Tải bản đầy đủ (.doc) (74 trang)

Nâng cao chất lượng quản trị rủi ro tín dụng tại ngân hàng thương mại cổ phần sài gòn

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (320.61 KB, 74 trang )

LỜI MỞ ĐẦU
Xu hướng tự do hóa trong lĩnh vực tài chính đã tạo ra cơ hội
cho các nhà ngân hàng thương mại mở rộng hoạt động về mặt địa
lý, giúp cho các nhân hàng hạn chế được những tổn thương do
những thay đổi điều kiện kinh tế trong nước. Tuy nhiên, cạnh tranh
giữa các tổ chức tài chính trên phạm vi toàn cầu cũng tạo ra một thị
trường tài chính rủi ro hơn. Trong bối cảnh đó, không một ngân
hàng hay một tổ chức tài chính nào có thể tồn tại lâu dài mà không
có hệ thống quản lý rủi ro hữu hiệu. Việc xây dựng một hệ thống
quản lý rủi ro nói chung và quản lý rủi ro tín dụng nói riêng có vai
trò sống còn đối với hoạt động ngân hàng. Chủ tịch tập đoàn tài
chính Citicorp Walter Wriston đã nói lên vai trò quan trọng của hoạt
động quản lý rủi ro như sau: “ toàn bộ cuộc sống trong hoạt động
ngân hàng là quản lý rủi ro”.
Xuất phát từ nhận thức trên, nhận thấy được tầm quan trọng
của vấn đề cùng với việc nghiên cứu tình hình quản trị rủi ro tín
dụng thực tế tại NHTMCP Sài Gòn, em xin chọn đề tài “ Nâng cao
chất lượng quản trị rủi ro tín dụng ” cho chuyên đề tốt nghiệp
của mình. Chuyên đề tốt nghiệp có kết cấu làm 3 chương:
Chương I: Lý luận về quản trị rủi ro trong hoạt động tín
dụng của ngân hàng.
Chương II: Thực trạng quản trị rủi ro tín dụng tại NHTMCP
Sài Gòn.

1


Chương III: Một số giải pháp nâng cao chất lượng quản trị
rủi ro tín dụng.
Em xin chân thành cảm ơn sự hướng dẫn nhiệt tình của thầy
giáo – GS.TS. Nguyễn Văn Nam và ban lãnh đạo NHTMCP Sài


Gòn đã tạo điều kiện giúp đỡ em hoàn thành chuyên đề này.
Sinh viên thực hiện
Lê Thị Ngọc Anh
Chương 1: LÝ LUẬN VỀ QUẢN TRỊ RỦI RO TRONG HOẠT
ĐỘNG TÍN DỤNG CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI.
1.1. RỦI RO TÍN DỤNG TRONG HOẠT ĐỘNG CỦA NGÂN
HÀNG THƯƠNG MẠI.
1.1.1. Rủi ro.
1.1.1.1. Khái niệm rủi ro.
Trong cuộc sống hàng ngày, trong lao động sản xuất kinh
doanh có những sự cố bất ngờ, ngẫu nhiên xảy ra không thể báo
trước được, những tình huống bất ngờ như vậy gọi là rủi ro. Khi nói
đến rủi ro người ta thường nghĩ đến điều không tốt lành hoặc một
thiệt hại, tổn thất nào đó về vật chất hữu hình hoặc vô hình bất ngờ
mang đến do những nguyên nhân khách quan hoặc chủ quan gây
nên.
Như vậy: Rủi ro là sự việc xảy ra ngoài ý muốn chủ quan của
con người, đem lại những hậu quả mà người ta không thể dự đoán
được.

2


Tuy khó tìm được một định nghĩa rủi ro hoàn hảo song có thể
biết được rằng rủi ro thường có hai đặc tính sau:
-Thứ nhất là biên độ rủi ro: là sự thiệt hại từ rủi ro gây ra ở mức
nào.
-Thứ hai là tần số xuất hiện của rui ro là nhiều hay ít.
Là một doanh nghiệp kinh doanh tiền tệ, ngân hàng thương mại
cũng gánh chịu các rủi ro do các tác động của môi trường vi mô và

vĩ mô gây nên như các doanh nghiệp khác.
1.1.1.2.Rủi ro trong hoạt động ngân hàng.
- Khái niệm rủi ro ngân hàng: Rủi ro ngân hàng là những biến
cố không mong đợi xảy ra, gây mất mát thiệt hại tài sản, thu nhập
của ngân hàng trong quá trình hoạt động.
- Phân loại rủi ro ngân hàng:
* Phân chia rủi ro theo các loại tài sản có:
- Rủi ro trong quản lí và kinh doanh ngân quỹ.
- Rủi ro tín dụng.
- Rủi ro trong quản lí và kinh doanh chứng khoán.
- Rủi ro trong cho thuê.
- Rủi ro đối với các tài sản khác của ngân hàng.
* Phân chia rủi ro theo nguyên nhân và các yếu tố tác động có:
- Rủi ro tín dụng.
- Rủi ro lãi suất.
- Rủ ro hối đoái.

3


- Rủi ro do thanh khoản.
- Rủi ro tồn đọng vốn.
- Các loại rủi ro khác.
1.1.2. Rủi ro tín dụng.
1.1.2.1. Hoạt động tín dụng của ngân hàng thương mại.
Hoạt động tín dụng (hay hoạt động cho vay) là hoạt động chính
tạo ta phần lớn lợi nhuận cho ngân hàng. Theo khoản 8 điều 20 Luật
các TCTD thì hoạt động tín dụng là việc tổ chức tín dụng sử dụng
nguồn vốn tự có, nguồn vốn huy động để cấp tín dụng. Cấp tín dụng
là việc tổ chức tín dụng thỏa thuận để khách hàng sử dụng một

khoản tiền với nguyên tắc có hoàn trả bằng các nghiệp vụ cho vay,
chiết khấu, cho thuê tài chính, bảo lãnh ngân hàng và các nghiệp vụ
khác (theo khoản 10 điều 20 Luật các TCTD).
Hoạt động cho vay có thể phân chia làm nhiều loại khác nhau
theo tính chất và đối tượng của hoạt động tín dụng. Tuy nhiên, hoạt
động cho vay phải đảm bảo một số điều kiện cơ bản. Ba điều kiện
cơ bản của một hợp đồng cho vay là:
* Thời hạn, lãi suất và hạn mức hoàn trả hay thời gian đáo hạn
của hợp đồng.
* Vốn vay phải đảm bảo sử dụng đúng mục đích.
* Về nguyên tắc, vốn vay phải được đảm bảo bằng tài sản
tương đương.
Hoạt động tín dụng có thể được phân loại theo nhiều tiêu chí,
trong đó có một số tiêu chí chủ yếu sau:

4


* Phân loại tín dụng dựa theo tiêu chí thời gian:
- Cho vay ngắn hạn: Từ 12 tháng trở xuống tài trợ cho tài sản lưu
động.
- Cho vay trung hạn: Từ trên 1 năm đến 5 năm tài trợ cho các tài
sản cố định như phương tiện vận tải, một số cây trồng vật nuôi,
trang thiết bị chóng hao mòn.
- Tín dụng dài hạn: Trên 5 năm tài trợ cho công trình xây dựng
như nhà, cầu, sân bay, đường,máy móc thiết bị có giá trị lớn, thường
có thời gian sử dụng lâu.
* Phân loại tín dụng dựa trên hình thức tài trợ:
- Cho vay: Là việc ngân hàng đưa tiền cho khách hàng với cam
kết khách hàng phải hoàn trả cả gốc và lãi trong khoảng thời gian

xác định. Đây là tài sản lớn nhất trong khoản mục tín dụng.
- Chiết khấu thương phiếu: Là việc ngân hàng ứng trước tiền
cho khách hàng tương ứng với giá trị của thương phiếu trừ đi phần
thu nhập của ngân hàng để sở hữu một thương phiếu chưa đến hạn
( hoặc một giấy nợ).
- Cho thuê: là việc ngân hàng bỏ tiền ra mua tài sản để cho
khách hàng thuê theo những thỏa thuận nhất định. Sau thời gian
nhất định khách hàng phải trả cả gốc và lãi cho ngân hàng.
- Bảo lãnh: Là việc ngân hàng cam kết thực hiện các nghĩa vụ
tài chính hộ khách hàng của mình.
* Phân loại tín dụng dựa trên tài sản đảm bảo:

5


- Tín dụng không cần tài sản đảm bảo: là hình thức cấp tín dụng
không dựa trên cam kết yêu cầu ngân hàng và khách hàng phải kí
hợp đồng bảo đảm.
- Tín dụng có tài sản đảm bảo: Là hình thức cấp tín dụng dựa
trên cam kết đảm bảo yêu cầu ngân hàng và khách hàng pahỉ kí hợp
đồng bảo đảm.
* Phân loại tín dụng dựa trên rủi ro:
- Tín dụng lành mạnh: Các khoản tín dụng có khả năng thu hồi
cao.
- Tín dụng có vấn đề: Các khoản tín dụng có dấu hiệu không
lành mạnh như khách hàng chậm tiêu thụ, tiến độ thực hiện kế
hoạch bị chậm…
- Nợ quá hạn có khả năng thu hồi: Các khoản nợ đã quá hạn với
thời gian ngắn và khách hàng có kế hoạch khắc phục tốt, tài sản
đảm bảo có giá trị lớn…

- Nợ khó đòi: Nợ quá hạn quá lâu, khả năng trả nợ rất kém, tài
sản thế chấp quá nhỏ hoặc bị giảm giá…
* Phân loại khác:
- Theo ngành kinh tế ( công, nông nghiệp…)
- Theo đối tượng tín dụng ( tài sản lưu động, tài sản cố định)
- Theo mục đích ( sản xuất, tiêu dùng…)
1.1.2.2. Khái niệm rủi ro tín dụng.
A.Saunders và H.Lange định nghĩa: “ Rủi ro tín dụng là khoản
lỗ tiềm tàng khi ngân hàng cấp tín dụng cho một khách hàng, nghĩa

6


là khả năng các luồng thu nhập dự tính mang lại từ khoản cho vay
của ngân hàng không thể được thực hiện đầy đủ về cả số lượng và
thời hạn.”. Timothy W.Koch cho sằng: “Rủi ro tín dụng là sự thay
đổi tiềm ẩn của thu nhập thuần và thị giá của vốn xuất phát từ việc
vốn vay không được thanh toán hay thanh toán trễ hạn.
Rủi ro tín dụng trong hoạt động Ngân hàng của tổ chức tín
dụng, theo quy định tại Điều 2 Quy định về phân loại nợ, trích lập
và sử dụng dự phòng để xử lý rủi ro tín dụng ban hành theo Quyết
định số 493/2005/QĐ-NHNN ngày 22/4/2005 của Thống đốc
NHNN, “Rủi ro tín dụng là khả năng xảy ra tổn thất trong hoạt
động Ngân hàng của tổ chức tín dụng do khách hàng không thực
hiện hoặc không có khả năng thực hiện nghĩa vụ của mình theo cam
kết”.
Vậy rủi ro tín dụng là những thiệt hại kinh tế mà ngân hàng
thương mại phải gánh chịu do khách hàng vay vốn sai hẹn trong
thực hiện nghĩa vụ trả nợ vốn gốc và nợ lãi hoặc không hoàn trả
được nợ vay của ngân hang do các nguyên nhân chủ quan hoặc

khách quan. Rủi ro tín dụng gây tổn thất về tài chính cho NHTM, đó
là làm giảm thu nhập ròng và giảm giá trị thị trường của vốn; trong
trường hợp nghiêm trọng có thể dẫn đến thua lỗ, hoặc ở mức độ cao
hơn có thể dẫn đến phá sản.
1.1.2.3. Các nhân tố ảnh hưởng đến rủi ro tín dụng.
* Các nhân tố thuộc về ngân hàng:

7


- Trình độ chuyên môn và đạo đức nghề nghiệp của cán bộ tín
dụng: Chất lượng cán bộ tín dụng bao gồm trình độ chuyên môn và
đạo đức nghề nghiệp. Đây là những nhân tố đầu tiên, có ảnh hưởng
trực tiếp đến công tác quản lý rủi ro tín dụng của NHTM.
- Các công cụ quản trị rủi ro tín dụng của ngân hàng:
+ Quy trình tín dụng: Quy trình tín dụng có ý nghĩa rất quan
trọng trong việc hạn chế sai sót khi cho vay và giảm thiểu khả năng
xảy ra rủi ro tín dụng. Quy trình tín dụng sẽ quy định rõ từng khâu
công việc và trách nhiệm cụ thể của các cán bộ có liên quan.
+ Chính sách tín dụng: Kinh nghiệm cho thấy, sự hoạt động của
một ngân hàng dựa trên cơ sở chính sách tín dụng thống nhất, hợp
lý.. có hiệu quả nhiều hơn là dựa trên cơ sở kinh nghiệm và trao
quyền quyết định cho một cá nhân điều hành. Vì vậy, mục tiêu, định
hướng phát triển trong chính sách tín dụng của ngân hàng cũng là
một nhân tố ảnh hưởng đến công tác quản trị rủi ro tín dụng của
NHTM.
+ Mô hình đánh giá rủi ro tín dụng: Mỗi ngân hàng phải hình
thành và đưa vào sử dụng một mô hình đánh giá rủi ro cụ thể để có
thể quản lý rủi ro tín dụng một cách thống nhất và hiệu quả. Mô
hình này phải phù hợp với tính chất, quy mô và độ phức tạp của các

hoạt động thuộc ngân hàng đó.
* Các nhân tố thuộc về khách hàng: Khi khách hàng sử dụng
vốn vay ngân hàng không đúng mục đích đã đưa ra trong đơn xin
vay vốn như: sử dụng vốn vay vào kinh doanh không đúng đối

8


tượng; sử dụng vốn ngắn hạn để đầu tư trung dài hạn, đầu tư vào tài
sản cố định;... đều có thể ảnh hưởng đến việc quản trị rủi ro tín dụng
của NHTM. Ngoải ra, rủi ro tín dụng còn có thể phát sinh từ sự yếu
kém về năng lực lãnh đạo và kinh nghiệm quản lý của người điều
hành doanh nghiệp; khả năng cạnh tranh của khách hàng; đối tác,
bạn hàng làm ảnh hưởng đến kế hoạch sản xuất kinh doanh của
khách hàng. Rủi ro tín dụng cũng do nguyên nhân thiếu thiện chí trả
nợ vay ngân hàng ngay từ khi xin vay vốn....
* Các nhân tố thuộc về môi trường:
- Môi trường kinh tế xã hội: Môi trường kinh tế xã hội là tổng
hoà các mối quan hệ về kinh tế và xã hội tác động đến hoạt động
của các doanh nghiệp trong nền kinh tế. Xét một cách tổng thể, môi
trường kinh tế xã hội ảnh hưởng đến việc quản trị rủi ro tín dụng từ
cả phía ngân hàng và phía khách hàng.
- Môi trường pháp lý: Môi trường pháp lý bao gồm hệ thống
pháp luật điều chỉnh hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp và
những biện pháp để thực thi pháp luật. Trong nền kinh tế thị trường,
mọi thành phần kinh tế đều có quyền tự chủ về hoạt động kinh
doanh của mình nhưng phải nằm trong khuôn khổ pháp luật quy
định. Hoạt động của ngân hàng nói chung và hoạt động tín dụng nói
riêng cũng không nằm ngoài vòng kiểm soát đó. Nó cũng phải tuân
theo những quy định có liên quan của Chính phủ và Ngân hàng Nhà

nước ban hành.

9


+Chính sách tiền tệ nới lỏng có thể mang lại lợi ích ngắn hạn cho
các NHTM, nhưng nới lỏng quá mức sẽ dẫn đến tình trạng gia tăng
lạm phát và tăng giá bất động sản một cách giả tạo, ảnh hưởng xấu
đến hệ thống ngân hàng trong tương lai
+ Chính sách tỉ giá có tác động khác nhau đến từng ngành và hoạt
động xuất nhập khẩu, tác động gián tiếp đến khả năng sinh lời và
hoạt động kinh doanh ngoại hối của ngân hàng. Thay đổi lớn về tỉ
giá hay biên độ dao động quá lớn thường ảnh hưởng tiêu cực đến
tình hình tài chính của khách hàng vay vốn và tăng nợ khó đòi, tác
động đến ngân hàng sẽ lớn hơn nếu không có qui chế thích hợp về
quản lý trạng thái ngoại hối của các ngân hàng. Trong nền kinh tế bị
đô la hóa với qui mô lớn, rủi ro tỉ giá thường không cao nhưng rủi
ro tín dụng rất lớn và bộc lộ rõ nét khi đồng bản tệ bị mất giá, làm
giảm khả năng trả nợ các khoản vay ngoại tệ.
+ Chính sách tài khóa : do chính sách thuế thường có thiên hướng
tăng thu ngân sách, những thay đổi đột ngột trong hệ thống thuế
cũng có thể tác động tới giá tài sản và khả năng trả nợ của bên vay
+ Chính sách bảo hộ cũng ảnh hưởng đến hệ thống ngân hàng, trong
đó các NHTMNN vẫn là kênh chủ yếu cấp vốn cho khu vực doanh
nghiệp nhà nước và cho vay với mức lãi suất ưu đãi, nhưng ngân
sách nhà nước không cấp bù kịp thời ảnh hưởng đến nguồn vốn
ngân hàng, tỉ lệ nợ xấu tại các NHTMNN ở mức cao
1.2. QUẢN TRỊ RỦI

RO TÍN DỤNG TẠI NGÂN HÀNG


THƯƠNG MẠI.

10


1.2.1. Bản chất của quản trị rủi ro trong kinh doanh của NHTM
Quản trị rủi ro của NHTM có thể hiểu là quá trình tác động có
tổ chức, có hướng đích của các nhà quản trị NH lên các đổi tượng
quản trị và khác thể kinh doanh nhằm mục tiêu phòng ngừa, hạn chế
và giảm thiểu rủi ro trong kinh doanh từ đó nâng cao mức độ an
toàn, khả năng sinh lời và đạt được các mục tiêu tăng trưởng trong
ngắn hạn và dài hạn của mỗi NHTM.
Nhiều nhà nghiên cứu và hoạt động trong lĩnh vực kinh doanh
ngân hàng cho rằng: đối với các NHTM quản trị kinh doanh cũng
chính là quản trị rủi ro, hay nói cách khác, quản trị rủi ro chính là
trung tâm của hoạt động quản trị điều hành của mỗi NHTM. Hiểu
một cách đơn giản thì quản trị rủi ro chính là quá trình các NHTM
áp dụng các nguyên lí, các phương pháp và kinh nghiệm quản trị
kinh doanh của NHTM ở các quốc gia phát triển vào hoạt động kinh
doanh của mình để giám sát, phòng ngừa , hạn chế và giảm thấp rủi
ro trong hoạt động tín dụng, đầu tư và các hoạt động kinh doanh
khác đẻ giảm thiểu tổn thất thiệt hại cho ngân hàng, đồng thời
không ngừng nâng cao sức manh và uy tín của NH trên thương
trường.
1.2.2. Khái niệm quản trị rủi ro tín dụng
Đối với rủi ro tín dụng, trước hết, nên coi đó là một hiện tượng
có thể xảy ra ngoài mong muốn của ngân hàng khi thực hiện cho
vay đối với khách hàng. Với quan niệm như vậy, mỗi khi bắt đầu
xem xét một khoản tín dụng, ngân hàng cần lường trước những rủi


11


ro có thể xảy ra. Đây cũng chính là xuất phát điểm hình thành nên ý
tưởng quản trị rủi ro tín dụng của NHTM. Mặc dù rủi ro tín dụng là
một hiện tượng tiềm ẩn và không phải bao giờ cũng xảy ra khi ngân
hàng cho khách hàng vay vốn nhưng trong nhiều trường hợp do tính
lặp lại của rủi ro nên người ta có thể nhận biết được tính quy luật
của nó. Chính vì điều này mà ngân hàng có thể tìm ra những biện
pháp quản lý nhằm hạn chế khả năng xảy ra rủi ro tín dụng và giảm
thiểu tổn thất do rủi ro tín dụng gây ra.
Như vậy, “quản lý rủi ro tín dụng là một trong những nội dung
quản lý của NHTM bao gồm: nhận biết và đánh giá mức độ rủi ro,
thực thi các biện pháp hạn chế khả năng xảy ra rủi ro và giảm thiểu
tổn thất khi rủi ro tín dụng xảy ra.”
1.2.3. Sự cần thiết của quản trị rủi ro tín dụng trong hoạt động
ngân hàng thương mại.
Rủi ro luôn tồn tại song song với các hoạt động kinh doanh
NHTM, vì vậy việc hạn chế rủi ro đến mức tối thiểu có ý nghĩa vô
cùng quan trọng đối với ngân hàng. Tín dụng là một nội dung quan
trọng, chiếm khoảng 60-80% trong toàn bộ hoạt động kinh doanh
ngân hàng. Các rủi ro tín dụng vì thế có ảnh hưởng rất lớn tới ngân
hàng, thông thường các rủi ro tín dụng vào khoảng 90% các rủi ro
cơ bản. Quản trị rủi ro tín dụng là một trong những vấn đề trọng tâm
hiện nay, đang được sự quan tâm chú ý đặc biệt của hệ thống ngân
hàng trên toàn thế giới. Khi ngân hàng không kiểm soát được rủi ro
tín dụng sẽ gây nên nhiều bất lợi mà chủ yếu là các vấn đề như:

12



1.2.3.1. Đối với ngân hàng.
* Giảm lợi nhuận: Khi rủi ro tín dụng xảy ra sẽ phát sinh các
khoản nợ khó thu hồi. Ảnh hưởng trước mắt của nó đến hoạt động
ngân hàng là sự ứ đọng vốn dẫn đến làm giảm vòng quay vốn của
ngân hàng. Mặt khác, khi có quá nhiều các khoản nợ khó hoặc
không thu hồi được sẽ lại phát sinh các khoản chi phí quản lý, giám
sát, thu nợ... Các chi phí này còn cao hơn khoản thu nhập từ việc
tăng lãi suất các khoản nợ quá hạn bởi vì thực ra đây chỉ là những
khoản thu nhập ảo, thực tế ngân hàng rất khó có khả năng thu hồi
đầy đủ được chúng. Bên cạnh đó, ngân hàng vẫn phải trả lãi cho các
khoản tiền huy động được trong khi một bộ phận tài sản của ngân
hàng không thu được lãi cũng như không chuyển được thành tiền để
cho người khác vay và thu lãi. Kết quả là lợi nhuận của ngân hàng
sẽ bị giảm sút.
* Giảm khả năng thanh toán: Ngân hàng thường lập kế hoạch
cân đối dòng tiền ra (trả lãi và gốc tiền gửi, cho vay, đầu tư mới...)
và dòng tiền vào (tiền nhận gửi, tiền thu nợ gốc và lãi cho vay..) tại
các thời điểm trong tương lai. Khi các món vay không được thanh
toán đầy đủ và đúng hạn sẽ dẫn đến sự không cân đối giữa hai dòng
tiền. Các khoản tiền gửi, tiền tiết kiệm của khách hàng vẫn phải
thanh toán đúng kỳ hạn trong khi các khoản tiền vay của khách
hàng lại không được hoàn trả đúng hẹn. Nếu ngân hàng không đi
vay hoặc bán các tài sản của mình thì khả năng chi trả của ngân

13


hàng sẽ bị suy yếu và hạn chế, ngân hàng sẽ gặp khó khăn trong

khâu thanh toán.
* Giảm uy tín: Nếu tình trạng mất khả năng chi trả tái diễn
nhiều lần hay những thông tin về rủi ro tín dụng của ngân hàng bị
tiết lộ ra công chúng, uy tín của ngân hàng trên thị trường tài chính
sẽ bị giảm sút.
* Phá sản ngân hàng: Nếu doanh nghiệp vay vốn ngân hàng gặp
khó khăn trong việc hoàn trả, nhất là những món vay lớn thì có thể
dẫn đến khủng hoảng trong hoạt động của chính ngân hàng. Ngân
hàng nếu không chuẩn bị kịp thời cho những tình huống như vậy,
mà thậm chí dù có cũng không đủ khả năng đáp ứng nhu cầu rút tiền
quá lớn, sẽ nhanh chóng mất khả năng thanh toán, dẫn đến sự sụp
đổ của ngân hàng nếu Ngân hàng Trung Ương không can thiệp kịp
thời hoặc không thể can thiệp.
1.2.3.2. Đối với khách hàng.
Lãi vay ngân hàng được hạch toán vào chi phí sản xuất của
doanh nghiệp. Khi để phát sinh nợ quá hạn với lãi suất lớn hơn
(=150%) lãi suất trong hạn thì chi phí của doanh nghiệp sẽ tăng lên.
Doanh nghiệp đã đang gặp khó khăn trong tình hình tài chính, giờ
lại càng thêm khó khăn gấp bội. Nguy cơ không có đủ tiền để trả nợ
cho ngân hàng là điều không thể tránh khỏi, dẫn đến việc phát mại
tài sản thế chấp, đôi khi dẫn đến tình trạng phá sản cho khách hàng.
1.2.3.3. Đối với nền kinh tế.

14


Khi ngân hàng gặp khó khăn thì việc cung cấp vốn cho doanh
nghiệp, nền kinh tế bị ngừng trệ. Do một lượng vốn lớn nằm tồn
đọng trong các khoản nợ quá hạn, nợ khó đòi, ngân hàng không có
đủ vốn để cho vay các dự án có hiệu quả, mở rộng và phát triển sản

xuất. Trong khi đó, tiền cho vay của ngân hàng lại hoạt động không
có hiệu quả mà ngân hàng lại không thể kiểm soát nổi. Kết quả là
sản xuất đình đốn, nền kinh tế không phát triển, xã hội bị rối loạn.
Như vậy, rủi ro tín dụng xảy ra dù ở mức độ nào cũng gây ảnh
hưởng đến sự phát triển của ngân hàng nói riêng và sự tăng trưởng
của nền kinh tế nói chung. Vì vậy, quản trị rủi ro tín dụng không chỉ
là trách nhiệm của riêng ngân hàng mà là của toàn nền kinh tế.
1.2.4. Công cụ quản trị rủi ro tín dụng của ngân hàng thương
mại.
1.2.4.1. Các nguyên tắc chung của ủy ban Giám sát Ngân hàng
Basel trong Quản trị rủi ro tín dụng.
Hiệp định Basel II ra đời thay thế cho Hiệp định vốn ngân hàng
quốc tế (Basel I) được thực hiện từ năm 1988 (thường được biết đến
với tỷ số Cook) do Ủy ban Giám sát ngân hàng Basel xây dựng
nhằm hỗ trợ các ngân hàng quản lý rủi ro hiệu quả hơn. Các nguyên
tắc trong quản trị rủi ro tín dụng của hiệp định bao gồm:
* Thiết lập một môi trường tín dụng thích hợp:
- Nguyên tắc 1: Phê duyệt và xem xét Chiến lược rủi ro tín
dụng theo định kỳ, xem xét những vấn đề như: mức độ rủi ro có thể
chấp nhận được, mức độ khả năng sinh lời.

15


- Nguyên tắc 2: Thực hiện Chiến lược chính sách tín dụng. Xây
dựng các chính sách tín dụng. Xây dựng các quy trình thủ tục cho
các khoản vay riêng lẻ và toàn bộ danh mục tín dụng nhằm xác
định, đánh giá, quản lý và kiểm soát rủi ro tín dụng.
- Nguyên tắc 3: Xác định và quản lý rủi ro tín dụng trong tất cả
các sản phẩm và các hoạt động. Đảm bảo rằng các sản phẩm và hoạt

động mới đều trải qua đầy đủ các thủ tục, các quy trình kiểm soát
thích hợp và được phê duyệt đầy đủ.
* Hoạt động theo một quy trình cấp tín dụng hợp lý:
- Nguyên tắc 4: Tiêu chuẩn cấp tín dụng đầy đủ gồm có: Những
hiểu biết về người vay, mục tiêu và cơ cấu tín dụng, nguồn thanh
toán.
- Nguyên tắc 5: Thiết lập hạn mức tín dụng tổng quát cho: từng
khách hàng riêng lẻ, nhóm những khách hàng vay có liên quan tới
nhau, trong và ngoài bảng cân đối kế toán.
- Nguyên tắc 6: Có các quy trình rõ ràng được thiết lập cho việc
phê duyệt các khoản tín dụng mới, gia hạn các khoản tín dụng hiện
có.
- Nguyên tắc 7: Việc cấp tín dụng cần phải dựa trên: Cơ sở giao
dịch thương mại thông thường, quản lý chặt chẽ các khoản vay đối
với các doanh nghiệp và cá nhân có liên quan, làm giảm bớt rủi ro
cho vay đối với các bên có liên quan.
* Duy trì một quy trình quản lý, đánh giá và kiểm soát tín dụng
có hiệu quả:

16


- Nguyên tắc 8: Áp dụng quy trình quản lý tín dụng có hiệu quả
và đầy đủ đối với các danh mục tín dụng.
- Nguyên tắc 9: Có hệ thống kiểm soát đối với các điều kiện
liên quan đến từng khoản tín dụng riêng lẻ, đánh giá tính đầy đủ của
các khoản dự phòng rủi ro tín dụng.
- Nguyên tắc 10: Xây dựng và sử dụng hệ thống đánh giá rủi ro
nội bộ. Hệ thống đánh giá cần phải nhất quán với các hoạt động của
ngân hàng.

- Nguyên tắc 11: Hệ thống thông tin và kỹ thuật phân tích: giúp
Ban quản lý đánh giá rủi ro tín dụng cho các hoạt động trong và
ngoài bảng cân đối kế toán, cung cấp thông tin về cơ cấu và thành
phần danh mục tín dụng, bao gồm cả việc phát hiện các tập trung rủi
ro.
- Nguyên tắc 12: Có hệ thống nhằm kiểm soát đối với: Cơ cấu
tổng thể của danh mục tín dụng, chất lượng danh mục tín dụng.
- Nguyên tắc 13: Xem xét ảnh hưởng của những thay đổi về
điều kiện kinh tế có thể xảy ra trong tương lai trong những tình
trạng khó khăn khi đánh giá danh mục tín dụng.
* Đảm bảo quy trình kiểm soát đầy đủ đối với rủi ro tín dụng:
- Nguyên tắc 14: Thiết lập hệ thống xem xét tín dụng độc lập và
liên tục, và cần thông báo kết quả đánh giá cho Hội đồng quản trị và
ban quản lý cấp cao.
- Nguyên tắc 15: Quy trình cấp tín dụng cần phải được theo dõi
đầy đủ, cụ thể: Việc cấp tín dụng phải tuân thủ với các tiêu chuẩn

17


thận trọng, thiết lập và áp dụng kiểm soát nội bộ, những vi phạm về
các chính sách, thủ tục và hạn mức tín dụng cần được báo cáo kịp
thời.
- Nguyên tắc 16: Có hệ thống quản lý đối với các khoản tín
dụng có vấn đề.
1.2.4.2. Các công cụ quản trị rủi ro tín dụng.
Để quản trị rủi ro tín dụng, mỗi ngân hàng phải nghiên cứu và
đưa ra những công cụ quản lý phù hợp với quy mô và tính chất hoạt
động của ngân hàng đó. Sau đây là các công cụ chính để quản lý rủi
ro trong hoạt động tín dụng của một NHTM.

* Quy trình tín dụng: Để chuẩn hoá quá trình tiếp xúc, phân
tích, cho vay và thu nợ đối với khách hàng, các ngân hàng thường
đặt ra quy trình tín dụng. Đó chính là các bước (hoặc nội dung công
việc) mà các bộ tín dụng, các phòng, ban liên quan trong ngân hàng
phải thực hiện khi tiến hành tài trợ cho khách hàng. Về cơ bản, một
quy trình tín dụng được chia làm ba giai đoạn: trước, trong và sau
khi cho vay.
- Giai đoạn trước khi cho vay: Trong giai đoạn này, sau khi tiếp
nhận hồ sơ xin vay cũng như tiến hành điều tra, thu thập, tổng hợp
các thông tin về khách hàng và phương án vay vốn; cán bộ tín dụng
sẽ tiến hành phân tích thẩm định khách hàng và phương án xin vay.
Nội dung phân tích bao gồm: năng lực pháp lý của khách hàng, tình
hình tài chính của khách hàng, phương án sử dụng vốn vay và

18


phương án trả nợ, khả năng đảm bảo tiền vay và các biện pháp quản
lý, kiểm soát của ngân hàng.
- Giai đoạn trong khi cho vay: Sau khi hợp đồng tín dụng được
ký kết và vốn vay được giải ngân, ngân hàng sẽ tiến hành kiểm soát
khách hàng theo các nội dung chính như: khách hàng sử dụng tiền
vay có đúng mục đích, tiến độ hay không, quá trình sản xuất kinh
doanh có những thay đổi bất lợi gì, có dấu hiệu lừa đảo hoặc làm ăn
thua lỗ hay không.... Công việc này cho phép ngân hàng thu thập
thêm các thông tin về khách hàng. Nếu các thông tin phản ánh chiều
hướng tốt, điều đó cho thấy chất lượng tín dụng đang được bảo
đảm.
- Giai đoạn sau khi cho vay: Quan hệ tín dụng sẽ kết thúc khi
ngân hàng thu hồi hết gốc và lãi của khoản vay. Các khoản tín dụng

đảm bảo hoàn trả đầy đủ và đúng hạn là các khoản tín dụng an toàn.
Trong một số trường hợp, người vay không hoàn trả nợ hoặc hoàn
trả không đầy đủ và đúng hạn. Điều đó có nghĩa là rủi ro tín dụng đã
xảy ra. Lúc này cán bộ tín dụng cần xem xét, tìm ra nguyên nhân
dẫn đến việc khách hàng không thanh toán nợ cho ngân hàng như đã
cam kết trong hợp đồng tín dụng.
Như vậy, để đảm bảo hiệu quả trong công tác quản trị rủi ro tín
dụng, các ngân hàng phải xây dựng một quy trình tín dụng cụ thể và
thống nhất. Quy trình này phải được ban lãnh đạo của ngân hàng
thông qua và phổ biến rộng rãi đến các phòng, ban có liên quan
cũng như toàn bộ cán bộ tín dụng trong ngân hàng.

19


* Chính sách tín dụng: Chính sách tín dụng bao gồm các quy
định về cho vay của ngân hàng. Chính sách này được xây dựng
nhằm thực hiện mục tiêu, chiến lược kinh doanh của ngân hàng,
đồng thời hình thành cơ chế để đảm bảo nâng cao lợi nhuận và hạn
chế rủi ro. Chính sách tín dụng bao gồm các nội dung chính sau:
- Chính sách khách hàng
- Chính sách quy mô và giới hạn tín dụng
- Lãi suất và phí suất tín dụng
- Thời hạn tín dụng và kỳ hạn nợ
- Các loại bảo đảm tiền vay
- Điều kiện giải ngân và điều kiện thanh toán
- Chính sách đối với các khoản nợ xấu
* Mô hình đánh giá rủi ro tín dụng: Để xác định chính xác
mức độ rủi ro của mỗi khoản vay, các ngân hàng thường áp dụng
một số mô hình cụ thể để đánh giá rủi ro tín dụng. Các mô hình này

rất đa dạng, bao gồm cả mô hình phản ánh về mặt định tính và mô
hình phản ánh về mặt định lượng. Đặc điểm của các mô hình này là
không loại trừ lẫn nhau nên một ngân hàng có thể sử dụng cùng một
lúc nhiều mô hình khác nhau để hỗ trợ, bổ sung trong việc phân tích
và đánh giá mức độ rủi ro của các khoản vay.
- Mô hình định tính: Hệ thống tiêu chuẩn thường được các
ngân hàng sử dụng trong mô hình định tính là : Tiêu chuẩn 5C
+ Character (Tư cách của người vay): Tiêu chuẩn này thể hiện
tinh thần trách nhiệm, tính trung thực, mục đích rõ ràng và thiện chí

20


trả nợ của người vay. Khi quyết định cho vay, cán bộ tín dụng phải
chắc chắn tin rằng người xin vay có mục đích tín dụng rõ ràng và có
thiện chí nghiêm chỉnh trả nợ khi đến hạn.
+ Capacity (Năng lực của người vay): Cán bộ tín dụng phải
chắc chắn rằng người xin vay phải có đủ năng lực hành vi và năng
lực pháp lý để ký kết hợp đồng tín dụng. Tương tự, cán bộ tín dụng
phải chắc chắn rằng người đại diện cho công ty ký kết hợp đồng tín
dụng phải là người được uỷ quyền hợp pháp của công ty. Một hợp
đồng tín dụng được ký kết bởi người không được uỷ quyền có thể sẽ
không thu hồi được nợ, tiềm ẩn rủi ro cho ngân hàng.
+ Cash (Thu nhập của người vay): Tiêu chuẩn thu nhập của
người vay tập trung vào câu hỏi: Người vay có khả năng tạo ra đủ
tiền để trả nợ hay không? Nhìn chung, người vay có ba khả năng để
tạo ra tiền, đó là: dòng tiền ròng từ doanh thu bán hàng, dòng tiền từ
phát hành chứng khoán và dòng tiền từ bán thanh lý tài sản. Bất cứ
nguồn thu nào từ ba khả năng trên đều có thể sử dụng để trả nợ vay
cho ngân hàng.

+ Collateral (Tài sản đảm bảo): Một khoản tín dụng nếu được
đảm bảo bằng tài sản cầm cố hay tài sản thế chấp sẽ gắn chặt hơn
trách nhiệm và nghĩa vụ trả nợ của người vay. Nếu xảy ra những rủi
ro khách quan, người đi vay không trả được nợ thì tài sản cầm cố,
thế chấp sẽ trở thành nguồn thu nợ thứ hai của ngân hàng. Tất nhiên
tài sản cầm cố thế chấp cũng phải đáp ứng những yêu cầu và điều
kiện nhất định theo quy định của ngân hàng.

21


+ Conditions (Các điều kiện): Để đánh giá xu hướng ngành và
điều kiện kinh tế có ảnh hưởng như thế nào đến hoạt động kinh
doanh của khách hàng, cán bộ tín dụng cần phải biết được thực
trạng về ngành nghề và công việc kinh doanh của khách hàng, cũng
như khi các điều kiện kinh tế thay đổi sẽ ảnh hưởng như thế nào đến
hoạt động của người vay.
- Mô hình điểm số Z (Z - Credit scoring model): Đây là mô hình
do E.I.Altman xây dựng dùng để cho điểm tín dụng đối với các
doanh nghiệp vay vốn. Đại lượng Z dùng làm thước đo tổng hợp để
phân loại rủi ro tín dụng đối với người vay và phụ thuộc vào trị số
của các chỉ số tài chính của người vay. Tầm quan trọng của các chỉ
số này trong việc xác định xác suất vỡ nợ của người vay trong quá
khứ. Từ đó Altman đã xây dựng mô hình tính điểm như sau:
Z = 1,2 X1 + 1,4 X2 + 3,3 X3 + 0,6 X4 + 1,0 X5
Trong đó: X1 = Hệ số vốn lưu động / tổng tài sản
X2 = Hệ số lãi chưa phân phối / tổng tài sản
X3 = Hệ số lợi nhuận trước thuế và lãi / tổng tài sản
X4 = Hệ số giá trị thị trường của tổng vốn sở hữu /
giá trị hạch toán của tổng nợ

X5 = Hệ số doanh thu / tổng tài sản
Trị số Z càng cao, người vay có xác suất vỡ nợ càng thấp.
Vậy khi trị số Z thấp hoặc là một số âm sẽ là căn cứ xếp khách hàng

22


vào nhóm có nguy cơ vỡ nợ cao. Theo mô hình cho điểm Z của
Altman, bất cứ công ty nào có điểm số thấp hơn 1,81 phải được xếp
vào nhóm có nguy cơ rủi ro tín dụng cao.
- Mô hình cho điểm theo chỉ tiêu: Mô hình này bao gồm một hệ
thống các chỉ tiêu liên quan đến từng đối tượng khách hàng (doanh
nghiệp hay cá nhân), mỗi chỉ tiêu có điểm số khác nhau phụ thuộc
vào tính chất và tầm quan trọng của chúng. Căn cứ vào tình trạng
của khách hàng và thang điểm của ngân hàng, cán bộ tín dụng sẽ
quyết định số điểm tương ứng cho từng chỉ tiêu, sau đó cộng tổng
số điểm. Khi có tổng số điểm, căn cứ vào bảng chuẩn, cán bộ tín
dụng có thể đệ trình quyết định cho vay hoặc từ chối yêu cầu xin
vay. Với tổng số điểm cao hơn mức điểm chuẩn thì khách hàng đó
được vay và thấp hơn mức điểm chuẩn thì ngân hàng từ chối.
Như vậy, các công cụ tín dụng có thể nói là rất quan trọng trong
hoạt động tín dụng của NHTM. Mục tiêu cuối cùng của các công cụ
này là phục vụ khách hàng trên cơ sở an toàn, giảm thiểu rủi ro tín
dụng và nâng cao khả năng sinh lời của NHTM.
1.2.5. Nội dung của quản trị rủi ro tín dụng của ngân hàng
thương mại.
1.2.5.1. Nhận biết rủi ro tín dụng.
Ngân hàng cần có phương pháp nhận ra những dấu hiệu rủi ro
tín dụng để từ chối cho vay (trong trường hợp trước khi cho vay)
hoặc để ngăn ngừa xử lý kịp thời (trong trường hợp đã cho vay). Có

thể sắp xếp các dấu hiệu của rủi ro tín dụng theo các nhóm sau:

23


* Nhóm các dấu hiệu liên quan đến mối quan hệ với ngân
hàng:
- Trong quá trình hạch toán của khách hàng, xu hướng của các
tài khoản của khách hàng qua một quá trình sẽ cung cấp cho ngân
hàng một số dấu hiệu quan trọng gồm: Phát hành séc quá bảo chứng
hoặc bị từ chối; khó khăn trong thanh toán lương; sự dao động của
các tài khoản mà đặc biệt là giảm sút số dư tài khoản tiền gửi…
- Các hoạt động vay: Mức độ vay thường xuyên gia tăng; thanh
toán chậm các khoản nợ gốc và lãi; thường xuyên yêu cầu ngân
hàng cho đáo hạn; yêu cầu các khoản vay vượt quá nhu cầu dự
kiến.
- Phương thức tài chính: Sử dụng nhiều các khoản tài trợ
thương mại cho các hoạt động phát triển dài hạn; chấp nhận sử dụng
các nguồn tài trợ đắt nhất, ví dụ: thường xuyên sử dụng nghiệp vụ
chiết khấu các khoản phải trả (factoring); giảm các khoản phải trả
và tăng các khoản phải thu; các hệ số thanh toán phát triển theo
chiều hướng xấu; có biểu hiện giảm vốn điều lệ.
* Nhóm các dấu hiệu liên quan đến phương pháp quản lý của
khách hàng:
- Thay đổi thường xuyên cơ cấu của hệ thống quản trị hoặc ban
điều hành.
- Hệ thống quản trị hoặc ban điều hành luôn bất đồng về mục
đích, quản trị, điều hành độc đoán hoặc ngược lại quá phân tán.

24



- Cách thức hoạch định của khách hàng có biểu hiện: Được
hoạch định bởi HĐQT hoặc Giám đốc điều hành ít hay không có
kinh nghiệm; HĐQT hoặc Giám đốc điều hành các doanh nghiệp
lớn tham gia quá sâu vào vấn đề thường nhật; Thiếu quan tâm đến
lợi ích của cổ đông, chủ nợ; Thuyên chuyển nhân viên diễn ra
thường xuyên; lập kế hoạch xác định mục tiêu kém, xuất hiện các
hành động nhất thời, không có khả năng đối phó với những thay đổi.
- Quản lý có tính gia đình: có biểu hiện thiếu tin tưởng vào
những người quản lý không thuộc gia đình; cho thành viên của gia
đình chưa được đào tạo, huấn luyện đầy đủ đảm đương cương vị
then chốt.
- Có tranh chấp trong quá trình quản lý.
- Có các chi phí quản lý bất hợp lý: Tập trung quá nhiều chi phí
để gây ấn tượng như thiết bị văn phòng quá hiện đại, phương tiện
giao thông đắt tiền, Ban Giám đốc có cuộc sống xa hoa, lẫn lộn giữa
chi phí kinh doanh và tài chính cá nhân.
* Nhóm các dấu hiệu liên quan tới các ưu tiên trong kinh
doanh:
- Dấu hiệu hội chứng hợp đồng lớn: Doanh nghiệp bị ám ảnh
bởi một khách hàng có tên tuổi mà sau này có thể trở nên lệ thuộc;
Ban Giám đốc cắt giảm lợi nhuận nhằm có được những hợp đồng
lớn.
- Dấu hiệu hội chứng sản phẩm đẹp: Bị ám ảnh bởi một sản
phẩm mà không chú ý đến các yếu tố khác.

25



×