Tải bản đầy đủ (.pdf) (108 trang)

Nghiên Cứu Động Thái Cấu Trúc Đường Kính Của Rừng Tự Nhiên Nhiệt Đới Hỗn Loài Lá Rộng Rụng Lá Theo Mùa Ưu Hợp Họ Dầu (Rừng Khộp) Ở Tây Nguyên

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (844.18 KB, 108 trang )

1

ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN

TRƯỜNG ĐẠI HỌC NÔNG LÂM

TRẦN ĐỨC MẠNH

NGHIÊN CỨU ĐỘNG THÁI CẤU TRÚC ĐƯỜNG KÍNH
CỦA RỪNG TỰ NHIÊN NHIỆT ĐỚI HỖN LOÀI LÁ RỘNG
RỤNG LÁ THEO MÙA ƯU HỢP HỌ DẦU (RỪNG KHỘP)
Ở TÂY NGUYÊN

LUẬN VĂN THẠC SỸ KHOA HỌC LÂM NGHIỆP

THÁI NGUYÊN - 2010


2

ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN

TRƯỜNG ĐẠI HỌC NÔNG LÂM

TRẦN ĐỨC MẠNH

NGHIÊN CỨU ĐỘNG THÁI CẤU TRÚC ĐƯỜNG KÍNH
CỦA RỪNG TỰ NHIÊN NHIỆT ĐỚI HỖN LOÀI LÁ RỘNG
RỤNG LÁ THEO MÙA ƯU HỢP HỌ DẦU (RỪNG KHỘP)
Ở TÂY NGUYÊN


Chuyên ngành: Lâm học
Mã số: 60.62.60

LUẬN VĂN THẠC SỸ KHOA HỌC LÂM NGHIỆP
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC
PGS.TS. TRẦN VĂN CON

THÁI NGUYÊN - 2010


3

LỜI CẢM ƠN
Bản luận văn này được hoàn thành theo chương trình đào tạo sau Đại học
khóa 15 Lâm nghiệp tại Trường Đại học Nông Lâm Thái Nguyên.
Nhân dịp này, Tôi xin bày tỏ lòng biết ơn đến Ban giám hiệu cùng quý thầy,
cô giáo trường Nông Lâm Thái Nguyên, tập thể cán bộ công nhân viên Trung tâm
ứng dụng KHKT Lâm nghiệp đã tận tình giúp đỡ và tạo điều kiện thuận lợi cho tôi
trong quá trình học tập và hoàn thành luận văn.
Tôi xin bày tỏ lòng biết ơn chân thành và sâu sắc đến thầy giáo hướng dẫn:
PGS.TS. Trần Văn Con - Viện Khoa học Lâm nghiệp Việt Nam đã tận tình giúp đỡ,
chỉ bảo, động viên tôi trong suốt quá trình hoàn thành luận văn này.
Cuối cùng, tôi gửi lời cảm ơn tới tất cả các bạn bè, các bạn đồng nghiệp và
những người thân trong gia đình đã động viên, giúp đỡ tôi hoàn thành luận văn này.
Mặc dù đã làm việc với sự nỗ lực của bản thân, song luận văn này không
thể tránh khỏi những thiếu sót. Tôi rất mong nhận được những ý kiến đóng góp xây
dựng quý báu của các thầy, các cô giáo, các nhà khoa học cùng các bạn đồng
nghiệp.
Tôi xin cam đoan các số liệu thu thập, kết quả nghiên cứu tính toán, các
thông tin trích dẫn trên luận văn đều được chỉ dẫn có nguồn gốc.

Hà Nội, tháng 9 năm 2010
Tác giả

Trần Đức Mạnh


4

DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT VÀ KÝ HIỆU

Đ–T

Đông – Tây

D 1.3

Đường kính tại vị trí 1,3 m của cây

ĐHLN

Đại học lâm nghiệp

Dt

Đường kính tán của cây

ĐTQH

Điều tra qui hoạch


GTZ

(German Technical Organization) Tổ chức hợp tác kỹ thuật Đức

Hdc

Chiều cao dưới cành của cây

HSTR

Hệ sinh thái rừng

Hvn

Chiều cao vút ngọn của cây

N–B

Nam – Bắc

ÔTC

Ô tiêu chuẩn

ÔTCĐV

Ô tiêu chuẩn định vị

PGS.TS


Phó giáo sư tiến sỹ

QXTV

Quần xã thực vật

VQG

Vườn quốc gia

:


5

DANH MỤC CÁC BẢNG
4.1a

Bảng cấu trúc phân bố số cây của 6 ôtc theo nhóm loài ở 2 thời điểm đo.

4.1b

Bảng cấu trúc phân bố G của 6 ôtc theo nhóm loài ở 2 thời điểm đo.

4.1c

Bảng cấu trúc phân bố V của 6 ôtc theo nhóm loài ở 2 thời điểm đo.

4.2


Kết quả kiểm tra phân bố Weibull của 6 ôtc.

4.3

Kết quả kiểm tra phân bố giảm của 6 ôtc.

4.4

Kết quả kiểm tra phân bố khoảng cách của 6 ôtc.

4.5

Cấu trúc tổ thành loài các ôtc định vị rừng khộp.

4.6

Các chỉ tiêu động thái cấu trúc trong các ôtc định vị.

4.7

Tăng trưởng đường kính theo cỡ kính của rừng khộp.

4.8

Mô hình dự đoán cấu trúc lâm phần rừng khộp.

4.9

Ước lượng tham số của mô hình tương quan Pd/d các loài chủ yếu trong
rừng khộp theo cấp năng suất.


4.10

Đường kính khai thác tối thiểu và tuổi thành thục theo CNS và MĐSX.


6

DANH MỤC CÁC HÌNH
1.1

Vai trò của mô hình sinh trưởng và dữ liệu bổ sung trong cung cấp thông
tin cho quản lý rừng.

1.2

Các thành phần cơ bản của một mô hình sinh trưởng.

2.1

Thiết kế ÔTCĐV.

2.2

Sơ đồ chia ô tiêu chuẩn thành các ô vuông để điều tra tầng cây cao.

2.3

Khung lô gíc về nhập, kiểm tra và quản lý dữ liệu ÔTCĐV.


4.1

Phân bố N – D tổng 6 ôtc.

4.2

Phân bố N – D của ÔTC BĐ2.

4.3

Tăng trưởng đường kính theo cỡ kính ở các ô tiêu chuẩn định vị.

4.4

Tăng trưởng bình quân của đường kính theo cỡ kính.

4.5

Tỷ lệ (%) cây chết trong các cỡ kính ở các ô tiêu chuẩn định vị.

4.6

Tỷ lệ cây chết (%) của rừng khộp theo cỡ kính (Mp TN, Mp’ LT).

4.7

Thay đổi cấu trúc phân bố N – D sau 30 năm.

4.8


Thay đổi cấu trúc G theo cỡ kính.

4.9

Thay đổi cấu trúc V theo cỡ kính.

4.10

Sinh trưởng và tăng trưởng tiết diện ngang của rừng khộp.

4.11

Sinh trưởng và tăng trưởng thể tích

4.12

Sơ đồ mô phỏng lượng khai thác và luân kỳ khai thác để hướng tới vốn
rừng chuẩn


7

MỤC LỤC

MỞ ĐẦU........................................................................................................... 9
Chương 1
TỔNG QUAN VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU ....................................................... 11
1.1. Khái quát về động thái rừng ................................................................. 11
1.2. Nghiên cứu ngoài nước......................................................................... 11
1.1.1.


Các nghiên cứu về tái sinh và diễn thế rừng .............................. 11

1.1.2.

Các nghiên cứu về sinh trưởng rừng ......................................... 16

1.1.3. Các nghiên cứu về rừng khộp ........................................................ 18
1.3. Nghiên cứu trong nước ......................................................................... 20
1.3.1.

Các nghiên cứu về tái sinh và diễn thế rừng .............................. 20

1.3.2.

Các nghiên cứu về tăng trưởng rừng .......................................... 22

1.3.3.

Các nghiên cứu về rừng Khộp.................................................... 25

1.4.

Thảo luận và xác định vấn đề nghiên cứu......................................... 28

Chương 2
MỤC TIÊU, NỘI DUNG, GIỚI HẠN VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
......................................................................................................................... 34
2.1. Mục tiêu ................................................................................................ 34
2.1.1. Mục tiêu lý luận.............................................................................. 34

2.1.2. Mục tiêu thực tiễn .......................................................................... 34
2.2. Nội dung và giới hạn nghiên cứu ......................................................... 34
2.2.1. Nội dung nghiên cứu .................................................................... 34
2.2.2. Giới hạn nghiên cứu..................................................................... 34
2.3. Phương pháp nghiên cứu ...................................................................... 34
2.3.1. Phương pháp tiếp cận chung .......................................................... 34
2.3.2. Phương pháp thu thập số liệu......................................................... 35
2.3.3. Các phương pháp xử lý thông tin và công cụ sử dụng................... 41


8

Chương 3
GIỚI THIỆU ĐIỀU KIỆN CƠ BẢN VÙNG NGHIÊN CỨU ....................... 44
3.1. Điều kiện tự nhiên................................................................................. 44
3.1.1. Vị trí địa lý, địa hình ...................................................................... 44
3.1.2. Khí hậu ........................................................................................... 44
3.1.3. Đất đai............................................................................................ 45
3.1.4. Hệ thực vật ..................................................................................... 45
Chương 4
KẾT QUẢ, THẢO LUẬN .............................................................................. 47
4.1. Bảng cấu trúc lâm phần của các ô tiêu chuẩn....................................... 47
4.1.1. Bảng cấu trúc N-D ......................................................................... 47
4.1.2. Cấu trúc tổ thành và đa dạng loài ................................................. 57
4.2. Các quá trình động thái rừng khộp ....................................................... 60
4.2.1. Động thái tái sinh tự nhiên............................................................. 63
4.2.2. Động thái sinh trưởng và chuyển cỡ kính ...................................... 65
4.2.3. Quá trình chết tự nhiên hoặc/và khai thác..................................... 68
4.3. Xây dựng mô hình dự đoán cấu trúc rừng khộp................................... 71
4.4. Một số đề xuất áp dụng kết quả nghiên cứu......................................... 78

Chương 5
KẾT LUẬN, TỒN TẠI, KHUYẾN NGHỊ ..................................................... 85
5.1.Kết luận.................................................................................................. 85
5.2. Tồn tại ................................................................................................... 87
5.3. Khuyến nghị.......................................................................................... 87
TÀI LIỆU THAM KHẢO............................................................................... 88
PHỤ LỤC LUẬN VĂN .................................................................................. 93


9

MỞ ĐẦU
Rừng là tài nguyên quý giá có khả năng tái tạo, rừng không những là cơ sở
của sự phát triển kinh tế mà còn giữ chức năng sinh thái rất quan trọng. Song nó là
một hệ sinh thái phức tạp bao gồm nhiều thành phần với các quy luật sắp xếp khác
nhau trong không gian và thời gian. Trong quản lý rừng, tác động lâm sinh là biện
pháp kỹ thuật then chốt để cải thiện và làm cho rừng có cấu trúc phù hợp nhất với
mục đích quản lý, nhằm đáp ứng được các yêu cầu đặt ra cho từng loại hình kinh
doanh rừng. Thực tiễn đã chứng minh rằng các giải pháp nhằm phục hồi rừng, quản
lý rừng bền vững chỉ có thể giải quyết thoả đáng một khi có sự hiểu biết đầy đủ về
bản chất quy luật sống của hệ sinh thái rừng (HSTR), trong đó có quy luật sinh
trưởng và các nhân tố ảnh hưởng đến sinh trưởng, phát triển của rừng. Nghiên cứu
động thái của rừng tự nhiên là một công việc rất khó khăn nhưng cần thiết để nắm
bắt được các qui luật phát triển của rừng để có các quyết định điều chỉnh hợp lý và
kịp thời trong từng giai đoạn phát triển của rừng. Các quá trình động thái diễn ra
trong rừng có thể chia thành 3 nhóm quá trình: (i) tăng trưởng của cây dẫn đến sự
chuyển cấp trong tầng cây cao; (ii) quá trình tái sinh bổ sung; và (iii) quá trình chết
tự nhiên trong các cỡ kính, hai quá trình sau làm thay đổi tổ thành loài và cấu trúc
của lâm phần. Các nghiên cứu về cấu trúc và động thái của rừng tự nhiên đã được
các nhà khoa học lâm nghiệp quan tâm từ lâu, và có rất nhiều công trình đã được

công bố, nhiều kiến thức và kinh nghiệm đã được tích luỹ làm cơ sở cho các biện
pháp kỹ thuật trong quản lý và sử dụng rừng. Tuy nhiên để có cơ sở xây dựng được
mô hình rừng "mục đích" và các biện pháp kỹ thuật lâm sinh nhằm dẫn dắt rừng đạt
được sự bền vững cần phải tiếp tục nghiên cứu bổ sung để có những hiểu biết sâu
hơn về các quy luật cấu trúc và động thái của rừng. Ở Việt Nam, các nghiên cứu
định vị còn rất hạn chế. Trong chương trình theo dõi diễn biến tài nguyên rừng, bắt
đầu từ chu kỳ 2 (1985-1990), Viện Điều tra quy hoạch rừng đã thiết lập khoảng 100
ô định vị nghiên cứu sinh thái và đã thu thập được một nguồn dữ liệu rất phong phú,
tuy nhiên việc phân tích đánh giá nguồn số liệu này để nghiên cứu các vấn đề sinh
thái rừng và lâm học còn rất hạn chế do nhiều nguyên nhân rất khác nhau. Trong


10

khuôn khổ đề tài “nghiên cứu các đặc điểm lâm học của một số HSTR chủ yếu ở
Việt Nam” của Viện Khoa học Lâm nghiệp giai đoạn I từ năm 2006-2010, đã thiết
lập thêm 54 ô tiêu chuẩn định vị cho 4 kiểu rừng khác nhau trên các vùng sinh thái
của toàn quốc, trong đó có 6 ô tiêu chuẩn được lập cho kiểu thưa rụng lá ưu hợp họ
Dầu (rừng khộp) ở Tây Nguyên. Hệ thống ô tiêu chuẩn định vị (ÔTCĐV) này là cơ
sở cho các nghiên cứu sâu hơn về các quá trình động trong các HSTR khác nhau ở
Việt Nam.
Trong khuôn khổ của một luận văn cao học, tôi thực hiện đề tài: "Nghiên
cứu động thái cấu trúc đường kính của rừng tự nhiên nhiệt đới hỗn loài lá rộng
rụng lá theo mùa ưu hợp họ dầu(rừng khộp) ở Tây Nguyên ". Đây là một trong
những nội dung nghiên cứu thuộc đề tài “nghiên cứu các đặc điểm lâm học của một
số HSTR chủ yếu ở Việt Nam” do nhóm nghiên cứu của PGS.TS. Trần Văn Con,
Viện Khoa học lâm nghiệp Việt Nam thực hiện.


11


Chương 1
TỔNG QUAN VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU
1.1. Khái quát về động thái rừng
Động thái rừng là một khái niệm rất rộng và bao gồm nhiều quá trình rất
phức tạp. Nghiên cứu động thái rừng là một công việc hết sức khó khăn và càng đặc
biệt khó khăn hơn đối với rừng tự nhiên nhiệt đới bởi tính phức hợp của nó. Các
công trình nghiên cứu về động thái rừng tự nhiên nhiệt đới ở trên thế giới và ở Việt
Nam đã được công bố cho đến nay là không kể được. Sau đây chỉ cập nhật một số
công trình nghiên cứu quan trọng nhất liên quan đến vấn đề nghiên cứu của đề tài
luận văn, đặc biệt là các công trình nghiên cứu các quá trình động thái của quần thụ
cây gỗ trên 3 vấn đề chính: tái sinh, diễn thế và tăng trưởng.
1.2. Nghiên cứu ngoài nước
1.1.1. Các nghiên cứu về tái sinh và diễn thế rừng
Có rất nhiều phương pháp đã được sử dụng để nghiên cứu quá trình diễn thế
rừng, phương pháp được sử dụng nhiều nhất là mô hình hóa các quy luật biến đổi
tầng cây cao và tầng cây bụi thảm tươi dưới các tác động thay đổi điều kiện môi
trường.
Hiện tồn tại rất nhiều quan điểm khác nhau trong nghiên cứu về lý thuyết
diễn thế của các hệ sinh thái, trong đó có thể chia thành hai trường phái cơ bản:
(i) Các lý thuyết về diễn thế dựa trên phản ứng của các cá thể sinh vật và quan niệm
diễn thế là kết quả của các chiến lược thích nghi của các cá thể đối với môi trường.
(ii) Các lý thuyết diễn thế dựa trên phản ứng của toàn bộ HSTR (Shugart,
H.H.1984) [52]. Diễn thế dưới quan điểm của nhiều nhà sinh thái học, bao gồm sự
biến đổi của các hệ tự nhiên và hiểu biết về nguyên nhân cũng như xu hướng của
các biến đổi đó. Trong kho tàng tài liệu về sinh thái học, đã có quá nhiều các công
trình viết về diễn thế đến nỗi rất khó cho ai đó muốn tổng quan để đưa đến một sự
phân loại hay tổng hợp về các lý thuyết, trường phái về diễn thế cũng như các mô
hình toán đã được ứng dụng để nghiên cứu về diễn thế. Shugart H.H. (1984) [52] đã
sử dụng một loạt các mô hình máy tính về diễn thế rừng (gọi là mô hình lỗ trống) để



12

nghiên cứu phản ứng động thái lâu dài của HSTR. Các nghiên cứu này tập trung
vào việc ứng dụng các mô hình để phát triển lý thuyết và giải quyết các vấn đề
trong hiểu biết của chúng ta về diễn thế. Một loạt các mô hình động thái rừng dựa
trên cây cá thể đã được thảo luận trong công trình này như: mô hình cho rừng đồng
loài đều tuổi, mô hình cho rừng hỗn loài đều tuổi, mô hình cho rừng đồng loài khác
tuổi và mô hình cho rừng khác loài khác tuổi. Các mô hình này lại được chia theo
cách tiếp cận có chú ý đến không gian và không chú ý đến không gian.
Ngoài các phương pháp tiếp cận nghiên cứu diễn thế bằng mô hình hóa toán
học, các phương pháp nghiên cứu mô tả trên cơ sở nghiên cứu định vị lâu dài (thông
qua hệ thống ô tiêu chuẩn sinh thái định vị) hoặc thông qua một hệ thống các ô
nghiên cứu với các giai đoạn diễn thế khác nhau tồn tại cùng một thời điểm trên các
địa điểm không gian khác nhau (phương pháp lấy không gian thay thế thời gian).
Tái sinh rừng là một quá trình sinh học mang tính đặc thù của HSTR, biểu hiện
của nó là sự xuất hiện của một thế hệ cây con của những loài cây gỗ ở những nơi còn
hoàn cảnh rừng: dưới tán rừng, chỗ trống trong rừng, đất rừng sau khai thác, đất rừng
sau nương rẫy. Vai trò lịch sử của lớp cây con này là thay thế thế hệ cây già cỗi. Vì vậy
tái sinh từng hiểu theo nghĩa hẹp là quá trình phục hồi thành phần cơ bản của rừng, chủ
yếu là tầng cây gỗ.
Theo quan điểm của các nhà nghiên cứu thì hiệu quả tái sinh rừng được xác định
bởi mật độ, tổ thành loài cây, cấu trúc tuổi, chất lượng cây con, đặc điểm phân bố. Sự
tương đồng hay khác biệt giữa tổ thành lớp cây tái sinh và tầng cây gỗ lớn đã được nhiều
nhà khoa học quan tâm (Mibbre-ad, 1930; Richards, 1933; 1939; Aubreville, 1938; Beard,
1946; Lebrun và Gilbert, 1954; Joné, 1955-1956; Schultz, 1960; Baur, 1964; Rollet, 1969,
dẫn theo [5]). Do tính chất phức tạp về tổ thành loài cây, trong đó chỉ có một số loài có giá
trị nên trong thực tiễn, người ta chỉ khảo sát những loài cây có ý nghĩa nhất định.
Quá trình tái sinh tự nhiên ở rừng nhiệt đới vô cùng phức tạp và còn ít được

nghiên cứu. Phần lớn tài liệu nghiên cứu về tái sinh tự nhiên của rừng mưa thường chỉ
tập trung vào một số loài cây có giá trị kinh tế dưới điều kiện rừng đã ít nhiều bị biến
đổi. Van steenis (1959)[54] đã nghiên cứu hai đặc điểm tái sinh phổ biến của rừng


13

mưa nhiệt đới là tái sinh phân tán liên tục của các loài cây chịu bóng và tái sinh vệt của
các loài cây ưa sáng.
Vấn đề tái sinh rừng nhiệt đới được thảo luận nhiều nhất là hiệu quả các cách
thức xử lý lâm sinh liên quan đến tái sinh của các loài cây mục đích ở các kiểu rừng.
Từ đó các nhà lâm sinh học đã xây dựng thành công nhiều phương thức chặt tái sinh.
Công trình của Bernard (1954, 1959), Wyatt Smith (1961) dẫn theo [2] với phương
thức rừng đều tuổi ở Mã Lai; Nicholson (1958) ở Bắc Borneo; Donis và Maudoux
(1951, 1954) dẫn theo [2] với công thức đồng nhất hoá tầng trên ở Zaia; Taylor (1954),
Jones (1960) với phương thức chặt dần tái sinh dưới tán ở Nijêria và Gana; Barnarji
(1959) với phương thức chặt dần nâng cao vòm lá ở Andamann. Nội dung chi tiết các
bước và hiệu quả của từng phương thức đối với tái sinh đã được Baur (1962) [2] tổng
kết trong tác phẩm: Cơ sở sinh thái học của kinh doanh rừng mưa.
Nghiên cứu tái sinh ở rừng nhiệt đới Châu Phi, A.Obrevin (1938) nhận thấy cây
con của các loài cây ưu thế trong rừng mưa là rất hiếm. A.Obrevin đã khái quát hoá các
hiện tượng tái sinh ở rừng nhiệt đới Châu Phi để đúc kết nên lý luận bức khảm tái sinh,
nhưng phần lý giải các hiện tượng đó còn bị hạn chế chưa đưa ra được những đề xuất
cụ thể. Vì vậy, lý luận của ông còn ít sức thuyết phục, chưa giúp ích cho thực tiễn sản
xuất để điều khiển tái sinh rừng theo những mục tiêu kinh doanh đã đề ra.
Tuy nhiên, những kết quả quan sát của Davit và P.W Risa (1933), Bơt (1946),
Sun (1960), Role (1969) ở rừng nhiệt đới Nam Mỹ lại khác hẳn với nhận định của
A.Obrevin. Đó là hiện tượng tái sinh tại chỗ và liên tục của các loài cây và tổ thành loài
cây có khả năng giữ nguyên không đổi trong một thời gian dài.
Các công trình nghiên cứu về phân bố tái sinh tự nhiên rừng nhiệt đới đáng chú

ý là công trình nghiên cứu của Richards, P.W (1952), Bernard Rollet (1974), tổng kết
các kết quả nghiên cứu về phân bố số cây tái sinh tự nhiên đã nhận xét: trong các ô có
kích thước nhỏ (1 x 1m, 1 x 1.5m) cây tái sinh tự nhiên có dạng phân bố cụm, một số ít
có phân bố Poisson. Ở Châu Phi trên cơ sở các số liệu thu thập Tayloer (1954), Barnard
(1955) xác định số lượng cây tái sinh trong rừng nhiệt đới thiếu hụt cần thiết phải bổ
sung bằng trồng rừng nhân tạo. Ngược lại, các tác giả nghiên cứu về tái sinh tự nhiên


14

rừng nhiệt đới Châu Á như Budowski (1956), Bava (1954), Atinot (1965) lại nhận
định dưới tán rừng nhiệt đới nhìn chung có đủ số lượng cây tái sinh có giá trị kinh tế,
do vậy các biện pháp lâm sinh đề ra cần thiết để bảo vệ và phát triển cây tái sinh có sẵn
dưới tán rừng (dẫn theo Nguyễn Duy Chuyên, 1996) [5].
Đối với rừng nhiệt đới thì các nhân tố sinh thái như nhân tố ánh sáng
(thông qua độ tàn che của rừng), độ ẩm của đất, kết cấu quần thụ, cây bụi, thảm
tươi là những nhân tố ảnh hưởng trực tiếp đến quá trình tái sinh rừng, cho đến
nay đã có nhiều công trình nghiên cứu, đề cập đến vấn đề này. Baur G.N.
(1962)[2] cho rằng, sự thiếu hụt ánh sáng ảnh hưởng đến phát triển của cây con
còn đối với sự nảy mầm và phát triển của cây mầm, ảnh hưởng này thường
không rõ ràng. Thảm cỏ, cây bụi có ảnh hưởng đến sinh trưởng của cây tái sinh.
Ở những quần thụ kín tán, thảm cỏ và cây bụi kém phát triển nhưng chúng vẫn
có ảnh hưởng đến cây tái sinh. Nhìn chung ở rừng nhiệt đới, tổ thành và mật độ
cây tái sinh thường khá lớn. Nhưng số lượng loài cây có giá trị kinh tế thường
không nhiều và được chú ý hơn, còn các loài cây có giá trị kinh tế thấp thường ít
được nghiên cứu, đặc biệt là đối với tái sinh ở các trạng thái rừng phục hồi sau
nương rẫy.
H. Lamprecht (1989)[46] căn cứ vào nhu cầu ánh sáng của các loài cây trong
suốt quá trình sống để phân chia cây rừng nhiệt đới thành nhóm cây ưa sáng, nhóm cây
bạn chịu bóng và nhóm cây chịu bóng. Kết cấu của quần thụ lâm phần có ảnh hưởng

đến tái sinh rừng. I.D.Yurkevich (1960) đã chứng minh độ tàn che tối ưu cho sự phát
triển bình thường của đa số các loài cây gỗ là 0,6 - 0,7.
Độ khép tán của quần thụ ảnh hưởng trực tiếp đến mật độ và sức sống của cây
con. Trong công trình nghiên cứu mối quan hệ qua lại giữa cây con và quần thụ,
V.G.Karpov (1969) đã chỉ ra đặc điểm phức tạp trong quan hệ cạnh tranh về dinh
dưỡng khoáng của đất, ánh sáng, độ ẩm và tính chất không thuần nhất của quan hệ qua
lại giữa các thực vật tuỳ thuộc đặc tính sinh vật học, tuổi và điều kiện sinh thái của
quần thể thực vật (dẫn theo Nguyễn Văn Thêm, 1992)[29].


15

Trong nghiên cứu tái sinh rừng người ta nhận thấy rằng tầng cỏ và cây bụi qua
thu nhận ánh sáng, độ ẩm và các nguyên tố dinh dưỡng khoáng của tầng đất mặt đã ảnh
hưởng xấu đến cây con tái sinh của các loài cây gỗ. Những quần thụ kín tán, đất khô và
nghèo dinh dưỡng khoáng do đó thảm cỏ và cây bụi sinh trưởng kém nên ảnh hưởng
của nó đến các cây gỗ tái sinh không đáng kể. Ngược lại, những lâm phần thưa, rừng
đã qua khai thác thì thảm cỏ có điều kiện phát sinh mạnh mẽ. Trong điều kiện này
chúng là nhân tố gây trở ngại rất lớn cho tái sinh rừng (Xannikov, 1967; Vipper, 1973)
(dẫn theo Nguyễn Văn Thêm, 1992)[29] .
Như vậy, các công trình nghiên cứu được đề cập ở trên đã phần nào làm sáng tỏ
việc đặc điểm tái sinh tự nhiên ở rừng nhiệt đới. Đó là cơ sở để xây dựng các phương
thức lâm sinh hợp lý.
Tái sinh tự nhiên của thảm thực vật sau nương rẫy được một số tác giả nghiên
cứu. Saldarriaga (1991) nghiên cứu tại rừng nhiệt đới ở Colombia và Venezuela nhận
xét: Sau khi bỏ hoá, số lượng loài thực vật tăng dần từ ban đầu đến rừng thành thục.
Thành phần của các loài cây trưởng thành phụ thuộc vào tỷ lệ các loài nguyên thuỷ mà
nó được sống sót từ thời gian đầu của quá trình tái sinh, thời gian phục hồi khác nhau
phụ thuộc vào mức độ, tần số canh tác của khu vực đó (dẫn theo Phạm Hồng Ban,
2000 [1]). Kết quả nghiên cứu của các tác giả Lambert et al (1989), Warner (1991),

Rouw (1991) đều cho thấy quá trình diễn thế sau nương rẫy như sau: đầu tiên đám
nương rẫy được các loài cỏ xâm chiếm, nhưng sau một năm loài cây gỗ tiên phong
được gieo giống từ vùng lân cận hỗ trợ cho việc hình thành quần thụ các loài cây gỗ,
tạo ra tiểu hoàn cảnh thích hợp cho việc sinh trưởng của cây con. Những loài cây gỗ
tiên phong chết đi sau 5-10 năm và được thay thế dần bằng các loài cây rừng mọc
chậm, ước tính cần phải mất hàng trăm năm thì nương rẫy cũ mới chuyển thành loại
hình rừng gần với dạng nguyên sinh ban đầu.
Nghiên cứu khả năng tái sinh tự nhiên của thảm thực vật sau nương rẫy từ 1-20
năm ở vùng Tây Bắc Ấn Độ, Ramakrishnan (1981, 1992) đã cho biết chỉ số đa dạng
loài rất thấp. Chỉ số loài ưu thế đạt đỉnh cao nhất ở pha đầu của quá trình diễn thế và
giảm dần theo thời gian bỏ hoá. Long Chun và cộng sự (1993) đã nghiên cứu đa dạng


16

thực vật ở hệ sinh thái nương rẫy tại Xishuangbanna tỉnh Vân Nam, Trung Quốc nhận
xét: tại Baka khi nương rẫy bỏ hoá được 3 năm thì có 17 họ, 21 chi, 21 loài thực vật.
Bỏ hoá 19 năm thì có 60 họ, 134 chi, 167 loài (dẫn theo Phạm Hồng Ban, 2000)[1].
Kết quả nghiên cứu tái sinh tự nhiên của thảm thực vật rừng trên thế giới cho
chúng ta những hiểu biết các phương pháp nghiên cứu, quy luật tái sinh tự nhiên ở một
số nơi. Đặc biệt, sự vận dụng các hiểu biết về quy luật tái sinh để xây dựng các biện
pháp kỹ thuật lâm sinh nhằm quản lý tài nguyên rừng bền vững.
1.1.2. Các nghiên cứu về sinh trưởng rừng
Người ta đã dùng nhiều cách để mô tả sinh trưởng của cây và sản lượng lâm
phần. Cách truyền thống mà các nhà lâm học cổ điển thường dùng là bảng sản
lượng. Từ những năm 1960 trở lại đây ngày càng xuất hiện nhiều công trình dùng
mô hình toán để nghiên cứu quá trình sinh trưởng của cây rừng. Ngày nay đã có
hàng loạt các hàm sinh trưởng có thể diễn tả chính xác đường cong sinh trưởng của
cây rừng phụ thuộc vào thời gian. Backman (1962)[38]đã chỉ ra rằng: Suất tăng
trưởng của một lâm phần là một hàm phụ thuộc vào tuổi, loài cây, lập địa và mật

độ. Clutter (1963) [42] đã dùng phương trình vi phân để dự báo năng suất của rừng
thuần loài đều tuổi, còn Moser và Hau (1962 dẫn theo [55]) thì dùng phương pháp
này để nghiên cứu rừng lá rộng khác tuổi. Các nghiên cứu về sau đã bổ sung thêm
nhiều yếu tố mới. Moser đã định lượng ba thành phần chủ yếu của quá trình sinh
trưởng: Tái sinh (ingrowth); chết (mortality); tăng trưởng cây sống (Survior
growth), ông đã phát triển một mô hình gồm các hệ phương trình phi tuyến để dự
báo sinh trưởng của rừng cho các cấp đất và cỡ đường kính khác nhau. Leary (1970)
cũng tiến hành những nghiên cứu tương tự, ông đã thảo luận sâu hơn về các luận
điểm lý thuyết của các mô hình mô phỏng sinh trưỏng và đưa ra những nguyên tắc,
để ước lượng các tham số. Ek (1974) đã dùng hệ phương trình phi tuyến để nghiên
cứu nhiều lâm phần rừng lá rộng khác tuổi (dẫn theo Trần Văn Con (1991)[6].
Người ta cũng có thể dùng các quá trình ngẫu nhiên để mô tả sinh trưởng của
lâm phần. Burner và Moser (1973) đã dùng quá trình Markov để mô phỏng sự
chuyển hoá cấp kính theo thời gian. Stephen và Waggoner (1970) cho rằng có thể


17

dùng mô hình Markov để mô phỏng sự biến đổi thành phần loài của một lâm phần
trong vòng 40 năm. Suzuki và Umemura (1974). Kouba, J. (1976) đã dùng chuỗi
Markov để dự báo phân bố số cây theo cấp kính trong tương lai và quá trình thay
đổi cấu trúc tuổi trong khi điều chế, dẫn theo Trần Văn Con (1991)[5].
Bên cạnh mô hình lâm phần người ta cũng có thể xây dựng các mô hình trên
cơ sở của từng cây cá thể. Về phương pháp luận thì cách làm này dễ và chính xác
hơn phương pháp mô tả chung cho lâm phần; tuy nhiên nó đòi hỏi một khối lượng
thông tin và tính toán lớn hơn nhiều. Ưu điểm nổi bật của mô hình từng cây là có
thể dễ dàng kết hợp với quá trình đào thải (tự nhiên, nhân tạo) hoặc sự tái sinh
thêm; và cũng thích hợp hơn để mô tả rừng hỗn loài. Do đó xu hướng sử dụng mô
hình từng cây đang tăng lên.
Người ta còn phân biệt mô hình phụ thuộc khoảng cách và mô hình không

phụ thuộc khoảng cách, ở loại mô hình phụ thuộc khoảng cách người ta đưa thêm
chỉ số cạnh tranh để đánh giá mức độ phụ thuộc giữa các các thể với nhau.
Cho dù sử dụng phương pháp nghiên cứu mô tả thực nghiệm, phương pháp
biểu đồ hay phương pháp mô hình hoá toán học thì điều quan trong nhất vẫn phụ
thuộc vào phương pháp thu thập số liệu. Phương pháp thu thập số liệu chính xác
nhất là thiết lập một hệ thống ô tiêu chuẩn định vị để theo dõi lâu dài các nhân tố
tạo thành cấu trúc của rừng. Tuy nhiên phương pháp này đòi hỏi phải có thời gian
nghiên cứu lâu dài và tốn nhiều công sức để theo dõi định kỳ. Trong một số trường
hợp, người nghiên cứu cần phải rút ngắn thời gian nghiên cứu để đưa ra những cơ
sở khoa học đáp ứng ngay yêu cầu sản xuất và người ta đã sử dụng hệ thống các ô
tiêu chuẩn tạm thời được thiết lập theo các cách rút mẫu khác nhau tuỳ theo mục
tiêu nghiên cứu. Cách cách rút mẫu chủ yếu là: hệ thống, ngẫu nhiên, điển hình
hoặc phối hợp giữa các phương pháp rút mẫu với nhau.
Tóm lại, việc mô hình hoá quá trình sinh trưởng của cây rừng được tiến hành
bằng nhiều hướng khác nhau, nhưng có thể xếp thành hai xu hướng chính. Xu
hướng thứ nhất tập trung mô tả sinh trưởng chung của lâm phần có chú ý đến các
đặc trưng động thái như quá trình sinh trưởng, tái sinh và quá trình chết tự nhiên,


18

hướng này về sau đã chi tiết đến các cấp kích thước và nhóm loài. Xu hướng thứ
hai là mô hình từng cây, là những mô hình rất chi tiết với một khối lượng tính toán
lớn, phức tạp, tuy nhiên nó đã trở thành hiện thực thông qua các tiến bộ của kỹ thuật
máy tính điện tử.
1.1.3. Các nghiên cứu về rừng khộp
Rừng Khộp là tên gọi chung cho các loại rừng thưa ưu hợp họ dầu, rụng lá
mùa khô (tiếng Pháp gọi là Forets Claires Dipterocarpacees; tiếng Anh là dry open
dipterocarps forest). Đây là một HSTR đặc trưng chỉ phân bố tự nhiên ở những lập
địa khô vùng Đông nam Châu Á như: Việt Nam, Lào, Căm Pu Chia, Thái Lan,

Mianmar và một phần nhỏ ở đông bắc Ấn Độ. Rừng Khộp được hình thành dưới
những điều kiện sinh thái cực kỳ khắc nghiệt: chúng ta có thể bắt gặp rừng Khộp ở
những nơi có khí hậu gió mùa với mùa khô kéo dài từ 5-6 tháng và tổng lượng mưa
năm không quá 1500mm, nằm trên độ cao từ 150-1300m, nhưng nhìn chung rừng
khộp thường phân bố ở độ cao không quá 1000m, tập trung trên các đai địa hình cao
nguyên tương đối bằng phẳng và trên các bình nguyên bị bào mòn với độ dốc không
quá 10 độ. Rừng Khộp có thành phần thực vật tương đối đơn giản và được đặc
trưng bởi 4 loài cây chính: Cà chắc (Shorea obtusa Wall), Cẩm liên (Shorea
siamensis, Miq.), Dầu trà beng (Dipterocarpus obtusifolius Teysm) và Dầu đồng
(Dipterocarpus tuberculatus Roxb). So với các kiểu rừng khác như rừng lá rộng
thường xanh, rừng thông… thì các nghiên cứu trước đây về rừng khộp còn rất ít,
nhất là những nghiên cứu trên địa bàn Tây Nguyên. Ngược dòng thời gian có thể kể
đến các nghiên cứu của Kurs (1897) ở Mianmar, Ryan và Keen (1911) ở bắc Thái
Lan, Champion (1936), Edward (1950) ở Ấn Độ và Mianmar, Maurand, Rollet
(1952), Vidal (1958) ở Đông dương (dẫn theo Vũ Biệt Linh và cộng sự (1998) [14].
Bunyavejchevin B. (1983) [40] nghiên cứu cấu trúc quần thụ của rừng khộp ở miền
Bắc, Tây Bắc và miền Tây Thái Lan đã chia thành 5 kiểu ưu hợp dựa vào các loài
ưu thế chính:
1. Ưu hợp Cẩm liên, được chia thành hai kiểu phụ: kiểu phụ dạng cây bụi và kiểu
phụ dạng cây vừa. Kiểu dạng cây bụi có mật độ cao nhưng tổng tiết diện ngang


19

thấp, trong khi kiểu dạng cây vừa thì mật độ thấp hơn, cây cao hơn và tổng tiết
diện ngang lớn hơn. Kiểu ưu hợp này phân bố ở các lập địa thấp nhất trên đất sét
cát chưa hàm lượng calcium cao và hàm lượng chất hữu cơ và nitơ vừa phải.
2. Ưu hợp cà chít chiếm ưu thế trên các lập địa dốc nhẹ đến dốc vừa ở nơi cao hơn
ưu hợp Cẩm liên. Đất dưới kiểu ưu hợp này biến động từ đất sét cát đến đất thịt
cát, hàm lượng chất hữu cơ và nitơ thấp. Ưu hợp này cũng chia thành hai kiểu

phụ: kiểu cây bụi và kiểu cây vừa.
3. Ưu hợp Trà beng-Cà chít chiếm lĩnh các sườn dốc ở cùng một độ cao với ưu hợp
Cà chít, một vài lâm phần có thể ởp độ cao cao hơn. Kiểu ưu hợp này có thành
phần loài phong phú hơn và thường ở trên đất sét với hàm lượng chất hữu cơ và
nitơ cao và tỷ trọng hạt thấp.
4. Ưu hợp Dầu đồng-Cà chít phân bố cao hơn, ở độ cao thấp hơn trên các lập địa
chứa hydro cũng là môi trường thích hợp cho kiểu ưu hợp này. Cây trong kiểu
ưu hợp này lớn hơn các kiểu ưu hợp khác. Đất thường là sét hàm lượng calcium
cao nhưng chất hữu cơ và nitơ thấp.
5. Ưu hợp Thông-Cây họ dầu cấu tạo bằng các cây vừa đến lớn phân bố từ độ cao
vừa đến cao. Đất cát với hàm lượng calcium cao ở tầng mặt. Kiểu ưu hợp này có thể
chia thành 4 kiểu phụ: Kiểu ưu hợp phụ Dầu đông-Cà chít-Thông nhựa ở độ cao
vừa, dốc mạnh; kiểu ưu hợp phụ Dầu đồng-Thông nhựa phân bố ở độ cao cao hơn
dốc nhẹ, đây là kiểu rừng có năng suất cao nhất. Ở độ cao cao nhất phổ biên kiểu ưu
hợp phụ Dầu Trà beng-Thông nhựa và Dầu trà beng-Thông ba lá. Cả hai kiểu phụ
này cùng trên một độ cao nhưng kiểu ưu hợp Dầu trà beng-Thông nhựa thường tốt
hơn ở địa hình bằng hoặc lượn sóng, trong khi kiểu ưu hợp Dầu trà beng-Thông ba
lá thường chiếm lĩnh nơi dốc. Các nghiên cứu của Khermark (1972)[43],
Kostermann (1985)[44], Kutintata (1975), Perset Sornsathapornkul (2002) [48] về
cấu trúc rừng khộp cũng cho các kết quả tương tự.


20

1.3. Nghiên cứu trong nước
1.3.1. Các nghiên cứu về tái sinh và diễn thế rừng
Tái sinh là một quá trình sinh học mang tính đặc thù của HSTR, mà biểu hiện
là sự xuất hiện một thế hệ cây con của những loài cây gỗ. Hiểu theo nghĩa hẹp, tái
sinh rừng là quá trình phục hồi thành phần cơ bản của rừng, chủ yếu là tầng cây gỗ.
Hay nói cách khác tái sinh rừng là quá trình sinh học quan trọng nhất trong đời sống

của rừng.
Phục hồi rừng bằng khoanh nuôi có nghĩa là lợi dụng tái sinh tự nhiên kết
hợp với tác động hợp lý của con người tạo ra một thế hệ mới có thành phần loài cây
đáp ứng mục đích kinh doanh và phù hợp với điều kiện tự nhiên, tạo ra HSTR ổn
định bền vững.
Tái sinh rừng mưa nhiệt đới có đặc điểm phân tán liên tục, ngoài ra còn có
tái sinh theo vệt. Rừng nhiệt đới Việt Nam thích hợp với cả hai kiểu tái sinh trên,
ngoài ra còn có hiện tượng nảy mầm đồng thời tạo ra một thế hệ rừng tiên phong
thuần loài, như rừng Sau Sau (Hữu Lũng - Lạng Sơn), rừng Bồ Đề (Phú Thọ)...
Tái sinh tự nhiên là qúa trình chủ yếu để phục hồi rừng qua các pha diến thế.
Có hai phương thức tái sinh tự nhiên:
1. Tái sinh liên lục dưới tán kín rậm của những loài chịu bóng thường thưa
thớt và yếu ớt vì thiếu áng sáng nên chỉ có một số ít cây thoát khỏi giai đoạn nguy
hiểm, ức chế kéo dài để chờ cơ hội vươn lên tầng cao cho thích hợp với nhu cầu
sinh thái;
2. Tái sinh theo vệt để hàn gắn những lỗ trống trong tán rừng do cây già đổ
rụi hay gió bão làm đổ gãy. Trên lỗ trống đó, trước hết sẽ mọc lên các loài cây tiên
phong ưa sáng, mọc nhanh. Dưới tán của các cây tiên phong, các loài cây định vị
trong thành phần quần thụ cũ thường đòi hỏi che bóng trong 1-2 năm đầu, sẽ mọc
sau và dần dần vươn lên thay thế những loài tiên phong tạm thời có tuổi thọ ngắn.
Quá trình tái sinh và diễn thế của rừng tự nhiên là những vấn đề hết sức quan
trọng trong nghiên cứu sinh thái rừng nhiệt đới. Mỗi sự phá hoại rừng nguyên sinh
đều dẫn đến quá trình diễn thế theo xu hướng trở lại trạng thái ban đầu. Sự thay đổi


21

như vậy thường được gọi là quá trính diễn thế thứ sinh, đây là một quá trình hết sức
phức tạp vì các hình thức, mức độ và thời kỳ phá hoại quần thể thực vật cũng như
sự thoái hoá của đất rừng cũng hết sức phức tạp. Theo Thái Văn Trừng (1970) [34],

(1978) [33], (1986) [32] thì có thể phân ra hai loại trong quá trình diễn thế thứ sinh:
(i) Trên đất rừng nguyên trạng; (ii) Trên đất rừng thoái hoá.
Trên đất rừng nguyên trạng, nếu thảm thực vật chỉ bị phá hoại một lần thì các
kiểu thảm thực vật sẽ phục hồi gần giống như các quần thể nguyên hay thứ sinh tự
nhiên ở một số khu vực nhất định. Nếu bị tác động nhiều lần trong quá trình diễn
thế thứ sinh thì tuỳ loại hình quần thụ nhưng thường là không biến đổi mấy về hình
dạng, còn về cấu trúc sẽ đơn giản và thành phần cây tái sinh gồm chủ yếu là những
loài cây tiên phong tạm cư hay tiên phong định cư và có rất nhiều loài định vị nên
không thể đạt độ ưu thế tương đối của rừng nguyên sinh. Trên loại đất rừng thoái
hoá, môi trường đã biến đổi, nhiều khi thảm thực vật rừng không phục hồi nguyên
trạng được nên sẽ phát sinh những kiểu thảm thực vật ở bậc thấp hơn kiểu khí hậu,
hay kiểu khí hậu thổ nhưỡng. Đây là loại diễn thế đi xuống, muốn rừng trở lại
nguyên trạng thì phải chờ thời gian dài để cải thiện chất lượng về mặt thổ nhưỡng.
Nghiên cứu tái sinh 9 loài cây gỗ có giá trị kinh tế (Táu mật, Dẻ, Re, Lim xanh, Cà
ổi, Sến, Xoay, Vàng tâm, Giổi) trên các trạng thái rừng khác nhau so với rừng giàu
chưa bị tác động nhận thấy số lượng cây tái sinh giảm rõ rệt: ở rừng nguyên sinh,
tổng số cây tái sinh mục đích đạt 2594 cây/ha, trong khi đó rừng IIIA2 số lượng
giảm xuống còn 1481 cây/ha, ở rừng IIIA1 chỉ còn là 750 cây/ha; trong đó có một
số loài hầu như rất ít gặp như Lim xanh, Re, Vàng tâm, Xoay, Sến. Tỷ lệ % so với
tổng số các loài cây tái sinh cũng giảm rõ rệt. Tuy nhiên, rừng ở Kon Hà Nừng còn
có trữ lượng cao và khai thác chọn mới được diễn ra trong vòng 10 năm thì sự thay
đổi trong tái sinh chưa xẩy ra mạnh.
Hoàng Văn Tuấn (2007) [30], khi nghiên cứu về đặc điểm tái sinh và động thái tái
sinh của HSTR lá rộng thường xanh vùng Tây bắc đã chỉ ra rằng: có một sự tích luỹ
số loài ở các lớp cây có kích thước lớn hơn so với các lớp cây dưới đó. Thực tế này
phản ánh kết quả của sự khác nhau về tốc độ sinh trưởng của các loài cây tái sinh và


22


tuỳ vào kích thước của lỗ trống được tạo ra trong tán rừng làm tiền đề cho quá trình
tái sinh. Trần Văn Con và cộng sự (2006) [7] đã chỉ ra rằng, động thái rừng có thể
được nghiên cứu bằng theo dõi các ô định vị qua nhiều năm. Kết quả phân tích tài
liệu thu thập được trong 3 năm từ các ô tiêu chuẩn định vị ở Kon Hà Nừng đã cho
thấy qui luật động thái của rừng. Biến động về số cây ở lớp cây tái sinh rất lớn, tỷ lệ
chết và tỷ lệ tái sinh vào cấp kính nhỏ nhất khá cao. Tỷ lệ chết cao nhất là ở lớp cây
tái sinh có D1,3 từ 1 đến 10cm (64%) chứng tỏ có một sự cạnh tranh rất lớn trong lớp
cây tái sinh này. Trong thời gian quan sát 3 năm, số cây chết trong tầng cây cao là
25 cây (chiếm 6%), trong đó chết chủ yếu ở cấp kính từ 10 - 20cm. Số cây từ lớp
cây tái sinh chuyển lên tầng cây cao là 28 cây. Số cây trong tầng cây cao chuyển lên
các cỡ kính cao hơn là 56 cây.
1.3.2. Các nghiên cứu về tăng trưởng rừng
Ở Việt Nam, nghiên cứu tăng trưởng rừng mới được bắt đầu từ những năm
đầu thập niên 50 của thế kỷ trước. Từ 1958-1960, các chuyên gia của Đức đã tiến
hành giải tích và nghiên cứu sinh trưởng cho một số loài cây rừng tự nhiên phục vụ
công tác điều tra và phân loại rừng một số vùng trọng điểm: Thanh Hoá, Thái
Nguyên, Bắc Giang, Quảng Ninh. Từ 1960 – 1965, các chuyên gia Trung Quốc và
cán bộ điều tra rừng Việt Nam phối hợp nghiên cứu tăng trưởng và sinh trưởng trên
20 loài cây phổ biến ở vùng Sông Hiếu, Nghệ An bằng phương pháp giải tích thân
cây tiêu chuẩn để phục vụ nhiệm vụ quy hoạch vùng trọng điểm phát triển Lâm
nghiệp của miền Bắc. Từ 1965 – 1975, vấn đề điều tra tăng trưởng được quan tâm
nhằm phục vụ công tác quy hoạch rừng, luận chứng kinh tế kỹ thuật, phát triển
trồng rừng và đào tạo cán bộ kỹ thuật lâm nghiệp ở miền Bắc Việt Nam. Bộ môn
Điều tra tăng trưởng được thành lập và bước đầu hoạt động nghiên cứu phục vụ sản
xuất có hiệu quả (Viện ĐTQH rừng, Viện nghiên cứu lâm nghiệp, Trường ĐHLN).
Đặc biệt phải kể đến công trình nghiên cứu tăng trưởng khá toàn diện cho đối tượng
rừng Mỡ trồng và Bồ đề tái sinh sau nương rẫy ở vùng trung tâm miền Bắc của Vũ
Đình Phương, Viêm Ngọc Hùng (1980) [20]. Giai đoạn sau năm 1975 đã bắt đầu có
các nghiên cứu tăng trưởng ở các loài cây trồng rừng nguyên liệu giấy, rừng gỗ trụ



23

mỏ như Thông, Mỡ, Bồ đề, Bạch đàn, Keo... và các loài cây rừng tự nhiên. Ngoài
tính toán tăng trưởng cây cá lẻ và lâm phần thuần loài theo từng vùng sinh thái, một
số nghiên cứu đã cố gắng xác định tăng trưởng lâm phần rừng tự nhiên hỗn giao
khác tuổi. Phương pháp thu thập tài liệu vẫn áp dụng các phương pháp truyền thống
như lập ô mẫu cố định để đo đếm định kỳ nhằm xác định tăng trưởng lâm phần, giải
tích cây (cưa thớt, khoan tăng trưởng, đẽo vát...), xác định tuổi và tăng trưởng cây
cá lẻ và tính toán tăng trưởng cho toàn bộ lâm phần. Phương pháp xử lý tính toán đã
tiến dần từ việc tính tăng trưởng bình quân từ một số cây mẫu bằng phương pháp
mô phỏng tăng trưởng theo các hàm toán học. Phương pháp này tránh được các sai
số do phân cấp thời gian, nắn tròn số lẻ, hoặc các sai số do sử dụng công thức gần
đúng. Hiện nay đã có biểu tăng trưởng cho khoảng 100 loài cây trồng rừng phổ biến
và loài cây rừng tự nhiên. Có thể nêu một số công trình nghiên cứu tiêu biểu sau
(Dẫn theo Cẩm nang Lâm nghiệp, chương Tăng trưởng rừng - Cục Lâm nghiệp và
GTZ (2006) [3].
Giai đoạn 1981-1985: Trịnh Khắc Mười (1993) [17] đã nghiên cứu qui luật tăng
trưởng làm cơ sở cho việc tỉa thưa, nuôi dưỡng rừng Thông nhựa vùng Thanh Nghệ
Tĩnh và vùng Đông Bắc trên cơ sở đo đếm 187 ô định vị và tạm thời, 481 cây giải
tích và khoan tăng trưởng.
Năm 1985: Vũ Đình Phương và cộng sự Viện Khoa học kỹ thuật Lâm nghiệp (nay
là Viện Nghiên cứu lâm nghiệp) đã nhiên cứu qui luật tăng trưởng của lâm phần
thuần loài và hỗn loài năng suất cao để làm cơ sở đưa ra các phương pháp kinh
doanh rừng hợp lý (đề tài 04010102a - Chương trình 04.01). Tài liệu nghiên cứu từ
50 ô tiêu chuẩn, mỗi ô có diện tích từ 0,25-1ha ở các khu rừng giàu tại Kon Hà
Nừng và lưu vực Sông Hiếu.
Nguyễn Ngọc Lung và Đào Công Khanh (1990) [16] nghiên cứu tăng trưởng và sản
lượng rừng trồng Thông ba lá dựa trên tài liệu thu thập từ 142 ô định vị và bán định
vị, 350 ô tiêu chuẩn tạm thời, 420 cây tiêu chuẩn theo cỡ kính, giải tích 242 cây

ngả, đo 548 bộ tán lá về diện tích và đường kính hình chiếu tán, đo đếm sinh khối


24

thân, cành, lá, rễ của 60 cây, sử dụng tài liệu 572 ô tròn, chặt trắng 4 ô tiêu chuẩn
100 x100m.
Năm 1998: Trần Quốc Dũng và các cộng sự Viện Điều tra qui hoạch rừng đã nghiên
cứu phân tích đánh giá tăng trưởng rừng thường xanh cây gỗ lá rộng vùng Bắc
Trung bộ dựa trên 587 cây giải tích của 27 loài ưu thế (dẫn theo [3]).
Năm 2000: Trần Quốc Dũng và các cộng sự Viện Điều tra qui hoạch rừng đã nghiên
cứu phân tích đánh giá tăng trưởng rừng thường xanh cây gỗ lá rộng vùng Bắc
Trung bộ dựa trên 1187 cây giải tích của 43 loài ưu thế (dẫn theo [3]).
Cũng năm 2000, Vũ Tiến Hinh và cộng sự thuộc trường Đại học Lâm nghiệp đã lập
biểu sinh trưởng và sản lượng cho 3 loài cây: sa mộc, mỡ và thông đuôi ngựa ở các
tỉnh phía Bắc và Đông Bắc Việt Nam [11].
Năm 2001: Đào Công Khanh và cộng sự thông qua đề tài nghiên cứu cấp Bộ, đã lập
biểu quá trình sinh trưởng và sản lượng cho rừng trồng các loài cây Bạch đàn
urophylla (Eucalyptus urophylla), Tếch (Techtona grangdis), Keo tai tượng (Acacia
mangium), Thông nhựa (Pinus merkusii), và kiểm tra biểu sản lượng các loài Đước
(Rhyzophora apiculata) và Tràm (Melaleuca leucadendra).
Năm 2004: Trần Quốc Dũng và các cộng sự Viện Điều tra qui hoạch rừng đã nghiên
cứu xây dựng một số chỉ tiêu tăng trưởng một số trạng thái rừng tự nhiên vùng
Đông Nam Bộ và Tây nguyên dựa trên 631 cây giải tích của 26 loài ưu thế của vùng
Đông Nam Bộ và 587 cây giải tích của 27 loài ưu thế của vùng Tây nguyên [3].
Giai đoạn 2001-2004: Đỗ xuân Lân (Viện Điều tra quy hoạch rừng) đã nghiên cứu
tăng trưởng rừng tự nhiên lá rộng thường xanh đã qua tác động. Đây là đề tài nghiên
cứu cấp Bộ.
Năm 2001-2005, nhóm đề tài do Đỗ Đình Sâm chủ trì đã xây được 1 số dạng
phương trình tăng trưởng đường kính lâm phần ở các vùng sinh thái và tính được

tăng trưởng rừng cho một số ô tiêu chuẩn trên các trạng thái rừng phổ biến hiện nay.
Trên cơ sở đó đã xác định đường kính thành thục để có thể khai thác của các loài
cây gỗ kinh doanh tuỳ thuộc tốc độ sinh trưởng và đặc tính sinh học của từng loài
trên các vùng sinh thái với hơn 60 loài ở Bắc Trung bộ, 22 loài ở Tây Nguyên và 18


25

loài ở Duyên Hải Nam trung bộ. Sắp xếp các loài cây theo tốc độ sinh trưởng
(chậm, trung bình, nhanh ) và kết hợp theo nhóm gỗ (Đỗ Đình Sâm và cộng sự
.,2007)[27].
Năm 2004-2006, nhóm nghiên cứu do Trần Văn Con chủ trì đã nghiên cứu bổ sung
qui luật sinh trưởng của chiều cao 20 loài cây thường được khai thác ở Tây Nguyên
cho phép phân thành ba nhóm theo đặc điểm sinh trưởng: (i): Các loài cây ưa bóng
giai đoạn đầu, sinh trưởng chiều cao trong 10 năm đầu rất chậm sau đó tăng dần lên
khi vượt lên được tầng cây cao để trở thành tầng trội. Đó là các loài: Xoay, Chò,
Cồng, Thạch đảm, Giẻ và Hoàng đàn. (ii) Các loài cây chịu bóng nhẹ (trung tính)
giai đoạn đầu, sinh trưởng chiều cao ở 10 năm đầu trung bình và tăng lên ở giai
đoạn sau đạt tầng cây cao ở tuổi thành thục. Đó là các loài: Re, Vạng, Vàng tâm,
Trám, Sến, Gội, Giổi và Cóc đá. (iii) Các loài cây ưa sáng, sinh trưởng chiều cao
giai đoạn đầu rất nhanh sau đó chậm lại và dừng lại rồi dừng lại ở tầng giữa của
rừng ổn định. Đó là các loài: Bời lời, Chân chim, Bứa, Côm, Gáo, và Trâm. Nghiên
cứu qui luật sinh trưởng đường kính đã xác định được đường kính tại đó tăng
trưởng đạt tối đa để làm căn cứ khoa học cho việc xác định đường kính khai thác tối
thiểu (Trần Văn Con và cộng sự., 2006) [7].
1.3.3. Các nghiên cứu về rừng Khộp
Ở Việt Nam, có các nghiên cứu của Schmid (1962) ở Buôn Ma Thuột, Rollet
(1952) ở Lang Hanh và của Nguyễn Tiến Hiệp (1960) ở Trảng Bom (dẫn theo Vũ
Biệt Linh và cộng sự., 1998) [14]. Nhìn chung các nghiên cứu này chủ yếu nặng về
phân loại rừng, mô tả thảm thực vật một cách định tính. Sau ngày miền Nam được

giải phóng (1975), do ý nghĩa quan trọng về kinh tế-xã hội và sinh thái, rừng Khộp
ở Tây Nguyên đã trở thành đối tượng của nhiều nhà nghiên cứu khoa học thuộc các
lĩnh vực khác nhau. Viện điều tra qui hoạch rừng (1983) đã công bố một loạt các kết
quả điều tra, nghiên cứu về tài nguyên rừng khộp ở Tây Nguyên. Về hệ thực vật
trong rừng khộp đã có các nghiên cứu của Phan Kế Lộc, Nguyễn Tiến Hiệp (1987)
[15], Nguyễn Bội Quỳnh, Trần Hợp, Đoàn Sỹ Hiên (1988) [23], Ngô Tiến Dũng
(2000) [9], 2004 [10]. Về đất, có các nghiên cứu của Tôn Thất Chiểu (1976),


×