Tải bản đầy đủ (.docx) (49 trang)

Chế định chủ tịch nước trong hiến pháp (chuyên đề tốt nghiệp)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (404.06 KB, 49 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ - LUẬT
KHOA LUẬT


CHUYÊN ĐỀ TỐT NGHIỆP
ĐỀ TÀI: PHÂN

TÍCH CHẾ ĐỊNH

CHỦ TỊCH NƯỚC
GVHD

:

Lớp

:

Nhóm thực hiện

:

Th.S Trần Thị Lệ Thu

TP. HỒ CHÍ MINH, NĂM 2016


2

MỤC LỤC



3

MỞ ĐẦU
Chế định nguyên thủ quốc gia là một chế định quan trọng trong thể chế
chính trị. Mỗi nước, nguyên thủ quốc gia đều có vị trí, chức năng khác nhau tùy
thuộc vào thể chế chính trị và cách tổ chức nhà nước. Nhưng nhìn chung họ đều
đóng vai trò biểu tượng dân tộc, đều là người đứng đầu Nhà nước, đại diện cho
Nhà nước về đối nội và đối ngoại. Ở nước ta, nguyên thủ quốc gia tồn tại dưới
hình thức Chủ tịch nước theo Hiến pháp 1946, 1959, 1992, 2013 riêng với Hiến
pháp năm 1980 tồn tại dưới hình Hội đồng Nhà nước, là một chế định nguyên
thủ quốc gia tập thể. Vị trí, tính chất của các thiết chế này cũng khác nhau theo
từng giai đoạn phát triển nhưng vẫn giống nhau về những nguyên tắc căn bản
của tổ chức bộ máy xã hội chủ nghĩa nói chung và chế định nguyên thủ quốc gia
nói riêng. Việc nghiên cứu, làm rõ nội dung của chế định Chủ tịch nước qua các
giai đoạn lịch sử dân tộc giúp ta có các nhìn hoàn thiện về cơ cấu tơ chức bộ máy
nhà nước, về một mảng kiến thức quan trọng trong ngành Luật Hiến pháp. Tìm
hiểu chế định Chủ tịch nước giúp ta so sánh, đồng thời tìm ra những điểm kế
thừa, phát triển, bổ nhiệm khuyết thiếu, sửa đổi sai sót của thời kì trước trong
pháp Luật hiện hành. Trong phạm vi bài tiểu luận này, chúng em xin làm rõ đề
tài:“Phân tích chế định Chủ tịch nước”.
Với tất cả sự nỗ lực để có thể hoàn thiện bài báo cáo tốt nhất, do thời gian
có hạn cũng như sự hạn chế về trình độ nghiên cứu, kiến thức nên không thể
tránh khỏi những sai sót. Chúng em rất mong nhận được sự góp ý của Cô để hoàn
thiện hơn nữa trong nhận thức cũng như kiến thức!


4

CHƯƠNG 1: LÝ LUẬN CHUNG VỀ CHỦ TỊCH NƯỚC TRONG HIẾN

PHÁP VIỆT NAM 2013

1.1 Vị trí pháp lý của chủ tịch nước
Từ Hiến pháp năm 1992 đến Hiến pháp năm 2013, cụ thể tại Điều 86 Hiến
pháp hiện hành quy định địa vị pháp lý của Chủ tịch nước như sau: “Chủ tịch nước
là người đứng đầu Nhà nước, thay mặt Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt
nam về đối ngoại và đối nội”. Theo đó, Chủ tịch nước do Quốc hội bầu ra trong số
các Đại biểu Quốc hội theo sự giới thiệu của Ủy ban thường vụ Quốc hội. Nhiệm kỳ
Chủ tịch nước theo nhiệm kỳ của Quốc hội. Chủ tịch nước có trách nhiệm hợp thức
hóa về mặt nhà nước Hiến pháp, Luật và Nghị quyết của Quốc hội. Chủ tịch nước
báo cáo công tác và chịu trách nhiệm trước Quốc hội.
Như vậy, theo quy định của pháp luật về tổ chức bộ máy nhà nước của nước
Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt nam - nguyên thủ quốc gia chính là Chủ tịch
nước, là người đứng đầu nhà nước Việt nam thay mặt Quốc gia về đối nội đối ngoại.
Chủ tịch nước là Chủ tịch Hội đồng Quốc phòng và An ninh.
1.2 Chức năng, nhiệm vụ cơ bản
Có thể phân thành 06 loại nhiệm vụ quyền hạn của Chủ tịch nước tại Điều 88
Hiến pháp 2013. Bố cục Điều 88 Hiến pháp 2013 được thu gọn thành các nhiệm vụ,
quyền hạn của Chủ tịch nước theo các nhóm quyền liên quan đến lập pháp, hành
pháp, tư pháp, an ninh, quốc phòng và đối ngoại. Nhiệm vụ, quyền hạn của Chủ tịch
nước có thể chia làm 2 nhóm sau đây:
1.2.1 Các nhiệm vụ, quyền hạn của Chủ tịch nước liên quan đến chức năng đại
diện, thay mặt Nhà nước về đối nội và đối ngoại
Thứ nhất, quyết định tặng thưởng huân chương, huy chương, các giải thưởng
nhà nước, danh hiệu vinh dự nhà nước, quyết định cho nhập thôi, trở lại Quốc tịch
hoặc tước Quốc tịch Việt nam;
Thứ hai, thống lĩnh các lực lượng vũ trang nhân dân và giữ chức vụ Chủ tịch
Hội đồng quốc phòng và an ninh. Với tư cách là thống lĩnh các lực lượng vũ trang
nhân dân việc mở rộng quyền Chủ tịch nước trong hoạt động quốc phòng an ninh
như trên là hoàn toàn hợp lý, tuy nhiên quan điểm nhóm cho rằng nên làm rõ quyền

nghĩa vụ của Chủ tịch nước đối với hoạt động quốc phòng an ninh. Điều lệ Đảng
Cộng sản Việt nam nói rõ: “Đảng lãnh đạo Quân đội nhân dân Việt nam và Công an
nhân dân Việt nam tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt…Đồng chí Tổng Bí thư là Bí thư


5

Quân ủy Trung ương”. Với quy định hiện tại của Hiến pháp 2013 dễ gây nhầm lẫn
quyền hạn giữa Chủ tịch nước với Bộ Chính trị và Tổng Bí thư trong việc quản lý,
chỉ huy lực lượng vũ trang là về các mặt tổ chức, chăm lo xây dựng lực lượng vũ
trang, xây dựng nền quốc phòng toàn dân,…còn những nhiệm vụ quan trọng mang
tính sống còn, tồn vong đối với nhà nước.
Thứ ba, căn cứ theo Nghị quyết của Quốc hội hoặc Ủy ban thường vụ Quốc
hội công bố , bãi bỏ quyết định tuyên bố tình trạng chiến tranh; căn cứ theo nghị
quyết của Ủy ban thường vụ Quốc hội, ra lệnh tổng động viên cục bộ, công bố, bãi
bỏ tình trạng khẩn cấp; trong trường hợp Ủy ban thường vụ Quốc hội không thể họp
được công bố, bãi bỏ tình trạng khẩn cấp trong cả nước hoặc từng địa phương. Quy
định như trên là hoàn toàn phù hợp với thực tế nhằm giải quyết tinhg trạng khẩn
cấp, tuy nhiên đối với những quyết định về tình trạng chiến tranh, tổng động viên
Chủ tịch nước vẫn không phải là người trực tiếp quyết định, công bố mà căn cứ vào
nghị quyết của Quốc hội hay Ủy ban thường vụ Quốc hội, làm giới hạn quyền của
Chủ tịch nước.
Thứ tư, quyết định phong thăng, giáng, tước quân hàm cấp tướng, chuẩn đô
đốc, phó đô đốc và đô đốc hải quân; bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức Tổng tham
mưu trưởng, Chủ nhiệm Tổng cục chính trị Quân đội nhân dân Việt nam;
Thứ năm, tiếp nhận đại sứ đặc mệnh toàn quyền của nước ngoài; căn cứ vào
Nghị quyết của Ủy ban thường vụ Quốc hội bổ nhiệm, miễn nhiệm, cử, triệu hồi
đại sứ đặc mệnh toàn quyền của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt nam, phong
hàm, cấp đại sứ.
Thứ sáu, ký kết Điều ước quốc tế nhân danh nhà nước; trình Quốc hội phê

chuẩn, quyết định gia nhập hoặc chấm dứt hiệu lực Điều ước quốc tê quy định tại
khoản 14 Điều 70; quyết định phê chuẩn gia nhập hoặc chấm dứt hiệu lực Điều ước
quốc tế khác nhân danh nhà nước.
1.2.2 Các nhiệm vụ, quyền hạn của Chủ tịch nước liên quan đến việc Điều phối
hoạt động giữa các nhánh quyền lực lập pháp, hành pháp và tư pháp
− Trong lĩnh vực lập pháp:
• Chủ tịch nước có quyền trình dự án Luật ra trước Quốc hội (Khoản 1 Điều 84 Hiến
pháp 2013).
• Chủ tịch nước công bố Hiến pháp, luật, pháp lệnh (Khoản 1 Điều 88 Hiến pháp
2013)
• Chủ tịch nước có quyền đề nghị Uỷ ban thường vụ Quốc hội xem xét lại trong thời
hạn 10 ngày kể từ ngày pháp lệnh được thông qua; nếu pháp lệnh đó vẫn được Uỷ


6

ban thường vụ Quốc hội biểu quyết tán thành mà Chủ tịch vẫn không nhất trí, thì
Chủ tịch nước trình Quốc hội quyết định tại kỳ họp gần nhất (Khoản 1 Điều 88
Hiến pháp 2013).
Nhìn chung những quy định về quyền hạn của Chủ tịch nước trong lĩnh vực
lập pháp tại Hiến pháp 2013 không có thay đổi gì so với Hiến pháp 1992






Trong lĩnh vực hành pháp:
• Chủ tịch nước có quyền đề nghị Quốc hội bầu, miễn nhiệm, bãi nhiệm Thủ tướng


Chính phủ (Khoản 2 Điều 88 Hiến pháp 2013)
Căn cứ vào Nghị quyết của Quốc hội, Chủ tịch nước ký quyết định bổ nhiệm miễn
nhiệm, cách chức Phó thủ tướng, Bộ trưởng và các thành viên khác của Chính phủ.
(Khoản 2 Điều 88 Hiến pháp 2013).
Chủ tịch nước có quyền tham dự các phiên họp của Chính phủ. Trong trường hợp
xét thấy cần thiết, Chủ tịch nước có quyền yêu cầu Chính phủ họp bàn về các vấn
đề liên quan đến nhiệm vụ, quyền hạn của mình (Điều 90 Hiến pháp 2013).Đây là
một điểm mới trong Hiến pháp 2013 so với quy định của Hiến pháp 1992.
Quy định này thể hiện vai trò của Chủ tịch nước trong việc thực hiện chức
năng giám sát, thực hiện một phần chức năng của Quốc hội đối với Chính phủ, tạo
nên một cơ chế luôn luôn theo sát hoạt động của Chính phủ để phát hiện và xử lý
kịp thời các quyết định trái Hiến pháp và pháp luật. Bên cạnh đó, việc quy định Chủ
tịch nước được yêu cầu Chính phủ họp bàn về những vấn đề thuộc nhiệm vụ, quyền
hạn của Chủ tịch nước tạo Điều kiện cho quyết định của Chủ tịch nước dễ đi vào
thực tiễn và phù hợp với thực tế.







Trong lĩnh vực tư pháp
Chủ tịch nước đề nghị Quốc hội bầu chánh án Tòa án nhân dân tối cao, Viện trưởng
Viện kiểm sát nhân dân tối cao (Khoản 3 Điều 88 Hiến pháp 2013)
Chủ tịch nước căn cứ nghị quyết của Quốc hội bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức
Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao (Khoản 3 Điều 88 Hiến pháp 2013). Quy định
mới này cho thấy quyền hạn của Chủ tịch đã được củng cố và tăng cường hơn so
với quy định trong Hiến pháp cũ. Đồng thời, góp phần gia tăng hiệu quả giám sát
của Chủ tịch nước trong lĩnh vực tư pháp.

Chủ tịch nước bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức Phó chánh án Tòa án nhân dân tối
cao, thẩm phán của các Tòa án khác; Phó viện trưởng, kiểm sát viên Viện kiểm sát
nhân dân tối cao (khoản 3 Điều 88 Hiến pháp 2013). Quy định này phù hợp với yêu
cầu về cải cách tư pháp theo tinh thần Nghị quyết số 49/NQ/TW của bộ chính trị:
“Đổi mới và tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, phát huy vai trò các cơ quan dân
cử…đối với hoạt động tư pháp”. Quy định trên đã chuyển thẩm quyền bổ nhiệm


7



miễn nhiệm, cách chức Thẩm phán các tòa án nhân dân địa phương, Tòa án quân
sự, quân khu và tương đương, tòa án quân sự khu vực từ Chánh án tòa án nhân dân
tối cao sang Chủ tịch nước, nhằm làm rõ vai trò của Quốc hội, Chủ tịch nước với cơ
quan thực quyền cũng như cho thẩm phán an tâm, công minh khi đưa ra quyết định
nhân danh Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt nam. Tuy nhiên, tại luật tổ
chức tòa án năm 2014 vẫn không thể hiện được quyền hạn này của Chủ tịch nước.
Chủ tịch nước quyết định đặc xá, căn cứ vào nghị quyết của Quốc hội Chủ tịch
nước công bố quyết định đại xá (khoản 3 Điều 88 Hiến pháp 2013)
Hiến pháp mới sắp xếp bổ sung để làm rõ hơn nhiệm vụ, quyền hạn của Chủ
tịch nước trong suốt quan hệ với cơ quan lập pháp, hành pháp và tư pháp. Theo đó,
Hiến pháp 2013 vẫn giữ quy định về thẩm quyền công bố Hiến pháp, luật, pháp
lệnh và đề nghị Ủy ban thường vụ Quốc hội xem xét lại pháp lệnh của Chủ tịch
nước như quy định Hiến pháp 1992 (Khoản 1 Điều 88 Hiến pháp 2013). Tiếp tục
giữ quy định về thẩm quyền của Chủ tịch nước là đề nghị Quốc hội bầu, miễn
nhiệm, bãi nhiệm, cách chức Phó thủ tướng, bộ trưởng và các thành viên khác của
Chính phủ (Khoản 2 Điều 88 Hiến pháp 2013); làm rõ hơn thẩm quyền tham dự các
phiên họp của Chính phủ, yêu cầu Chính phủ bàn về vấn đề mà Chủ tịch nước xét
thấy cần thiết để thực hiện nhiệm vụ quyền hạn của mình (Điều 90 Hiến pháp

2013).
Bên cạnh đó, Hiến pháp mới bổ sung thêm thẩm quyền của Chủ tịch nước
trong việc đề nghị Quốc hội bầu, miễn nhiệm, bãi nhiệm, Chánh án Tòa án nhân dân
tối cao, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao (Khoản 3 Điều 88 Hiến pháp
2013), làm rõ hơn thẩm quyền bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức Thẩm phán Tòa án
nhân dân tối cao căn cứ vào nghị quyết phê chuẩn của Quốc hội; bổ sung nhiệm vụ
thẩm quyền bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức Thẩm phán các Tòa án khác đã phù
hợp với yêu cầu cải cách tư pháp (Khoản 3 Điều 88 Hiến pháp 2013). Đồng thời,
Hiến pháp bổ sung và làm rõ hơn thẩm quyền của Chủ tịch nước trong quyết định
đàm phán, ký kết các Điều ước quốc tế nhân danh Nhà nước; trình Quốc hội phê
chuẩn Điều ước quốc tế hoặc quyết định phê chuẩn, gia nhập Điều ước quốc tế theo
thẩm quyền do Quốc hội quy định; thống lĩnh lực lượng vũ trang nhân dân, giữ
chức Chủ tịch Hội đồng quốc phòng và an ninh; quyết định phong, thăng, giáng,
tước quân hàm cấp tướng, chuẩn đô đốc. phó đô đốc, đô đốc hải quân; bổ nhiệm,
miễn nhiệm cách chức Tổng tham mưu trưởng, Chủ nhiệm tổng cục chính trị Quân
đội nhân dân Việt nam (Khoản 5 Điều 88 Hiến pháp 2013). Hiến pháp cũng bổ sung
thêm quy định mới về quốc phòng và an ninh do Chủ tịch nước làm chủ tịch có


8

quyền quyết định việc lực lượng vũ trang nhân dân tham gia hoạt động góp phần
bảo vệ hòa bình ở khu vực và trên thế giới (Điều 89 Hiến pháp 2013).
Chủ tịch nước là một chế định quan trọng trong cơ chế tổ chức bộ máy nhà
nước ta, đóng vai trò vừa thực thi quyền lực, vừa giám sát các cơ quan hành pháp,
tư pháp, là một mấu chốt quan trọng trong việc đảm bảo xây dựng một nhà nước
pháp quyền, công bằng, dân chủ vì vậy quy định rõ ràng chặc chẽ hơn đối với các
quyền cơ bản của Chủ tịch nước. Xét về mặt tổ chức quyền lực Nhà nước có thể
thấy Chủ tịch nước không nằm trong bất kỳ cơ quan nhà nước nào mà đứng trên bộ
máy nhà nước. Chủ tịch nước có vai trò như là mắc xích Điều phối hoạt động giữa

cơ quan với nhau. Mặc dù nhiệm vụ quyền hạn không lớn nhưng bất kỳ một quốc
gia nào cũng cần có người đại diện, do đó vai trò của Chủ tịch nước – Nguyên thủ
quốc gia là rất quan trọng. Đồng thời chế độ đãi ngộ đối với Chủ tịch nước là rất
lớn.
1.3 Cách thức thành lập
Chủ tịch nước do Quốc hội bầu trong số các đại biểu Quốc hội theo sự giới
thiệu của Ủy ban thường vụ Quốc hội (Điều 87 Hiến pháp 2013). Như vậy, Điều
kiện để được bầu Chủ tịch nước, Phó Chủ tịch nước không khác gì so với Điều kiện
trở thành đại biểu Quốc hội. Hiến pháp 2013 không quy định về quốc tịch, xuất
thân, độ tuổi tối thiểu… của ứng cử viên cho chức vụ “nguyên thủ quốc gia” như ở
một số quốc gia khác1. Nghiên cứu lịch sử lập hiến Việt nam có 2 lần quy định Chủ
tịch nước đồng thời là Đại biểu Quốc hội, một lần không quy định (Hiến pháp
1959). Như vậy, Hiến pháp nước ta quy định Chủ tịch nước là một thiết chế độc lập,
không nằm trong bộ phận quyền lực nhà nước lập pháp, hành pháp hay tư pháp. Vị
trí pháp lý chung đó là hợp lý trong thể chế Nhà nước ta.
Nhiệm kỳ của Chủ tịch nước là 5 năm theo nhiệm kỳ của Quốc hội. Khi Quốc
hội hết nhiệm kỳ, Chủ tịch nước tiếp tục làm nhiệm vụ cho đến khi Quốc hội khoá
mới bầu ra Chủ tịch nước.
Một điểm mới của Hiến pháp 2013 là sau khi được bầu, Chủ tịch nước phải
tuyên thệ trung thành với Tổ quốc, Nhân dân và Hiến pháp2. Thật ra, không chỉ Chủ
tịch nước phải tuyên thệ mà ngay cả Chủ tịch Quốc hội, Thủ tướng Chính phủ,
1Ví dụ: Đối với chức danh Chủ tịch nước Công hòa nhân dân Trung Hoa và Tổng thống Singapore là 45
tuổi; Tổng thống Cộng hòa liên bang Đức là 40 tuổi; Tổng thốngMỹ, Ấn Độ là 35 tuổi,…
2Khoản 7 Điều 70 Hiến pháp 2013 quy định: “Sau khi được bầu, Chủ tịch nước, Chủ tịch Quốc hội, Thủ
tướng Chính phủ, Chánh án Tòa án nhân dân tối cao phải tuyên thệ trung thành với Tổ quốc, Nhân dân và
Hiến pháp”.


9


Chánh án tòa án nhân dân tối cao cũng phải tuyên thệ sau khi nhậm chức nhằm tạo
cơ sở quan trọng cho nhân dân thực hiện chức năng giám sát đối với những người
giữ chức vụ chủ chốt trong bộ máy nhà nước. Việc tuyên thệ của Chủ tịch nước còn
mang nhiều ý nghĩa sâu sắc. Trước hết, việc tuyên thệ của Chủ tịch nước phù hợp
với thông lệ quốc tế3. Thứ hai, lời tuyên thệ của Chủ tịch nước còn mang tính thiêng
liêng cao cả, đó là nguồn cảm hứng cho các tầng lớp nhân dân, tạo ra tính toàn vẹn
của bộ máy quyền lực và niềm tin của nhân dân vào chính quyền , từ đó hình thành
nên sự đồng thuận xã hội và xây dựng khối đại đoàn kết dân tộc. Thứ ba, lời tuyên
thệ của Chủ tịch nước nhấn mạnh tính tối cao của Hiến pháp, đó là lời cam đoan
vững chắc về việc Chủ tịch nước có trách nhiệm bảo vệ Hiến pháp theo Điều 119
Hiến pháp 2013.
Hiến pháp 2013 không có quy định nào đề cập đến số nhiệm kỳ liên tiếp mà
Chủ tịch nước được bầu và độ tuổi của ứng cử viên được bầu vào chức vụ Chủ tịch
nước. Chủ tịch nước đồng thời là Chủ tịch Hội đồng quốc phòng và an ninh.
Về Phó Chủ tịch nước: Theo Điều 92, 93 Hiến pháp 2013, Phó Chủ tịch nước
"giúp Chủ tịch nước thực hiện nhiệm vụ và có thể được Chủ tịch nước ủy nhiệm
thay Chủ tịch nước thực hiện một số nhiệm vụ". Ở đây có thể thấy, chức vụ cấp phó
của người đứng đầu Nhà nước cũng có đặc thù riêng cho với các chức vụ cấp phó
khác trong hệ thống tổ chức bộ máy nhà nước. Thông thường nhiệm vụ và quyền
hạn của cấp phó do cấp trưởng quy định, nhưng ở đây, nhiệm vụ và quyền hạn của
cấp phó của người đứng đầu Nhà nước do Hiến pháp quy định. Bên cạnh đó, Hiến
pháp cũng quy định việc Phó Chủ tịch nước giữ quyền Chủ tịch nước trong trường
hợp Chủ tịch nước không làm việc được trong thời gian dài; và trường hợp khuyết
Chủ tịch nước thì Phó Chủ tịch nước giữ quyền Chủ tịch nước cho đến khi Quốc hội
bầu ra Chủ tịch nước mới. Việc Hiến pháp quy định Phó Chủ tịch nước giữ quyền
Chủ tịch nước thể hiện vị trí pháp lý đặc biệt, đồng thời cũng thể hiện tính "biểu
tượng" của nguyên thủ quốc gia.
Về Hội đồng quốc phòng và an ninh: Cơ chế Hội đồng quốc phòng và an ninh
xuất hiện lần đầu tiên trong Hiến pháp 1959 với tên gọi "Hội đồng quốc phòng".
Đến Hiến pháp 1980, "Hội đồng quốc phòng" được quy định như là một cơ quan

thuộc Quốc hội. Hiến pháp 1992 đã tái thiết lập chế định Chủ tịch nước, quy định
3Theo mục 1, Điều II Hiến pháp Mỹ thì trong lễ nhậm chức, Tổng thống Mỹ phải đặt tay lên cuốn Kinh
Thánh để tuyên thệ như sau: “Tôi trịnh trọng tuyên thệ rằng tôi sẽ hành xử chức vụ Tổng thống Mỹ một
cách trung thành và sẽ cố gắng hết khả năng của mình để bảo tồn, che chở và bảo vệ Hiến pháp của nước
Mỹ”. Mặc dù không có luật nào quy định rằng lời tuyên thệ nhậm chức phải được một người đặc biệt nào
đó chủ trì nhưng các vị Tổng thống thường tuyên thệ trước sự chủ trì của Chánh án Tòa án Tối cao Mỹ.


10

"Hội đồng quốc phòng và an ninh" vẫn do Quốc hội thành lập nhưng không phải là
cơ quan thuộc Quốc hội. Theo đó, Điều 90 Hiến pháp 1980 quy định về Hội đồng
quốc phòng (đặt tại Chương VI Quốc hội) được chuyển thành Điều 104 Hiến pháp
1992 (đặt tại Chương VII Chủ tịch nước). Cùng với Hội đồng quốc phòng và an
ninh, để tiếp tục giúp Quốc hội trong lĩnh vực này, Quốc hội thành lập Ủy ban quốc
phòng và an ninh của Quốc hội. Hiến pháp 2013 tiếp tục giữ quy định về: cơ cấu
Hội đồng gồm Chủ tịch, Phó Chủ tịch và các Ủy viên; thẩm quyền phê chuẩn thành
viên Hội đồng; chế độ làm việc của Hội đồng là chế độ tập thể và quyết định theo
đa số; nhiệm vụ và quyền hạn của Hội đồng trong việc động viên mọi lực lượng và
khả năng của đất nước để bảo vệ Tổ quốc; và thực hiện những nhiệm vụ, quyền hạn
đặc biệt do Quốc hội giao trong trường hợp có chiến tranh. Hiến pháp 2013 bổ sung
hai nhiệm vụ và quyền hạn cho Hội đồng quốc phòng và an ninh phù hợp với yêu
cầu nhiệm vụ bảo đảm giữ vững quốc phòng - an ninh, bảo vệ Tổ quốc trong tình
hình mới, đó là: Hội đồng quốc phòng và an ninh trình Quốc hội quyết định tình
trạng chiến tranh, trường hợp Quốc hội không thể họp được thì trình Ủy ban thường
vụ Quốc hội quyết định; quyết định việc lực lượng vũ trang nhân dân tham gia hoạt
động góp phần bảo vệ hòa bình ở khu vực và trên thế giới. Theo Điều 34 Luật Quốc
phòng năm 2005, trong tình trạng chiến tranh, tình trạng khẩn cấp về quốc phòng,
Hội đồng quốc phòng và an ninh có nhiệm vụ, quyền hạn: quyết định động viên mọi
lực lượng và khả năng của nước nhà để bảo vệ Tổ quốc; quyết định các biện pháp

quân sự và Điều động lực lượng vũ trang nhân dân; quyết định các biện pháp nhằm
giữ ổn định an ninh chính trị, trật tự, an toàn xã hội phục vụ quốc phòng; chỉ đạo
các hoạt động tư pháp, ngoại giao thời chiến; thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn đặc
biệt khác khi được Quốc hội giao. Ở đây thiết nghĩ, để bảo đảm Hội đồng quốc
phòng và an ninh hoạt động có hiệu quả, cũng cần có nghiên cứu, bổ sung quy định
cụ thể hơn về cơ cấu tổ chức bộ máy giúp việc cho Hội đồng, cơ chế hoạt động của
Hội đồng và những nhiệm vụ, quyền hạn cụ thể của Hội đồng trong thời bình và
thời chiến...


11

1.4.

quan
nhà
nước

Mối quan hệ giữa Chủ tịch nước với các cơ quan Nhà nước ở trung ương

Quốc hội
(QH)

Ủy ban thường vụ
Quốc hội (UBTVQH)

Chính phủ (CP)

TANDTC và VKSNDTC


- Chủ tịch nước giới thiệu
để QH bầu Chánh án
TANDTC, Viện trưởng
VKSNDTC.
- CTN bổ nhiệm, Phó chánh
án TANDTC; Phó viện
trưởng VKSNDTC. Căn cứ
Nghị quyết Qh bổ nhiệm
Thẩm phán TANDTC.
- Chánh án TANDTC và
Viện trưởng VKSNDTC
trình CTN ý kiến của mình
về những trường hợp ân
giảm án tử hình.
- Viện trưởng VKSNDTC
báo cáo CTN về những
trường hợp Viện trưởng
VKSNDTC không nhất trí
với ý kiến đa số thành viên

Mối
quan hệ

Trong
cách
thành
lập

Trong
hoạt

động

Chủ tịch nước do QH bầu trong
số các đại biểu QH theo sự giới
thiệu của UBTVQH, có nhiệm
kỳ theo nhiệm kỳ QH.

UBTVQH giới thiệu để
QH bầu Chủ tịch nước
trong số các đại biểu
QH.

- Chủ tịch nước giới thiệu để QH
bầu Thủ tướng Chính phủ trong
số các Đại biểu QH.
- Căn cứ Nghị quyết QH, CTN ra
quyết định bổ nhiệm Phó thủ
tướng và các thành viên khác
của CP.

- Với tư cách là Đại biểu Quốc
hội, Chủ tịch nước có đầy đủ tất
cả các quyền của người đại biểu.
- Ngoài ra, với tư cách là
Nguyên thủ quốc gia, trong mối
quan hệ với QH, Chủ tịch nước
còn có những nhiệm vụ quyền
hạn sau:
+ Yêu cầu UBTVQH triệu tập
QH họp bất thường.

+ Đề nghị Quốc hội họp kín.

- Tham dự các phiên họp
của UBTVQH (có quyền
phát biểu nhưng không
có quyền biểu quyết)
- Công bố Pháp lệnh của
UBTVQH
- Căn cứ vào Nghị quyết
của UBTVQH để ra lệnh
tổng động viên hoặc
động viên cục bộ, công
bố, bãi bỏ tình trạng

- Yêu cầu CP họp bàn về vấn đề
mà CTN xét thấy cần thiết để
thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn
của CTN (Điều 90)
- CP sẽ mời CTN đến tham dự
các phiên họp của Cp và trình
CTN quyết định những vấn đề
thuộc thẩm quyền của CTN.


12

+ Công bố Hiến pháp, luật, Nghị
quyết Quốc hội.
+ Căn cứ Nghị quyết QH đề ra
các quyết định về việc bổ nhiệm,

miễn nhiệm, cách chức Phó thủ
tướng, Bộ trưởng và các thành
viên khác của Chính phủ; công
bố, bãi bỏ quyết định tuyên bố
tình trạng chiến tranh, công bố
quyết định đại xá.
+ Đề nghị QH bầu, miễn nhiệm,
bãi nhiệm Phó Chủ tịch nước,
Thủ tướng, Chánh án TAND tối
cao, Viện trưởng VKSNDTC; đề
nghị danh sách thành viên Hội
đồng quốc phòng và an ninh
trình QH phê chuẩn.
Trong - Chịu trách nhiệm và báo cáo
công tác trước QH.
việc
- Trả lời chất vấn của Đại biểu
kiểm
tra, giám QH.
- QH có quyền bãi bỏ văn bản
sát
của Chủ tịch nước trái với Hiến
pháp, luật, nghị quyết của QH.
- QH có quyền miễn nhiệm, bãi
nhiệm Chủ tịch nước
- QH bỏ phiếu bất tín nhiệm với
Chủ tịch nước.

Ủy ban kiểm sát VKSNDTC.


khẩn cấp; trong trường
hợp UBTVQH không
thể họp được công bố,
bãi bỏ tình trạng khẩn
cấp trong cả nước hoặc ở
từng địa phương.
- Đề nghị UBTVQH
triệu tập QH họp bất
thường.

- Đề nghị UBTVQH xem
xét lại Pháp lệnh trong
thời hạn 10 ngày kể từ
ngày Pháp lệnh được
thông qua; nếu Pháp
lệnh đó vẫn được
UBTVQH tán thành mà
CTN vẫn không nhất trí
CTN trình QH quyết
định trong kỳ họp gần
nhất.

- Trong thời gian QH không
họp, CP, Thủ tướng CP phải báo
cáo công tác với CTN (hàng
quý, sáu tháng, CP gửi báo cáo
công tác đến CTN).
- CTN có quyền đề nghị QH bãi
nhiệm, miễn nhiệm Thủ tướng
CP.

- Căn cứ Nghị Quyết QH, CTN ký
quyết định miễn nhiệm, bãi
nhiệm, cách chức Phó Thủ

- Trong thời gian QH
không họp, Chánh án
TANDTC và Viện trưởng
VKSNDTCphải báo cáo
công tác và chịu trách
nhiệm trước CTN.
- CTN có quyền đề nghị QH
bãi nhiệm, miễn nhiệm
Chánh án TANDTC, Viện
trưởng VKSNDTC.
- CTN có quyền miễn


13

- UBTVQH có quyền đề
nghị QH bãi nhiệm,
miễn nhiệm, bỏ phiếu
bất tín nhiệm với Chủ
tịch nước.

tướng, Bộ trưởng và các thành
viên khác của CP.
- QH không họp, CTN có quyền
tạm thời đình chỉ công tác Phó
thủ tướng, Bộ trưởng và các

thành viên khác của CP theo đề
nghị Thủ tướng.

nhiệm, cách chức Phó
chánh án TANDTC, Phó
viện trưởng, Kiểm sát viên
VKSNDTC. Căn cứ Nghị
quyết của QH miễn nhiệm,
cách chức Thẩm phán
TANDTC.

Tóm lại, thông qua việc nghiên cứu mối quan hệ giữa Chủ tịch nước với các cơ quan lập pháp, hành pháp, tư pháp, chúng ta
nhận thấy tuy Chủ tịch nước không nằm trong cơ quan đó nhưng vẫn có những tác động và ảnh hưởng nhất định đến tổ chức và
hoạt động của chúng (thông qua cách thức thành lập, hoạt động, báo cáo công tác và chế độ trách nhiệm). Qua đó, Chủ tịch nước là
một thiết chế quan trọng trong việc điều hòa, phối hợp hoạt động; là một mắc xích quan trong trong việc giữ các mối liên hệ giữa
các cơ quan lập pháp, hành pháp và tư pháp.


14

CHƯƠNG 2: SO SÁNH TOÀN DIỆN VỀ VAI TRÒ CHỦ TỊCH NƯỚC THEO HIẾN
PHÁP 2013 VỚI HIẾN PHÁP 1946, 1992 VÀ NGUYÊN THỦ QUỐC GIA THEO
HIẾN PHÁP MỸ

2.1 So sánh về vai trò của Chủ tịch nước theo Hiến pháp 2013 và Hiến pháp
1946
Giống nhau:
• Vị trí pháp lý, tính chất: Chủ tịch nước là người đứng đầu Nhà nước, thay
mặt Nhà nước về đối ngoại và đối nội.
• Cách thức thành lập:

- Do cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất bầu (Khoản 1 Điều 45 Hiến pháp 1946
và Điều 87 Hiến pháp 2013).
- Nhiệm kỳ đều là 5 năm. Không giới hạn số nhiệm kỳ liên tiếp mà CTN được bầu
và độ tuổi của ứng cử viên được bầu vào chức Chủ tịch nước.
- Phó chủ tịch nước giúp Chủ tịch nước thực hiện nhiệm vụ (Điều 46 Hiến pháp
1946 và Điều 92 Hiến pháp 2013). Trong trường hợp khuyết Chủ tịch nước thì
Phó chủ tịch nước tạm quyền Chủ tịch cho đến khi Quốc hội bầu Chủ tịch mới.
Nhiệm vụ, quyền hạn :
Về cơ bản thì nhiệm vụ quyền hạn của Chủ tịch nước trong Hiến pháp
1946 và 2013 gồm Các nhiệm vụ, quyền hạn của Chủ tịch nước liên quan đến
chức năng đại diện, thay mặt Nhà nước về đối nội và đối ngoại và Các nhiệm vụ,
quyền hạn của Chủ tịch nước liên quan đến việc Điều phối hoạt động giữa các
nhánh quyền lực lập pháp, hành pháp và tư pháp, tuy nhiên có những khác biệt
sẽ được phân tích trong bảng sau.



15

Khác nhau :
Nội
dung

Hiến pháp 1946

Chế định Chủ tịch nước thuộc Chương IV
Chính phủ trong Hiến pháp 1946.
1. Tính
Chủ tịch nước có hai vị trí trong bộ máy nhà
chất, vị nước:

trí pháp - Đứng đầu nhà nước – nguyên thủ quốc gia.

- Vừa đứng đầu Chính phủ - là người đứng đầu
cơ quan hành chính cao nhất của toàn quốc.
(Điểm d Điều 49 Hiến pháp 1946)
Theo quy định tại Điều 49 Hiến pháp 1946 Chủ
tịch nước có quyền hạn rất lớn:
- Chủ trì các phiên họp của Chính phủ (Điều 49).
2.
Nhiệm vụ,
quyền
hạn

Có quyền ban hành sắc lệnh có giá trị như luật.
Yêu cầu Nghị viện xem xét lại các dự luật đã
thông qua (Điều 31), thảo luận lại việc bất tín
nhiệm đối với Nội các (Điều 54).

-

Chủ tịch nước còn là tổng chỉ huy quân đội
(Điều 49).

Hiến pháp 2013
Chế định Chủ tịch nước được quy định tại một chương độc lập
Chương VI Chủ tịch nước.
Chủ tịch nước là một nhánh độc lập tách bạch với Chính phủ
- Là người đứng đầu Nhà nước thay mặt Nhà nước CHXHCN VN
về đối nội và đối ngoại (Điều 86 Hiến pháp 2013).


Theo quy định tại Hiến pháp 2013 quyền hạn của Chủ tịch nước
hạn chế hơn:
- Chủ tịch nước có quyền yêu cầu Chính phủ họp bàn về vấn đề mà
Chủ tịch nước xét thấy cần thiết để thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn
của Chủ tịch nước (Điều 90).
- Chỉ quyền ban hành lệnh và có giá trị dưới luật.
- Chủ tịch nước phải chịu trách nhiệm hợp thức hóa, công bố hiến
pháp, luật của Quốc hội chậm nhất 15 ngày kể từ ngày Quốc hội
thông qua (không có quyền phủ quyết); chỉ có quyền đề nghị
UBTVQH xem xét lại các pháp lệnh trong thời hạn 10 ngày
(Khoản 1 Điều 88).
- Chỉ thống lĩnh các lực lượng vũ trang nhân dân và là Chủ tịch Hội
đồng quốc phòng và an ninh.


16

3. Cách
thức
thành
lập

Do Nghị viện nhân dân bầu trong số các thành viên Nghị viện. Chủ tịch nước phải được 2/3 tổng
số Nghị viện bỏ phiếu thuận, nếu bỏ phiếu lần đầu mà không đủ số phiếu ấy thì lần thứ nhì sẽ theo đa
số tương đối (Điều 45).

4.
Nhiệm kỳ của Chủ tịch nước (5 năm) dài hơn
Nhiệm nhiệm kỳ của Nghị viện (3 năm).
kì của

CTN so
với QH
5. Trách
- Chủ tịch nước không chịu một trách nhiệm
nhiệm
nào, trừ tội phản bội Tổ quốc (Điều 50).
của Chủ
- Nếu Chủ tịch nước phạm tội phản bội Tổ
tịch
quốc thì Nghị viện phải thành lập một Tòa án
nước
đặc biệt để xét xử (Điều 51).
trước
QH

Chủ tịch nước do Quốc hội bầu trong số đại biểu Quốc hội theo sự
giới thiệu của UBTVQH (Điều 87).
Chủ tịch nước phải tuyên thệ trung thành với Tổ quốc, Nhân dân
và Hiến pháp.

Nhiệm kỳ CTN theo nhiệm kỳ Quốc hội (5 năm). Khi Quốc hội hết
nhiệm kỳ Chủ tịch nước vẫn làm nhiệm vụ cho đến khi Quốc hội
khóa mới bầu được Chủ tịch nước mới.
- Chủ tịch nước chịu trách nhiệm và báo cáo công tác trước Quốc hội
(Điều 87). Quốc hội có quyền:
+ Xét báo cáo công tác của Chủ tịch nước.
+ Miễn nhiệm, bãi nhiệm Chủ tịch nước.
+ Bỏ phiếu tín nhiệm Chủ tịch nước.
+ Bãi bỏ văn bản của Chủ tịch nước.
+ Đại biểu Quốc hội có quyền chất vấn Chủ tịch nước.



17

Nhận xét:
• Về vị trí pháp lý:
Nguyên nhân cơ bản dẫn đến sự khác nhau trong cơ cấu tổ chức và hoạt động
của Chủ tịch nước trong Hiến pháp 1946 và Hiến pháp 2013 là vị trí pháp lí của
Chủ tịch nước được quy định khác nhau trong Hiến pháp 1946 và Hiến pháp 2013.
Theo Hiến pháp 1946 thì Chủ tịch nước vừa đứng đầu quốc gia vừa trực tiếp
chỉ đạo hoạt động của Chính phủ, có vai trò như một Tổng thống của các nước cộng
hòa hỗn hợp; và theo đó với vai trò đứng đầu cơ quan hành pháp là Chính phủ thì
Chủ tịch nước thực hiện các quyền hạn của mình nhằm đảm bảo cho Chính phủ
hoạt động độc lập nhưng đồng thời cũng thực hiện chức năng kiểm soát quyền lực
với cơ quan lập pháp là Nghị viện nhân dân và cơ quan tư pháp là tòa án.
Trong khi đó theo Hiến pháp 2013 thì Chủ tịch nước tách bạch độc lập với
Chính phủ, là người đứng đầu Nhà nước, do Quốc hội lập ra và dưới quyền Quốc
hội. Do đó, Chủ tịch nước trong Hiến pháp 2013 không có quyền hành pháp cũng
như quyền tư pháp, nên Chủ tịch nước không có quyền lực lớn như Chủ tịch nước
trong Hiến pháp 1946 mà Chủ tịch nước trong Hiến pháp 2013 phải báo cáo công
tác và chịu trách nhiệm trước Quốc hội, chỉ được thực hiện một số quyền đề nghị và
đại diện, không có thực quyền để kiểm soát quyền lực của bất cứ nhánh quyền lực
nào.


Về nhiệm vụ, quyền hạn:
Đối với Hiến pháp 1946:

Chủ tịch nước nắm quyền hành pháp cao nhất cũng là đảm bảo cho hoạt động
của các cơ quan nhà nước được thông suốt từ trung ương cho đến địa phương. Với

quyền hạn này Chủ tịch nước có quyền chỉ, chỉ đạo tối đa trên nhiều phương diện,
lĩnh vực quản lý nhà nước lúc bấy giờ.Chủ tịch nước là người đứng đầu cơ quan
hành chính nhà nước ở trung ương là một quyền hạn lớn cho Chủ tịch nước, giúp
huy động nguồn lực để ứng phó với bất kỳ tình huống nào xảy ra.Chủ tịch nước còn
là tổng chỉ huy quân đội toàn quốc, chỉ định hoặc cách chức các tướng soái
trong lục quân, hải quân hoặc không quân.
Tính chất đứng đầu Nhà nước (nguyên thủ quốc gia) của Chủ tịch nước thể
hiện ở chỗ: Chủ tịch nước thay mặt cho nước, giữ quyền tổng chỉ huy quân đội toàn
quốc, bổ nhiệm thủ tướng, Nội các, ban bố các đạo luật đã được Nghị viện quyết
nghị, thưởng huy chương và bằng cấp danh dự, đặc xá, kí hiệp ước với các nước,
phái đại biểu Việt nam đến nước ngoài và tiếp nhận đại biểu ngoại giao của các
nước, tuyên chiến hay đình chiến. Vị trí đứng đầu Nhà nước này cũng giống như ở


18

các nước dân chủ, là có sự phân công phối hợp giữa Nghị viện, Ban thường vụ và
Chủ tịch nước.
Điều đáng chú ý là các quy định này dường như có lợi cho Đảng cộng sản Việt
nam vì Đảng này vừa mới vừa chuyển ra hoạt động công khai nên rất cần có sự bảo
vệ của lực lượng vũ trang của quốc gia để chống lại các lực lượng đối lập đang tập
trung công kích. Cần nói thêm là quyền hạn này được trao cho Chủ tịch nước, tức là
Hồ Chí Minh, người sáng lập Đảng Cộng sản Việt Nam.
Thông qua chế định Chủ tịch nước này, Đảng Cộng sản Việt nam đã có Điều
kiện nhằm tập trung toàn bộ sức mạnh thống lĩnh lực lượng vũ trang quân đội, tránh
sự phân tán quyền lực không cần thiết gây cản trở ít nhiều trong hoạt động, đồng
thời có tác dụng giúp Chủ tịch nước huy động sức người tối đa, tổng động viên khi
cần thiết, bảo vệ chính quyền (do Việt Minh đang kiểm soát), các cơ quan của Đảng
cộng sản từ trung ương cho đến địa phương. Trong giai đoạn này Hồ Chí Minh thật
sự có những quyền hạn to lớn như: Chủ tịch nước kiêm thủ tướng Chính phủ kiêm

bộ trưởng bộ ngoại giao, đồng thời là tổng tư lệnh các lực lượng vũ trang và là chủ
tịch Đảng Cộng sản.
Tại thời điểm đó, Nghị viện nhân dân của nước Việt nam Dân chủ Cộng
hòa khá phức tạp và đa dạng với sự tham gia của nhiều Đảng phái lớn nhỏ trong
nước, đặc biệt là sự hiện diên của hai Đảng Việt Quốc, Việt Cách có xu hướng thân
Tưởng (được quân tưởng đỡ đầu và bảo trợ), có khuynh hướng chống lại Đảng
Cộng sản. Trong 333 ghế đại biểu nghị viên, có 70 ghế cho đại biểu của hai Đảng
này (không thông qua bầu cử). Đây là Điều rất bất lợi cho nghị viện trong việc
thông qua những chính sách do Đảng cộng sản dự thảo.
Chủ tịch nước có quyền phủ quyết (veto) những đạo luật của nghị viện, đặc
biệt là những đạo luật không có lợi cho chính sách của Đảng Cộng sản, quyết định
bất lợi đối với Việt Minh. Quyền hạn này rất giống với Tổng thống Mỹ trong việc
phủ quyết các đạo luật của nghị viện kiềm chế quyền lực và đối trọng với nghị viện
(trong trường hợp Nghị viện bị các Đảng đối lập chiếm đa số). Đây là điểm cho
thấy sự ảnh hưởng của bản Hiến pháp Mỹ năm 1787, đặc biệt vận dụng vào hoàn
cảnh Việt nam lúc này là rất phù hợp cho lực lượng cộng sản.
Theo Hiến pháp 1946, Chủ tịch nước có quyền phủ quyết các dự án Luật đã
được Nghị viện thông qua.Trong trường hợp Nghị viện vẫn thông qua dự thảo, thì
Chủ tịch nước buộc phải công bố (Điều 31).Quyền hạn này của Chủ tịch nước
giống với quyền phủ quyết các dự luật của Tổng thống Mỹ. Điều này cho thấy Hiến


19

pháp 1946 phần nào chịu ảnh hưởng của cơ chế phân chia quyền lực cứng rắn trong
chế độ cộng hòa Tổng thống.
Hiến pháp năm 1946 đã sáng tạo một chế định Chủ tịch nước được cho là khá
độc đáo mang hình ảnh cả một vị Tổng thống của nước tư sản để phù hợp hợp với
Điều kiện lịch sử của Việt nam (đáng chú ý là Chủ tịch nước có quyền phủ quyết
các dự luật của Quốc hội quyền phủ quyết tương đối, thảo luận và biểu quyết lại về

sự bất tín nhiệm với Nội các)
Đối với Hiến pháp 2013:
Chủ tịch nước là người đứng đầu nhà nước, thay mặt nhà nước về đối nội và
đối ngoại "Chủ tịch nước là người đứng đầu Nhà nước, thay mặt nước Cộng hoà xã
hội chủ nghĩa Việt nam về đối nội và đối ngoại" – Điều 86 Hiến pháp 2013 Chủ tịch
nước chỉ đóng vai trò nguyên thủ quốc gia, người đứng đầu Nhà nước, thay mặt
nước ta về đối nội và đối ngoại, chứ không đứng đầu Chính phủ như chế định Chủ
tịch nước trong Hiến pháp năm 1946.
Với Chế định Chủ tịch nước của Hiến pháp 2013, Chủ tịch nước chỉ còn là
người đứng đầu bộ máy nhà nước Việt nam trên danh nghĩa, các quyền lực trong
các bản Hiến pháp trước đây hầu như đã bị thu hẹp và được giao lại cho Quốc
hộihay Chính phủ. Điều này cho thấy tư duy của nhà lập hiến trong việc xây dựng
hình ảnh Chủ tịch nước trong vai trò Điều phối hoạt động, Điều hòa mối quan hệ
của các nhánh lập pháp, hành pháp và tư pháp và bảo đảm sự thông suốt trong quá
trình vận hành của cả hệ thống cơ quan nhà nước.
Hiến pháp năm 2013 kế thừa có chắt lọc những tinh hoa của Hiến pháp 1946,
1959, 1980, 1992. Với thể chế chủ tịch tập thể như đã quy định trong Hiến pháp
năm 1980 có nhiều nhược điểm như không nhanh nạy, không linh hoạt và khó khăn
trong việc đối ngoại cho nên định Chủ tịch nước được khôi phục trở lại khá giống
với chế định Chủ tịch nước năm 1959. Tuy nhiên, Chủ tịch nướcHiến pháp năm
2013 quyền hạn không rộng như Chủ tịch nước năm 1946 và năm 1959, chỉ là
người đứng đầu về đối nội và đối ngoại thuần túy giống Hiến pháp 1992.
Thẩm quyền của Chủ tịch nước liên quan đến “đàm phán, ký Điều ước quốc
tế” trong Hiến pháp năm 2013 cũng được quy định rõ ràng, chính xác, đầy đủ hơn
Khoản h Điều 48 Hiến pháp năm 1946 quy định, Chủ tịch nước“Ký hiệp ước với
các nước”. Theo Khoản 4 Điều 2 Luật Ký kết, gia nhập và thực hiện Điều ước quốc
tế năm 2005 thì “Ký kết là những hành vi pháp lý do người hoặc cơ quan nhà nước
có thẩm quyền thực hiện, bao gồm đàm phán, ký, phê chuẩn, phê duyệt Điều ước



20

quốc tế hoặc trao đổi văn kiện tạo thành Điều ước quốc tế”. Điều ước quốc tế là
“một hiệp định quốc tế được ký kết bằng văn bản giữa các quốc gia và được pháp
luật quốc tế Điều chỉnh, dù được ghi nhận trong một văn kiện duy nhất hoặc trong
hai hay nhiều văn kiện có quan hệ với nhau và bất kể tên gọi riêng của nó là gì”4.
Như vậy, một Điều ước quốc tế có thể được đặt tên là Công ước, Hiệp ước, Hiệp
định, Hiến chương, Quy chế, Tuyên bố… tùy theo sự thỏa thuận của các quốc gia
tham gia vào Điều ước quốc tế mà không ảnh hưởng tới bản chất của văn bản được
ký kết – sự ràng buộc tự nguyện đối với các quyền và nghĩa vụ pháp lý giữa các
quốc gia với nhau. Sự chấp nhận ràng buộc đó cũng có thể được thể hiện ở những
hành động khác nhau như “ký kết, phê chuẩn, chấp thuận, phê duyệt hoặc gia nhập,
hoặc bằng mọi cách khác được thỏa thuận như vậy” 5. Do đó, cách quy định như
Hiến pháp năm 1946, Chủ tịch nước “ký hiệp ước với các nước” là chưa đầy đủ,
phạm vi thẩm quyền hẹp hơn rất nhiều so với quy định trong Hiến pháp 2013. Khắc
phục điểm thiếu xót này, Hiến pháp năm 2013 quy định rõ ràng hơn là: “Chủ tịch
nước quyết định đàm phán, ký Điều ước quốc tế nhân danh Nhà nước”.
Theo Hiến pháp 2013, Chủ tịch nước phải chịu trách nhiệm và báo cáo công
tác trước Quốc hội (Điều 87). Quốc hội quy định tổ chức và hoạt động của Chủ tịch
nước. Có điều này bởi Hiến pháp 2013 phần nào chịu ảnh hưởng của thuyết tập
quyền xã hội chủ nghĩa, coi quyền lực tập trung thống nhất về Quốc hội.
Theo Khoản 1 Điều 88 Hiến pháp 2013 quy định:“Công bố Hiến pháp, luật,
pháp lệnh; Đề nghị Ủy ban thường vụ Quốc hội xem xét lại pháp lệnh trong thời
hạn mười ngày, kể từ ngày pháp lệnh được thông qua, nếu pháp lệnh đó vẫn được
Ủy ban thường vụ Quốc hội biểu quyết tán thành mà Chủ tịch nước vẫn không nhất
trí thì Chủ tịch nước trình Quốc hội quyết định tại kỳ họp Quốc hội lần thứ nhất;”
Đây không hẳn là quyền phủ quyết của Chủ tịch nước bởi quyền phủ quyết thường
nảy sinh trong cơ chế Nhà nước có sự kiềm chế, đối trọng, còn ở nước ta hiện nay
giữa Quốc hội, Ủy ban thường vụ Quốc hội, Chủ tịch nước là thống nhất nên không
có vấn đề phủ quyết nhau. Thực chất vấn đề nằm ở chỗ, Hiến pháp quy định cho Ủy

ban thường vụ Quốc hội được ban hành pháp lệnh – loại văn bản có tính chất luật –
lẽ ra phải do Quốc hội ban hành dưới hình thức luật nên cần phải thận trọng. Sự
tham gia của Chủ tịch nước nhằm phối hợp giải quyết các vấn đề quan trọng đó một
cách chính xác nhất.

4Công ước viên về Luật Điều ước quốc tế 1969
5Công ước viên về Luật Điều ước quốc tế 1969


21



“…ban hành lệnh, quyết định để thực hiện nhiệm vụ quyền hạn của mình”
(Điều 91). Quyền hạn này của Chủ tịch nước chưa được quy định trong Hiến pháp
1946.
Trong lĩnh vực hành pháp
Hiến pháp 1946, Chủ tịch nước là thành viên Chính phủ, trực tiếp điều hành
Chính phủ, trực tiếp điều hành Chính phủ bằng cách chủ tọa các phiên họp Chính
phủ (Điểm d Điều 48). Tại Điều 90 Hiến pháp năm 2013 quy định: “Chủ tịch nước
có quyền tham dự phiên họp của Chính phủ”. “Khi cần thiết, Chủ tịch nước yêu
cầu Chính phủ họp bàn về những vấn đề thuộc nhiệm vụ, quyền hạn của Chủ tịch
nước”. Đây là một bước tiến rất lớn trong tư duy lập hiến ở nước ta. Thứ nhất, theo
quy định của Hiến pháp năm 2013 thì Chủ tịch nước chỉ đứng đầu Nhà nước mà
không đứng đầu Chính phủ - cơ quan hành chính cao nhất của nước ta - nên không
thể chủ tọa các phiên họp của Chính phủ, mà chỉ yêu cầu Chính phủ họp bàn về
những vấn đề thuộc nhiệm vụ, quyền hạn của Chủ tịch nước. Thứ hai, về cơ chế
chịu trách nhiệm thì Thủ tướng Chính phủ là người đứng đầu Chính phủ, do đó, Thủ
tướng Chính phủ phải chịu trách nhiệm trước Quốc hội về hoạt động của Chính phủ
(Khoản 2 Điều 95 Hiến pháp năm 2013). Trong trường hợp Thủ tướng Chính phủ

chủ tọa các phiên họp Chính phủ mà có những quyết sách chưa phù hợp thì cơ chế
chịu trách nhiệm đã được quy định rõ ràng, trong khi đó, nếu Chủ tịch nước chủ tọa
các phiên họp Chính phủ mà có những sai sót thì không thể “đổ dồn” trách nhiệm
cho Thủ tướng Chính phủ. Việc dồn trách nhiệm của Chủ tịch nước sang cho Thủ
tướng trong trường hợp này hoàn toàn không hợp lý. Thứ ba, xuất phát từ mô hình
thể chế bộ máy nhà nước Việt nam hiện nay, Hiến pháp năm 2013 không quy định
Chủ tịch nước chủ tọa các phiên họp Chính phủ nói riêng và trực tiếp Điều hành
hành pháp nói chung là hợp lý, bởi nếu thừa nhận quyền này thì đã có sự chuyển đổi
chính thể từ mô hình Việt nam hiện nay (có nhiều tính chất đại nghị) sang mô hình
chế độ Tổng thống hoặc bán Tổng thống. Điều này có thể thay đổi không chỉ thể
chế nhà nước mà cả thể chế chính trị nói chung.
Từ trong cội nguồn tổ chức nhà nước, chế định nguyên thủ quốc gia luôn luôn
là một chế định tiềm tàng để xử lý các tình huống cần kịp phòng khi các chế định
dân chủ khác đã không còn tác dụng 6. Nói cách khác, với vị trí đứng đầu nhà nước,
thay mặt cho đất nước, đại diện cho sự tập trung, thống nhất, đoàn kết quốc gia,
6Bùi Xuân Đức, Sự kế thừa, phát triển chế định Chủ tịch nước trong Hiến pháp 1946 qua các bản Hiến
pháp Việt nam và một số yêu cầu đổi mới, Kỷ yếu Hội thảo khoa học “Phát huy những giá trị chính trị,
pháp lý của Hiến pháp 1946 trong sự nghiệp đổi mới hiện nay” do Trung tâm Thông tin, Thư viện và
Nghiên cứu khoa học – Văn phòng Quốc hội tổ chức.


22

nguyên thủ quốc gia có lợi thế đặc biệt trong việc quyết định tình huống khẩn cấp
của đất nước.
Theo Khoản 13 Điều 70 Hiến pháp năm 2013, Quốc hội “quy định về tình
trạng khẩn cấp”. Theo Khoản 10 Điều 74 Hiến pháp năm 2013, UBTVQH “ban bố,
bãi bỏ tình trạng khẩn cấp trong cả nước hoặc ở từng địa phương”. Khi UBTVQH
ban bố tình trạng khẩn cấp thì Chính phủ có nghĩa vụ “thi hành lệnh động viên, lệnh
ban bố tình trạng khẩn cấp và các biện pháp cần thiết khác để bảo vệ Tổ quốc, bảo

đảm tính mạng, tài sản của Nhân dân” (Khoản 3 Điều 96 Hiến pháp năm 2013).
“Các biện pháp cần thiết khác” ở đây có thể là trưng mua, trưng dụng tài sản của tổ
chức, cá nhân 7 hay trưng dụng đất8 nhằm đáp ứng về mặt nhân lực, vật lực ứng phó
với tình trạng khẩn cấp. Đồng thời, Hiến pháp quy định cho Chủ tịch nước có quyền
“công bố, bãi bỏ tình trạng khẩn cấp trong cả nước hoặc ở từng địa phương trong
trường hợp UBTVQH không thể họp được” (Khoản 5 Điều 88 Hiến pháp năm
2013). Đây là một quy định rất có ý nghĩa trong việc chủ động ứng phó và khắc
phục tình trạng khẩn cấp. Điều khoản này không chỉ đề cao vai trò của Chủ tịch
nước mà còn đáp ứng yêu cầu kết hợp hài hòa giữa quyền lập pháp với quyền hành
pháp.


Trong lĩnh vực tư pháp
Hiến pháp 1946 chưa quy định rõ về mối quan hệ giữa Chủ tịch nước với các
cơ quan tư pháp mà chỉ nói rằng các viên Thẩm phán đều do Chính phủ bổ nhiệm
(Điều 64)
Hiến pháp 2013 quy định Chủ tịch nước đề nghị Quốc hội bầu, miễn nhiệm,
bãi nhiệm Chánh án Tòa án nhân dân tối cao, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân
tối cao; căn cứ vào nghị quyết của Quốc hội, bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức
Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao; bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức Phó Chánh
án Tòa án nhân dân tối cao,Thẩm phán các Tòa án khác, Phó viện trưởng, Kiểm sát
viên Viện kiểm sát nhân dân tối cao; (Khoản 3 Điều 88)
Cách thức thành lập
Một điểm khác Việc bầu Phó chủ tịch nước chọn trong nhân dân (Điều 46
Hiến pháp 1946), còn Phó chủ tịch nước trong Hiến pháp 2013 do Quốc hội bầu
trong số Đại biểu Quốc hội (Điều 92).


7Khoản 3, Điều 32 Hiến pháp năm 2013
8Khoản 4, Điều 54 Hiến pháp năm 2013



23

2.2 So sánh về vai trò của Chủ tịch nước theo Hiến pháp 2013 và Hiến
pháp 1992
Giống nhau:
Chế định nguyên Thủ quốc gia theo Hiến pháp 1992 và Hiến pháp 2013
không có sự khác biệt lớn, đều tồn tại dưới hình thức Chủ tịch nước.
• Về vị trí pháp lý:
Nguyên thủ Quốc gia tại Việt Nam là Chủ tịch nước. Chủ tịch nước là đứng
đầu Nhà nước, thay mặt nhà nước về đối nội, đối ngoại (Điều 101 Hiến pháp và
Điều 86 Hiến pháp 2013).
• Về cơ cấu tổ chức hoạt động:
Do Quốc hội bầu ra (Điểm 1 Điều 102 Hiến pháp 1992 và Điểm 1 Điều 87
Hiến pháp 2013); nhiệm kỳ đều là 5 năm (Điểm 3 Điều 102 Hiến pháp 1992 và
Điểm 3 Điều 87 Hiến pháp 2013); Việc bầu Phó Chủ tịch nước – được bầu trong số
đại biểu Quốc hội - giúp chủ tịch làm nhiệm vụ và có thể tạm quyền Chủ tịch cho
đến khi Quốc hội bầu Chủ tịch mới – (Điều 107, 108 Hiến pháp 1992 và Điều 92,
93 Hiến pháp 2013).
• Về nhiệm vụ quyền hạn:
Nhóm các nhiệm vụ, quyền hạn liên quan đến chức năng đại diện, thay mặt
nhà nước về đối ngoại: cử, triệu hồi đại biểu Việt Nam đến nước ngoài, tiếp nhận
đại biểu ngoài đến Việt Nam và thay mặt Nhà nước đàm phán, ký kết các hiệp
(Điểm 10 Điều 103 Hiến pháp 1992 và Điểm 6 Điểm 88 Hiến pháp 2013); công bố,
bãi bỏ tình trạng chiến tranh theo nghị quyết của Quốc hội hoặc Uỷ ban thường vụ
Quốc hội – (Điểm 5 Điều 103 Hiến pháp 1992 và Điểm 5 Điều 88 Hiến pháp 2013);
thưởng huân, huy chương và cấp các bằng danh dự (Điểm 9 Điều 103 Hiến pháp
1992 và Điểm 4 Điều 88 Hiến pháp 2013); thống lĩnh các lực lưỡng vũ trang nhân
dân và giữ chức vụ Chủ tịch Hội đồng Quốc phòng và An ninh – (Điểm 2 Điều 103

Hiến pháp 1992 và Điểm 5 Điều 88 Hiến pháp 2013);
Nhóm các nhiệm vụ, quyền hạn liên quan đến việc phối hợp các thiết chế
quyền lực Nhà nước trong các lĩnh vực lập pháp, hành pháp và tư pháp: Trong lĩnh
vực lập pháp –là thành viên của cơ quan quyền lực cao nhất nhà nước, công bố
Luật, đạo Luật đã được Quốc hội thông qua (Điều 103.1 Hiến pháp 1992 và Điều
88.1 Hiến pháp 2013); có quyền yêu cầu Quốc hội xem xét lại dự thảo luật, pháp
lệnh đã được thông qua (Điều 103.7 Hiến pháp 1992 và Điều 88.1 Hiến pháp 2013);
ra lệnh tổng động viên hoặc động viên cục bộ, ban bố tình trạng khẩn cấp trong cả
nước hoặc ở từng địa phương (Điều 103.6 Hiến pháp 1992 và Điều 88.5 Hiến pháp
2013). Trong lĩnh vực hành pháp – tham gia thành lâp Chính phủ, không bổ nhiệm


24

Thủ tướng (Điều 103.3 và 103.4 Hiến pháp 1992 và Điều 88.1 Hiến pháp 2013); có
quyền tham gia các phiên họp của Chính phủ (Điều 105 Hiến pháp 1992 và Điều 90
Hiến pháp 2013); quyết định cho nhập, thôi hoặc tước quốc tịch Việt Nam (Điều
103.11 Hiến pháp 1992 và Điều 88.4 Hiến pháp 2013). Trong lĩnh vực tư pháp: ra
quyết định đặc xá (Điều 103.5 và 103.12 Hiến pháp 1992 và Điều 88.3 Hiến pháp
2013); tham gia thành lập cơ quan Tư pháp (Điều 103.3 và 103.8 Hiến pháp 1992
và Điều 88.3 Hiến pháp 2013).
Khác nhau:
Sự khác nhau trong cách thức thành lập Chủ tịch nước theo hai bản
Hiến pháp 1992 và Hiến pháp 2013:

-

-

-


-

Một điểm mới của Hiến pháp năm 2013 là sau khi được bầu, Chủ tịch nước
phải tuyên thệ trung thành với Tổ quốc, Nhân dân và Hiến pháp - nhằm tạo cơ sở
quan trọng cho nhân dân thực hiện chức năng giám sát đối với những người giữ
chức vụ chủ chốt trong bộ máy nhà nước.
Sự khác nhau trong nhiệm vụ cơ bản của Chủ tịch nước theo hai bản Hiến
pháp 1992 và Hiến pháp 2013:
Các nhiệm vụ quyền hạn của Chủ tịch nước liên quan đến chức năng đại diện,
thay mặt Nhà nước về đối nội và đối ngoại;
Hiến pháp 2013 mở rộng hơn quyền của Chủ tịch nước bổ sung thẩm quyền quyết
định phong hàm, thăng, giáng, tước quân hàm cấp tướng, chuẩn đô đốc, phó đô đốc,
đô đốc hải quan; bổ nhiệm miễn nhiệm, cách chức Tổng tham mưu trưởng, Chủ
nhiệm Tổng cục chính trị Quân đội nhân dân Việt Nam
Sửa quy định khoản 10 Điều 103 Hiến pháp 1992 quy định, Chủ tịch nước “tiến
hành đàm phán, ký kết Điều ước Quốc tế nhân danh Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ
nghĩa Việt Nam với người đứng đầu Nhà nước khác” - khắc phục điểm không
chính xác này, Hiến pháp năm 2013 quy định rõ ràng hơn là “ Chủ tịch nước quyết
định đàm phán, ký kết Điều ước Quốc tế nhân danh Nhà nước”.
Trong Hiến pháp 2013 nhiệm vụ quyền được bổ sung thẩm quyền căn cứ vào nghị
quyết của Quốc hội hoặc ủy ban thường vụ Quốc hội bãi bỏ quyết định tuyên bố
tình trạng chiến tranh (khoản 5 Điều 88 Hiến pháp năm 2013).
Các nhiệm vụ, quyền hạn của Chủ tịch nước liên quan đến việc điều phối hoạt
động giữa các nhánh quyền lực lập pháp, hành pháp và tư pháp:
Điểm mới duy nhất là - khi cần thiết yêu cầu Chính phủ họp bàn về những vấn đề
thuộc nhiệm vụ quyền hạn của Chủ tịch nước.; căn cứ vào nghị quyết của Quốc hội
bổ nhiệm miễn nhiệm, cách chức Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao” (khoản 3
Điều 88).



25


×