyên bao gồm các yếu tố bộ
phận sau: cồng chiêng, các bản nhạc tấu bằng cồng chiêng, những người chơi
cồng chiêng, các lễ hội có sử dụng cồng chiêng, những địa điểm tổ chức các lễ


hội đó (nhà dài, nhà rông, nhà gươl, rẫy, bến nước, nhà mồ, các khu rừng cạnh
các buôn làng Tây Nguyên,...), v.v.
Cồng chiêng là loại nhạc khí bằng hợp kim đồng, có khi pha vàng, bạc hoặc
đồng đen. Cồng là loại có núm, chiêng không núm. Nhạc cụ này có nhiều cỡ,
đường kính từ 20cm đến 60cm, loại cực đại từ 90cm đến 120cm. Cồng chiêng
có thể được dùng đơn lẻ hoặc dùng theo dàn,
bộ từ 2 đến 12 hoặc 13 chiếc, thậm chí có nơi
từ 18 đến 20 chiếc.


Mỗi dân tộc trên mảnh đất Tây Nguyên lại có những bản nhạc cồng
chiêng riêng để diễn tả vẻ đẹp thiên nhiên, khát vọng của con người... Người
Giarai có các bài chiêng Juan, Trum vang... Người Bana có các bài chiêng: Xa
Trăng, Sakapo, Atâu, Tơrơi... Âm thanh của cồng chiêng còn là chất men lôi
cuốn gái trai vào những điệu múa hào hứng của cả cộng đồng trong những
ngày hội của buôn làng.
Đây là sinh hoạt văn hóa
dân gian nổi bật nhất ở
nhiều dân tộc Tây
Nguyên.
Trải qua bao năm
tháng, cồng chiêng đã trở
thành nét văn hoá đặc
trưng, đầy sức quyến rũ.
Cồng chiêng chính là cuộc sống của người Tây Nguyên. Nghe cồng chiêng thì


thấy được cả không gian săn bắn, không gian làm rẫy, không gian lễ hội... Tây
Nguyên.
+ Lễ hội Cồng chiêng được tổ chức hàng năm là một hoạt động vừa có ý
nghĩa bảo tồn bản sắc văn hóa vừa là một sản phẩm du lịch ăn khách.
Lễ hội cồng chiêng: được tổ chức luân phiên hàng năm (chưa theo định
kỳ) tại 5 tỉnh Kon Tum, Gia Lai, Đắk Lắk, Đắk Nông, Lâm Đồng.Trong lễ
hội, nghệ nhân của các tỉnh sẽ trình bày, biểu diễn không gian văn hoá của dân
tộc và của tỉnh mình.
Có thể khẳng
định, văn hóa và âm
nhạc cồng chiêng
thể hiện tài năng

sáng tạo văn hóa nghệ thuật ở đỉnh
cao của các dân tộc
Tây Nguyên. Và vì
thế, nó xứng đáng
được
UNESCO
vinh danh là kiệt tác
văn hóa phi vật thể
và truyền khẩu của
nhân loại.
2.3.2

Trường ca sử thi Tây Nguyên.

Tây Nguyên được thế giới biết đến qua không gian văn hóa cồng chiêng đã
được UNESCO công nhận là tài sản tinh thần quý báu của nhân loại thì kho
tàng sử thi cũng là một tài sản văn hóa vô giá của đồng bào các dân tộc Tây
Nguyên. Trường ca,sử thi Tây Nguyên là sản phẩm đích thực của nền văn
minh nương rẫy, đó là những câu chuyện kể dài, có vần, có điệu, thậm chí có
vùng còn được diễn tả hoặc minh họa bằng động tác, hành động..


Hình Thức: Sử thi tồn tại dưới dạng truyền miệng và văn bản, nhưng phần
lớn đều có nguồn gốc dân gian, có tác phẩm chỉ kể trong 1-2 đêm, nhưng cũng
có tác phẩm phải kể kéo dài tới 4 - 5 ngày, đêm tùy theo trí tưởng tượng, trạng







thái thăng hoa của người kể. Sử thi được truyền tải đến người nghe thông qua
hình thức hát, kể, diễn xướng của nghệ nhân. Nghệ nhân kể, hát sử thi được
coi là "báu vật sống" của dân tộc, họ là nghệ sỹ tổng hợp, là người sáng tạo
tác phẩm, đạo diễn các tình huống, họ cũng là diễn viên tài năng, có thể diễn
giọng nữ, giọng nam, giọng con quỷ, giọng thần tiên... đồng thời là người bình
luận tính cách hay diễn biến câu chuyện....
Nội dung: Các trường ca, sử thi thường xoay quanh chiến công của những
người anh hùng có công bảo vệ và giữ gìn sự yên vui của buôn làng, chống lại
thế lực đen tối, chống lại sự khắt khe, vô lý trong luật tục lạc hậu của cộng
đồng.
Một số trường ca sử thi quen thuộc và phổ biến :
+ Khan Dam San của người Êđê tỉnh DakLak;
+ Khan Dăm Di của người Êđê ở ĐakLak (các ông Y Yung, Y Đưp, Ngọc
Anh sưu tầm);
+ H’amon Anh em Chi Blơng của người Bana Chăm tỉnh Phú Yên (Ka Sô
Liễng sưu tầm),
+ H’amon Dăm Hdang bắt cóc nàng Bia Luy của người Bana Rngao tỉnh Kon
Tum (Ngọc Quang, Kim Hưng sưu tầm);
+ Ot n’trong Mùa rẫy bon Tiăng của người Mnông ở Đăk Lăk (Điểu Kâu,
Tấn Vịnh sưu tầm);
+ Ot n’trong Cây nêu thần của người Mnông ở Dak Lak (Điểu Kâu, Tấn Vịnh
sưu tầm);
+ Nàng H’bia Đơrang của người Jrai ở Gia Lai (Thu Hà, Trịnh Kim Sung,
Rmah Deh sưu tầm);
+ Hri Xinh Nhã của người Jrai ở Gia Lai (Yiêng, Yông, Ksor Blêu sưu tầm)
∗ Hình tượng nhân vật trong trường ca sử thi Tây Nguyên
Họ là các tù trưởng hùng mạnh, có lòng can đảm, sẵn sàng xả thân chăm lo
đến sự sống còn của cộng đồng như Dam San, Dam Di, M’trong Dăm… Bao
giờ bên cạnh họ cũng có những người con gái vừa đẹp vừa thủy chung, vừa

giỏi giang, đã góp phần vào những chiến thắng của người anh hùng như
H’Nhi, H’Bhi, H’Bia Jâo… trong hệ thống trường ca Êđê.
Hy vọng trong một tương lai không xa, sử thi Tây Nguyên sẽ được UNESCO
công nhận là kiệt tác truyền khẩu và di sản văn hóa phi vật thể của nhân loại
như di sản văn hóa cồng chiêng vậy.

2.3.3

Các lễ hội truyền thống


Lễ hội là hình thức sinh hoạt văn hóa dân gian của cộng đồng diễn ra trong
không gian và thời gian xác định nhằm cảm tạ, cầu xin và tôn kính các vị thần,
tưởng nhớ một sự kiện, một nhân vật lịch sử hay huyền thoại, thể hiện phương
cách ứng xử của con người với thiên nhiên, xã hội.
Những lễ hội của các tộc người Tây Nguyên được hình thành từ tín ngưỡng
sùng bái tự nhiên, con người mà từ đó nảy sinh và tích hợp nên các hiện tượng
văn hóa dân gian. Tuy nhiên, cũng như các hiện tượng văn hóa tinh thần khác,
lễ hội ở đây chịu sự tác động trực tiếp của những yếu tố về địa lý, kinh tế, lịch
sử, xã hội và phương thức canh tác nương rẫy. Do vậy, nó vừa có nét tương
đồng với các tộc người ở nước ta, nhưng cũng có những sắc thái văn hóa
mang đậm dấu ấn của núi rừng Tây Nguyên. Dưới đây là một trong những lễ
hội tiêu biểu và mang đậm nét văn hóa Tây Nguyên.
a)

Lễ hội đua voi

Lễ hội đua voi được tổ chức tại một khu đất trống, khá bằng phẳng, ít cây của
vườn Quốc gia Yok Đôn hoặc một cánh rừng thưa ven sông Sê-rê-pốc.Voi dàn
hàng ngang khoảng 10 con hoặc nhiều hơn.Trong sự reo hò, cổ vũ của khán

giả, đàn voi đua như hăng hái hơn.Chúng đưa vòi lên cao rồi hạ xuống chào
mọi người.
Sau một hồi tù và vang lên báo lệnh xuất phát, đàn voi bật dậy chạy thẳng về
phía trước. Đường đua thường khoảng 400-500 mét, đua đường dài khoảng 12km. Hai anh nài voi, tiếng địa phương gọi là mơ-gát, ngồi trước và sau điều
khiển voi chạy đúng đường và giữ sức bền, tăng tốc…
Những chú voi đoạt giải được gắn hoa, mang đai đỏ cho người và voi. Voi
thắng cuộc và các chàng mơgát được thưởng 1 con lợn và 7 ché rượu quý.
Dân làng dự hội tặng cho chú voi thắng cuộc những cây mía hay ống đường.
Sau cuộc đua, dân làng kéo nhau về nhà rông để ăn uống, nhảy múa trong
nhịp cồng chiêng cho tới sáng.
Hội đua voi là lễ hội đặc trưng, thể hiện tinh thần thượng võ của đồng bào Tây
Nguyên. Khung cảnh hùng vĩ của núi rừng Tây Nguyên càng tăng chất hùng
tráng của ngày hội cổ truyền này.


b)

Lễ hội đâm trâu

Lễ hội đâm trâu là một nét văn hóa của người dân tộc thiểu số Tây Nguyên thể
hiện rõ nét tinh thần dân tộc và đoàn kết của mọi thành viên trong cộng đồng.
Lễ đâm trâu, có nơi còn gọi là lễ ăn trâu. Đây là lễ hiến sinh, là sự "thông
quan" giữa con người với giàng và thần linh, là lời cảm ơn giàng (trời), cảm
ơn thần linh đã cho mưa thuận gió hoà, đã giúp cho dân làng ngăn cản muông
thú, chim chóc không phá hoại rẫy nương, cho mùa màng tươi tốt, dân làng
sống hoà thuận, vui vẻ, không xảy ra dịch bệnh...
Đây cũng là lễ thể hiện sức mạnh, tinh thần thượng võ của cộng đồng, và vì
thế những người được chọn ra đâm trâu phải là trai tráng, khoẻ mạnh, biết
cách đâm làm sao để sau vài ba nhát giáo con trâu đã có thể ngã gục... Nơi tổ
chức thường là trước nhà rông, nhà cộng đồng, hoặc dưới một tán cổ thụ,

trong ánh lửa hồng hừng hực, trong lời cúng vừa vang vọng, vừa u trầm, trong
vẻ mặt nhuộm hồng ánh lửa đầy trang trọng của dân làng...
Sau lễ hội đâm trâu mọi nỗi buồn, hiềm khích, đố kỵ trong làng được thần
linh mang đi, niềm vui và hạnh phúc được nâng lên gấp bội, ai nấy hăng hái
trở lại chuỗi ngày lên nương xuống rẫy dưới mưa dầm nắng gắt, đêm sương
muối xót thịt xương, con người bán mặt cho đất bán lưng cho trời nơi đại
ngàn lắm dã thú, nhiều sỏi đá đã khô cằn hơn màu mỡ, hi vọng tết mùa sau
với nhiều lễ cúng, nhiều tiếng hát, nhiều tiếng cồng chiêng vang lên quyến rũ
con người vào cuộc vui say bất tận.
c)
Lễ hội bỏ mả - đỉnh điểm của mùa lễ hội trên Tây Nguyên
Sau khi đã làm xong tất cả mọi nghi lễ và hội lễ tạ ơn các thần, người Tây
Nguyên mới bắt tay vào làm lễ bỏ mả hay bỏ ma cho những người đã khuất.
Mặc dầu được tổ chức sau cùng, nhưng lễ bỏ mả ở nhiều dân tộc Tây Nguyên
(như Bana, Giarai, Êđê, M'nông, Rắc Lây…) lại là một hội lễ có quy mô lớn
nhất, dài ngày nhất và cũng có nhiều đặc trưng văn hóa nhất so với tất cả
những hội lễ khác đã được tổ chức trước đó.Để có được lễ bỏ mả, gia đình,
làng xóm phải chuẩn bị trước ba, bốn tuần (đối với những lễ bỏ mả của từng
gia đình) thậm chí hai, ba tháng (đối với lễ bỏ mả của cả một nhóm gia đình
hay của những gia đình giàu có). Để có lễ bỏ mả, phải chuẩn bị rượu thịt, thức
ăn, phải chuẩn bị gỗ, tre… làm nhà mồ, phải chuẩn bị những bộ cồng chiêng,
làm những đồ vật giống như thật để chia cho người chết, phải làm các con rối,
mặt nạ, phải mời họ hàng gần xa từ các nơi đến dự; phải báo cho các làng
xung quanh được biết…Khác với các các lễ hội khác chỉ mang tính gia đình
hay bó hẹp trong khuôn khổ của làng, lễ bỏ mả là hội lễ của liên làng. Đến lễ


bỏ mả, không chỉ có dân của làng làm lễ mà người của các buôn gần, làng xa
cũng tới dự và góp vui
Theo phong tục các dân tộc ở Tây Nguyên, khi người thân quá cố thì được đặt

trong áo quan làm bằng một khúc cây to có đục lỗ, phía trên được bịt kín bằng
ván và trét nhựa cây rừng.
Lễ hội bỏ mả là phá bỏ nhà mồ tạm, san phẳng ngôi mộ, rồi xây dựng trên đó
một ngôi nhà mồ to hơn, vững chãi, lâu bền hơn.Đây là nhà mồ thực sự của
người quá cố.
Ba hoặc bốn ngày (trước kia là bảy đến mười ngày) của lễ bỏ mả thực sự là
một hội lễ văn hóa - nghệ thuật và xã hội lớn nhất ở Tây Nguyên. Lễ bỏ mả là
nghệ thuật kiến trúc và điêu khắc.Lễ bỏ mả là nghệ thuật trình diễn nhạc, múa
rối và mặt nạ. Lễ bỏ mả là văn hóa ăn và là hội lễ phô diễn y trang phục dân
tộc… Có thể nói, không một lễ hội nào ở Tây Nguyên lại mang tính tổng hợp
văn hóa nghệ thuật một cách nhuần nhuyễn và sinh động như lễ bỏ mả.Lễ bỏ
mả quả là đỉnh điểm của mùa lễ hội của Tây Nguyên. Không phải ngẫu nhiên
mà người Giarai có câu: "Bơlan ning nông thông atâu" (tháng nghỉ đi chơi lễ
bỏ ma); còn người Bana thì nói: "Khêi ning nơng pơm bơxát" (tháng nghỉ làm
nhà mả).
d) Giá trị văn hóa các lễ hội dân gian
• Giá trị cố kết cộng đồng
Lễ hội bao giờ cũng được nảy sinh và gắn kết với một cộng đồng, tộc
người nhất định. Đó là cộng đồng của làng xã trong các lễ hội làng của người
Việt, cộng đồng của những người theo Kitô giáo, Hồi giáo, Phật giáo…
Đối với các tộc người Tây Nguyên, lễ hội dân gian là thời điểm để biểu
dương sức mạnh, sự cố kết tình cảm cộng đồng. Trong đời sống thường nhật
và đặc biệt trong những sinh hoạt văn hóa dân gian, người dân còn gắn kết với
nhau bởi nhu cầu sáng tạo và hưởng thụ các giá trị văn hóa như âm nhạc cồng
chiêng, kể khan, múa… Lễ hội dân gian các tộc người Tây Nguyên cốt lõi là
văn hóa dân gian mang tính diễn xướng và tính cộng đồng cao, diễn ra theo
mùa vụ sản xuất nương rẫy, hoặc theo vòng đời của con người.
• Giá trị hướng về cội nguồn
Các tộc người Tây Nguyên hướng về nguồn cội của cộng đồng mình
thông qua sinh hoạt tín ngưỡng, văn hóa nghệ thuật trong các lễ hội. Mà đặc

sắc trong các lễ hội ở Tây Nguyên phải kể đến lễ pơ thi: “Các dân tộc Trường
Sơn - Tây Nguyên có những nét tương đồng và khá đặc trưng về quan niệm và
ứng xử giữa thế giới người sống và người chết, từ đó tạo nên cả một hệ thống


những tập tục, nghi lễ, sinh hoạt văn hóa xung quanh thế giới người chết, tạo
nên một hiện tượng văn hóa dân gian mang tính tống thể - sinh hoạt văn hóa
nhà mồ”. Lễ hội là thời điểm cho các tộc người tưởng nhớ và hướng về nguồn
cội của mình.Không ở đâu có lễ hội mang tính chất nhân văn như lễ hội pơ thi
của người Tây Nguyên. Chia tay người chết bằng một lễ hội, bằng những
phẩm vật cả về vật chất và tinh thần, thể hiện lòng thành kính đối với người đã
khuất.
• Giá trị tâm linh
Lễ hội đâm trâu là một điển hình cho giá trị này.Theo quan niệm của
người Tây Nguyên, con trâu là vật hiến tế thần giàng hòng đem lại một mùa
màng bội thu, cuộc sống ấm no, hạnh phúc hơn.
Đặc biệt trong đời sống tâm linh của các tộc người Tây Nguyên, lễ hội pơ
thi được hình thành từ quan niệm con người sau khi chết đi, sau quá trình luân
hồi, cuối cùng tái sinh trở lại đối với con cháu của mình. Trong thời gian chưa
làm lễ bỏ mả, họ cho rằng hồn của những người chết vẫn còn quanh người
sống, chưa về với tổ tiên, nên người sống thường ngày vẫn mang đồ ăn thức
uống, chăm sóc, trò chuyện cho đến khi làm lễ bỏ mả. Như vậy, giá trị tâm
linh là cội nguồn cho sự hình thành những tín ngưỡng và lễ hội dân gian của
các tộc người Tây Nguyên.
• Giá trị sáng tạo và hưởng thụ văn hóa
Lễ hội dân gian là nguồn cảm hứng và sáng tạo những giá trị văn hóa của
các tộc người. Thời gian diễn ra các lễ hội là dịp đề cộng đồng cùng sáng tạo
và hưởng thụ văn hóa. Họ là những người tổ chức, sáng tạo, tái hiện các sinh
hoạt văn hóa vốn có của cộng đồng. Ví như trong lễ hội pơ thi.Để chuẩn bị
cho lễ bỏ ma, các tộc người Tây Nguyên thường làm lại nhà mồ.Nhà mồ được

các nghệ nhân dân gian trong buôn tạo dựng, trang trí cầu kỳ, tinh tế. Tiêu
biểu nhất trong văn hóa nhà mồ là hệ thống tượng gỗ đa dạng, độc đáo như
rồng, rắn, cá sấu, nam nữ khỏa thân, người ngồi xổm,… Tuy nhiên, nhà mồ
tộc người Ba na còn tạc tượng hình mặt trời, người Gia rai thì tạc tượng hình
mặt trăng. Việc phục dựng và trang trí nhà mồ đã phản ánh ước mong về cuộc
sống sung túc, phồn thực ở thế giới tổ tiên cũng như đời sống hiện tại
Lễ hội dân gian tổ chức cũng là thời điểm cho những sinh hoạt văn hóa
nghệ thuật được trình diễn và sáng tạo. Đó là âm thanh của dàn cồng chiêng
diễn xướng mang tính tập thể, đã thể hiện tài năng và sức sáng tạo, những điệu
múa dân gian mang tính khỏe khoắn, hồn nhiên, đơn giản đã tạo nên sự gắn
kết các cá nhân lại với nhau.
• Giá trị bảo tồn văn hóa và phát triển văn hóa du lịch Tây Nguyên


Trong không gian và thời gian của lễ hội, những giá trị văn hóa của cộng
đồng được nuôi dưỡng, tái tạo, hồi sao và trao truyền cho các thế hệ.Nó được
gìn giữ và phát huy trong đời sống của người dân.Vì vậy, người dân rất có ý
thức trong việc giữ gìn bản sắc văn hóa cộng đồng, nhiều lễ hội vẫn giữ được
nguyên giá trị truyền thống như: bỏ ma, đua voi…
2.3.4
Trang phục
2.3.5
Nhà ở
Văn hóa Tây Nguyên mang bản sắc độc đáo. Núi rừng hùng vĩ được phản ánh
qua nhiều thể loại nghệ thuật, trong đó có kiến trúc. Hơn 100 năm qua, những
kiến trúc nổi tiếng ở Tây Nguyên là khát vọng đưa sự hùng vĩ của núi rừng
vào tác phẩm. Những nhà dài, nhà Rông của các dân tôc Tây Nguyên cũng
phảng phất ngọn núi, thiên nhiên kỳ ảo, trở thành những tác phẩm văn hóanghệ thuật đặc sắc..
Nhà Rông
Nhà Rông của đồng bào các dân tộc thiểu số Tây Nguyên là cả một tác phẩm

nghệ thuật lớn bao gồm: điêu khắc, hội họa, trang trí,… đặc biệt là sự thể hiện
không gian thiêng liêng, sức mạnh cộng đồng và niềm kiêu hãnh dân tộc, là
linh hồn của làng bản. Nhìn vào nhà Rông, có thể đánh giá được khả năng hội
họa và điêu khắc cùng với sự giàu nghèo của buôn làng đó.
- Nhà Rông - biểu tượng văn hóa cộng đồng của dân tộc Tây nguyên
Tương tự như ngôi đình làng Việt, Nhà Rông là nơi diễn ra toàn bộ sinh hoạt
cộng đồng của dân tộc thiểu số Tây Nguyên, là trụ sở của bộ máy quản trị
buôn làng, nơi sinh hoạt tôn giáo, tín ngưỡng, nhà khách… , là nơi thể hiện
các lễ hội tâm kinh cộng đồng và là nới các thế hệ nghệ nhân già truyền đạt lại
cho thế hệ trẻ những giá trị văn hóa truyền thống…, nơi lưu giữ các hiện vật
truyền thống: cồng, chiêng, trống, vũ khí, đầu các con vật hiến sinh trong các
ngày lễ, và là nơi đứa trẻ từ tấm bé đã được quây quần quanh bếp lửa nghe
người già kể khan, nơi người lớn được tụ họp hằng đêm, nói cho nhau nghe
chuyện của núi rừng.....
Nhà Rông cũng là nơi hội họp của cả làng, là trụ sở của dân quân tự vệ làng,
nơi ngủ của trai chưa vợ, đàn ông góa còn trong tuổi cầm vũ khí, nơi đón tiếp
khách và nơi nghỉ của khách quý. Theo Condominas, trong tiếng Muông Gar
có từ “ndroong Yaang” có nghĩa là cái bàn thờ nhỏ treo một bên mái, chỉ làm
khi cúng trâu, và từ “rơơn” có nghĩa là trong làng ở tạm.
Người Tây Nguyên quan niệm nhà Rông là nơi khí thiêng của đất trời tụ lại để
bảo trợ cho dân làng, vì thế trong mỗi nhà Rông đều có một nơi thiêng liêng
để thờ các vật thiêng, nhiều khi chỉ là một con dao, hòn đá, chiếc sừng trâu…


Nhà Rông Tây Nguyên nét kiến trúc độc đáo
Nhà Rông Tây Nguyên không khác biệt nhiều so với nhà Rông của các dân
tộc thiểu số dải Trường Sơn. Nóc nhà có 2 mái, nới chỏm đầu dốc có một đôi
sừng. quán sát thật kỹ mới thấy những chi tiết khác với nhà ở: chạy dọc trên
sóng nóc nhà là một dải trang trí đặc biệt. Sàn nhà thường được ghép bằng
những tấm đan bằng tre lồ ô, nứa hoặc cây giang. Giữa nhà có một hàng lan

can chạy dọc. Hàng lan can này chính là chỗ dựa của những ché rượu cần khi
làng tổ chức lễ hội. Hoa văn trang trí trên vách có 2 màu đỏ và xanh.
Khi lập một làng mới thì những người già nhất trong làng, từng trải và hiền
minh nhất sẽ thay mặt làng đi tìm đất, chọn vị trí đẹp nhất trong làng để xây
dựng nhà Rông. Việc xây dựng nhà Rông theo lưu truyền lại thì phải tuân
theo nghi thức trang trọng.
Nhà Rông là một trong những di sản văn hóa rất tiêu biểu, gắn với lịch sử cư
trú lâu đời của các dân tộc Tây Nguyên. Nhà Rông là một thiết chế văn hóa
tiêu biểu, độc đáo có ý nghĩa quan trọng trong văn hóa tinh thần, trong đời
sống xã hội và trong tín ngưỡng, tâm linh của đồng bào các dân tộc Tây
Nguyên.
Nhà dài
Cùng với nhà Rông, thì nhà dài cũng là một kiến trúc đặc biệt của đồng bào
Tây Nguyên. Nếu nhà Rông là ngôi nhà chung của cộng đồng, thì nhà dài là
ngôi nhà chung của một gia đình nhiều thế hệ, là “ tổ hợp” của các gia đình
nhỏ trong một gia đình lớn. Nhà dài không phổ biến trong tất cả các dân tộc
Tây Nguyên như nhà Rông. Trong số những dân tộc có nhà dài thì nhà dài của
bà con Ê Đê được coi là tiêu biểu.
Nhà dài không chỉ là biểu tượng vật chất của thể chế đại gia đình mẫu hệ mà
còn là nơi gìn giữ những giá trị văn hóa tinh thần của người Ê Đê. Việc bảo
tồn nhà dài tại các buôn của người Ê Đê là một nhu cầu thiết yếu như giữ gìn
một nét văn hóa, một di sản quý trên vùng đất Tây Nguyên
Nhà dài- biểu tượng của chế độ mẫu hệ
Trước khi đi vào ngôi nhà dài phải hiểu được người Ê Đê theo chế độ mẫu hệ,
vì vậy trong gia đình cũng như ngoài xã hội, người phụ nữa có quyền trong
gia đình. Một trong những quyền đó là quyền cưới chồng, con gái lấy họ mè
và có vị trí đặc biệt trong gia đình. Nên tính mẫu hệ chính là nét tiêu biểu
trong cấu trúc toàn bộ ngôi nhà dài.
Người Ê Đê có tập quán sống chung ba hoặc bốn thế hệ trong một ngôi nhà
lớn. Họ rất ít khi làm nhà mới thay cho nhà cũ, nếu có thêm người thì nối

phần sau nhà dài thêm. Nhà dài chính là sự phản ảnh chế độ mẫu hệ của người
-


Ê Đê. Nó còn là biểu tượng cho sự gắn bó giữa con người với cộng đồng.,
giữa con người với thiên nhiên. Trước đây, tất cả mọi sinh hoạt của đại gia
đình đều diễn ra trên mặt nhà sàn. Đây là nơi sinh sống của nhiều thế hệ người
và của nhiều gia đình có cùng dòng máu, nhà dài là nơi sinh sống của hơn một
chục gia đình ghép lại, làm chủ gia đình là người phụ nữ thuộc nhóm cao tuổi
nhất
Nhà dài là nơi cư trú của nhiều gia đình “hạt nhân”, tức cặp vợ chồng cùng
các con của họ. Các gia đình thành viên sống dứơi một nóc nhà dài có quan hệ
huyết thống với nhau và nếu trong gia đình có người sắp chuẩn bị lập gia đình
ngôi nhà lại được kéo dài thêm, cứ thế ngôi nhà càng ngày càng dài.
Nhà dài chính là sự quần tụ của một gia đình lớn, trong đó có một số gia đình
nhỏ, với các thế hệ khác nhau. Điều đó cho thấy tính chất và giá trị thiêng
liêng của gia đình của bà con nơi đây. Tới nay, nhà dài tuy không còn nhiều,
do sự thay đổi cuộc sống, nhưng những ngôi nhà dài còn lại vẫn như một
minh chứng cho cách tổ chức cuộc sống đại gia đình của một số dân tộc ở Tây
Nguyên, cũng như một lối kiến trúc khá độc đáo
- Nhà dài- nét kiến trúc độc đáo
Nhà dài chính là nhà sàn được dựng lên từ những cột gỗ to, khác với nhà sàn
các đồng bào dân tộc phía Bắc, sàn của nhà dài cách mặt đất chỉ trên 1 mét,
phía dưới đơn thuần để thoáng mát chứ không làm chỗ chăn nuôi. Nhà đa số
có 2 mái, ít thấy nhà 4 mái. Vật liệu để dựng nên một ngôi nhà dài phải là một
thứ nguyên vật liệu giản đơn dễ tìm kiếm, nên nhà dài Ê Đê ở được làm bằng
các vật liệu thảo mộc kiếm trong rừng, chủ yếu là gỗ, tre nứa các loại, dây
buộc, cỏ gianh (hoặc một số loại lá rừng khác để lợp nhà).
Nét đặc sắc của ngôi nhà dài Ê Đê kiểu cổ truyền là tính mẫu hệ nổi lên rất rõ.
Ngay từ chiếc cầu thang ván khi bước lên sàn là thấy ngay đôi bầu sữa và

vành trăng khuyết là những biểu tượng sống động của nữ tính, của chế độ mẫu
hệ trong đời sống văn hóa của người Ê Đê. Trang trí nghệ thuật ở ngôi nhà dài
Ê Đê là những hình khắc gỗ trên thân cột, quá giang, cầu thang ván, phản ánh
tính chất mẫu hệ của xã hội thường. Nhiều hình ảnh nồi bung được tạc trên
đầu các cột, đây là biểu trưng gắn với vị thế của người phụ nữ
Đặc biệt, là nghệ thuật điêu khắc của người dân nơi đây. Những tạo hình mang
tính chất thống nhất từ chủ đề đến bố cục, chất liệu, đường nét và thể hiện rõ
nét sinh động trên các công trình như: nhà ở, nhà mồ, cột Klao. Các họa tiết
trong kiến trúc của người Ê Đê đều là những hình ảnh quen thuộc trong đời
sống như hình mặt trời, hoa lá, các con vật.
2.3.6
Ẩm thực


a)

2.3.6.1 Món ăn
Hầu hết các món ăn, dù chế biến theo cách nào, người Tây Nguyên cũng ít
quy định chi tiết tỉ lệ pha chế nguyên liệu, độ lửa, thời gian nấu nướng, và cả
tính chất của món ăn đó cần ăn nóng hay ăn nguội. Người dân tộc Tây
Nguyên cũng như đa số các dân tộc thiểu số khác chưa có sách dạy nấu ăn, chỉ
tồn tại dưới dạng kinh nghiệm, truyền khẩu hay do sự giáo dục trực tiếp từ gia
đình. Do sống ở vùng rừng núi Trường Sơn Tây Nguyên nên các nguyên liệu
chủ yếu của các món ăn mang đậm sắc thái núi rừng. Chính điều này đã góp
phần làm cho các món ăn của người Tây Nguyên trở thành đặc sản và được
nhiều người ưa thích. Sau đây là một số món tiêu biểu.
Cơm ống
Người Tây Nguyên thức ăn chính vẫn là lúa gạo. Do điều kiện địa lý, khí hậu
và công việc trong việc hoạt động nương rẫy nên người Tây Nguyên đã nghĩ
ra cách nấu cơm trong ống nứa, bương,vầu.... Cơm ống thường dùng gạo nếp,

phổ biến là dùng gạo nương, một loại gạo tẻ, hạt to, cứng nhưng dẻo.

b)

Canh thụt
Nguyên liệu cho món canh thụt là: Gạo, lá rau rừng hoặc lá sắn, lá ớt nhưng
nếu đầy đủ và để đủ vị phải có lá bép, đọt mây, cà đắng. Canh có thể được nấu
với thịt rừng tươi hoặc khô, cá suối hoặc thậm chí là ếch nhái đặc biệt là tất cả
thường không được làm ruột. Các gia vị kèm theo là mắm, ớt, muối.

c)

Cá chua
Cá chua thường được làm từ loại cá Niệng sinh sống rất nhiều Tây Nguyên.
Dùng cá tươi làm sạch, cắt thành khúc dài khoảng chừng 2 - 3cm để hong gió
cho ráo nước. Khi cá se khô thì trộn đều với muối và ớt cùng với lá bép, thính
ngô sau cho vào ống nứa hay ống lồ ô khô, dùng lá chuối khô đậy thật kín, gác
lên dàn bếp hay dưới mái nhà chỉ sau vài ngày là cá có vị chua, mùi thơm có
vị ngọt là ăn được nhưng để càng lâu càng ngon.

d)

Cháo chua
Cháo chua là một món lạ của người Tây Nguyên. Tương truyền, món ăn này
do thần linh chỉ dạy người đồng bào cách chế biến để chống lại sự khắc nghiệt
của thời tiết xứ Tây Nguyên. Các nguyên liệu gạo, muối và có bí quyết riêng.


Cháo chua theo quan niệm của người Tây Nguyên là món ăn bổ dưỡng. Nó có
vị chua xen vị ngọt, có mùi của men rượu. Nó là thứ nước uống giải khát,

chống cảm nắng, tăng sức đề kháng cơ thể.
e)

Măng le
Cây le thuộc họ tre nứa khá điển hình trên vùng đất bazan. Măng le tươi luộc
qua hoặc ngâm nước để loại bỏ những độc hại và miếng măng sẽ ngon, giòn
hơn phơi khô được ủ trong những hũ sành, măng chua dễ kết hợp với nhiều
món ăn khác, đặc biệt nấu với cá Trê, thịt gà Rừng hay thịt Nai ăn kèm muối
đâm lá bép, ớt hiểm mới là khách quý.

f)

Cà đắng
Cà đắng là một loại cà dại vốn mọc nhiều trong rừng, trên nương rẫy. Cây có
gai, càng nhiều gai cà càng đắng. Quả cà đắng to hơn cà pháo và thường hơi
dài ra, quả có màu xanh đặc trưng, cuống quả lại có gai nhọn. Quả cà đắng giã
nát với ớt, trộn cá khô. Tuy nhiên cà đắng thường được nấu với tôm cá, thịt,
phổ biến nhất canh cà đắng đầu cá trích khô giã nát. Khi nấu cà đắng chú ý gia
vị không thể thiếu là ớt thật nhiều và lá lốt xắt chỉ.
2.3.6.2

Đồ uống

Cũng giống như các dân tộc khác, ngoài những món ăn thức uống cũng rất đa
dạng và phong phú đậm chất rừng núi. Sau đây là những thức uống tiêu biểu :
a.

Rượu cần
Gọi là rượu cần vì đây là loại rượu duy nhất không uống bằng ly, chén mà
uống bằng một ống dài gọi là cần. Cần uống rượu thường dài chừng 1m, được

làm bằng ống trúc hoặc làm từ một loại cây T D’rao bằng cách xuyên thủng
lõi theo suốt chiều dọc để hút rượu. Nếu là nhà giàu có thuộc dòng quyền quý
từ xưa thì còn có những cần dài chừng 3 – 4m, được trang trí thêm những lục
lạc làm bằng đuôi nhím để tạo ra âm thanh vui tai khi chuyển cần mời rượu,
thân của cần được cham khắc nhiều hình thù khác nhau... Theo quan niệm của
người dân bản địa Tây Nguyên, rượu cần là nước uống của thần linh, nên
ngoài giá trị vật chất đơn thuần rượu cần còn mang giá trị tinh thần tâm linh
của con người. Chính vì thế, mà quá trình sản xuất cũng như đưa ra sử dụng


rượu cần, người Tây Nguyên tuân thủ rất nghiêm ngặt những điều kiêng kỵ
như không làm men rượu vào độ xoài trổ bông, lúa làm đồng, phụ nữ có thai
không được đến gần, không gây vỡ ché, gãy cần.
b.

Cà phê
Một “thánh địa cà phê thế giới” không thể thiếu hình ảnh của những người
sống trong lòng thánh địa ấy và cái cách mà họ thưởng thức sản phẩm. Để lấy
nước pha cà phê, người phụ nữ trong gia đình các đồng bào dân tộc thiểu số
thường phải dậy từ 3 – 4h sáng đeo gùi ra suối lấy nước. Người đồng bào dân
tộc thiểu số nơi đây uống cà phê trước khi làm bất cứ việc gì khác. Uống cà
phê buổi sáng đã trở thành thói quen của hơn 195.000 người Êđê sống ở Đắk
Lắk.

2.3.7
a)

Tôn giáo và luật tục
Tôn giáo


Tây Nguyên là vùng đất có vai trò và vị trí kinh tế, xã hội, chính trị hết sức
quan trọng, có những nét đặc thù về địa lý, lịch sử, văn hóa, tín ngưỡng (đa
thần), con người… Do vậy, Tây Nguyên luôn luôn nhận được sự quan tâm
không chỉ của giới nghiên cứu, mà của toàn xã hội. Trên lĩnh vực tôn giáo,
Tây Nguyên có sự hiện diện của Công giáo, Tin lành, Phật giáo Cao Đài và
một số lượng nhỏ các tôn giáo khác. Hiện nay có khoảng gần 40% dân số Tây
Nguyên đang theo các tôn giáo khác nhau, đông nhất là Công giáo, sau đó đến
Phật giáo, Tin lành và cuối cùng là Đạo Cao Đài. Đạo Baha’I, Phật đường
Nam Tông Minh Sư Đạo thì số lượng tín đồ không đáng kể. Có điểm đáng lưu
ý là, số lượng tín đồ Tin lành ở Tây Nguyên là 410.578, chiếm hơn 40% tín đồ
Tin lành của cả nước; trong số này thì có 387.140 tín đồ là người dân tộc thiểu
số, chiếm 94%. Trong tổng số 2.764 buôn làng ở Tây Nguyên thì có tới 1.450
buôn làng theo Đạo Tin lành, tức là chiếm khoảng 50%. Toàn vùng Tây
Nguyên hiện nay có khoảng 1.851.875 tín đồ các tôn giáo.
b)

Luật tục

Nét nổi bật của các dân tộc thiểu số là đời sống xã hội mang tính cộng đồng
cao. Trong thiết chế cổ truyền, buôn làng của đồng bào là những đơn vị cơ sở
xã hội duy nhất và cao nhất (trên nó không còn một thiết chế nào khác), có nơi
cư trú và nơi canh tác riêng, có bến nước và nghĩa địa riêng, mặc nhiên được


các buôn làng khác thừa nhận. Do đó, mỗi buôn làng của đồng bào dân tộc
thiểu số có thể coi là một đơn vị tự quản riêng biệt và tương đối hoàn chỉnh.
Chẳng hạn như trong cộng đồng tộc người Ê-đê, đứng đầu buôn là Khoa pin
ea, người được coi là chủ bến nước.
Ngoài việc quản lý bến nước, Khoa pin ea còn có nhiệm vụ quản lý, điều hành
mọi công việc về mặt dân sự, an ninh, thần quyền, đối ngoại. Ngoài ra, trong

buôn làng còn có những người điều hành toà án phong tục, phụ trách việc
cúng bái, tế tự và tầng lớp già làng - là những người có kinh nghiệm và uy tín
về đạo đức, được trưởng làng coi trọng. Bên cạnh đó, còn phải kể đến vai trò
của những người am hiểu về luật tục, người hoạt động tín ngưỡng hoặc chủ
đất của các dòng họ.


CHƯƠNG III. KHAI THÁC CÁC GIÁ TRỊ VĂN HÓA PHỤC VỤ MỤC
ĐÍCH KINH DOANH
3.1. Khai thác phục vụ much đích du lịch
Theo ông Trương Quang Hải, Viện Việt Nam học và Khoa học phát triển, Đại
học Quốc gia Hà Nội thì Tây Nguyên có cảnh quan thiên nhiên kỳ thú, nhiều
dân tộc sinh sống với những bản sắc văn hóa đặc trưng, tạo nên một hệ thống
tài nguyên du lịch phong phú, đa dạng và đặc sắc. Các di sản có giá trị nổi bật
cho phát triển du lịch như cụm thác nước Đray Nur và Đray Sáp trên sông
Sêrêpốk; những thân cây gỗ Thủy tùng bị mã não hóa phát hiện trong núi Chư
A Thai, không gian văn hóa cồng chiêng Tây Nguyên… tạo nên nét độc đáo
cho du lịch Tây Nguyên. Một số sản phẩm du lịch của Tây Nguyên đã từng
bước tạo dựng được thương hiệu như lễ hội hoa Đà Lạt, Liên hoan cồng
chiêng quốc tế, lễ hội cà phê, du lịch Buôn Đôn. Mặc dù vậy, tỷ trọng về
lượng khách du lịch và thu nhập từ du lịch của vùng Tây Nguyên vẫn chưa
tương xứng với tiềm năng và lợi thế sẵn có.
Hiện nay, hệ thống tuyến điểm du lịch ở Tây Nguyên đã tạo điều kiện cho
doanh nghiệp tổ chức các tuor du lịch văn hóa, tuor du lịch sinh thái… Một số
khu du lịch có khả năng lớn trong thu hút khách như khu du lịch Buôn Đôn,
hồ Tuyền Lâm, khu du lịch sinh thái Langbiang, Măng Đen, khu du lịch sinh
thái vườn quốc gia (VQG) Chư Mom Ray (Kon Tum), VQG Kon Ka Kinh
(Gia Lai), khu du lịch hồ Lắk (Đắk Lắk), VQG Chư Yang Sin (Đắk Lắk), khu
du lịch cụm thác Dray Sáp - Gia Long - Trinh Nữ (Đắk Nông)… Các khu du
lịch tổng hợp quốc gia như Đan Kia - Suối Vàng, VQG Bidoup - núi Bà, VQG

Cát Tiên (Lâm Đồng), khu du lịch Lâm Viên Biển Hồ (Gia Lai), làng du lịch
Kon Klor (Kon Tum) đã đưa vào khai thác du lịch. Đô thị du lịch Đà lạt và
thành phố Buôn Ma Thuột có nhiều ưu thế phát triển du lịch nghỉ dưỡng, du
lịch MICE (hội nghị, hội thảo), du lịch nghiên cứu… đã tận dụng lợi thế và tài
nguyên du lịch, cơ sở hạ tầng thu hút nhiều du khách quốc tế.
Ông Nguyễn Văn Tuấn, Tổng Cục trưởng Tổng cục Du lịch đánh giá: tiềm
năng và lợi thế phát triển du lịch vùng duyên hải miền Trung và Tây nguyên là
rất lớn, nhất là tài nguyên du lịch biển, đảo, núi rừng… mang đậm nét hoang
sơ. Đây là điều kiện để các doanh nghiệp đầu tư phát triển du lịch sinh thái,
xây dựng các khu nghỉ mát, khu vui chơi giải trí để thu hút du khách. Hai
vùng này còn có vị trí rất thuận lợi trong việc liên kết phát triển với nhau, hình
thành nên tuyến du lịch “Con đường di sản miền Trung”, “Con đường xanh
Tây Nguyên” và là cửa ngõ của Tây Nguyên và Hành lang Kinh tế Đông Tây.


3.2. Thiết kế tour du lịch
Tây nguyên hùng vỹ với miền đất đỏ bazan hùng vỹ của núi rừng bạt
ngàn cao su và cà phê, là vùng đất của bao sữ thi dân gian hào hùng của dân
tộc ÊĐÊ và Mnông. Là thủ phủ đầu tiên tại miền Nam được giải phóng là một
trong những điểm đến khám phá tìm hiểu đối với du khách học hỏi và trải
nghiệm.
TOUR DU LỊCH HÀ NỘI- TÂY NGUYÊN HÙNG VỸ





Đối tượng: Khách đoàn theo gia đình
Thời gian: 5 Ngày 4 Đêm
Phương tiện vận chuyển: Máy bay, oto đời mới.

Giá Tour: GIÁ TRỌN GÓI: VNĐ/KHÁCH
Nhóm 2 - 4 Nhóm 5 – Nhóm 9 - Phụ
thu
Giá
tour K
8K
14 K
phòng đơn
trọn gói
5.550.000
5.350.000 5.150.000
1.210.000

Ngày 1: Hà Nội- Buôn Mê Thuột.
17h00: Xe và hướng dẫn đón quí khách tại điểm hẹn tại Hà Nội - sân bay
Nội Bài, đáp chuyến bay đi Buôn Ma Thuột. Đến Buôn Ma Thuột, xe và
hướng dẫn viên địa phương đón quý khách về
khách sạn. Khách ăn uống nghỉ ngơi.
19h00. Du khách đi dạo Thành phố về đêm,
khám phá phố núi Buôn Mê, thưởng thức hương vị
cà phê phố núi, nghỉ đêm tại Buôn Mê Thuột.
Ngày 2: Draysap – Gia Long – Trinh Nữ
7h30: Quý khách ăn sáng , thưởng thức hương vị cà phê sáng và ánh
nắng ban mai của Tây Nguyên Đại Ngàn.
8h30: Xe đón quý khách theo hương quốc lô 14 tham quan thác nước
Draysap – Gia Long-Trinh Nữ ( cách 40km ) Tham quán thác Draysap - thác
hùng vĩ nhất trên dòng sông Sêrêpôk, quý khách đi bộ và khám phá toàn bộ


khu vự thác, khám phá nét hoang sơ hùng vỹ của thác nước lớn nhất Tây

Nguyên này.
Quý khách đến Thác Gia Long - di tích lịch sử và thắng cảnh cấp quốc
gia, mệnh danh là một thiên đường giữa rừng sâu đẹp và huyền dịu như mùa
thu Hà Nội. Quý khách ăn trưa theo chương trình dã ngoại sinh hoạt tập thể.
Quý
khách

thể
tắm
tại
Thác
Gia
Long.

15h30 : Xe đưa quý khách tham quan thác Trinh Nũ một trong những
thác đẹp của cụm thác Draysap , với nét hoang sơ và dòng thác trắng xoá như
một cô gái e thẹn giữa đất trời.
18h00: Xe đưa quý khách về lại Thành Phố Buôn Ma Thuột nhận phòng
khách sạn nghỉ ngơi, quý khách ăn tối tại KS, xe đưa quý khách thưởng thức
hương vị Cà Phê Ban Mê. Quý khách nghỉ ngơi tự do.
Ngày 3: Buôn Ma Thuột- Buôn Đôn- Hồ Lak
8h00: Quý khách dùng điểm tâm sáng, trả
phòng khách sạn.
Du khách khởi hành đi Buôn Đôn -quê
hương của nghề săn bắt và thuần dưỡng voi, tham
quan cầu treo và ngắm cảnh sông Sêrêpôk, nhà
sàn cổ 120 năm của người Lào; tham quan mộ và
nghe kể chuyện về Vua săn voi, nhà mồ, vào khu du lịch sinh thái Bản Đôn,
bắt đầu chương trình dã ngoại, du khách có thể đi bộ hoặc đạp xe ngắm cảnh
du lich Tây Nguyên từ rừng quốc gia Yok Đôn, cưỡi voi xuyên rừng và thăm



buôn làng. Thăm Buôn Akô Dhong, nơi cư trú của đồng bào Eđê với những
căn nhà sàn truyền thống. Đoàn tiếp tục viếng chùa Khải Đoan, tham quan bảo
tàng dân tộc (biệt thự Bảo Đại cũ), tìm hiểu đời
sống vật chất, tinh thần của cộng đồng các dân tộc
Tây Nguyên...
14h00: Xe đón quý khách theo con đường Cà
phê về Hồ Lak. Đến Lak quý khách nhận
BunGalow (nhà dài) tại
khu du lịch Buôn Jun
sống cùng với cuộc sống của đồng bào Mnông.
Buổi chiều quý khách có thể cưỡi voi (chi phí tự
túc) tham quan ngắm hoàng hôn trên hồ, chiêm
ngưỡng cảnh đẹp nơi miền sơn cước Hồ Lak, buôn
Jun, cưởi thuyền Độc Mộc vượt hồ Lak( chi phi tự túc). Quý khách nghỉ ngơi
ăn tối tại Nhà Hàng nổi Hồ Lak- với món ăn đặc trưng là Cá Lóc Hồ Lak . Tối
tham gia chương trình đêm lửa trại, uống rượu cần, văn nghệ cồng chiêng,
giao lưu văn hóa đồng bào dân tộc của các đồng bào Tây Nguyên.
Ngày 4: Kon Tum - Măng Đenk
8h00: Du khách khởi hành, tham quan cầu treo KonKlor thuộc địa phận
làng KonKlor, thành phố Kon Tum. Cầu nối liền hai bờ của dòng sông Đăk
Bla huyền thoại. Đến đây du khách ghé thăm làng dân tộc BahNar KonKtu ở
hữu ngạn dòng sông, viếng nhà thờ gổ Kon Tum một công trình kiến trúc cổ
mang
đậm
sắc
thái
Tây
Nguyên.

14h00 Đoàn đi Măng Đen nơi có khí hậu trong lành và mát mẽ quanh năm,
được mệnh danh là Đà Lạt 2 trên cao nguyên xanh, Quý khách dạo theo lối
mòn qua những cánh rừng sim đến với tiểu vườn
thú Safari, viếng tượng Đức Mẹ Măng Đen, hồ
Đak Ke.
Quý khách nghỉ đêm tại resort Măng Đen.
Ngày 5: Măng đen- Hà Nội


Buổi sáng, sau khi dùng điểm tâm sáng, Quý Khách trả phòng và khởi
hành về Hà Nội. Chia tay và hẹn gặp lại Quý Khách

+
+
+

+
+
+
+

+
+
+


+
+
+
+


Giá tour bao gồm:
Xe đời mới có máy lạnh, đưa đón khách đi theo chương trình tour du lịch.
Khách sạn theo tiêu chuẩn (1 phòng/2 khách).
Ăn uống gồm 3 bữa trong ngày: 05 bữa sáng, 04 bữa trưa và 03 bữa tối. Ăn
trưa và ăn chiều là cơm phần 4 món, được đổi món thường xuyên theo ẩm
thực địa phương.Nếu khách tự túc ăn, giá tour sẽ được trừ: 465.000 đ.
Hướng dẫn viên nhiệt tình suốt tuyến.
Vé tham quan vào cửa các thắng cảnh.
Khăn lạnh, nước uống trên đường (1 khăn, 1 chai/ngày).
Bảo hiểm trọn tour 20.000.000 VNĐ/ Vụ
Không bao gồm:
Vé máy bay, tàu hỏa khứ hồi chặng HN –Buôn Mê Thuột
Tiền cưỡi voi, bơi thuyền độc và các chi phí ăn uống, vui chơi giải trí cá nhân.
Tips, thuế VAT.
+ Nước uống rượu bia trong những bữa ăn, chi phí điện thoại, giặt ủi, ...
+ Chi phí ở phòng đơn và chi phí cá nhân của khách ngoài chương trình.
+ Hóa đơn VAT (Quý khách cần xuất hóa đơn vui lòng báo trước ngày
khởi hành hoặc sau khi chương trình du lịch kết thúc trong vòng 7
ngày).
Giá cho trẻ em:
Trẻ em dưới 5 tuổi: miễn phí (ăn + ngủ chung bố mẹ).
Từ 5 - 10 tuổi: tính 75% (ăn suất riêng và ngủ chung với bố mẹ)
Từ 11 tuổi trở lên: tính như người lớn.
Khách đi tour kèm 2 trẻ em dưới 05 phải đóng 50% giá tour.
(Quý khách đi du lịch vui lòng đem theo hành lí gọn nhẹ)


×