PHAN LÊ DUẨN
NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG QUẢN LÝ RỦI RO TÍN
DỤNG
TẠI NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI CỔ PHẦN HÀNG
HẢI HÀ NỘI
Chuyên ngành: Kinh tế Tài chính – Ngân hàng
Mã số: 60.31.12
LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ
Người hướng dẫn khoa học:
TS. HÀ MINH SƠN
HÀ NỘI – 2010
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ TÀI CHÍNH
HỌC VIỆN TÀI CHÍNH
MỤC LỤC
Trang
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Mục lục
Danh mục từ viết tắt
Danh mục các bảng
Danh mục hình vẽ, đồ thị
2
BẢNG CÁC KÝ HIỆU, CHỮ VIẾT TẮT
CP : Cổ phần
CSTD&QLTSĐB : Chính sách tín dụng và quản lý tài sản đảm bảo.
HĐQT : Hội đồng quản trị
NHTM : Ngân hàng Thương mại
NHHNN : Ngân hàng Nhà nước
MSB: Maritime Bank : Ngân hàng thương mại cổ phần Hàng Hải Việt Nam
Maritime Bank Ha Noi : MSB HN: Ngân hàng TMCP Hàng Hải Hà Nội
GSTD&QLN : Giám sát tín dụng và quản lý nợ.
QLTD&ĐT : Quẩn lý tín dụng và đầu tư.
TCTD : Tổ chức tín dụng
RR : Rủi ro
RRTD : Rủi ro tín dụng
TSĐB : Tài sản đảm bảo.
3
DANH CÁC BẢNG
Trang
DANH MỤC HÌNH VẼ, ĐỒ THỊ
Trang
1
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài.
Tín dụng là một hoạt động cơ bản của ngân hàng thương mại và tạo ra
lợi nhuận chủ yếu cho các ngân hàng trong giai đoạn hiện nay. Song hoạt
động này chứa đựng rủi ro rất cao, gây ra hậu quả nặng nề không chỉ đối với
bản thân ngân hàng mà còn đối với cả doanh nghiệp và nền kinh tế. Vì vậy,
tăng cường quản lý rủi ro tín dụng tại các ngân hàng thương mại thực sự cần
thiết đối với sự tồn tại và phát triển của các ngân hàng.
Tình hình kinh tế thế giới đang diễn biến phức tạp, cuộc khủng hoảng
kinh tế toàn cầu năm 2008 vừa qua đã ảnh hưởng sâu sắc tới toàn bộ nền kinh
tế thế giới nói chung và nền kinh tế Việt Nam nói riêng. Đứng trước tình hình
đó, đòi hỏi các ngân hàng thương mại Việt Nam trong đó có NH TMCP Hàng
Hải Hà Nội càng phải nâng cao công tác quản lý rủi ro tín dụng, hạn chế đến
mức thấp nhất có thể những nguy cơ tiềm ẩn gây nên rủi ro.
Bên cạnh đó, trước những thời cơ và thách thức của tiến trình hội nhập
kinh tế quốc tế, vấn đề nâng cao khả năng cạnh tranh của các ngân hàng
thương mại trong nước với các ngân hàng thương mại nước ngoài, mà cụ thể
là nâng cao chất lượng tín dụng, giảm thiểu rủi ro đã trở nên cấp thiết. Mặt
khác hoạt động tín dụng cũng tiềm ẩn nhiều rủi ro, bởi vậy các ngân hàng
muốn tồn tại, phát triển thì cần phải có những giải pháp nhằm nâng cao chất
lượng công tác quản lý rủi ro tín dụng thích hợp.
Xuất phát từ thực tiễn đó, việc nghiên cứu công tác quản lý rủi ro tín
dụng và tìm ra các giải pháp nhằm tăng cường quản lý rủi ro tín dụng là hết
sức cần thiết. do vậy, đề tài “Nâng cao chất lượng quản lý rủi ro tín dụng tại
Ngân hàng Thương mại cổ phần Hàng Hải Hà Nội” được lựa chọn nghiên
cứu.
1
2. Mục đích nghiên cứu của đề tài.
- Nghiên cứu những vấn đề lý thuyết cơ bản về rủi ro tín dụng và quản
lý rủi ro tín dụng của ngân hàng thương mại.
- Phân tích, đánh giá thực trạng quản lý rủi ro tín dụng của Ngân hàng
TMCP Hàng Hải Hà Nội.
- Đề xuất giải pháp nhằm nâng cao chất lượng quản lý rủi ro tín dụng
tại Ngân hàng thương mại cổ phần Hàng Hải Hà Nội
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu.
- Đối tượng: Nghiên cứu rủi ro tín dụng và quản lý rủi ro tín dụng của
ngân hàng thương mại.
- Phạm vi: Nghiên cứu hoạt động quản lý rủi ro tín dụng tại ngân hàng
TMCP Hàng Hải Hà Nội từ năm 2007 đến năm 2009.
4. Phương pháp nghiên cứu.
Các phương pháp được sử dụng trong quá trình thực hiện luận văn là
phương pháp phỏng vấn, điều tra nghiên cứu, thống kê, phân tích, tổng hợp và
so sánh.
5. Kết cấu luận văn.
Ngoài phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo, phụ lục, nội dung luận
văn được kết cấu thành 3 chương:
Chương 1: Rủi ro tín dụng và quản lý rủi ro tín dụng của ngân hàng
thương mại
Chương 2: Thực trạng quản lý rủi ro tín dụng tại ngân hàng TMCP
Hàng Hải Hà Nội
Chương 3: Giải pháp nâng cao chất lượng quản lý rủi ro tín dụng tại
Ngân hàng thương mại cổ phần Hàng Hải Hà Nội
2
CHƯƠNG 1
RỦI RO TÍN DỤNG VÀ QUẢN LÝ RỦI RO TÍN DỤNG CỦA
NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
1.1. TỔNG QUAN VỀ RỦI RO TÍN DỤNG CỦA NGÂN HÀNG
THƯƠNG MẠI.
1.1.1. Ngân hàng thương mại.
1.1.1.1 Khái niệm ngân hàng thương mại.
Ngân hàng thương mại là một trung gian tài chính có chức năng dẫn
vốn từ nơi có khả năng cung ứng vốn đến những nơi có nhu cầu về vốn nhằm
tạo điều kiện cho đầu tư, phát triển kinh tế. Đây là hình thức tài chính gián
tiếp chiếm 2/3 tổng lưu chuyển vốn trên thị trường tài chính.
Theo Luật các tổ chức tín dụng do Quốc Hội khoá 10 thông qua vào
ngày 12/12/1997 và Luật sửa đổi bổ sung một số điều của luật các tổ chức tín
dụng ngày 15/6/2004 của Việt Nam định nghĩa “Ngân hàng thương mại là
một loại hình tổ chức tín dụng được thực hiện toàn bộ các hoạt động ngân
hàng và các hoạt động kinh doanh khác có liên quan”, trong đó “Tổ chức tín
dụng là doanh nghiệp được thành lập theo quy định của luật này và các quy
định khác của pháp luật để hoạt động ngân hàng” và “hoạt động ngân hàng là
hoạt động kinh doanh tiền tệ và dịch vụ ngân hàng với nội dung thường xuyên
là nhận tiền gửi, sử dụng số tiền này để cấp tín dụng và cung ứng dịch vụ
thanh toán” .
1.1.1.2. Các chức năng cơ bản của ngân hàng thương mại.
Ngân hàng thương mại thực hiện các chứng năng cơ bản sau đây:
+ Chức năng làm thủ quỹ cho xã hội: thực hiện chức năng này, ngân
hàng thương mại nhận tiền gửi của công chúng và các tổ chức, giữ tiền cho
khách hàng và đáp ứng nhu cầu rút tiền và chi tiền cho họ.
3
+ Chức năng trung gian thanh toán: Ngân hàng làm trung gian thanh
toán khi nó thực hiện thanh toán theo yêu cầu của khách hàng như trích từ tài
khoản tiền gửi của họ để thanh toán tiền mau hàng hóa, dịc vụ hoặc nhập vào
tài khoản tiền gửi của khách hàng tiền thu từ bán hàng và thu khác theo lệnh
của họ.
+ Chức năng làm trung gian tín dụng: Thông qua việc huy động các
khoản tiền tạm thời nhàn rỗi trong nền kinh tế, ngân hàng hình thành nên quỹ
cho vay rồi đem cho vay đối với nền kinh tế. Với chức năng này ngân hàng
vừa dóng vai trò là người đi vay, vừa đóng vai trò là người cho vay.
1.1.2. Hoạt động cơ bản của ngân hàng thương mại.
Với sự phát triển của kinh tế, khoa học công nghệ hiện đại, sự gia tăng
cạnh tranh trong lĩnh vực ngân hàng, hoạt động của ngân hàng thương mại
ngày càng đa dạng. Sau đây là những hoạt động cơ bản của ngân hàng thương
mại:
1.1.2.1. Huy động vốn.
Để đảm bảo đủ vốn thực hiện các hoạt động kinh doanh, ngoài vốn tự
có (thường chỉ chiếm dưới 10% tổng nguồn vốn của ngân hàng thương mại),
ngân hàng thương mại phải huy động vốn. Một trong những nguồn vốn huy
động quan trọng của ngân hàng là các khoản tiền gửi của khách hàng.
Nguồn huy động vốn tiếp theo là ngân hàng thương mại có thể vay vốn
từ ngân hàng Trung ương, các ngân hàng và trung gian tài chính khác hoặc
phát hành các chứng từ có giá để vay từ công chúng.
1.1.2.2. Tín dụng.
Đây là hoạt động cung ứng vốn của ngân hàng trực tiếp cho các nhu
cầu sản xuất, tiêu dùng trên cơ sở thỏa mãn các điều kiện vay vốn của ngân
hàng. Tín dụng là hoạt động truyền thống của ngân hàng thương mại và đến
4
nay vẫn được coi là nghiệp vụ sinh lời chủ yếu của ngân hàng. Hoạt động này
sẽ được trình bày chi tiết ở phần tiếp theo.
1.1.2.3. Đầu tư.
Bên cạnh việc sử dụng vốn để cho vay, ngân hàng thương mại còn sử dụng
vốn để đầu tư vào trái khoán, góp vốn, mua cổ phần… hoạt động này góp
phần nâng cao khả năng thanh toán cho ngân hàng, làm đa dạng hóa hoạt
động kinh doanh của ngân hàng nhằm phân tán rủi ro và mang lại lợi nhuận
không nhỏ cho ngân hàng.
1.1.2.4. Các dịch vụ khác.
Các dịch vụ truyền thống mà ngân hàng thương mại thực hiện là dịch
vụ thanh toán, kinh doanh ngoại hối, cho thuê tủ két. Ngày nay, các ngân
hàng thương mại cung cấp thêm nhiều dịch vụ mới như: Tư vấn tài chính, môi
giới đầu tư chứng khoán, bảo lãnh phát hành chứng khoán, bán các dịch vụ
bảo hiểm, cung cấp các kế hoạch hưu trí, quản lý tiền mặt…
Theo luật các tổ chức tín dụng của Việt Nam, ngân hàng thương mại
của Việt Nam được thực hiện các dịch vụ sau: Thanh toán, kinh doanh ngoại
hối và vàng, ủy thác và đại lý trong các lĩnh vực liên quan đến ngân hàng,
cung ứng dịch vụ tư vấn tài chính tiền tệ cho khách hàng, được lập công ty
bảo hiểm để kinh doanh bảo hiểm.
Hình thức và phương thức cung cấp dịch vụ ngân hàng cũng đang phát
triển rất mạnh mẽ. Bên cạnh hình thức giao dịch trực tiếp truyền thống trước
đây, ngày nay ngân hàng đang sử dụng các hình thức giao dịch qua điện thoại,
internet, thanh toán và cấp tín dụng qua thẻ điện tử thông minh…
1.1.3. Hoạt động tín dụng của ngân hàng thương mại.
Tín dụng ngân hàng nói chung được hiểu là một giao dịch về tài sản
(tiền hoặc hàng hóa) giữa bên cho vay là ngân hàng và bên đi vay, trong đó
ngân hàng chuyển giao tài sản cho bên đi vay sử dụng trong một thời hạn nhất
5
định theo thỏa thuận, bên đi vay có trách nhiệm hoàn trả vô điều kiện gốc và
lãi cho ngân hàng khi đến hạn.
Trong phạm vi nghiên cứu của đề tài này, tín dụng ngân hàng được
hiểu là một giao dịch về tài sản giữa ngân hàng và khách hàng (bên đi vay)
trong đó ngân hàng chuyển giao một số tiền nhất định cho khách hàng sử
dụng trong một thời hạn nhất định theo thỏa thuận, khách hàng có trách
nhiệm hoàn trả vô điều kiện gốc và lãi cho ngân hàng khi đến hạn.
Hoạt động tín dụng là hoạt động cơ bản của các ngân hàng thương mại.
dư nợ tín dụng thường chiếm trên 50% tổng tài sản của ngân hàng thương mại
và thu nhập từ tín dụng thường chiếm từ 50% - 70% tổng thu nhập của ngân
hàng thương mại. Bên cạnh việc mang lại thu nhập chính cho ngân hàng thì
rủi ro trong kinh doanh ngân hàng cũng có xu hướng tập trung vào danh mục
tín dụng. Chính vì vậy mà hoạt động tín dụng luôn là mối quan tâm lớn nhất
của các ngân hàng thương mại cũng như thanh tra ngân hàng.
Hoạt động tín dụng của ngân hàng thương mại có các đặc trưng sau:
- Tài sản trong quan hệ tín dụng ngân hàng là tiền.
- Xuất phát từ nguyên tắc hoàn trả, vì vậy ngân hàng khi chuyển giao
tài sản cho người đi vay sử dụng phải có cở sở để tin rằng người đi vay sẽ trả
đúng hạn. Đây là yếu tố hết sức cơ bản trong quản trị tín dụng, là lý do mà
ngân hàng phải thực hiện phân tích kỹ lưỡng trước khi quyết định cho vay.
- Giá trị hoàn trả thông thường phải lớn hơn giá trị lúc cho vay, hay nói
các khác là người đi vay phải trả thêm phần lãi ngoài phần vốn gốc.
- Trong quan hệ tín dụng ngân hàng, tiền vay được cấp trên cơ sở cam
kết hoàn trả vô điều kiện. Về khía cạnh pháp lý, những văn bản xác định quan
hệ tín dụng như hợp đồng tín dụng, khế ước…thực chất là lệnh phiếu, trong
đó bên đi vay cam kết hoàn trả vô điều kiện cho ngân hàng khi đến hạn thanh
toán.
6
1.1.4. Một số loại hình tín dụng mà ngân hàng thương mại thực hiện.
1.1.4.1. Căn cứ theo mục đích cho vay.
Căn cứ vào mục đích cho vay, hoạt động tín dụng có thể chia thành:
- Tín dụng công nghiệp và thương mại: Là loại hình cho vay đối với
các doanh nghiệp trong lĩnh vực công nghiệp, thương mại và dịch vụ.
- Tín dụng nông nghiệp: Là loại hình cho vay để trang trải các chi phí
sản xuất trong lĩnh vực nông nghiệp.
- Tín dụng tiêu dùng: Là loại hình cho vay để đáp ứng các nhu cầu tiêu
dùng cá nhân.
1.1.4.2. Căn cứ theo thời hạn cho vay.
Căn cứ vào thời hạn cho vay, hoạt động tín dụng có thể chia thành:
- Tín dụng ngắn hạn: Là loại hình cho vay có thời hạn đến 12 tháng để
bù đắp sự thiếu hụt vốn lưu động của doanh nghiệp và nhu cầu chi tiêu ngắn
hạn của cá nhân.
- Tín dụng trung hạn: Là loại hình cho vay có thời hạn từ trên 12 tháng
đến 5 năm (có thể khác nhau ở mỗi nước). Tín dụng trung hạn chủ yếu được
sử dụng để đầu tư mua sắm tài sản cố định, cải tiến hoặc đổi mới thiết bị,
công nghệ, mở rộng sản xuất kinh doanh, xây dựng các dự án mới có quy mô
nhỏ và thời gian thu hồi vốn nhanh…
- Tín dụng dài hạn: Là loại hình cho vay có thời hạn từ trên 5 năm, có
thể kéo dài đến 20-30 năm hoặc thậm chí lâu hơn. Tín dụng dài hạn được
cung cấp để đáp ứng các nhu cầu dài hạn như xây dựng nhà ở, các thiết bị,
phương tiện vận tải có quy mô lớn, xây dựng các xi nghiệp mới...
1.1.4.3. Căn cứ theo khách hàng vay vốn.
Căn cứ theo khách hàng vay vốn, hoạt động tín dụng có thể chia thành:
- Tín dụng đối với cá nhân: Là loại hình cho vay để bù đắp nhu cầu tiêu
7
dùng cá nhân. Thời hạn cho vay có thể là ngắn hạn, trung hạn hoặc dài hạn
tùy theo mục đích sử dụng vốn vay và nguồn trả nợ của cá nhân.
- Tín dụng đối với tổ chức/doanh nghiệp: Là loại hình cho vay để phục
nhu cho nhu cầu sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp. Thời hạn cho vay có
thể là ngắn hạn, trung hạn hoặc dài hạn tùy vào nhu cầu vốn của doanh
nghiệp.
1.1.4.4. Căn cứ vào mức độ tín nhiệm đối với khách hàng.
Căn cứ vào mức độ tín nhiệm đối với khách hàng, hoạt động tín dụng
có thể chia thành:
- Tín dụng không có bảo đảm: Là loại cho vay không có tài sản thế
chấp, cầm cố hoặc bảo lãnh của người thứ ba, mà việc cho vay chỉ dựa vào uy
tín của bản thân khách hàng. Loại hình cho vay này thường chỉ được áp dụng
đối với một số khách hàng tốt nhất và đã có quan hệ tín dụng lâu năm với
ngân hàng.
- Tín dụng có bảo đảm: Là loại hình cho vay mà ngân hàng yêu cầu
khách hàng phải có bảo đảm như thế chấp cầm cố tài sản hoặc phải có sự bảo
lãnh của người thứ ba. Loại hình cho vay này thường áp dụng đối với các
khách hàng không có uy tín cao đối với ngân hàng. Sự bảo đảm này là căn cứ
pháp lý để ngân hàng có thêm nguồn thứ hai bổ sung cho nguồn thu nợ thứ
nhất thiếu chắc chắn.
1.1.4.5. Căn cứ vào phương pháp hoàn trả.
Căn cứ vào phương pháp hoàn trả của khách hàng, hoạt động tín dụng
có thể chia thành:
- Tín dụng có thời hạn: Là loại cho vay có thỏa thuận thời hạn trả nợ cụ
thể theo hợp đồng, bao gồm: Cho vay chỉ có một kỳ hạn trả nợ, cho vay có
nhiều kỳ hạn trả nợ.
- Tín dụng không có thời hạn cụ thể: Đối với loại cho vay này ngân
8
hàng có thể yêu cầu hoặc người đi vay tự nguyện trả nợ bất cứ lúc nào nhưng
phải báo trước một thời gian hợp lý, thời gian này có thể thảo thuận trong hợp
đồng.
1.1.4.6. Căn cứ vào xuất xứ tín dụng.
Căn cứ vào xuất xứ tín dụng, hoạt động tín dụng có thể chia thành:
- Tín dụng trực tiếp: Ngân hàng cấp vốn trực tiếp cho người có nhu cầu
vốn đồng thời người đi vay trực tiếp hoàn trả nợ vay cho ngân hàng.
- Tín dụng gián tiếp: Là loại hình cho vay được thực hiện thông qua
việc mua lại các khế ước hoặc chứng từ nợ đã phát sinh và còn trong thời hạn
thanh toán. Các ngân hàng thương mại thường cho vay gián tiếp theo các loại
sau: Chiết khấu thương phiếu, mua các phiếu bán hàng, bao thanh toán (mua
các khoản phải thu).
1.1.5. Vai trò của tín dụng.
1.1.5.1 Đáp ứng nhu cầu vốn để duy trì quá trình sản xuất liên tục đồng
thời góp phần đầu tư phát triển kinh tế.
Thừa, thiếu vốn tạm thời thường xuyên xảy ra ở các doanh nghiệp, việc
phân phối vốn tín dụng đã góp phần điều hòa vốn trong toàn bộ nền kinh tế,
tạo điều kiện cho quá trình sản xuất được liên tục.
Ngoài ra tín dụng còn là cầu nối giữa tiết kiệm và đầu tư, là động lực
kích thích tiết kiệm đồng thời là phương tiện đáp ứng nhu cầu vốn cho đầu tư
phát triển.
Thông qua hoạt động tín dụng giúp các doanh nghiệp sử dụng nguồn
lao động và nguyên liệu hợp lý thúc đẩy quá trình tăng trưởng kinh tế, giải
quyết các vấn đề xã hội.
1.1.5.2 Thúc đẩy nền kinh tế phát triển.
Hoạt động của các ngân hàng là tập trung vốn tiền tệ tạm thời nhàn rỗi
mà vốn này nằm phân tán khắp mọi nơi, trong tay các doanh nghiệp, các cơ
9
quan Nhà Nước và cá nhân, trên cơ sở đó cho vay các đơn vị kinh tế, những
người có nhu cầu về vốn và từ đó thúc đẩy nền kinh tế phát triển.
1.1.5.3. Tín dụng là công cụ tài trợ cho các ngành kinh tế kém phát triển
và ngành mũi nhọn.
Trong điều kiện nước ta, Nhà Nước tập trung tín dụng để tài trợ cho các
ngành kinh tế mũi nhọn, mà phát triển các ngành này sẽ tạo cơ sở lôi cuốn các
ngành kinh tế khác phát triển như sản xuất hàng xuất khẩu, khai thác dầu
khí…
1.1.5.4. Góp phần tác động đến việc tăng cường chế độ hạch toán kinh tế
của các doanh nghiệp.
Đặc trưng cơ bản của tín dụng là sự vận động trên cơ sở hoàn trả và có
lợi tức. Nhờ vậy mà hoạt động tín dụng đã kích thích sử dụng vốn và sử dụng
có hiệu quả.
Khi sử dụng vốn vay ngân hàng, doanh nghiệp phải tôn trọng hợp đồng
tín dụng, tức phải hoàn trả nợ gốc và lãi đúng hạn, tôn trọng các điều kiện
khác đã ghi trong hợp đồng tín dụng, bằng các tác động như vậy đòi hỏi
doanh nghiệp phải quan tâm đến việc nâng cao hiệu quả sử dụng vốn, giảm
chi phí sản xuất, tăng vòng quay của vốn tạo điều kiện nâng cao doanh lợi cho
doanh nghiệp.
1.1.5.5. Tạo điều kiện phát triển các quan hệ kinh tế với các doanh
nghiệp nước ngoài.
Trong điều kiện ngày nay, phát triển kinh tế của một quốc gia gắn liền
với kinh tế thế giới, tín dụng ngân hàng đã trở thành một trong những phương
tiện nối liền kinh tế các nước với nhau.
10
Đối với các nước đang phát triển nói chung và nước ta nói riêng, tín
dụng đóng vai trò quan trọng trong việc mở rộng xuất khẩu hàng hoá, đồng
thời nhờ nguồn tín dụng bên ngoài để công nghiệp hoá và hiện đại hoá nền
kinh tế.
1.1.6. Rủi ro tín dụng.
1.1.6.1 Khái niệm rủi ro tín dụng.
Rủi ro là vấn đề không được mong đợi trong tất cả các lĩnh vực trong
đời sống xã hội. Rủi ro có thể được hiểu một cách khái quát đó là khả năng
xảy ra các biến cố không lường trước, khi xảy ra sẽ làm cho kết quả thực tế
khác kết quả kỳ vọng theo kế hoạch. Rủi ro luôn xuất hiện bất ngờ và đe dọa
sự sống còn của doanh nghiệp, tuy nhiên muốn có lợi nhuận thì phải chấp
nhận nó, không được né tránh nó. Vì vậy, để tồn tại và phát triển, để đứng
vững trong cạnh tranh các doanh nghiệp phải đương đầu với rủi ro có thể xảy
ra bằng cách tiên liệu phán đoán các rủi ro có thể xảy ra để tìm biện pháp
phòng ngừa, hạn chế nhằm giảm thiểu thiệt hại do rủi ro gây ra
Rủi ro tín dụng là một trong những loại rủi ro phổ biến nhất trong hoạt
động ngân hàng thương mại thị trường tài chính. rủi ro tín dụng cũng là loại
rủi ro lớn nhất, thường xuyên xảy ra và gây hậu quả nặng nề nhất đối với hoạt
động của ngân hàng vì các khoản cho vay thường chiếm quá nửa giá trị tổng
tài sản và tạo ra từ 1/2 đến 2/3 nguồn thu của ngân hàng. hoạt động tín dụng
tạo ra phần lớn nguồn thu cho ngân hàng song cũng mang lại những thiệt hại
nặng nề, có khi dẫn đến phá sản ngân hàng. Rủi ro tín dụng là rủi ro phức tạp
nhất, quản lý và phòng ngừa khó khăn nhất. Nó đòi hỏi ngân hàng phải có
những giải pháp đồng bộ, hữu hiệu mới có thể hạn chế, ngăn ngừa bớt rủi ro,
giảm tối thiểu những thiệt hại có thể xảy ra.
11
Rủi ro tín dụng cũng đã được rất nhiều nhà khoa học nghiên cứu và
cũng đã đưa ra nhiều quan niệm khác nhau:
- Rủi ro tín dụng được hiểu là những tổn thất do khách hàng không trả
được nợ hoặc sự giảm sút chất lượng tín dụng của những khoản vay.
- Rủi ro tín dụng phát sinh trong trường hợp ngân hàng không thu được
đầy đủ gốc và lãi của khoản vay hoặc là việc thanh toán nợ gốc và lãi không
đúng kỳ hạn.
- Rủi ro tín dụng được định nghĩa là nguy cơ mà người đi vay không
thể chi trả tiền lãi, hoặc hoàn trả vốn gốc so với thời gian đã ấn định trong
hợp đồng tín dụng. Đây là thuộc tính vốn có của hoạt động ngân hàng. Rủi ro
tín dụng tức là việc chi trả bị trì hoãn, hoặc tồi tệ hơn là không hoàn trả được
toàn bộ. Điều này gây ra sự cố đối với dòng chu chuyển tiền tệ, và gây ảnh
hưởng tới khả năng thanh khoản của ngân hàng.
Nếu coi tín dụng là việc "tin tưởng" mà đưa cho khách hàng sử dụng
giá trị hiện tại với mong muốn nhận được giá trị tương lai trong 1 thời gian
nhất định thì rủi ro tín dụng chính là khả năng mong muốn đó không được
đáp ứng hay nói một cách khác đó là khả năng xảy ra sự khác biệt không
mong muốn giữa kết quả thực tế và kết quả kỳ vọng theo kế hoạch - đúng hạn
nhận được đầy đủ gốc và lãi.
Với mục tiêu là đúng hạn theo hợp đồng tín dụng nhận được đầy đủ
gốc và lãi như đã nêu ở trên, thì rủi ro tín dụng có thể được hiểu là những tổn
thất tiềm năng có thể xảy ra do các bên đối tác trong hợp đồng tín dụng không
có khả năng hoặc không có đủ năng lực thực hiện nghĩa vụ của họ một cách
đầy đủ hoặc đúng hạn theo cam kết.
Như vậy rủi ro tín dụng là khả năng khách hàng không trả, hoặc không
trả đầy đủ, hoặc không trả đúng hạn gốc và lãi cho ngân hàng. Nói một cách
khác rủi ro tín dụng là rủi ro mà bên vay trong một giao dịch không thực hiện
12
được theo thời hạn và điều kiện của hợp đồng làm cho người cho vay phải
gánh chịu tổn thất tài chính.
Như trên đã phân tích, rủi ro tín dụng gắn liền với hoạt động quan trọng
nhất của ngân hàng thương mại - hoạt động tín dụng. Các khoản cho vay
thường chiếm tỷ trọng lớn nhất trong tổng tài sản có của ngân hàng thương
mại, mang lại phần lớn thu nhập cho ngân hàng, song cũng tiềm ẩn rủi ro lớn,
có khi dẫn đến phá sản ngân hàng. Trước khi cho vay, ngân hàng cố gắng
phân tích các yếu tố của người vay sao cho độ an toàn là cao nhất. Nhìn
chung ngân hàng chỉ quyết định cho vay khi thấy rằng rủi ro tín dụng sẽ
không xảy ra. Tuy nhiên không phải bao giờ ngân hàng cũng dự tính chính
xác các vấn đề sẽ xảy ra. Khả năng hoàn trả tiền vay của khách hàng có thể bị
thay đổi do nhiều nguyên nhân. Hơn nữa nhiều cán bộ tín dụng ngân hàng
không có khả năng thực hiện phân tích tín dụng thích đáng. Do vậy trên quan
điểm quản lý toàn bộ ngân hàng, rủi ro tín dụng là không thể tránh khỏi, là
khách quan. Nhiều quan điểm nhất trí rằng, rủi ro tín dụng là bạn đường trong
kinh doanh, có thể đề phòng, hạn chế, chứ không thể loại trừ.
1.1.6.2. Các chỉ tiêu đánh giá rủi ro tín dụng trong hoạt động kinh doanh
của ngân hàng thương mại.
a. Chỉ tiêu định tính.
Chúng ta có thể chia chỉ tiêu định tính thành các nhóm sau:
* Nhóm 1: Các chỉ tiêu liên quan tới mối quan hệ với ngân hàng, cụ thể:
Mức độ vay thường xuyên gia tăng, chậm thanh toán các khoản nợ gốc
và lãi, thường xuyên yêu cầu ngân hàng cơ cấu nợ, yêu cầu các khoản vay
vượt quá nhu cầu dự kiến.
Xu hướng của các tài khoản của khách hàng: Khó khăn trong thanh
toán lương, giảm sút số dư tài khoản tiền gửi, thường xuyên yêu cầu hỗ trợ
vốn lưu động, gia tăng khoản nợ thương mại, …
13
Khách hàng thường xuyên sử dụng các khoản tài trợ ngắn hạn cho các
hoạt động dài hạn, chấp nhận sử dụng các nguồn tài trợ đắt nhất, đồng thời là
dấu hiệu về việc vốn điều lệ của khách hàng đang có xu hướng giảm sút, …
* Nhóm 2: Các dữ liệu sử lý thông tin về tài chính kế toán.
Biểu hiện đầu tiên là việc khách hàng cố tình giả mạo các số liệu kế
toán nhằm làm đẹp cho các báo cáo tài chính trình ngân hàng, làm gia tăng
giá trị thực của các tài sản khác. Hoặc trì hoãn việc trình các chứng từ tài
chính liên quan theo yêu cầu của ngân hàng. Bên cạnh đó còn có các dấu hiệu
phi tài chính khác như sự suy giảm uy tín, đạo đức của các bộ phận trong bộ
máy của khách hàng.
*Nhóm 3: Các chỉ tiêu liên quan đến quản lý khách hàng.
Thể hiện đầu tiên là việc thay đổi thường xuyên chính sách quản lý
khách hàng, thay đổi cán bộ quản lý một cách bất hợp lý, các chi phí phát sinh
trong quá trình quản lý không chính xác, các cán bộ có trình độ yếu kém
không theo kịp sự phát triển của khách hàng, …chính từ những thay đổi và sự
bất hợp lý trong quản lý khách hàng là một dấu hiệu khá rõ ràng trong việc
làm phát sinh các rủi ro tín dụng trong hoạt động tín dụng của ngân hàng
thương mại.
* Nhóm 4: Các chỉ tiêu về ưu tiên trong kinh doanh.
Do ngân hàng quá chú trọng về các hợp đồng lớn mà bỏ qua các bước
cần thiết trong thẩm định hay xem xét kỹ lưỡng trong quá trình ký hợp đồng
tín dụng, hoặc rút ngắn thời gian thẩm định một cách quá bất cẩn, …đây
chính là mối đe doạ lớn nhất thể hiện khả năng rủi ro tín dụng rất cao của
ngân hàng.
* Nhóm 5: Các chỉ tiêu kỹ thuật và thương mại
Biểu hiện cụ thể như : Sự thay đổi lãi suất, tỷ giá, thị hiếu trên thị trường,
sự bất ổn định trên thị trường trong thời gian gần đây, việc Việt Nam gia nhập
14
vào tổ chức WTO làm tăng tính cạnh tranh, xuất hiện nhiều đối thủ lớn,… hoặc
có thể thấy sự ảnh hưởng rõ rệt từ những thay đổi chính sách của Nhà Nước mà
đặc biệt là chính sách thuế, sự không ổn định trong hệ thống pháp luật cũng
dẫn đến rủi ro cho cả khách hàng và cho cả ngân hàng thương mại.
b. Chỉ tiêu định lượng.
* Tỷ lệ nợ quá hạn.
Nợ quá hạn được hiểu là các khoản nợ mà người vay không có khả
năng thanh toán đầy đủ và đúng hạn như hợp đồng tín dụng. Khi đáo hạn món
nợ này sẽ được chuyển sang nợ quá hạn.
* Tỷ lệ nợ xấu.
Quyết định số 493/2005/QĐ-NHNN ngày 24/4/2005 của Thống đốc
NHNN “ v/v ban hành quy định về phân loại nợ, trích lập và sử dụng dự
phòng để xử lý rủi ro tín dụng trong hoạt động ngân hàng của TCTD” đã đánh
giá chính xác hơn chất lượng tín dụng của các TCTD qua chỉ tiêu tỷ lệ nợ
xấu.
Tỷ lệ nợ xấu trên tổng dư nợ càng cao thì chất lượng tín dụng càng kém
và ngược lại. Nếu tỷ lệ nợ xấu nhỏ hơn 5% thì chấp nhận được và tỷ lệ này
càng nhỏ hơn 5% càng tốt.
Theo quyết định 493 thì dư nợ trong ngân hàng thương mại được chia
làm 5 nhóm và chỉ có nhóm nợ 3,4 và 5 được đưa vào nợ xấu.
Nhóm 1: Nợ đủ tiêu chuẩn:
Các khoản nợ trong hạn, có khả năng thu hồi đủ cả gốc và lãi đúng thời
hạn. Các khoản nợ của khách hàng trả đầy đủ nợ gốc và lãi theo kỳ hạn đã
được cơ cấu lại tối thiểu trong vòng 1 năm đối với các khoản nợ trung và dài
hạn, 3 tháng đối với các khoản nợ ngắn hạn và các kỳ hạn tiếp theo được đánh
giá là có khả nâng trả đầy đủ nợ gốc, lãi đúng hạn theo thời hạn đã được cơ
cấu lại thì phân loại vào nợ nhóm 1.
15
Nhóm 2: Nợ cần chú ý:
Các khoản nợ quá hạn dưới 90 ngày; các khoản nợ cơ cấu lại thời hạn
trả nợ trong hạn theo thời hạn trả nợ đã cơ cấu lại được đánh giá là có khả
năng trả nợ đầy đủ, đúng hạn.
Nhóm 3: Nợ dưới tiêu chuẩn.
Các khoản nợ quá hạn từ 90 ngày đến 180 ngày; các khoản nợ cơ cấu
lại có thời hạn trả nợ quá hạn dưói 90 ngày theo thời hạn đã cơ cấu lại
Nhóm 4: Nợ nghi ngờ.
Nợ qúa hạn từ 181 ngày đến 360 ngày; các khoản nợ cơ cấu lại thời hạn
trả nợ quá hạn từ 90 ngày đến 180 ngày.
Nhóm 5: Nợ có khả năng mất vốn:
Các khoản nợ quá hạn trên 360 ngày; các khoản nợ chờ xử lý; các
khoản nợ cơ cấu lại thời hạn trả nợ quá hạn trên 180 ngày theo thời hạn đã cơ
cấu lại.
Công thức tính:
Tỷ lệ nợ xấu =
Tổng dư nợ nhóm 3,4 và 5
Tổng dư nợ
x 100%
* Tỷ lệ nợ mất vốn.
Đây là tỷ lệ của nhưng khoản nợ có khả năng mất vốn vì vậy để đảm
bảo cho hoạt động ngân hàng thì cần phải trích lập quĩ dự phòng tín dụng cho
những khoản vay thuộc nhóm này và phải luôn chú ý để tỷ lệ này ở mức thấp
nhất có thể để tránh rrtd. công thức tính:
Tỷ lệ nợ mất vốn =
Dư nợ mất vốn
Tổng dư nợ
x 100%
* Tỷ lệ trích lập dự phòng RRTD.
Dự phòng rủi ro tín dụng là khoản tiền đã trích lập để dự phòng cho
những tổn thất có thể xảy ra do khách hàng hoặc đối tác của ngân hàng
16
thương mại không thực hiện nghĩa vụ theo cam kết. Tỷ lệ này càng cao chứng
tỏ chất lượng tín dụng của ngân hàng không tốt và rủi ro mà ngân hàng có thể
gặp phải càng cao. Công thức:
Tỷ lệ DPRR đã trích lập =
Dự phòng rủi ro đã trích lập
Tổng dư nợ
x 100%
NHTM thực hiện trích lập và duy trì dự phòng chung bằng 0,75% tổng
giá trị các khoản nợ từ nhóm 1 đến nhóm 4 qui định tại điều 6 hoặc điều 7
quyết định 493 để đảm bảo an toàn trong hoạt động tín dụng của ngân hàng.
* Tỷ lệ bù đắp rủi ro.
Theo quyết định 493/2005/QĐ-NHNN trích lập và sử dụng dự phòng
để xử lý RRTD trong hoạt động ngân hàng thì các trường hợp sau được sử
dụng quỹ dự phòng để xử lý RRTD:
- Khách hàng vay là tổ chức, doanh nghiệp bị giải thể, phá sản theo qui
định của pháp luật, cá nhân bị chết hoặc mất tích.
- Các khoản nợ thuộc nhóm 5 được qui định tại điều 6 và điều 7 quyết
định 493.
Công thức tính:
Tỷ lệ bù đắp rủi ro =
Dự phòng rủi ro đã bù đắp
Tổng dư nợ
x 100%
1.1.6.3. Nguyên nhân của rủi ro tín dụng.
a. Nguyên nhân khách quan.
Các cán bộ tín dụng ngân hàng phải được đặt vào một tình trạng phân
tích người vay tương lai theo các điều kiện hiện tại và quá khứ: Phân tích các
kỹ năng quản lý, tình hình sản xuất kinh doanh và tình hình tài chính, quá khứ
của việc hoàn trả nợ, uy tín, mức độ cạnh tranh trên thị trường và thị
phần...những nhân tố ảnh hưởng đến rủi ro tín dụng. Tuy nhiên tình huống ở
tương lai là một điều chưa được biết, tương lai có thể mang đến các khó khăn
17
bất ngờ, điều này sẽ dẫn đến những khả năng có thể xảy ra rủi ro tín dụng
trong tương lai.
Sự tác động của môi trường bên ngoài thường khó dự đoán, vượt quá
tầm kiểm soát gây ra những thiện hại lớn cho người vay và ngân hàng, bao
gồm các loại sau:
- Sự thay đổi chính sách của chính phủ ảnh hưởng đến tình hình tài
chính và khả năng trả nợ của khách hàng.
Hoạt động của ngân hàng và khách hàng đều chịu tác động của môi
trường kinh tế - xã hội. chính sách kinh tế vĩ mô ổn định sẽ giúp cho hoạt
động của khách hàng ít bị biến động, do vậy mà việc dự báo về tình hình tài
chính, kinh doanh của khách hàng cũng thuận lợi hơn. Ngược lại, chính sách
kinh tế vĩ mô không ổn định thì ngân hàng rất khó có thể phân tích, dự báo
chính xác hoạt động kinh doanh, tài chính của khách hàng trong tương lai
cũng như khó có thể lường trước được những rủi ro khách hàng phải đối mặt,
do vậy mà ngân hàng không thể đánh giá đúng khả năng trả năng trả nợ của
khách hàng trong tương lai, khi đó chất lượng tín dụng của ngân hàng không
đạt yêu cầu.
Chính sách của Chính Phủ ảnh hưởng tới hoạt động của các doanh
nghiệp, qua đó tác động đến hoạt động của ngân hàng trên các phương diện sau:
Chính sách thuế: Chính sách thuế ảnh hưởng trực tiếp đến chi phí của
doanh nghiệp. Khi chính phủ có những thay đổi về chính sách thuế, hoạt động
kinh doanh của doanh nghiệp sẽ bị tác động và có thể ảnh hưởng đến nguồn
thu của doanh nghiệp, từ đó ảnh hưởng đến nguồn trả nợ ngân hàng.
Chính sách xuất- nhập khẩu vật tư thiết bị: Khi có bất kỳ sự thay đổi
nào về chính sách xuất nhập khẩu vật tư thiết bị sẽ ảnh hưởng tức thời và trực
tiếp đến chi phí và doanh thu của doanh nghiệp, gây khó khăn cho doanh
nghiệp trong hoạt động sản xuất kinh doanh và làm giảm doanh thu, từ đó gây
18
khó khăn cho việc trả nợ ngân hàng và vì vậy rủi ro tín dụng của ngân hàng
tăng lên.
Chính sách chung về các yếu tố đầu vào: Chính sách này cũng gây tác
động trực tiếp đến chi phí của doanh nghiệp, có thể đẩy doanh nghiệp vào khó
khăn và dẫn đến mất khả năng trả nợ ngân hàng.
- Môi trường tự nhiên.
Những biến động lớn về thời tiết, khí hậu gây ảnh hưởng tới hoạt động
sản xuất kinh doanh đặc biệt là lĩnh vực sản xuất nông nghiệp, điều kiện tự
nhiên là yếu tố khó dự đoán, nó thường xảy ra bất ngờ với thiệt hại lớn nằm
ngoài tầm kiểm soát của con người. Vì vậy khi có thiên tai, địch hoạ xảy ra
khách hàng cùng ngân hàng sẽ có nguy cơ tổn thất lớn, phương án kinh doanh
không có nguồn thu… điều đó đồng nghĩa với ngân hàng phải cùng chia sẻ
rủi ro với khách hàng của mình. Ảnh hưởng của môi trường tự nhiên, đặc biệt
là những thảm hoạ tự nhiên là khó dự đoán, khó phòng ngừa và khi rủi ro xảy
ra thì ngân hàng và khách hàng phải gánh chịu tổn thất
- Môi trường kinh tế xã hội.
Môi trường kinh tế xã hội trong nước biến động chịu ảnh hưởng của
những biến động từ nền kinh tế thế giới, đó là nguyên nhân làm phát sinh rủi
ro trong hoạt động kinh doanh của nền kinh tế, từ đó ảnh hưởng tới các lĩnh
vực của nền kinh tế trong đó ngân hàng là ngành chứa đựng nguy cơ rủi ro
lớn nhất. Môi trường kinh tế có ảnh hưởng rất lớn đến sức mạnh tài chính của
người vay và thiệt hại hay thành công của người vay. Trong giai đoạn kinh tế
phát triển, người vay hoạt động hiệu quả nhưng trong giai đoạn khủng hoảng
khả năng trả nợ của người vay sẽ bị giảm sút. Thông thường, các khoản cho
vay khó được thu hồi trong trường hợp khủng hoảng kinh tế xảy ra.
Bên cạnh đó hoạt động kinh doanh tín dụng phụ thuộc rất nhiều vào
thói quen, truyền thống, tập quán của người dân. Những yếu tố đó nhiều khi
19