Tải bản đầy đủ (.pdf) (20 trang)

Hỗ trợ nuôi trồng thủy sản xuất khẩu ở khu vực nam trung bộ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.03 MB, 20 trang )

HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH

TRẦN KHẮC XIN

Hç trî nu«i trång thñy s¶n xuÊt khÈu
ë khu vùc Nam Trung Bé

LUẬN ÁN TIẾN SĨ KINH TẾ

HÀ NỘI - 2014


HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH

TRẦN KHẮC XIN

Hç trî nu«i trång thñy s¶n xuÊt khÈu
ë khu vùc Nam Trung Bé
Chuyên ngành : Quản lý Kinh tế
Mã số

: 62 34 01 01

LUẬN ÁN TIẾN SĨ KINH TẾ

Người hướng dẫn khoa học: PGS, TS LÊ QUỐC LÝ

HÀ NỘI - 2014


LỜI CAM ĐOAN


Tôi xin cam đoan, đây là công trình nghiên cứu của
riêng tôi. Các số liệu nêu trong luận án là trung thực và
có nguồn gốc rõ ràng. Những kết luận của luận án là kết
quả nghiên cứu của tác giả.
TÁC GIẢ LUẬN ÁN

Trần Khắc Xin


MỤC LỤC
Trang
MỞ ĐẦU
Chương 1: TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU VỀ HỖ TRỢ
NUÔI TRỒNG THUỶ SẢN XUẤT KHẨU

1.1. Các công trình nghiên cứu về hỗ trợ nuôi trồng thuỷ sản xuất khẩu ở
nước ngoài
1.2. Các công trình nghiên cứu về hỗ trợ nuôi trồng thuỷ sản xuất khẩu ở
trong nước
1.3. Những vấn đề tiếp tục nghiên cứu trong luận án

1
6
6
12
22

Chương 2: CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ HỖ TRỢ NUÔI TRỒNG
THUỶ SẢN XUẤT KHẨU


24

2.1. Tổng quan về nuôi trồng thủy sản xuất khẩu
2.2. Hỗ trợ nuôi trồng thuỷ sản xuất khẩu trong điều kiện hội nhập kinh tế
quốc tế
2.3. Kinh nghiệm hỗ trợ nuôi trồng thuỷ sản xuất khẩu của một số nước và
vùng trong nước
Chương 3: THỰC TRẠNG HỖ TRỢ NUÔI TRỒNG THUỶ SẢN XUẤT

24

KHẨU Ở CÁC TỈNH KHU VỰC NAM TRUNG BỘ

67

35
55

3.1. Điều kiện tự nhiên, kinh tế, xã hội có ảnh hưởng đến nuôi trồng thuỷ
sản ở các tỉnh khu vực Nam Trung Bộ
67
3.2. Thực trạng hỗ trợ nuôi trồng thuỷ sản xuất khẩu ở khu vực Nam Trung Bộ 77
3.3. Đánh giá hỗ trợ nuôi trồng thuỷ sản xuất khẩu ở khu vực Nam Trung Bộ 101
Chương 4: PHƯƠNG HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP ĐỔI MỚI HỖ TRỢ NUÔI
TRỒNG THUỶ SẢN XUẤT KHẨU Ở KHU VỰC NAM TRUNG BỘ 114
4.1. Phương hướng đổi mới công tác hỗ trợ nuôi trồng thuỷ sản xuất khẩu
ở khu vực Nam Trung Bộ
114
4.2. Giải pháp hoàn thiện hoạt động hỗ trợ nuôi trồng thuỷ sản xuất khẩu ở
khu vực Nam Trung Bộ

122
KẾT LUẬN VÀ KHUYẾN NGHỊ
142
CÁC CÔNG TRÌNH KHOA HỌC LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI
145
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
146
PHỤ LỤC


DANH MỤC BẢNG
Trang
Bảng 2.1: So sánh một số chỉ tiêu ngành thuỷ sản giai đoạn 2006 - 2010

33

Bảng 3.1: Tổng hợp kết quả nuôi trồng thuỷ sản các năm

72

Bảng 3.2: Hiện trạng nuôi trồng thuỷ sản tỉnh Phú Yên năm 2012

74

Bảng 3.3: Quy hoạch vùng nuôi trồng thuỷ sản của các tỉnh trong vùng

77

Nam Trung Bộ
Bảng 3.4: Số lượng quan trắc môi trường nuôi thuỷ sản khu vực Nam


88

Trung Bộ từ 2003-2012
Bảng 3.5: Kinh phí quan trắc hàng năm từ 2005-2011

89

Bảng 3.6: Đối tượng chủ lực và địa điểm nuôi cần quan trắc môi trường

90

tại miền Trung
Bảng 3.7: Ngân hàng NN&PTNN đầu tư tín dụng nuôi trồng thuỷ sản

94

2005-2011
Bảng 4.1: Dự báo lượng cung thuỷ sản toàn cầu đến năm 2020

116

Bảng 4.2: Dự báo nhu cầu tiêu thụ thuỷ sản toàn cầu đến năm 2020

117

Bảng 4.3: Cân đối cung cầu sản phẩm thuỷ sản toàn cầu đến năm 2020

117


DANH MỤC BIỂU ĐỒ
Trang
Biểu đồ 2.1: Sản lượng khai thác và nuôi trồng thuỷ sản của Việt Nam

38

từ 1995 đến 2011
Biểu đồ 3.1: Số lượng quan trắc môi trường nuôi thuỷ sản khu vực Nam

88

Trung Bộ từ 2003-2012
DANH MỤC SƠ ĐỒ
Trang
Sơ đồ 2.1: Chu trình khép kín của một quá trình hoạt động nuôi trồng
thuỷ sản

29


DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
AFTA
AQSIQ
ASIA
ATVSTP
BFAR
BHROA
BMP
BTC
CoC

CNH, HĐH
DN
DoF
DTI
FAO
GAP
GDP
GMP
GTA
HACCP
ITC
MSGS
NAFIQAD
NEDA
NN&PTNT
NTTS
QCCC
RODG
TC
TFFA
TRTA3
VASEP
VPN
WTO
XK
XKTS

: Khu vực thương mại tự do của các nước ASIA
: Tổng cục Giám sát chất lượng kiểm tra và kiểm dịch Trung Quốc
: Châu Á

: An toàn vệ sinh thực phẩm
: Cục nghề cá và nguồn lợi thủy sản Philippines
: Hiệp hội khách sạn nhà hàng Bataan
: Thực hành quản lý tốt
: Bán thâm canh
: Hệ thống sản xuất gắn với bảo vệ môi trường
: Công nghiệp hóa, hiện đại hóa
: Doanh nghiệp
: Cục Thủy sản Thái Lan
: Bộ Công thương Philippines
: Tổ chức lương thực và nông nghiệp
: Quy phạm thực hành nuôi trồng thủy sản tốt
: Tổng sản phẩm quốc nội
: Quản lý thực hành tốt
: Công ty dữ liệu toàn cầu
: Hệ thống phân tích mối nguy và điểm kiểm soát tới hạn
: Trung tâm Thương mại quốc tế
: Hội chứng chậm lớn trên tôm sú
: Kiểm tra chất lượng nông thủy sản
: Ủy ban Phát triển kinh tế quốc gia
: Nông nghiệp và Phát triển nông thôn
: Nuôi trồng thủy sản
: Quảng canh cải tiến
: Nhóm phát triển và điều hành nội địa
: Thâm canh
: Hiệp hội Thực phẩm đông lạnh Thái Lan
: Chương trình hỗ trợ kỹ thuật liên quan đến thương mại lần 3
: Hiệp hội chế biến và xuất khẩu thủy sản Việt Nam
: Mạng lưới ảo
: Tổ chức Thương mại thế giới

: Xuất khẩu
: Xuất khẩu thủy sản


1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Xây dựng và phát triển ngành thuỷ sản Việt Nam đạt trình độ tiên tiến trên
thế giới và khu vực là một trong những chủ trương của Đảng và Nhà nước ta.
Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng đã nêu rõ:
Khai thác bền vững, có hiệu quả nguồn lợi thuỷ sản. Phát triển đánh
bắt xa bờ, gắn với bảo đảm quốc phòng, an ninh và bảo vệ môi trường
biển. Phát triển nuôi trồng thuỷ sản theo quy hoạch, tập trung vào
những sản phẩm có thế mạnh, có giá trị cao; xây dựng đồng bộ cơ sở
hạ tầng vùng nuôi; đẩy mạnh áp dụng tiến bộ khoa học công nghệ vào
sản xuất chế biến, nâng cao năng suất, chất lượng, sức cạnh tranh và
đáp ứng yêu cầu vệ sinh, an toàn thực phẩm [24, tr.115].
Thực tiễn, NTTS XK là một trong những hướng phát triển thuỷ sản mang
tính bền vững phù hợp với quá trình hội nhập kinh tế quốc tế, cho phép phát huy
lợi thế của nước ta là một quốc gia có bờ biển dài, nhiều đầm phá, eo vịnh, có
hàng ngàn đảo lớn nhỏ ven biển, có hệ thống sông ngòi kênh rạch chằng chịt,
cùng các hồ thuỷ lợi, thuỷ điện đa dạng,… Thời gian qua, cùng với khai thác
đánh bắt trên biển, NTTS đã cung cấp khối lượng sản phẩm ngày càng lớn cho
xuất khẩu. Các vùng NTTS có quy mô lớn xuất hiện trên cả nước, nhiều nhất ở
miền Trung và đồng bằng sông Cửu Long. Đến nay, ngành thuỷ sản nước ta
không những đã tự khẳng định là ngành kinh tế có tiềm năng, mà còn từng bước
trở thành ngành kinh tế mũi nhọn, góp phần vào đẩy nhanh tăng trưởng kinh tế,
bảo đảm an ninh lương thực quốc gia, tăng thu nhập cho nông dân, xoá đói giảm
nghèo, chung sức bảo vệ chủ quyền biển đảo của đất nước.
Những năm qua, các tỉnh khu vực Nam Trung Bộ, với sự hỗ trợ của

chính phủ và sự năng động của chính quyền địa phương, đã bám sát, chỉ đạo
sản xuất, chuyển giao kỹ thuật, thông tin cho người NTTS, khoanh vùng, phân


2
nhóm diện tích, khuyến khích người NTTS hợp tác với nhau, nuôi trồng theo
phương pháp khoa học, công nghệ mới nhằm nâng cao hiệu quả, hạn chế những
thiệt hại không đáng có cho người NTTS... Nhờ đó, lĩnh vực NTTS ở vùng
Nam Trung Bộ đã có sự phát triển tương đối ổn định, quy mô mở rộng dần,
phương thức nuôi trồng đã ngày càng phù hợp hơn với yêu cầu của thị trường
thế giới. Nuôi trồng và xuất khẩu thuỷ sản ở đây đang dần trở thành thế mạnh,
ngành kinh tế trọng yếu của khu vực.
Tuy nhiên, so với nhu cầu và tiềm năng, những hỗ trợ này còn quá khiêm
tốn và một số phương thức hỗ trợ chưa phù hợp với thực tế. Một số nội dung hỗ
trợ như định hướng, quy hoạch phát triển theo hướng NTTS xuất khẩu, đầu tư
công nghệ nuôi trồng, cơ sở hạ tầng chế biến xuất khẩu, hỗ trợ đào tạo nguồn
nhân lực, hỗ trợ tìm kiếm thị trường xuất khẩu trong quá trình hội nhập kinh tế
quốc tế … vẫn còn nhiều hạn chế.
Để nâng cao hiệu quả NTTS xuất khẩu, phát huy hết thế mạnh, tiềm năng
NTTS XK của vùng Nam Trung Bộ, góp phần cải thiện mức sống của người dân
và tăng cường sức mạnh an ninh quốc phòng (ANQP) khu vực cũng như cả nước
cần rà soát lại toàn bộ những hỗ trợ hiện có và bổ sung thêm những hỗ trợ mới.
Đó là lý do nghiên cứu sinh lựa chọn "Hỗ trợ nuôi trồng thuỷ sản xuất khẩu ở
khu vực Nam Trung Bộ" làm đề tài luận án tiến sĩ kinh tế của mình.
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu luận án
2.1. Mục đích nghiên cứu của luận án
Mục đích nghiên cứu đề tài là làm rõ cơ sở lý luận, thực tiễn của hỗ trợ
NTTS XK ở khu vực Nam Trung Bộ, đánh giá thực trạng và đề xuất phương
hướng, giải pháp đổi mới hỗ trợ NTTS XK ở khu vực Nam Trung Bộ trong thời
gian đến.

2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu của luận án
Để thực hiện mục đích trên, luận án có nhiệm vụ nghiên cứu sau đây:
- Hệ thống hoá và làm rõ thêm những vấn đề lý luận về hỗ trợ NTTS XK


3
trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế.
- Đánh giá thực trạng hỗ trợ NTTS XK ở vùng Nam Trung Bộ trong
những năm gần đây.
- Đề xuất phương hướng và giải pháp hoàn thiện hỗ trợ NTTS XK ở khu
vực Nam Trung Bộ đến năm 2020, tầm nhìn 2030.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu trong luận án
3.1. Đối tượng nghiên cứu trong luận án
- Là hoạt động hỗ trợ của Nhà nước đối với NTTS XK được xem xét cả ở
cấp trung ương lẫn ở cấp địa phương phù hợp với các cam kết quốc tế.
- Các đối tượng được xem xét hỗ trợ là người NTTS, hộ nông dân nuôi
trồng và các DN chế biến thuỷ sản xuất khẩu...
3.2. Phạm vi nghiên cứu trong luận án
- Tập trung nghiên cứu các hoạt động hỗ trợ NTTS XK trong phạm vi các
tỉnh của khu vực Nam Trung Bộ (bao gồm: Đà Nẵng, Quảng Nam, Quảng Ngãi,
Bình Định, Phú Yên, Khánh Hòa).
- Thời gian nghiên cứu thực trạng hỗ trợ NTTS XK chủ yếu từ năm 2001
đến nay.
- Các giải pháp đề xuất đến năm 2020, tầm nhìn 2030.
4. Phương pháp nghiên cứu đề tài
- Việc nghiên cứu luận án dựa trên phương pháp luận duy vật biện chứng
và duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối
của Đảng và Nhà nước. Ngoài ra, luận án sẽ sử dụng các phương pháp nghiên
cứu chung trong khoa học kinh tế như: phương pháp phân tích định tính, định
lượng, so sánh, tổng hợp, phương pháp thống kê mô tả, thống kê phân tích,...

- Đề tài đã sử dụng các phương pháp nghiên cứu kinh tế truyền thống như:
phân tích thống kê, logic phân tích hệ thống, dự báo dựa trên các số liệu điều tra
có sẵn, phân tích, tổng hợp dựa trên dữ liệu của các công trình khoa học, báo cáo
của các cơ quan, tổ chức trong và ngoài nước, dữ liệu thống kê chính thức hiện có.


4
- Sử dụng phương pháp điều tra bằng phiếu khảo sát điều tra và phỏng vấn
chuyên sâu đối với ở một số hộ nông dân nuôi trồng thủy sản xuất khẩu về sự hỗ
trợ của nhà nước đối với NTTS XK ở khu vực Nam Trung Bộ (được tiến hành
tại thời điểm năm 2012). Tác giả điều tra 150 hộ nông dân ở các tỉnh Quảng
Nam và Khánh Hòa, tuy nhiên, trong quá trình xử lý số liệu, có nhiều phiếu
không được sử dụng do các hộ nông dân không đưa ra phương án trả lời đầy đủ.
Do các phiếu điều tra không được "làm sạch" trước khi thu hồi nên tác giả không
sử dụng mô hình SPSS để xử lý số liệu mà tác giả chỉ sử dụng phương pháp
thống kê, phân tích số liệu. Khi tác giả xử lý số liệu bằng phương pháp thống kê,
tùy từng câu hỏi khác nhau sẽ có số mẫu trả lời khác nhau. Tuy vậy, tác giả cho
rằng với phạm vi và đối tượng nghiên cứu của mình, các số liệu mẫu điều tra của
tác giả mang tính đại diện và độ tin cậy cho kết quả nghiên cứu.
- Luận án cũng sử dụng phương pháp SWTO để đánh giá điểm mạnh,
điểm yếu, cơ hội và thách thức đối với hỗ trợ NTTS XK ở khu vực Nam Trung
Bộ, từ đó đề xuất các giải pháp hỗ trợ phù hợp. Bên cạnh đó, để làm rõ thêm các
vấn đề lý luận và thực tiễn liên quan đến luận án, tác giả có sử dụng phương
pháp chuyên gia, phỏng vấn sâu 5 nhà lãnh đạo, quản lý nhà nước về công tác
quản lý NTTS XK ở khu vực Nam Trung Bộ.
5. Những đóng góp mới trong luận án
Về mặt lý luận, làm rõ cơ sở lý luận về hỗ trợ NTTS xuất khẩu, xây
dựng nội dung hỗ trợ NTTS XK trong điều kiện hội nhập quốc tế cho một khu
vực cụ thể.
Đóng góp về mặt thực tiễn

- Phân tích thực trạng và đánh giá hoạt động hỗ trợ NTTS XK của một
khu vực cụ thể.
- Đưa ra những giải pháp và kiến nghị mang tính hệ thống nhằm đổi mới
hỗ trợ NTTS XK ở khu vực Nam Trung bộ trong thời gian tới.


5
6. Kết cấu của luận án
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục,
luận án gồm 4 chương, 11 tiết.
Chương 1. Tổng quan tình hình nghiên cứu về hỗ trợ nuôi trồng thuỷ sản
xuất khẩu
Chương 2. Cơ sở lý luận và thực tiễn về hỗ trợ nuôi trồng thuỷ sản xuất khẩu
Chương 3. Thực trạng hỗ trợ nuôi trồng thuỷ sản xuất khẩu ở các tỉnh khu
vực Nam Trung Bộ
Chương 4. Phương hướng và giải pháp đổi mới hỗ trợ nuôi trồng thuỷ sản
xuất khẩu ở khu vực Nam Trung Bộ


6
Chương 1
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU VỀ HỖ TRỢ
NUÔI TRỒNG THUỶ SẢN XUẤT KHẨU
1.1. CÁC CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU VỀ HỖ TRỢ NUÔI TRỒNG THUỶ
SẢN XUẤT KHẨU Ở NƯỚC NGOÀI

1.1.1. Những nghiên cứu nước ngoài về nuôi trồng thuỷ sản
Từ những năm 60 của thế kỷ XX trở lại đây, nhất là trong những năm gần
đây, do nguồn thuỷ sản khai thác tự nhiên không đáp ứng nhu cầu của dân số
tăng nhanh, để chủ động hơn trong xuất khẩu thuỷ sản, nhiều nước đã phát triển

ngành NTTS nhằm thay thế một phần sản phẩm đánh bắt cũng như để cung ứng
chủ động sản phẩm thuỷ sản cho thị trường trong nước và nước ngoài. Nhiều
nước đã mở rộng, phát triển nhanh chóng sản lượng thuỷ sản nuôi trồng, nhất là
sản lượng thuỷ sản nuôi trồng phục vụ xuất khẩu. Phục vụ cho nhu cầu phát triển
ngành NTTS, đã xuất hiện nhiều công trình nghiên cứu lĩnh vực NTTS theo các
góc độ khác nhau như sinh học, nông học, kỹ thuật nuôi trồng, kinh tế thuỷ
sản… Có thể khái quát thành quả đạt được trong những công trình đó như sau:
Thứ nhất, phân tích tầm quan trọng của ngành NTTS trong cơ cấu ngành
nông nghiệp nói riêng, cơ cấu nền kinh tế nói chung. Tác giả Cát Quang Hoa và
các cộng sự (2005), trong cuốn Quản lý kinh doanh các xí nghiệp nuôi trồng
thuỷ sản, cho rằng: NTTS phải giữ vai trò chủ đạo đối với nghề cá nói chung và
ngành thuỷ sản nói riêng. Theo các tác giả, NTTS có các vai trò như: cung cấp
thực phẩm giàu dinh dưỡng; khai thác tổng hợp tài nguyên, qua đó duy trì cân
bằng sinh thái; tạo việc làm, tăng thu nhập, giảm nghèo; thúc đẩy các ngành khác
phát triển; đẩy mạnh XK [26, tr.10; 24-29].
Đặc biệt, khi khái quát hoá đặc điểm của nghề NTTS, các tác giả đã phân tích
những đặc điểm riêng biệt của NTTS so với các ngành khác như: không chiếm đất
nông nghiệp; đầu tư ít, hiệu quả nhanh; hoạt động sản xuất phức tạp; đòi hỏi kỹ thuật
cao và có độ rủi ro tương đối lớn; đòi hỏi chuyên nghiệp hoá [26, tr.10; 24-29].


7
Thứ hai, nghiên cứu phát triển NTTS theo hướng bền vững, Tổ chức
lương thực và nông nghiệp (FAO) đã ban hành bộ quy tắc Code of Conduct for
Responsible Fisheries, Food and Agriculture Organization of the United Nations,
đề cập đến phát triển NTTS có trách nhiệm ở những vùng thuộc tài phán quốc
gia, sử dụng các nguồn di truyền thuỷ sinh cho mục đích NTTS, NTTS có trách
nhiệm ở cấp độ sản xuất [141]. Bộ quy tắc này chỉ có tính khuyến nghị các quốc
gia tự nguyện thực hiện. Để có thể thực hiện được bộ quy tắc này, mỗi quốc gia
cần cụ thể hoá chúng thành các nguyên tắc quốc gia đi đôi với bộ chỉ số phù hợp.

Năm 1999 FAO và Bộ Nông, Lâm, Ngư của Australia đã phối hợp xây dựng bộ
chỉ số đa chiều về thực hiện nghề cá có trách nhiệm trên các mặt kinh tế, xã hội,
môi trường, thể chế. Bộ chỉ số này có thể là tài liệu tham khảo cho nhiều nước,
trong đó có Việt Nam.
Dự án "Nghiên cứu chính sách phục vụ phát triển bền vững-PORESSFA"
của cộng đồng chung châu Âu đã nghiên cứu nghề nuôi tôm ở một số nước như
Ấn Độ, Bangladet, Thái Lan, Việt Nam giai đoạn 2002-2005 và đưa ra một số
khuyến nghị nhằm bảo vệ môi trường sinh thái và cải thiện thể chế, chính sách
nhằm phát triển NTTS theo hướng bền vững.
Thứ ba, nghiên cứu xu hướng phát triển NTTS ở một số nước và khu vực.
Các nhà nghiên cứu trong cộng đồng ASEAN đã khái quát các xu hướng phát
triển NTTS như: nhằm góp phần giữ vững an ninh lương thực quốc gia, nâng cao
mức sống cho cộng đồng, tạo sản phẩm xuất khẩu, thu ngoại tệ cho đất nước.
Theo đó gần 1/4 lượng cá trong bảy quốc gia ASEAN (Cambodia, Indonesia,
Malaysia, Myanmar, Phillippines, Thái Lan, Việt Nam) xuất phát từ NTTS, riêng
Việt Nam đã vượt quá 1/3. Tại Việt Nam NTTS đã cung cấp thực phẩm có hàm
lượng đạm cao giá rẻ cho người dân, tạo điều kiện cải thiện chất lượng dinh
dưỡng của những người có thu nhập thấp. Tại Campuchia NTTS không ngừng
tăng lên; và sản lượng NTTS và năng suất trên một đơn vị diện tích nâng lên;
chủng loại nuôi trồng, cơ cấu sản phẩm ngày càng đa dạng; kỹ thuật nuôi trồng
được cải tiến nhanh [132, tr.24].


8
Thứ tư, để môi trường được bảo vệ trong quá trình NTTS, Thái Lan đưa ra
một số nguyên tắc sau: "Nguyên tắc phòng ngừa" và "sản xuất hiện đại từ thủ
công" nghĩa là sản xuất bằng công nghệ tốt nhất và gắn kết thân thiện môi trường
không được làm ảnh hưởng môi trường, thiết lập trang web quản lý tuyên truyền,
thực hiện cách quản lý trang trại tốt, coi đó là yếu tố cho sự thành công trong
việc sản xuất, NTTS TC, khuyến nghị người nuôi không xả các chất độc hại và

thuốc kháng sinh ra môi trường, khuyến khích sử dụng công nghệ hiện đại, quy
định tất cả các chất thải giết mổ và thuỷ sản chết phải được xử lý để không gây
ra nguy cơ ô nhiễm môi trường, đề ra các tiêu chuẩn vệ sinh an toàn thực phẩm
trong NTTS phù hợp với các tiêu chuẩn quốc tế,… [136].
Thứ năm, một số thành quả nghiên cứu của người nước ngoài về NTTS ở
Việt Nam: Năm 2005, trong khuôn khổ Chương trình Quỹ Uỷ thác toàn cầu của
Nhật Bản dành cho phát triển thuỷ sản bền vững của Việt Nam và Ngân hàng thế
giới, các nhà nghiên cứu của Ngân hàng thế giới, Australia, Thái Lan hợp tác với
các nhà nghiên cứu Việt Nam đã đưa ra bức tranh tổng thể về ngành thuỷ sản của
Việt Nam đầu những năm 2000, trong đó có đề cập đến một số vấn đề liên quan
đến NTTS xuất khẩu: nhấn mạnh tầm quan trọng của ngành NTTS trên các mặt
thành quả và tiềm năng (giai đoạn 1999-2003 NTTS Việt Nam phát triển với tốc
độ 12%/năm, đóng góp trên 40% tổng sản lượng thuỷ sản, chủ yếu là nuôi nước
ngọt); khó khăn của NTTS là năng lực thấp của các cấp hoạch định và thực thi
chính sách khuyến khích và quản lý NTTS theo hướng bền vững; vấn đề cung
cấp giống, thức ăn có chất lượng tốt, kiểm soát dịch bệnh và quản lý môi trường;
khuyến ngư, cung cấp thông tin thị trường chưa được giải quyết tốt; vấn đề chất
lượng sản phẩm cần được quan tâm để đáp ứng yêu cầu của thị trường nhập
khẩu. Các nhà khoa học cũng kiến nghị cần hỗ trợ NTTS trên các mặt: hỗ trợ
NTTS từ Ngân hàng Thế giới, coi đó là hoạt động hỗ trợ sinh kế người nghèo ở
các xã khó khăn ven biển và bảo tồn đa dạng hoá sinh học, hỗ trợ đa dạng hoá
các hình thức nuôi trồng; hướng hỗ trợ ưu tiên là cải thiện môi trường, nâng cao


9
chất lượng dịch vụ NTTS, nâng cao năng lực quản lý của người dân và các cấp
chính quyền… [58].
1.1.2. Những nghiên cứu nước ngoài về hỗ trợ nuôi trồng thuỷ sản
xuất khẩu
Để hạn chế áp lực khai thác và duy trì phát triển nguồn lợi thuỷ sản tự

nhiên nhất là những sản phẩm có giá trị cao, một số nước như Hàn Quốc, Nhật
Bản, Trung Quốc, Mỹ, EU,… đã đầu tư lớn cho sản xuất giống, xây dựng cơ sở hạ
tầng ổn định cho NTTS, nhờ đó đã thu được một số thành công trong các mặt sau:
+ Một số cơ sở sản xuất giống tại các nước này đã tạo giống có chất lượng
cao và thả ra biển, sông,… nhằm hồi phục bầy đàn của chúng trong môi trường
sống tự nhiên. Nhật Bản đã thả cá hồi giống ra biển, Trung Quốc thả tôm thẻ
chân trắng ra biển.
+ Một số dự án lớn ở các nước phương Tây, trong đó có Na Uy tổ chức
nuôi cá tuyết Đại Tây Dương và dự báo năm 2015 các cơ sở này cung cấp sản
lượng đạt 500 ngàn tấn và năm 2030 đạt 1 triệu tấn [132], [133].
Hội nghị Tôm Toàn cầu tổ chức hằng năm luân phiên ở các nước nuôi
tôm đã đưa ra nhiều thành tựu nghiên cứu, kiến giải thực tiễn và kiến nghị chính
sách đa chiều. Ví dụ như Hội nghị Tôm Toàn cầu tổ chức năm 2005 tại Việt
Nam đã phân tích thị trường nhập khẩu tôm ở Mỹ, EU, Nhật Bản, xu hướng sản
xuất tôm trên thế giới và khuyến nghị các chính sách hỗ trợ của Nhà nước và
cộng đồng nhằm tăng cường năng lực đối phó với dịch bệnh và giảm ô nhiễm
môi trường.
Hội thảo quốc tế về Kế hoạch hành động cho phát triển bền vững và mở
rộng mô hình hợp tác xã thuỷ sản, tổ chức tại Hà Nội, năm 2009, đã phân tích
kinh nghiệm của một số nước như Tây Ban Nha, của các tổ chức phi chính phủ
về phát triển và hỗ trợ mở rộng phát triển mô hình hợp tác xã thuỷ sản, phát triển
bảo hiểm NTTS.
Dự án Nghiên cứu chính sách phục vụ PTNTBV-PORESSFA của cộng
đồng chung châu Âu đã thực hiện ở các nước như: Ấn Độ, Băng-la-đét, Thái


10
Lan, Việt Nam từ năm 2002- 2005. Dự án này đã khái quát tình hình nghiên cứu,
phát triển nuôi tôm ở Ấn Độ, Băng-la-đét, Thái Lan, Việt Nam. Thông qua các
hoạt động đó, dự án đã đi đến kết luận rằng muốn phát triển bền vững chương

trình nuôi tôm thì các nhà hoạch định chính sách của các nước có nghề nuôi tôm
phải kết hợp với các chủ thể của các ngành, nghề khác có liên quan đến nuôi
trồng để nghiên cứu tất cả các vấn đề có liên quan như: môi trường, kinh tế, xã
hội, kỹ thuật… cũng như mối quan hệ giữa người sản xuất với thị trường, giữa
nhập khẩu và xuất khẩu… điểm mạnh, điểm yếu của ngành nuôi tôm nhằm hạn
chế thấp nhất những bất lợi cho người nuôi tôm.
Nghiên cứu của nhóm tư vấn APFIC/FAO (2011) [134] về tăng cường các
công cụ đánh giá nhằm phục vụ phát triển chính sách nghề cá và NTTS tại khu
vực châu Á - Thái Bình Dương cho thấy, mục đích ban đầu của các nhà hoạch
định chính sách ở nhiều nước trong khu vực chủ yếu là phát triển NTTS để tăng
sản lượng, thu ngoại tệ, tạo việc làm và tạo sinh kế. Phát triển NTTS theo hướng
bền vững thường không được quy định trong giai đoạn đầu và chủ yếu dựa vào
các phương thức truyền thống trong tự nhiên và ở quy mô nhỏ. Điều này làm cho
việc lập kế hoạch, quản lý ngành gặp nhiều khó khăn và phát triển bền vững
không phải là một ưu tiên. Nhiều nước không có khung pháp lý và các quy định
về các công cụ đánh giá và khuôn khổ pháp lý, không thể bắt kịp với tốc độ của
công nghệ và thương mại trong phát triển NTTS. Chỉ khi các nước phải đối mặt
với các vấn đề liên quan đến phát triển NTTS (ví dụ: môi trường kém chất
lượng, dịch bệnh, ô nhiễm thực phẩm, xã hội bất bình đẳng), họ mới bắt đầu nhìn
vào các công cụ đánh giá thực trạng, chính sách và khung pháp lý. Hiện trên thế
giới xu hướng dịch chuyển từ sản xuất truyền thống sang NTTS có trách nhiệm
hơn, tập trung vào hệ thống sản xuất bền vững, đang ngày càng rõ nét.
Việc thực hiện các công cụ đánh giá đòi hỏi chuyên môn, nguồn lực tài
chính và một khuôn khổ pháp lý vốn thường thiếu ở nhiều nước trong khu vực
châu Á. Trong những năm gần đây các nước đã phát triển các chiến lược NTTS
quốc gia, những chiến lược này càng cho phép và yêu cầu sử dụng các công cụ


11
đánh giá chính sách. Có nhiều định hướng trong việc sử dụng các công cụ đánh

giá trong NTTS.
- Lực lượng thị trường và yêu cầu thương mại;
- Các vấn đề an toàn thực phẩm;
- Các vấn đề về nuôi trồng an toàn;
- Sự cần thiết phải tuân thủ các yêu cầu quốc gia và khung pháp lý;
- Sự cần thiết phải tuân thủ các thoả thuận và quy định quốc tế;
- Tính bền vững lâu dài của ngành;
- Đáp ứng những mối quan tâm của các tổ chức phi chính phủ, người tiêu
dùng và công chúng nói chung;
- Những vấn đề đang nổi lên như biến đổi khí hậu, sự xuất hiện các dịch
bệnh…;
Các công cụ đánh giá có thể sử dụng để giải quyết các vấn đề phát triển
NTTS như:
- Môi trường (đánh giá tác động môi trường);
- Thú y thuỷ sản (giám sát);
- Thương mại quốc tế (đánh giá rủi ro nhập khẩu);
- Đa dạng sinh học (phân tích nguy cơ di truyền);
- Loài ngoại lai xâm hại (phân tích rủi ro sinh thái);
- An toàn thực phẩm (kiểm tra dư lượng, truy xuất nguồn gốc);
- Phát triển (quy hoạch không gian) NTTS;
- Khả năng vận chuyển (quy hoạch);
- Quá trình sản xuất (cấp giấy chứng nhận công và tư nhân);
- Phát thải khí nhà kính;
- Chất lượng đầu vào (thức ăn, giống, thuốc) (đánh giá chất lượng);
- Các vấn đề kinh tế xã hội (đánh giá, phân tích chuỗi giá trị tác động xã hội).
Nghiên cứu của Khondker Murshed-E- Jahan và cộng sự (2013) [143] với
sự tài trợ của Quỹ quốc tế về phát triển nông nghiệp (IFAD) về đánh giá tác động
kinh tế và xã hội của mô hình tích hợp NTTS và nông nghiệp tại Bangladesh.



12
Nghiên cứu này ước tính tỷ lệ tích hợp (IAA) công nghệ NTTS - nông
nghiệp ở Bangladesh và tác động đến nghèo đói và tiêu thụ thực phẩm trong các
hộ gia đình. Các tác giả sử dụng mô hình phân tích sự đánh đổi trong đánh giá
tác động đa chiều (TOA MD). Các tác giả sử dụng mô hình TOA MD để tính tỷ
suất áp dụng trong các quần thể có liên quan và để định lượng tác động trên kết
quả phân phối như nghèo và an ninh lương thực, để chứng minh rằng tiềm năng
phát triển mạnh cho đầu tư công nghệ. Phân tích sử dụng cơ sở và số liệu điều
tra cuối cùng của dự án phát triển nghề một cách bền vững (DSAP) của Trung
tâm nghề cá thế giới NTTS, nhằm thúc đẩy sự tích hợp công nghệ NTTS và
nông nghiệp trong NTTS. Bộ dữ liệu này được sử dụng để mô phỏng và đánh giá
tác động của nó đối với đói nghèo và an ninh lương thực trong dân số mục tiêu.
Báo cáo đã đưa ra các hướng dẫn về tiêu chuẩn thuỷ sản nhập khẩu vào
các thị trường lớn trên thế giới khá phong phú, hướng dẫn về tiêu chuẩn an toàn
thực phẩm theo tiêu chuẩn châu Âu, tiêu chuẩn Hoa Kỳ,... trong các bộ luật và
tài liệu hướng dẫn của các nước và tổ chức quốc tế. Đơn cử như tài liệu về "Thị
trường xuất khẩu châu Âu" do Trung tâm hỗ trợ nhập khẩu từ các nước đang
phát triển ấn hành được VASEP tổ chức biên dịch và xuất bản năm 2009.
1.2. CÁC CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU VỀ HỖ TRỢ NUÔI TRỒNG THUỶ
SẢN XUẤT KHẨU Ở TRONG NƯỚC

NTTS đã thu hút sự quan tâm, nghiên cứu của nhiều nhà khoa học trong
nước. Có thể tổng quan thành tựu nghiên cứu về hỗ trợ NTTS XK qua một số
chương trình, dự án, đề tài khoa học, luận án, bài viết trên tạp chí như sau:
1.2.1. Những nghiên cứu về nuôi trồng thuỷ sản
Nhiều công trình khoa học nhận định, Việt Nam có tiềm năng và lợi thế to
lớn trong NTTS nói chung, phục vụ XK nói riêng. Nguyễn Duy Chinh (2008),
với công trình Tổng quan về nguồn lợi thuỷ sản, chiến lược và chính sách phát
triển ngành thuỷ sản Việt Nam [15], đã đưa ra bức tranh tổng quát về nguồn lợi
thuỷ sản, tiềm năng, lợi thế NTTS của Việt Nam trên các mặt: môi trường nước

mặn, nước ngọt, nước lợ đều khá thuận tiện cho phát triển NTTS. Việt Nam nằm


13
bên bờ Tây của Biển Đông, một biển lớn của Thái Bình Dương. Việt Nam có bờ
biển dài 3260km với 226.000km2 vùng nội thuỷ và lãnh hải, hơn 1 triệu km2
vùng đặc quyền kinh tế, 1,7 ha mặt nước ngọt NTTS... Biển Việt Nam có tính đa
dạng sinh học khá cao với hàng chục nghìn loại thuỷ sinh khác nhau. Nguồn lợi
thuỷ sản không những cho phép nước ta khai thác bền vững hàng năm gần 2
triệu tấn thuỷ sản, mà còn có khả năng phát triển nghề NTTS cho phép cung cấp
tới hơn 1/3 tổng lượng thuỷ sản hằng năm. Hiện nay, Việt Nam đứng thứ ba thế
giới về sản lượng thuỷ sản và phát triển đứng thứ hai thế giới về tốc độ tăng
trưởng ngành NTTS (sau Myanmar). Tiềm năng NTTS của Việt Nam đã được
Chính phủ đưa vào kế hoạch quốc gia trong Quyết định số 1690/QĐ-TTg của
Thủ tướng Chính phủ với các mục tiêu đến năm 2020 như sau:
1. Ngành thuỷ sản cơ bản được công nghiệp hoá - hiện đại hoá và tiếp tục
phát triển toàn diện theo hướng bền vững thành một ngành sản xuất hàng hoá
lớn, có cơ cấu và các hình thức tổ chức sản xuất hợp lý, có năng suất, chất lượng,
hiệu quả, có thương hiệu uy tín, có khả năng cạnh tranh cao và hội nhập vững
chắc vào kinh tế thế giới. Đồng thời từng bước nâng cao trình độ dân trí, đời
sống vật chất và tinh thần của ngư dân gắn với bảo vệ môi trường sinh thái và
quốc phòng an ninh vùng biển, đảo của Tổ quốc.
2. Kinh tế thuỷ sản đóng góp 30-35% GDP trong khối nông - lâm - ngư
nghiệp, tốc độ tăng giá trị sản xuất ngành thuỷ sản từ 8-10%/năm. Kim ngạch
XKTS đạt 8-9 tỷ USD. Tổng sản lượng thuỷ sản đạt 6,5-7 triệu tấn, trong đó
NTTS chiếm 65-70% tổng sản lượng.
3. Tạo việc làm cho 5 triệu lao động nghề cá có thu nhập bình quân đầu người
cao gấp 3 lần so với hiện nay; trên 40% tổng số lao động nghề cá qua đào tạo. Xây
dựng các làng cá ven biển, hải đảo thành các cộng đồng dân cư giàu truyền thống
tương thân, tương ái, có đời sống văn hoá tinh thần đậm đà bản sắc riêng [78].

Những nghiên cứu về thực trạng NTTS ở Việt Nam được phân tích đánh
giá theo nhiều góc độ, nhiều phạm vi và với các tác giả khác nhau. Đơn cử ra
một số công trình:


14
- Báo cáo tóm tắt Quy hoạch tổng thể phát triển ngành thuỷ sản Việt Nam
đến năm 2020, tầm nhìn 2030, đã đánh giá khá toàn diện thực trạng NTTS ở Việt
Nam. Theo báo cáo này, trong những năm qua, nhất là 10 năm gần đây, NTTS ở
Việt Nam có bước tăng trưởng nhanh, diện tích nuôi trồng năm 2012 gấp 1,45
lần so với năm 2001, bình quân tăng 4,2%/năm, trong đó các vùng có diện tích
NTTS lớn nhất là vùng đồng bằng sông Cửu Long (70,19%), vùng đồng bằng
sông Hồng (11,64%) và vùng Bắc Trung Bộ và duyên hải miền Trung (7,35%);
sản lượng NTTS năm 2010 đạt 2,74 triệu tấn, gấp 863 lần so với năm 2001.
Vùng đồng bằng sông Cửu Long cung cấp tới 70,94% sản lượng thuỷ sản nuôi
trồng. Tốc độ tăng bình quân sản lượng thuỷ sản nuôi trồng đạt 16,2%/năm cho
cả giai đoạn. Các sản phẩm nuôi trồng chính là tôm, cá, nhuyễn thể, rong biển,
một số hải sản khác.
Quy hoạch tổng thể phát triển ngành thuỷ sản Việt Nam đến năm 2020,
tầm nhìn 2030 đã đánh giá hiện trạng phát triển thuỷ sản giai đoạn 2001-2011;
xác định mục tiêu tổng thể phát triển ngành thuỷ sản Việt Nam đến năm 2020,
tầm nhìn 2030; đưa ra định hướng phát triển bền vững ngành thuỷ sản; đề xuất
phương án quy hoạch ngành thuỷ sản đến năm 2020, tầm nhìn 2030; xác định
các chương trình, dự án ưu tiên đầu tư trong ngành thuỷ sản giai đoạn đến năm
2020; ước tính tổng nhu cầu vốn đầu tư và phân kỳ đầu tư; đề xuất một số giải
pháp chủ yếu thực hiện quy hoạch [7, tr.25-31].
- Đề tài khoa học của Viện Nghiên cứu NTTS (2007) về Nghề NTTS ở
đồng bằng sông Cửu Long: Hiện trạng và xu hướng phát triển [128], đã nêu ra
bức tranh tổng quát về nghề NTTS ở đồng bằng sông Cửu Long và đề xuất giải
pháp phát triển.

- Kỷ yếu Hội thảo VINAFISH (2004) [60], đã phản ánh ý kiến của nhiều
tham luận về phát triển nuôi trồng và đánh bắt thuỷ sản; nâng cao hiệu quả và
tính bền vững của nghề NTTS; định hướng phát triển thuỷ sản vùng nước ngọt,
nước mặn một cách bền vững và hiệu quả; phát triển các dịch vụ nuôi tôm…



×