Tải bản đầy đủ (.doc) (116 trang)

Tổ chức quản lý thu chi quỹ bảo hiểm xã hội ở bảo hiểm xã hội tỉnh bắc ninh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.99 MB, 116 trang )

LỜI MỞ ĐẦU
Hiện nay ở hầu hết các quốc gia trên thế giới, dù ở chế độ xã hội
nào, dù nền kinh tế phát triển hay đang hoặc kém phát triển cũng đều
thực hiện chính sách BHXH.
Đối với Đảng và Nhà nước ta, BHXH là một trong những chính
sách xã hội cơ bản nhất, góp phần đảm bảo thu nhập, ổn định đời sống
cho người lao động khi gặp rủi ro góp phần ổn định chính trị, trật tự
an toàn xã hội, thúc đẩy sự nghiệp công nghiệp hoá hiện đại hoá đất
nước. Nền kinh tế nước ta đang chuyển mạnh sang cơ chế thị trường,
các thành phần kinh tế đan xen lẫn nhau, các quan hệ lao động cũng
trở nên đa dạng và phức tạp hơn . Do vậy, chính sách BHXH theo
kiểu bao cấp không còn phù hợp và phải nhanh chóng biến đổi cho
thích ứng với điều kiện mới . Để tổ chức đưa chính sách BHXH vào
thực tế cuộc sống, đòi hỏi phải có một nguồn tài chính đủ lớn và phải
quản lý có hiệu quả để đảm bảo cân đối thu chi, bảo toàn và tăng
trưởng .
Thực tế cho thấy, ở các nước phát triển thì Tài chính BHXH là
một nguồn tài chính lớn , và quỹ BHXH là hạt nhân, là nội dung vật
chất của Tài chính BHXH . Quản lý thu – chi quỹ BHXH là khâu
quan trọng trong quản lý Tài chính BHXH . Qua thực tế hoạt động
của ngành BHXH nói chung và BHXH tỉnh Bắc Ninh nói riêng, đã
bộc lộ nhiều thiếu sót, bất cập .Và hậu quả của tình trạng thu không
đủ, còn nợ đọng , chi chưa đồng bộ do còn thiếu thực tế ... đã vi phạm


nguyên tắc cân đối thu – chi trong quản lý quỹ BHXH và làm tăng
gánh nặng cho ngân sách Nhà nước .
Nhận thức được tầm quan trọng và cấp thiết của vấn đề này,
trong quá
trình thực tập tại phòng Kế hoạch - Tài chính BHXH tỉnh Bắc Ninh,
em đã


chọn đề tài : “Tổ chức quản lý thu – chi quỹ BHXH ở BHXH tỉnh
Bắc Ninh ”. Mục đích để nghiên cứu nhằm đánh giá thực trạng việc
thực hiện chính sách BHXH nói chung và công tác thu chi nói riêng,
trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh . Qua đó, đề xuất những giải pháp góp
phần hoàn thiện chính sách BHXH, nâng cao hiệu quả công tác thu –
chi quỹ BHXH, đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của người lao động
và dần hoà nhập với BHXH ở các nước trên thế giới .
Ngoài phần mở đầu và kết luận đề tài gồm 3 chương :
Chương I

: Khái quát chung về Bảo hiểm xã hội .

Chương II : Thực trạng tổ chức quản lý thu – chi quỹ BHXH ở
BHXH tỉnh Bắc Ninh.
Chương III : Một số giải pháp chủ yếu nhằm nâng cao hiệu quả
công tác thu – chi quỹ BHXH ở BHXH tỉnh Bắc Ninh .
Trong đề tài này em đã rất cố gắng tìm hiểu, nghiên cứu, song
do kinh nghiệm và việc áp dụng từ lý thuyết vào thực tế còn nhiều
hạn chế nên không tránh khỏi những sai sót . Em kính mong nhận
được sự giúp đỡ và góp ý của thầy giáo hướng dẫn cùng các đồng chí
cán bộ BHXH ở BHXH tỉnh Bắc Ninh.



CHƯƠNG I
KHÁI QUÁT CHUNG VỀ BẢO HIỂM XÃ HỘI
I/ Bảo hiểm xã hội (BHXH) trong đời sống kinh tế xã hội :
1.1/ Bản chất của BHXH :
Con người muốn tồn tại và phát triển trước hết phải ăn, mặc, ở
và đi lại ... Để thoả mãn những nhu cầu tối thiểu đó, người ta phải lao

động tạo ra những sản phẩm cần thiết . Khi sản phẩm được tạo ra
ngày càng nhiều thì đời sống con người ngày càng đầy đủ và hoàn
thiện, xã hội ngày càng văn minh hơn . Như vậy, việc thoả mãn những
nhu cầu sinh sống và phát triển của con người phụ thuộc vào khả năng
lao động của chính họ . Ai cũng có quá trình sinh ra, trưởng thành, già
rồi chết ; khi còn nhỏ chưa thể lao động được thì chắc chắn phải dựa
vào người trưởng thành nuôi dưỡng ; khi đã trưởng thành thì phải lao
động tự nuôi sống bản thân và những người phụ thuộc . Nhưng trong
thực tế, không phải lúc nào con người cũng gặp những thuận lợi, có
đầy đủ thu nhập và cuộc sống bình thường. Trái lại có rất nhiều
trường hợp, khó khăn, bất lợi ít nhiều ngẫu nhiên phát sinh làm cho
người ta bị giảm hoặc mất thu nhập và mọi điều kiện sống khác.
Chẳng hạn, bất ngờ bị ốm đau hay bị tai nạn trong lao động , mất
người nuôi dưỡng hay khi tuổi già khả năng lao động và tự phục vụ
bị suy giảm ... Khi rơi vào các trường hợp này, các nhu cầu thiết yếu
trong cuộc sống không vì thế mà mất đi, trái lại có cái tăng lên, thậm
trí còn xuất hiện thêm một số nhu cầu mới như : ốm đau cần được
khám chữa bệnh và điều trị, tai nạn thương tật cần có người chăm


sóc ... Bởi vậy để đảm bảo ổn định cuộc sống, con người và xã hội
loài người phải tìm ra và thực tế đã tìm ra nhiều cách giải quyết :
- Trong xã hội công xã nguyên thuỷ, do chưa có tư hữu sản xuất,
con người cùng nhau săn bắn, hái lượm, sản phẩm thu được phân phối
bình quân
nên khó khăn, bất lợi của mỗi người cả cộng đồng cùng san sẻ .
- Trong xã hội phong kiến : quan lại thì dựa vào bổng lộc do nhà
vua ban còn người dân thì dựa vào sự san sẻ, đùm bọc lẫn nhau trong
nội bộ cộng đồng hoặc sự cứu giúp của nhà nước .
Từ khi nền kinh tế hàng hoá phát triển thì việc thuê mướn nhân

công xuất hiện và phân công lao động càng sâu sắc . Trong quá trình
thuê mướn lao động đã phát sinh một loạt những vấn đề liên quan đến
người lao động. Giới chủ luôn yêu cầu người lao động phải làm việc
tới cường độ cao, thời gian làm việc kéo dài và nếu người lao động
gặp rủi ro phải nghỉ việc thì không trả lương . Còn giới thợ luôn đấu
tranh đòi tăng lương , giảm giờ làm đồng thời yêu cầu giới chủ vẫn
phải trả lương khi họ không may gặp rủi ro phải nghỉ việc. Mâu thuẫn
trên kéo dài hàng trăm năm. Nó diễn ra sâu sắc nhất vào giai đoạn đầu
của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ nhất. Duy trì trật tự xã hội là
một trong những cái đích quan trọng mà bất cứ một thể chế chính trị,
một giai cấp hay một quốc gia nào muốn tồn tại đều phải đạt được.
Việc duy trì trật tự xã hội có sự đóng góp không nhỏ của các giải pháp
cộng hưởng vào việc giải quyết hậu quả của những sự kiện khác nhau
thường gọi là “ rủi ra xã hội ”. Chính những giải pháp này được gọi là
an toàn xã hội hay bảo đảm xã hội (Social security). Tuy nhiên, chỉ


đến khi công nghiệp xuất hiện thì sự bảo vệ của xã hội đối với các
thành viên của mình mới được thực hiện tương đối có hệ thống. Và
Nhà nước với tư cách là trung gian phải đứng ra can thiệp, điều hoà
mâu thuẫn đảm bảo an toàn xã hội. Lần đầu tiên xuất hiện từ “an toàn
xã hội ”trong một đạo luật của Mỹ ( Luật 1935 về an toàn xã hội )
Luật này quy định các đối tượng được bảo vệ là những người già yếu,
tàn tật, thất nghiệp, chết. Năm 1938, từ an toàn xã hội được sử dụng
trong một đạo luật của Newzeland và năm 1941 được sử dụng trong
hiến chương Đại Tây Dương. Đến năm 1952, hội nghị toàn thể ILO
đã thông qua công ước 102 về an toàn xã hội trên cơ sở có sự nhận
thức đúng đắn, sự kiểm nghiệm thực tế về cơ chế bảo vệ này. Theo
định nghĩa của ILO thì “an toàn xã hội là sự bảo vệ của xã hội đối với
các thành viên của mình thông qua các biện pháp công cộng nhằm

chống lại các khó khăn về kinh tế và xã hội do bị ngừng hoặc giảm
thu nhập gây ra bởi ốm đau, thai sản, tai nạn, thất nghiệp, thương tật
tuổi già và chết, việc cung cấp y tế và việc trợ cấp cho các gia đình
đông con”. Như vậy, đây là một lĩnh vực có nội dung rộng lớn, được
cấu thành bởi các bộ phận : BHXH cho người lao động (theo nghĩa
của từ Social insuarance), trợ giúp xã hội, trợ cấp từ cộng đồng, trợ
cấp gia đình, trợ cấp từ quỹ dự phòng quốc gia, sự bảo vệ (trách
nhiệm) của người chủ sử dụng lao động .
Với nội dung rộng lớn đó, an toàn xã hội là đối tượng nghiên
cứu của nhiều ngành khoa học khác nhau như xã hội học, kinh tế học,
luật học, chính trị học ... Và trong hệ thống an toàn xã hội nêu trên,


BHXH là một bộ phận cơ bản nhất, quan trọng nhất được phân biệt
với các bộ phận khác trong hệ thống bằng những đặc trưng cơ bản :
- BHXH là nhu cầu khách quan đa dạng và phức tạp của xã hội,
nhất là trong xã hội mà sản xuất hàng hoá hoạt động theo cơ chế thị
trường, mối quan hệ thuê mướn lao động phát triển đến một mức độ
nào đó. Các nhà kinh tế cho rằng sự ra đời và phát triển của BHXH
phản ánh sự phát triển của nền kinh tế hay BHXH không vượt quá
trạng thái kinh tế của mỗi nước. Kinh tế càng phát triển thì BHXH
càng đa dạng và hoàn thiện .
- BHXH là sự liên kết giữa những người lao động (thông qua sự
san sẻ trách nhiệm bằng đóng phí BHXH) xuất phát từ lợi ích chung
của người lao động và người sử dụng lao động.
- Việc tham gia BHXH là bắt buộc trừ một số trường hợp ngoại
lệ .
- Nguồn thu BHXH thông qua sự đóng góp của các bên tham
gia trong quan hệ BHXH bao gồm người lao động, người sử dụng lao
động và Nhà nước trong một số trường hợp. Sự đóng góp này thể hiện

mối quan hệ lợi ích, trách nhiệm, nghĩa vụ của cả 3 bên, xuất phát từ
lợi ích chung của sự an toàn, ổn định và phát triển xã hội.
- Các nguồn thu BHXH được tập trung vào một quỹ không nằm
trong Ngân sách Nhà nước để chi trả trợ cấp cho người được hưởng
BHXH và các hoạt động quản lý BHXH.
- Quyền lợi BHXH không gắn với bất cứ chỉ tiêu nào về nhu cầu
và tài sản của người được hưởng.


- Các mức đóng và mức hưởng BHXH thường gắn với thu nhập
hoặc thu nhập trước đó của người được hưởng. Do vậy phần thu nhập
của người lao động bị giảm hoặc mất đi do bị giảm hoặc mất khả năng
lao động, mất việc làm của những người lao động tham gia BHXH
chính là đối tượng của BHXH.
Toàn bộ những hoạt động với những mối quan hệ chặt chẽ trên
đây được thế giới quan niệm là BHXH đối với người lao động . Đây
là một chính sách rất nhân văn nhưng lại có những quy định chặt chẽ
dựa trên cơ sở khách quan và phù hợp với điều kiện kinh tế xã hội của
mỗi nước chứ không dựa trên ý trí chủ quan. Do vậy có thể hiểu một
cách khái quát theo Từ điển Bách khoa Việt Nam : “BHXH là sự
đảm bảo thay thế hoặc bù đắp một phần thu nhập cho người lao động
khi họ bị mất hoặc giảm thu nhập do bị ốm đau, thai sản, tai nạn lao
động , bệnh nghề nghiệp, tàn tật, thất nghiệp, tuổi già, tử tuất, dựa trên
cơ sở một quỹ tài chính do sự đóng góp của các bên tham gia BHXH,
có sự bảo hộ của Nhà nước theo pháp luật, nhằm đảm bảo an toàn đời
sống cho người lao động và gia đình họ, đồng thời góp phần đảm bảo
an toàn xã hội ”.
Từ những đặc thù riêng, BHXH có những chức năng cơ bản như
sau:
- Đảm bảo thay thế hoặc bù đắp một phần thu nhập cho người

lao động tham gia BHXH khi họ bị giảm hoặc mất thu nhập do mất
khả năng lao động hoặc mất việc làm. Đây là chức năng cơ bản nhất
của BHXH, nó quyết định nhiệm vụ, tính chất và cả cơ chế tổ chức
hoạt động của BHXH.


- Tiến hành phân phối và phân phối lại thu nhập giữa những
người tham gia BHXH. Có nghĩa là người lao động và người sử dụng
lao động tham gia đóng phí thường kỳ với một tỷ lệ nào đó so với thu
nhập. Số tiền này được tồn tích lại để trợ cấp cho một số người lao
động tham gia BHXH khi họ bị giảm hoặc mất thu nhập. Số lượng
những người này thường chiếm một tỷ trọng rất nhỏ trong tổng số
những người tham gia đóng góp . Chứng tỏ, BHXH có tính ngẫu
nhiên, phát sinh không đồng đều theo không gian và thời gian . Như
vậy, xét trên phạm vi toàn xã hội, BHXH là một bộ phận của GDP và
theo quy luật số đông bù số ít thì BHXH thực hiện phân phối lại thu
nhập theo cả chiều dọc và chiều ngang. Phân phối lại giữa những
người có thu nhập cao và những người có thu nhập thấp, giữa những
người khoẻ mạnh đang làm việc với những người ốm yếu phải nghỉ
việc... Đó là tính tất yếu khách quan trong đời sống xã hội . Thực hiện
chức năng này nghĩa là BHXH đã góp phần thực hiện công bằng xã
hội .
- Góp phần tạo ra tinh thần san sẻ, tương trợ, gắn bó giữa những
người lao động, giữa người lao động và người sử dụng lao động, giữa
người lao động với xã hội . Mặc dù phần đóng góp của người lao
động là không đáng kể song họ là người được trực tiếp hưởng các trợ
cấp BHXH. Tuy vậy, xét về mặt kinh tế người sử dụng lao động
không phải chi ra một khoản tiền lớn để trang trải cho những người
lao động bị mất hoặc giảm khả năng lao động, đồng thời giảm gánh
nặng chi cho Ngân sách Nhà nước. Thông qua BHXH những mâu



thuẫn vốn có trước đây được điều hoà và giải quyết, sản xuất ổn định,
kinh tế, chính trị, xã hội được phát triển và an toàn .
1.2/ Vai trò của BHXH :
BHXH là một chính sách lớn của Đảng và Nhà nước ta góp
phần bảo đảm ổn định đời sống cho cán bộ công chức, quân nhân và
người lao động, ổn định chính trị, trật tự an toàn xã hội, thúc đẩy sự
nghiệp xây dựng đất nước, bảo vệ tổ quốc .
Nhận thức rõ vai trò, vị trí của BHXH đối với người lao động,
người sử dụng lao động và toàn xã hội, từ khi thành lập nước đến nay,
Nhà nước ta đã quan tâm thường xuyên đến việc thực hiện các chính
sách xã hội đối với cán bộ, công chức, quân nhân và người lao động
thuộc mọi thành phần kinh tế . Riêng lĩnh vực BHXH, qua gần 40
năm thực hiện, chính sách BHXH đã phát huy dần dần từng bước, từ
chỗ đối tượng BHXH chỉ là công nhân viên chức Nhà nước, đến nay
đã mở rộng cho người lao động trong các doanh nghiệp thuộc các
thành phần kinh tế . Tính đến nay đã có khoảng 4,8 triệu người tham
gia BHXH và gần 2 triệu người đang hưởng các trợ cấp BHXH
thường xuyên.
Chính sách BHXH đã góp phần to lớn vào việc ổn định đời sống
cho người lao động thụ hưởng BHXH ; góp phần ổn định chính trị –
xã hội của đất nước . Theo một số dự báo, dân số nước ta tiếp tục tăng
trong 20 năm tới mặc dù tốc độ tăng đã giảm . Có thể thấy điều này
qua các số liệu sau :
Năm

Dân số ( 1000

Dân số từ 15 - 49



người)
2000
2005
2010
2015
2020

tuổi
77700
82500
87400
92300
97100

21066
23663
25501
25958
26237

Nguồn : Chương trình mục tiêu phát triển dân số
của Uỷ ban quốc gia dân số và kế hoạch hoá gia đình
Đến những năm 30 của thế kỷ này, dân số nước ta sẽ đạt gần
100 triệu người và lực lượng lao động khoảng gần 49 triệu người .
Đây là lực lượng lao động đông đảo có thể tham gia BHXH nếu như
chính sách BHXH được mở rộng .Và như vậy có khoảng 50% số dân
được sự bảo vệ của hệ thống an sinh xã hội quốc gia . Hay nói cách
khác, nguy cơ rủi ro của gần 59% dân cư đã được bảo vệ bởi các chế

độ BHXH . Điều này đã làm giảm chi phí công cộng để thực hiện các
trợ giúp xã hội xuống tối thiểu . Xét dưới khía cạnh kinh tế, khi các
chi phí công cộng cho trợ giúp xã hội giảm đi thì số tiền từ ngân sách
xã hội sẽ được đầu tư vào các lĩnh vực khác của nền kinh tế quốc dân,
làm cho đời sống của người dân được “an sinh” hơn . Đây là ý nghĩa
rất lớn lao của sự mở rộng và phát triển BHXH trong hệ thống an sinh
xã hội quốc gia .
Tuy nhiên so với lực lượng lao động cả nước thì tỷ lệ lao động
tham gia BHXH còn thấp . Những người lao động trong khu vực phi
kết cấu, lao động nông nghiệp và lao động trong các doanh nghiệp có
sử dụng dưới 10 lao động chưa được tham gia BHXH, chưa được sự


bảo vệ của hệ thống. Nguyên nhân là do số lớn chủ sử dụng lao động,
nhất là các doanh nghiệp ngoài quốc doanh chưa hiểu rõ vai trò của
chính sách BHXH tạo nên lợi ích trực tiếp và gián tiếp khi họ tham
gia BHXH . Điều này làm tăng nguy cơ cho gánh nặng của hệ thống
an sinh xã hội . Nghĩa là tăng nguy cơ cho các chi phí công cộng để
trợ giúp cho các đối tượng này. Cần phải chỉ cho họ thấy việc tham
gia BHXH sẽ bù đắp các khoản trợ cấp ốm đau, thai sản, tai nạn lao
động... từ quỹ BHXH ; tạo được sự yên tâm làm việc đối với người
lao động mà đó chính là một trong những động lực tạo nên sự phát
triển cho doanh nghiệp . Có như vậy mới động viên, khuyến khích
được họ tham gia mạnh mẽ và tuân thủ các quy định về BHXH .
Hệ thống BHXH được mở rộng góp phần giảm bớt những đối
tượng cần trợ giúp xã hội. Hiện nay ở Việt Nam những đối tượng cần
trợ giúp rất nhiều: những người già cô đơn không nơi nương tựa
(khoảng 300 ngàn người), người tàn tật (khoảng 4 triệu người), trẻ em
mồ côi hoặc có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn khó khăn ( khoảng 200
ngàn người) người nghèo (chiếm 11% số hộ trong cả nước ) ... Những

đối tượng này (không phả tất cả) nếu tham gia BHXH (bắt buộc hoặc
tự nguyện ), đặc biệt là nông dân và lao động nông thôn, nơi chiếm
đến 80% dân số và trên 70% lực lượng lao động cả nước, thì họ sẽ
phần nào được sự bảo vệ của hệ thống, được sự san sẻ của những
người tham gia bảo hiểm .Và như vậy gánh nặng của Ngân sách, của
các quỹ công cộng và của cộng đồng sẽ nhẹ bớt . Điều này cũng có
nghĩa là hệ thống an sinh xã hội quốc gia càng đảm bảo và phát triển.
Tất nhiên, để đạt được sự an sinh xã hội nói chung, không chỉ là tự


thân của hệ thống mà còn phụ thuộc vào sự phát triển kinh tế – xã hội
chung của đất nước . Một đất nước muốn có một nền an sinh vững
mạnh thì phải có một nền kinh tế đủ mạnh, một chế độ chính trị ổn
định, tiến bộ .
BHXH ra đời không chỉ là một hình thức biểu hiện của việc
phân phối thu nhập . Trước hết đó là kết quả của cuộc đấu tranh lâu
dài, quyết liệt không ngừng của giai cấp công nhân và nhân dân lao
động, chống lại sự áp bức của giới chủ để giành lại một phần thành
quả lao động bị cướp không . Bản chất giai cấp của BHXH là rõ ràng .
Chính sách BHXH công bằng, hợp lý, tiến bộ sẽ tạo ra động lực để
thực hiện tốt chính sách kinh tế, giải quyết tốt những vấn đề xã hội .
Dù trong điều kiện nào, với hình thức nào, BHXH cũng lấy mục
tiêu an sinh xã hội làm căn bản. Tuy nhiên các chế độ BHXH, phương
thức quản lý thì cần điều chỉnh cho phù hợp . Đặc biệt đối với tổ chức
quản lý Tài chính BHXH : phải thực hiện thu đủ, chi đúng, cấp sổ bảo
hiểm đúng đối tượng ... để BHXH xứng đáng với vị trí , vai trò là chỗ
dựa vững chắc về cả vật chất và tinh thần đối với đông đảo những
người lao động trong xã hội .
II/ Quỹ BHXH :
2.1/ Khái niệm và nguồn hình thành :

Xét trên phạm vi toàn bộ nền kinh tế, gắn liền với sự hoạt động
của các chủ thể trong các lĩnh vực kinh tế - xã hội khác nhau có các
quỹ tiền tệ khác nhau được hình thành và sử dụng như : quỹ tiền tệ
của các hộ gia đình, quỹ tiền tệ của các doanh nghiệp, quỹ tiền tệ của


các tổ chức Bảo hiểm, tín dụng, quỹ tiền tệ của Nhà nước . Tất cả các
quỹ này có một điểm chung là tập hợp các phượng tiện vật chất để
phục vụ cho những hoạt động nào đó theo mục tiêu nhất định . Quy
mô của quỹ lớn hay nhỏ biểu thị khả năng phương tiện vật chất để
thực hiện công việc cần làm .
Tất cả các quỹ đều không tồn tại ở tính trạng tĩnh, mà luôn vận
động tăng lên ở đầu vào và giảm đi ở đầu ra như một dòng chảy liên
tục . Để đảm bảo cho đầu ra ổn định, người ta thường thiết lập một
lượng dự trữ . Bởi vậy để quản lý và điều hành một quỹ nào đó không
phải chỉ nắm được khối lượng của nó tại một thời điểm mà quan trọng
hơn phải nắm được lưu lượng của nó trong một khoảng thời gian nhất
định .
Từ những quan điểm chung về quỹ như trên có thể hiểu Quỹ
BHXH là tập hợp những đóng góp bằng tiền của các bên tham gia
BHXH hình thành nên một quỹ tiền tệ tập chung để đảm bảo thay thế
hoặc bù đắp thu nhập cho người lao động tham gia BHXH khi họ gặp
phải rủi ro làm giảm, mất khả năng lao động hoặc mất việc làm hoặc
chết .
Như vậy quỹ BHXH là một quỹ tiêu dùng, đồng thời cũng là
một quỹ dự phòng . Nó vừa mang tính kinh tế, vừa mang tính xã hội
rất cao và là phương tiện quan trọng nhất đảm bảo cho toàn bộ hệ
thống BHXH tồn tại và phát triển . Tuy nhiên, quỹ BHXH lại độc lập
với Ngân sách Nhà nước .
Nguồn tài chính vận động làm tăng quy mô quỹ BHXH nhiều

hay ít phụ thuộc vào chính sách huy động của nhà nước để hình thành


nên quỹ BHXH . Mặc dù mức đóng BHXH ở các nước rất khác nhau,
phụ thuộc vào sự phát triển của xã hội và khả năng kinh tế, phụ thuộc
vào số lượng các chế độ thực hiện, số lượng người tham gia ... nhưng
nhìn chung nguồn tài chính hình thành nên quỹ BHXH ở các nước cơ
bản gồm có :
- Người lao động tham gia đóng góp BHXH trước hết là do nhu
cầu cuộc sống và lao động đòi hỏi . Sinh - Lão - Bệnh - Tử là quy luật
tự nhiên của đời người . Vì thế để đảm bảo cuộc sống những khi bị rủi
ro hay khi "trái gió, trở trời" người lao động phải tiết kiệm một phần
thu nhập đóng BHXH . Trên thế giới tuyệt đại đa số các nước đều dựa
vào thang bảng lương để xác định mức đóng BHXH . Vì đối tượng
của BHXH là thu nhập của người lao động mà thu nhập chủ yếu là
tiền lương . Tiền lương luôn biến động theo thời gian làm số tuyệt đối
của mức đóng BHXH biến động nhưng số tương đối thì giữ nguyên .
Hiện nay người lao động ở nước ta đóng BHXH bằng 5% tiền lương .
Mức đóng này không quá thấp về số tương đối so với các nước nhất là
các nước trong khu vực nhưng rất thấp về số tuyệt đối . Vì tiền lương
cơ bản của người lao động còn thấp mà chế độ tiền lương áp dụng
đóng BHXH chỉ là tiền lương chức vụ cấp bậc theo thang bảng lương
hiện hành . Do vậy nếu tăng tỷ lệ đóng góp lên cao sẽ ảnh hưởng trực
tiếp đến đời sống người lao động .
- Chủ sử dụng lao động có vị trí hết sức quan trọng trong việc
thực hiện chính sách BHXH . Trong tổng số 20% quỹ lương trích nộp
để tạo nên quỹ BHXH, ngoài phần đóng góp từ Ngân sách Nhà nước
thì giới sử dụng lao động đã đóng góp 15% đồng thời thu hộ 5% từ



người lao động . Do vậy nếu chính sách không hợp lý và không có sự
hợp tác của người sử dụng lao động thì sẽ khó có thể thực hiện được .
Mặt khác trong suốt quá trình lao động thì người sử dụng lao động là
sợi dây nối giữa người lao động và cơ quan BHXH, là người trực tiếp
tổ chức thực hiện chính sách BHXH tại doanh nghiệp . Chủ sử dụng
lao động đóng BHXH trước hết là trách nhiệm của người chủ đối với
người thợ, trách nhiệm của tập thể đối với người lao động . Đây cũng
là việc tham gia đề phòng , hạn chế rủi ro cho người lao động mà
khoản tiền đóng thường trích từ lợi nhuận sản xuất kinh doanh .
- Nhà nước tham gia đóng BHXH là thể hiện trách nhiệm đối
với mọi người lao động, đối với các thành viên của mình trong xã hội
nhằm ổn định cuộc sống của mọi người, vì an sinh xã hội . Trên thế
giới trách nhiệm của Nhà nước trong việc đóng BHXH là khác nhau :
ở Thái Lan, luật quy định rõ Nhà nước đóng 1/3 như chủ sử dụng lao
động và người lao động ; nhưng đại bộ phận các nước chỉ quy định
Nhà nước hỗ trợ phần thiếu hụt của quỹ để đảm bảo đủ chi trả cho các
chế độ BHXH (Áo, Nga, Hungary, Philipin, Đức ...) . Cũng có nước ,
Nhà nước chỉ hỗ trợ giúp một vài năm đầu , còn sau đó là thực hiện
cơ chế tự cận đối như : Malasya, Singapo..., hoặc trợ giúp một vài chế
độ như Ba Lan (Chính phủ trợ cấp thất nghiệp và trợ cấp gia đình ....)
Nhìn chung ở tất cả các nước, Nhà nước đều có vai trò quan trọng đối
với việc thực hiện các chế độ BHXH . Đối với nước ta, điều 149 Bộ
Luật Lao động và điều 39 Điều lệ BHXH ban hành kèm theo Nghị
định 12/CP ngày 26/01/1995 đều quy định rõ : Nhà nước đóng và hỗ


trợ thêm để đảm bảo thực hiện các chế độ BHXH đối với người lao
động .
BIỂU 1: TỶ LỆ ĐÓNG BHXH CỦA MỘT SỐ NƯỚC
(% SO VỚI TIỀN LƯƠNG)

Tỷ lệ đóng góp (%)
Nhà nước

Người lao

Pháp
Đức
Singapo
Trung

Bù thiếu
Bù thiếu
Bù thiếu
Bù thiếu

động
22
20,75
20
4

động
22
20,75
20
20

Quốc
Việt Nam
Thái Lan

Philipin

Bù thiếu
Bù thiếu
Bù thiếu

5
10
6,55

15
9,5
7,35

Tên Nước

Người sử dụng lao

Nguồn : Tạp trí BHXH số 7/2002
Quỹ BHXH còn được hình thành theo nguồn chi các chế độ
BHXH gọi là quỹ thành phần . Từ các quỹ thành phần có thể xác định
được quy mô và cơ cấu chi của mỗi chế độ . Qua đó đánh giá được
chế độ nào cần phải chi nhiều nhất và lý do, để bộ phận quản lý chi có
kế hoạch quản lý quỹ hợp lý .
Căn cứ vào thời gian sử dụng quỹ và bảo toàn quỹ mà việc quản
lý quỹ yêu cầu phải tách thành quỹ ngắn hạn (dùng để chi trả các chế
độ ngắn hạn) và quỹ dài hạn (dùng để chi trả cho các chế độ dài hạn) .
Nếu quốc gia nào không có các quỹ thành phần thì việc phân chia này
có ý nghĩa rất lớn . Việc quản lý chi được thực hiện một cách chặt chẽ



hơn, định hướng hoạt động đầu tư quỹ đúng đắn, đảm bảo tính thanh
khoản cao và nguyên tắc bảo toàn, tăng trưởng của quỹ BHXH.
2.2/ Mục đích sử dụng và nguyên tắc cơ bản quản lý quỹ
BHXH :
Quỹ BHXH được sử dụng vào việc chi các chế độ BHXH, chi
cho bộ máy quản lý và hoạt động đầu tư quỹ :
- Chi trả cho các chế độ BHXH chiếm tỷ trọng lớn . Các chế độ
BHXH áp dụng đối với người lao động nhiều hay ít, mức hưởng thụ
của từng chế độ cao hay thấp phụ thuộc vào chính sách BHXH do
Nhà nước quy định bằng pháp luật.
- Chi cho bộ máy quản lý và quỹ BHXH tạm thời nhàn rỗi được
thực hiện các hoạt động đầu tư . Nguồn chi này chiếm tỷ trọng rất nhỏ
.
Trong công tác quản lý quỹ BHXH, nguyên tắc tập trung, thống
nhất là nguyên tắc cơ bản. Thành lập quỹ tập trung sẽ tạo điều kiện
thuận lợi cho người lao động và người sử dụng lao động trong việc
giao dịch với cơ quan BHXH . Hơn nữa, quỹ tập trung thống nhất vào
một đầu mối sẽ tạo ra khả năng tích luỹ lớn và thuận lợi cho việc thực
hiện công tác đầu tư tăng trưởng, phát triển kinh tế – xã hội . Ngoài
ra, để quỹ BHXH tồn tại và hoạt động độc lập, về nguyên tắc quỹ phải
được cân đối, nghĩa là các khoản thu BHXH ít nhất phải đáp ứng
được nhu cầu chi trả cho các chế độ BHXH và chi quản lý bộ máy .
Cân đối quỹ BHXH được hiểu là mối quan hệ tương đương về lượng
và sự bằng nhau giữa hai đại lượng thu và chi, ngoài ra cân đối quỹ


còn thể hiện ở việc bố trí cơ cấu và quan hệ số lượng giữa các yếu tố
thu và chi . Cân đối quỹ BHXH về hình thức là cân đối giữa thu và
chi . Về mặt thực chất cân đối quỹ BHXH phản ánh nguồn lực tài

chính có thể chi phối trực tiếp, nó thể hiện sự cân đối tài chính trong
phạm vi một quỹ . Cũng giống như sự phát triển của mọi sự vật, cân
đối thu chi là tương đối chứ không tuyệt đối, luôn ở trạng thái vận
động, cân đối và không cân đối chuyển hoá lẫn nhau . Cân đối quỹ
BHXH được thực hiện trong suốt quá trình phát sinh, giải quyết mâu
thuẫn giữa thu và chi, do đó ít nhiều có số dư hay có thâm hụt (trong
phạm vi cho phép ). Các trường hợp đó đều phải coi là trong phạm vi
cân đối cơ bản, đều là hình thức biểu hiện của cân đối quỹ BHXH. Từ
sự vận động của quỹ BHXH, về nguyên tắc cân đối quỹ phải đảm
bảo :
Tổng thu (từ
người lao

Tổng số
+

tiền sinh lời

Tổng chi
=

các chế

Tổng
+

chi

+


Chi

Chi

dự

khác

động,người

từ hoạt

độ

phí

+

sử

động đầu

BHXH

quản

phòng

dụng






laođộng)
Việc chi trả các chế độ BHXH phải đảm bảo quyền lợi của
người lao động tương ứng với nghĩa vụ đóng góp, nghĩa là có đóng thì
mới có hưởng, không đóng không hưởng. Do hoạt động BHXH không
mang tính kinh doanh kiếm lời mà mang tính tương hỗ nên việc đảm
bảo nguyên tắc số đông bù số ít cũng rất quan trọng. Đồng thời quản
lý quỹ BHXH phải tuân thủ chế độ thống kê, kế toán hiện hành, phù


hợp với điều kiện phát triển kinh tế- xã hội của mỗi quốc gia. Có như
vậy, tính đồng bộ trong nền kinh tế mới được thực hiện để tính toán
một số chỉ tiêu khác có liên quan (GDP, giá thành) một cách chính
xác .
Ở Việt Nam, Chính phủ quy định : Quỹ BHXH được quản lý tập
trung thống nhất theo chế độ tài chính của Nhà nước, hạch toán độc
lập và được Nhà nước bảo hộ trong các trường hợp quỹ mất cân đối .
Quỹ BHXH sử dụng để chi trả các chế độ BHXH (trợ cấp ốm đau, trợ
cấp thai sản, trợ cấp tai nạn lao động – bệnh nghề nghiệp, trợ cấp hưu
trí, trợ cấp tử tuất), chi các hoạt động sự nghiệp BHXH (chi lương và
các khoản chi hành chính cho đội ngũ cán bộ, công chức trong ngành
BHXH) . Quỹ BHXH nước ta được thiết kế theo mô hình tồn tích cân
đối dài hạn trong nhiều năm và có tính chuyển dịch thu nhập (phân
phối lại) giữa mọi người tham gia BHXH và qua mọi thế hệ . Do vậy,
trong bất cứ hoàn cảnh nào, quỹ BHXH vẫn phải bảo đảm đủ nguồn
lực tài chính để chi trả kịp thời, đầy đủ các chế độ BHXH cho người
được thụ hưởng .

III/ Hệ thống các chế độ bảo hiểm xã hội :
3.1/ Khái niệm, đặc điểm và cơ sở hình thành :
Chính sách xã hội là một là một bộ phận quan trọng trong chính
sách kinh tế và xã hội của mỗi Nhà nước, là những chủ trương, quan
điểm, nguyên tắc BHXH để giải quyết các vấn đề xã hội liên quan đến
một tầng lớp đông đảo người lao động và để kích thích phát triển kinh
tế trong từng thời kỳ . Trong mỗi giai đoạn phát triển kinh tế khác


nhau, chính sách BHXH được Nhà nước đề ra và thực hiện phù hợp
với mục tiêu, nhiệm vụ phát triển kinh tế – xã hội của từng giai đoạn .
Chế độ BHXH là sự cụ thể hoá chính sách BHXH. Theo khuyến
nghị của Tổ chức lao động quốc tế (ILO), quỹ BHXH được sử dụng
để trợ cấp cho các đối tượng tham gia BHXH nhằm ổn định cuộc
sống cho bản thân và gia đình họ khi đối tượng tham gia BHXH gặp
rủi ro . Thực chất là trợ cấp cho 9 chế độ mà tổ chức này đã nêu trong
công ước 102 tháng 04 năm 1952 tại Giơnevơ :
(1). Chăm sóc y tế.
(2). Trợ cấp ốm đau .
(3). Trợ cấp thất nghiệp .
(4). Trợ cấp tuổi già .
(5). Trợ cấp tai nạn lao động và bệnh nghề nghiệp .
(6). Trợ cấp gia đình .
(7). Trợ cấp thai sản.
(8). Trợ cấp tàn tật .
(9). Trợ cấp mất người nuôi dưỡng .
Chín chế độ trên hình thành nên một hệ thống các chế độ BHXH
và được xây dựng dựa theo luật pháp của các nước . Hệ thống các chế
độ này đều mang tính chất chia sẻ rủi ro, chia sẻ tài chính . Mỗi chế
độ được chi trả đều căn cứ chủ yếu vào sự đóng góp của các bên tham

gia . Phần lớn các chế độ là chi trả định kỳ . Đồng tiền được sử dụng
làm phương tiện chi trả và thanh quyết toán. Hệ thống các chế độ
BHXH quy định cụ thể về điều kiện, mức trợ cấp, mức đóng góp, và
mức hưởng BHXH. Tuỳ theo điều kiện kinh tế - xã hội mà mỗi nước


tham gia công ước thực hiện khuyến nghị đó ở mức độ khác nhau,
nhưng ít nhất phải thực hiện được 3 chế độ . Trong đó ít nhất phải có
một trong năm chế độ : (3); (4); (5); (8); (9) . Mỗi chế độ trong hệ
thống khi xây dựng đều dựa trên những cơ sở kinh tế- xã hội ; tài
chính ; thu nhập ; tiền lương ngoài ra còn có thể phải tính đến các yếu
tố sinh học như : tuổi thọ bình quân của quốc gia ; giới tính ; tình
trạng sức khoẻ.
Theo quy định tại Điều lệ BHXH ban hành kèm theo Nghị định
số 12/CP ngày 26/01/1995 ; Nghị định số 45/CP ngày 15/07/1995 của
Chính phủ, Việt Nam đang thực hiện 5 chế độ BHXH với mục tiêu
hạn chế khó khăn kinh tế cho người lao động, thể hiện tính cộng đồng
- xã hội, chia sẻ rủi ro :
- Chế độ trợ cấp ốm đau .
- Chế độ trợ cấp thai sản.
- Chế độ trợ cấp tai nạn lao động , bệnh nghề nghiệp.
- Chế độ hưu trí.
- Chế độ tử tuất.
3.2/ Hệ thống các chế độ BHXH ở Việt Nam :
3.2.1/ Các chế độ BHXH ngắn hạn :
* Chế độ trợ cấp ốm đau :
Đối tượng được hưởng chế độ này là : Người lao động
tham gia BHXH phải nghỉ việc vì ốm đau, tai nạn có xác nhận của tổ
chức y tế do Bộ y tế quy định ; Người lao động có con thứ nhất, thứ
hai (kể cả con nuôi theo quy định tại luật hôn nhân và gia đình) dưới 7



tuổi bị ốm đau có yêu cầu của tổ chức y tế phải nghỉ việc để chăm sóc
con ốm đau . Việc thiết kế chế độ này như hiện hành đã đã tránh được
những hiện tượng lạm dụng và bình quân hoá trong khi xét trợ cấp .
Đồng thời vẫn đảm bảo tính công bằng giữa những người tham gia,
giúp họ ổn định cuộc sống khi không may gặp rủi ro nhờ khoản trợ
cấp thay thế thu nhập bị mất . Tuy nhiên cần quy định rõ thời hạn
hưởng tối đa, danh mục các bệnh ...
* Chế độ trợ cấp thai sản :
Chế độ này chỉ trợ cấp cho người sinh con và nuôi con sơ
sinh. Thiết kế chế độ này như hiện nay đã giúp lao động nữ tham gia
BHXH có được khoản trợ cấp thay thế cho phần thu nhập bị mất đi do
không làm việc vì sinh con hay nuôi con nuôi sơ sinh (đến khi đủ 4
tháng tuổi) . Thực hiện tốt chế độ này sẽ góp phần thực hiện quyền
bình đẳng nam nữ, đặc biệt hạn chế được tình trạng suy dinh dưỡng ở
trẻ em . Đồng thời giúp lao động nữ có cơ hội tìm kiếm việc làm, yên
tâm công tác, phát huy sáng tạo . Tuy nhiên, qua thực tiễn chế độ này
đã ảnh hưởng đến công ăn việc làm của lao động nữ . Xuất phát từ
thời gian nghỉ việc tương đối dài để sinh con – nuôi con nên người sử
dụng lao động phải tuyển lao động khác thay thế và phải tốn thêm chi
phí đào tạo . Bởi vậy các nhà kinh tế rút ra một tính quy luật là tỷ lệ
thất nghiệp ở nữ giới bao giờ cũng cao hơn nam giới .
* Chế độ tai nạn lao động và bệnh nghề nghiệp :
Chế độ này thể hiện sự chia sẻ, sự đền bù của cộng đồng xã
hội đối với những người gặp rủi ro trong quá trình lao động gây giảm
hoặc mất khả năng lao động . Người lao động bị tai nạn được hưởng


trợ cấp trong các trường hợp : Bị tai nạn trong giờ làm việc, tại nơi

làm việc kể cả làm việc ngoài giờ do yêu cầu của người sử dụng lao
động ; Bị tai nạn ngoài nơi làm việc khi thực hiện công việc của
người chủ sử dụng lao động ; Bị tai nạn trên tuyến đường đi và về từ
nơi ở đến nơi làm việc . Song trong quá trình thực hiện chế độ này cần
phải phân biệt rõ tai nạn giao thông với tai nạn lao động xảy ra trên
đường đi từ nhà đến nơi làm việc ; Phải tiến hành giám định lại y
khoa định kỳ để chống trục lợi . Chính phủ công bố mức hưởng trợ
cấp của người bị tai nạn lao động tuỳ thuộc vào mức độ suy giảm khả
năng lao động và được tính theo mức tiền lương tối thiểu chung như
sau:
 Bị suy giảm từ 5% đến 30% khả năng lao động được trợ cấp
1 lần:
Mức suy giảm khả
năng lao động
Từ 5% đến 10%
Từ 11% đến 20%
Từ 1% đến 30%

Mức trợ cấp
một lần
4 tháng tiền lương tối thiểu
8 tháng tiền lương tối thiểu
12 tháng tiền lương tối thiểu

 Bị suy giảm từ 31% khả năng lao động trở lên, được hưởng
trợ cấp hàng tháng kể từ ngày ra viện theo quy định :
Mức suy giảm

Mức trợ cấp


khả năng lao động
Từ 31% đến 40%
Từ 41% đến 50%
Từ 51% đến 60%
Từ 61% đến 70%

hàng tháng
0,4 Tháng lương tối thiểu
0,6 Tháng lương tối thiểu
0,8 Tháng lương tối thiểu
1,0 Tháng lương tối thiểu


Từ 71% đến 80%

1,2 Tháng lương tối thiểu

Từ 81% đến 90%
Từ 91% đến 100%

1,4 Tháng lương tối thiểu
1,6 Tháng lương tối thiểu

Ngoài ra, người lao động bị tai nạn lao động làm tổn thương các
chức năng hoạt động của chân, tay, tai, mắt ... thì được trang cấp
phương tiện trợ giúp cho sinh hoạt phù hợp với các tổn thất chức năng
theo niên hạn . Trong trường hợp người lao động bị chết do tai nạn
lao động thì thân nhân của họ được hưởng tiền mai táng phí và được
hưởng trợ cấp một lần hay trợ cấp hàng tháng . Người bị tai nạn lao
động vẫn được hưởng Bảo hiểm y tế do quỹ BHXH đảm nhận . Khi

tham gia đóng góp BHXH thì người sử dụng lao động sẽ không phải
bồi thường khi có tai nạn xảy ra với người lao động, mà mọi chi phí
do quỹ đảm nhận . Ngoài ra người sử dụng lao động còn được hỗ trợ
trong việc thực hiện các biện pháp giảm thiểu tai nạn lao động .
3.1.2/ Các chế độ dài hạn :
Các chế độ này mang tính chất hoàn trả, vì mọi người tham gia
đóng góp BHXH đều thụ hưởng trợ cấp dù sống thọ hay rủi ro mất
sớm .
* Chế độ hưu trí :
Đây là một chế độ mang tính xã hội hoá cao, được thực
hiện đều đặn, kế tiếp từ thế hệ này sang thế hệ khác . Một chế độ
BHXH nằm ngoài quá trình lao động . Chế độ này được xây dựng
nhằm đảm bảo lợi ích cho người lao động khi họ hết tuổi lao động và
giúp họ có nguồn thu nhập thường xuyên, ổn định thay thế cho phần


×