Tải bản đầy đủ (.pdf) (87 trang)

Vi phạm điều kiện kết hôn của đồng bào dân tộc thiểu số ở khu vực tây bắc việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.06 MB, 87 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT

NGUYỄN THANH VÂN HẰNG

VI PHẠM ĐIỀU KIỆN KẾT HÔN CỦA ĐỒNG BÀO DÂN
TỘC THIỂU SỐ Ở KHU VỰC
TÂY BẮC VIỆT NAM

LUẬN VĂN THẠC SỸ LUẬT HỌC

HÀ NỘI, 2015

a


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT

NGUYỄN THANH VÂN HẰNG

VI PHẠM ĐIỀU KIỆN KẾT HÔN CỦA ĐỒNG BÀO DÂN
TỘC THIỂU SỐ Ở KHU VỰC
TÂY BẮC VIỆT NAM
Chuyên ngành:Luật Dân sự và Tố tụng dân sự
Mã số:60380103

LUẬN VĂN THẠC SỸ LUẬT HỌC

Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: T.S Nguyễn Phương Lan


HÀ NỘI, 2015

b


LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu
khoa học của riêng tôi. Các số liệu, ví dụ và
trích dẫn trong luận văn đảm bảo độ tin cậy,
chính xác và trung thực. Những kết luận khoa
học của luận văn chưa từng được ai công bố
trong bất kỳ công trình nào khác.

TÁC GIẢ LUẬN VĂN

Nguyễn Thanh Vân Hằng

c


DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT

- HN&GĐ: Hôn nhân và gia đình
- KHHGĐ: Kế hoạch hóa gia đình
- UBND: Ủy ban nhân dân
- TANDTC: Tòa án nhân dân tối cao
- Nghị

định


05/2011/NĐ-CP ngày 14/01/2011:

Nghị

định số

05/2011/NĐ-CP của Chính phủ về công tác dân tộc
- Nghị định số 126/2014/NĐ-CP ngày 31/12/2014: Nghị định số
126/2014/NĐ-CP của Chính phủ ngày 31/12/2014 quy định chi tiết một
số điều và biện pháp thi hành Luật HN&GĐ

d


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ........................................................................................................... 1
CHƢƠNG 1....................................................................................................... 7
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ VI PHẠM .................................. 7
ĐIỀU KIỆN KẾT HÔN .................................................................................... 7
1.1. Khái niệm kết hôn và điều kiện kết hôn ............................................... 7
1.1.1. Khái niệm kết hôn ........................................................................... 7
1.1.2. Khái niệm điều kiện kết hôn ........................................................... 9
1.2. Vi phạm điều kiện kết hôn.................................................................. 12
1.2.1. Khái niệm vi phạm điều kiện kết hôn ........................................... 12
1.2.2. Các trường hợp vi phạm điều kiện kết hôn .................................. 15
1.2.3. Hậu quả của việc vi phạm các điều kiện kết hôn ......................... 17
1.3. Điều kiện kinh tế - văn hóa - xã hội của đồng bào dân tộc thiểu số ở
khu vực Tây Bắc Việt Nam và ảnh hƣởng của nó tới việc vi phạm điều kiện
kết hôn .......................................................................................................... 20

1.3.1. Điều kiện tự nhiên, dân số và phân bố dân cư ............................. 22
1.3.2. Thu nhập, đời sống và tình hình đói nghèo .................................. 24
1.3.3. Y tế và chăm sóc sức khỏe sinh sản.............................................. 25
1.3.4. Văn hóa, phong tục tập quán, giáo dục, pháp luật ...................... 26
CHƢƠNG 2..................................................................................................... 31
THỰC TRẠNG VI PHẠM ĐIỀU KIỆN KẾT HÔN Ở ĐỒNG BÀO DÂN
TỘC THIỂU SỐ KHU VỰC TÂY BẮC VIỆT NAM ................................... 31
2.1. Vi phạm độ tuổi .................................................................................. 33
2.2. Vi phạm sự tự nguyện ........................................................................ 39
2.3. Ngƣời kết hôn bị mất năng lực hành vi dân sự .................................. 43
2.4. Vi phạm các trƣờng hợp cấm kết hôn, cấm chung sống nhƣ vợ chồng
45
2.4.1. Kết hôn, chung sống như vợ chồng vi phạm nguyên tắc hôn nhân
một vợ, một chồng ..................................................................................... 45

e


2.4.2. Các trường hợp vi phạm giữa những người luật cấm kết hôn hoặc
cấm chung sống như vợ chồng.................................................................. 46
2.5. Việc xác minh các điều kiện kết hôn thông qua thủ tục đăng ký kết hôn
51
CHƢƠNG 3..................................................................................................... 55
THỰC TIỄN ÁP DỤNG PHÁP LUẬT XỬ LÝ VI PHẠM ĐIỀU KIỆN KẾT
HÔN Ở ĐỒNG BÀO DÂN TỘC THIỂU SỐ KHU VỰC TÂY BẮC VIỆT
NAM VÀ MỘT SỐ KIẾN NGHỊ ................................................................... 55
3.1. Thực tiễn áp dụng pháp luật xử lý vi phạm điều kiện kết hôn ở đồng
bào dân tộc thiểu số khu vực Tây Bắc Việt Nam ........................................ 55
3.2. Kiến nghị hoàn thiện các quy định về điều kiện kết hôn ................... 63
3.3. Kiến nghị biện pháp nâng cao hiệu quả thực hiện các quy định về điều

kiện kết hôn ở đồng bào dân tộc thiểu số..................................................... 66
KẾT LUẬN ..................................................................................................... 71
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ........................................................ 72

f


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài nghiên cứu
Việt Nam - một đất nƣớc với hàng nghìn năm lịch sử, với bề dày giá trị
của một nền văn hóa tinh hoa, đậm đà bản sắc dân tộc. Tuy nhiên cũng phải
nhìn nhận một cách khách quan rằng cùng với thời gian, sự phát triển của điều
kiện kinh tế - xã hội cũng nhƣ những thay đổi trong tƣ duy nhận thức con
ngƣời ở nền văn minh hiện đại thì có nhiều yếu tố đã lỗi thời lạc hậu mà sự
tồn tại của nó vô hình chung đã kìm hãm sự phát triển của văn hóa nói riêng
và cả một quốc gia nói chung. Xét ở góc độ này thì những hủ tục vi phạm
điều kiện kết hôn nhƣ tảo hôn, kết hôn hoặc chung sống nhƣ vợ chồng giữa
những ngƣời gần gũi về huyết thống…thƣờng có ở đồng bào dân tộc thiểu số
là minh chứng rõ nét nhất.
Đến nay, mặc dù Luật HN&GĐ cùng các văn bản luật khác liên quan
đến dân tộc thiểu số, bảo vệ bà mẹ và trẻ em, quyền phụ nữ, bình đẳng
giới…đã ra đời và đi vào đời sống khá lâu, song hiệu quả trên thực tế chƣa đạt
đƣợc nhƣ mong muốn. Theo Báo cáo tổng quan tại Hội thảo thực trạng và
giải pháp về tảo hôn và hôn nhân cận huyết thống trong đồng bào dân tộc
thiểu số ngày 02/07/2013 thì kết quả điều tra trong 3 năm 2007 - 2009 cho
thấy dân tộc có nhiều trƣờng hợp tảo hôn cao tập trung ở vùng miền núi, nhƣ
miền núi phía Bắc: dân tộc Mông chiếm 33%, dân tộc Thái chiếm 23,1%, dân
tộc Mƣờng chiếm 15,8% tỷ lệ các cặp vợ chồng. Mặt khác, trung bình mỗi
năm ở nƣớc ta có thêm ít nhất là hơn 100 cặp vợ chồng cận huyết thống. Thực
tế và khoa học đã chứng minh tỷ lệ trẻ em mắc bệnh bẩm sinh về di truyền do

tảo hôn và từ các cặp vợ chồng cận huyết thống cao hơn so với những trẻ em
khác. Đó là một trong những nguyên nhân chính dẫn tới tử vong ở trẻ em, đẻ
non, sơ sinh nhẹ cân, dị dạng, dị tật, hoặc mang bệnh tật di truyền nhƣ mù
màu, bạch tạng, bệnh tan máu, bệnh “lùn”….Xuất phát từ hạn chế của điều

1


kiện tự nhiên – kinh tế – xã hội của một số vùng miền dẫn đến tình trạng vi
phạm các điều kiện kết hôn diễn ra khá phổ biến trong đồng bào dân tộc thiểu
số, điển hình là khu vực Tây Bắc nhƣ: Lai Châu, Hòa Bình, Lào Cai, Điện
Biên, Yên Bái...Điều này thể hiện sự thiếu hiểu biết, lạc hậu của một bộ phận
dân trí thấp, vừa mang sức nặng kìm hãm sự phát triển của giống nòi, của xã
hội.
Mục đích của pháp luật khi quy định về điều kiện kết hôn là nhằm đảm
bảo các nguyên tắc cơ bản của chế độ HN&GĐ, xây dựng gia đình hạnh phúc,
tiến bộ, xóa bỏ các hủ tục lạc hậu, bảo đảm sức khỏe, nòi giống con ngƣời.
Luật HN&GĐ năm 2014 ra đời đã sửa đổi, bổ sung các quy định về điều kiện
kết hôn phù hợp hơn với tình hình mới, nhƣng bên cạnh đó vẫn còn hạn chế
nhất định nhƣ tình trạng ngƣời đồng tính chung sống công khai mặc dù pháp
luật không cấm song cũng không đƣợc pháp luật thừa nhận thì xử lý thế nào
khi có tranh chấp xảy ra, vấn nạn tảo hôn, kết hôn hoặc chung sống nhƣ vợ
chồng cận huyết thống vẫn diễn ra phức tạp và để lại nhiều hệ lụy đau
lòng…Do đó, tác giả chọn đề tài “Vi phạm điều kiện kết hôn của đồng bào
dân tộc thiểu số ở khu vực Tây Bắc Việt Nam” – một vấn đề khoa học mang
tính xã hội cao,với những đặc trƣng về đối tƣợng, khu vực địa lý, tập quán,
nhằm góp phần nghiên cứu thực trạng vi phạm điều kiện kết hôn hiện nay,
đồng thời đề xuất một số kiến nghị hoàn thiện Luật HN&GĐ năm 2014 và
giải pháp nâng cao hiệu quả thực hiện pháp luật ở đồng bào dân tộc thiểu số.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài

Quyền kết hôn là một trong những quyền cơ bản của con ngƣời và các
quy định về điều kiện kết hôn mang ý nghĩa vô cùng quan trọng trong việc
đảm bảo quyền đấy. Chính vì thế, chế định kết hôn nói chung và điều kiện kết
hôn, vi phạm điều kiện kết hôn nói riêng đã thu hút rất nhiều tác giả nghiên
cứu. Trong quá trình nghiên cứu và hoàn thành luận văn này, tác giả đã tham

2


khảo, tìm hiểu một số bài viết có nội dung liên quan đến phạm vi nghiên cứu
của luận văn nhƣ sau:“Lợi ích và nguy cơ của sự loạn luận Hoàng tộc”,
David Dobbs; “Bí mật dòng họ Vua Tut”, Zahi Hawass; Khuất Thị Thu
Hạnh, Khoa Luật, Đại học Quốc gia Hà Nội, Luận văn thạc sĩ “Chế định kết
hôn theo Luật HN&GĐ năm 2000”, Hà Nội, 2009;Trần Thị Phƣơng Thảo,
Trƣờng Đại học Luật Hà Nội, Luận văn thạc sĩ: “Các điều kiện kết hôn theo
quy định của pháp luật Việt Nam hiện hành”, Hà Nội, 2014;Nguyễn Kim
Thoa, Khoa Luật, Đại học Quốc gia Hà Nội, Luận văn thạc sỹ: “Hoàn thiện
chế định kết hôn trong Luật Hôn nhân gia đình Việt Nam năm 2000”, Hà Nội,
2014;Vũ Thị Thu Huyền, Khoa Luật, Đại học Quốc gia Hà Nội, Luận văn
thạc sĩ: “Cấm kết hôn theo Luật HN&GĐ Việt Nam năm 2000”, Hà Nội,
2014;Ngô Thị Hƣờng, “Mấy vấn đề về quy định cấm kết hôn giữa những
người cùng giới tính”, Tạp chí Luật học, 2001;Bùi Thị Mừng, “Chế định kết
hôn trong pháp luật HN&GĐ Việt Nam qua các thời kỳ dưới góc nhìn lập
pháp”, Tạp chí Luật học, 2012;Các tham luận tại Hội thảo thực trạng và giải
pháp về tảo hôn và hôn nhân cận huyết thống trong đồng bào dân tộc thiểu số
ngày 02/07/2013 của Ủy ban Dân tộc nhƣ: “Tổng quan về tình trạng tảo hôn
và hôn nhân cận huyết thống trên thế giới và Việt Nam”, GS.TS Đặng Đức
Phú - Trung tâm truyền thông và sức khỏe, TSKH Trịnh Thị Kim Ngọc –
Viện HLKHXH Việt Nam; “Hệ lụy của tảo hôn và hôn nhân cận huyết thống
ở một số cộng đồng các dân tộc thiểu số ở Việt Nam”, PGS.TS Trần Văn

Phòng - Viện trƣởng Viện Triết học, Học viện Chính trị, Hành chính quốc gia
Hồ Chí Minh; “Tảo hôn và hôn nhân cận huyết thống dưới góc nhìn bình
đẳng giới”, Th.s Nguyễn Thị Tƣ – Vụ trƣởng Vụ Dân tộc thiểu số, Ủy ban
Dân tộc…
Tuy nhiên, các nghiên cứu trên đƣợc nhìn nhận và giải quyết vấn đề ở
các góc nhìn khác nhau, hay báo cáo, tham luận về một vấn nạn xã hội, mà

3


chƣa có bất kỳ đề tài khoa học nào nghiên cứu riêng về vấn đề vi phạm điều
kiện kết hôn ở nhóm đối tƣợng điển hình là đồng bào dân tộc thiểu số khu vực
Tây Bắc Việt Nam. Do đó, công trình này nghiên cứuvề vi phạm điều kiện kết
hôn ở đồng bào thiểu số từ góc độ pháp lý nên không trùng lắp với các công
trình trƣớc đó.
3. Mục tiêu nghiên cứu của đề tài
- Mục tiêu tổng quát
Mục tiêu tổng quát của đề tài là đƣa ra những kiến nghị hoàn thiện Luật
HN&GĐ năm 2014, đƣa ra những giải pháp cụ thể, mang tính khả thi nhằm
nâng cao hiệu quả thực thi các quy định pháp luật về điều kiện kết hôn ở đồng
bào thiểu số, nâng cao chất lƣợng giống nòi, tiến tới xây dựng xã hội văn
minh hiện đại.
- Mục tiêu cụ thể
Đề tài nghiên cứu nhằm đạt đƣợc những mục tiêu cụ thể sau:
Thứ nhất là làm rõ những vấn đề lý luận cơ bản về kết hôn, điều kiện kết
hôn, vi phạm điều kiện kết hôn và các nhân tố ảnh hƣởng đến vấn đề này.
Thứ hai là phân tích, đánh giá đƣợc thực trạng vi phạm điều kiện kết hôn ở
đồng bào dân tộc thiểu số khu vực Tây Bắc Việt Nam, từ đó đƣa ra một số kiến
nghị có giá trị về mặt khoa học và thực tiễn.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu

4.1. Đối tượng nghiên cứu
Luận văn nghiên cứu tập trung về việc thực hiện cũng nhƣ sự vi phạm
điều kiện kết hôn ở đồng bào dân tộc thiểu số khu vực Tây Bắc Việt Nam cộng đồng thƣờng có những hạn chế nhất định về đời sống cũng nhƣ nhận
thức pháp luật dẫn đến tình trạng vi phạm điều kiện kết hôn khá phổ biến.

4


4.2. Phạm vi nghiên cứu
Luận văn tập trung nghiên cứu các quy định về điều kiện kết hôn của
Luật HN&GĐ năm 2014, có sự so sánh với Luật HN&GĐ năm 2000.Vì Luật
HN&GĐ năm 2014 mới có hiệu lực nên thực trạng các trƣờng hợp vi phạm
điều kiện kết hôn trƣớc khi Luật HN&GĐ năm 2014 ra đời đƣợc nghiên cứu
xem xét trong thời gian Luật HN&GĐ năm 2000 có hiệu lực. Đồng thời
nghiên cứu vi phạm điều kiện kết hôn trong đồng bào dân tộc thiểu số trong
thời gian qua, trên cơ sở đó, đánh giá việc thực hiện các quy định về điều kiện
hôn ở đồng bào thiểu số vùng Tây Bắc để đƣa ra các đề xuất, kiến nghị phù
hợp
5. Phƣơng pháp nghiên cứu
Luận văn sử dụng một số phƣơng pháp cụ thể nhƣ: Phƣơng pháp phân
tích, tổng hợp, so sánh, đối chiếu, hệ thống, diễn giải, quy nạp ..để thực hiện
các mục tiêu đã đặt ra
6. Tính mới và đóng góp của luận văn
Là một đề tài khoa học giàu tính thực tiễn, đề tài “Vi phạm điều kiện
kết hôn của đồng bào dân tộc thiểu số ở khu vực Tây Bắc Việt Nam” sẽ
đem đến cái nhìn thực tế nhất đối với việc vi phạm điều kiện kết hôn ở đồng
bào dân tộc thiểu số, đồng thời đề xuất một số ý kiến sửa đổi, bổ sung về điều
kiện kết hôn trong Luật HN&GĐ năm 2014 cũng nhƣ đề xuất giải pháp nâng
cao hiệu quả thực hiện pháp luật ở đồng bào dân tộc thiểu số. Đây là những
điểm mới và đóng góp quan trọng của luận văn.

7. Kết cấu của Luận văn
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận và Danh mục tài liệu tham khảo, nội
dung của luận văn gồm 3 chƣơng:
Chƣơng 1. Một số vấn đề lý luận chung về vi phạm điều kiện kết hôn

5


Chƣơng 2. Thực trạng vi phạm điều kiện kết hôn ở đồng bào dân tộc
thiểu số khu vực Tây Bắc Việt Nam
Chƣơng 3. Thực tiễn áp dụng pháp luật xử lý vi phạm điều kiện kết hôn
ở đồng bào dân tộc thiểu số khu vực Tây Bắc Việt Nam và một số kiến nghị

6


CHƢƠNG 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ VI PHẠM
ĐIỀU KIỆN KẾT HÔN
1.1.

Khái niệm kết hôn và điều kiện kết hôn
Hôn nhân là cơ sở của gia đình và gia đình là tế bào của xã hội.Trong

mỗi chế độ xã hội thì gia đình đều thực hiện những chức năng cơ bản của nó.
Một trong những chức năng cơ bản của gia đình là nhằm tái sản xuất ra con
ngƣời, là quá trình duy trì nòi giống. Nếu không có sản xuất và tái sản xuất ra
con ngƣời thì xã hội không thể phát triển cũng nhƣ không thể tồn tại đƣợc.
Chính vì vậy hôn nhân là sự liên kết đặc biệt nhằm thực hiện chức năng đó
một cách có hiệu quả và Nhà nƣớc chính là chủ thể để thừa nhận. Hiến pháp

năm 2013 đã quy định tại Điều 36 nhƣ sau: “1. Nam, nữ có quyền kết hôn , ly
hôn. Hôn nhân theo nguyên tắc tự nguyện, tiến bộ, một vợ một chồng, vợ
chồng bình đẳng, tôn trọng lẫn nhau. 2. Nhà nước bảo hộ HN&GĐ, bảo hộ
quyền lợi của người mẹ và trẻ em”. Tại Điều 39 Bộ luật Dân sự năm 2005
cũng ghi nhận quyền kết hôn nhƣ là một quyền tự do của con ngƣời: “Nam,
nữ có đủ điều kiện kết hôn theo quy định của pháp luật về HN&GĐ có quyền
tự do kết hôn. Việc tự do kết hôn giữa những người thuộc các dân tộc, tôn
giáo khác nhau, giữa những người theo tôn giáo và không theo tôn giáo, giữa
công dân Việt Nam với người nước ngoài được tôn trọng và được pháp luật
bảo vệ”. Nhƣ vậy, có thể thấy rằng “kết hôn” là một quyền cơ bản mà mỗi
con ngƣời ai cũng có, nó cũng giống nhƣ quyền đƣợc sống, quyền đƣợc mƣu
cầu hạnh phúc… và quyền đó đƣợc pháp luật công nhận, đƣợc Nhà nƣớc bảo
vệ.
1.1.1. Khái niệm kết hôn
Nhìn từ góc độ xã hội học, quan hệ HN&GĐ là một hình thức của quan
hệ xã hội đƣợc xác lập giữa hai chủ thể nam và nữ, quan hệ này tồn tại và

7


phát triển theo quy luật của tự nhiên với mục đích đảm bảo sự sinh tồn, phát
triển của xã hội loài ngƣời. Ngay cả khi không có bất kỳ một quy tắc, một quy
định nào thì quan hệ HN&GĐ từ trƣớc đến nay vẫn đƣợc xác lập, con ngƣời
vẫn chung sống, vẫn sinh con đẻ cái và tiếp nối từ thế hệ này qua thế hệ khác.
Do đó, quyền kết hôn là một quyền tự nhiên, quyền con ngƣời. Tuy nhiên, trải
qua các giai đoạn lịch sử, với sự xuất hiện của các hình thái kinh tế xã hội
khác nhau, những quy tắc xã hội dần dần xuất hiện nhằm điều chỉnh những
quan hệ xã hội khách quan mang tính ý chí. Kết hôn không còn là một quyền
tự do, bản năng của con ngƣời mà trở thành một quan hệ xã hội đƣợc điều
chỉnh, tác động bởi những quan hệ về lợi ích của giai cấp thống trị. Khi ấy,

mới bắt đầu xuất hiện những quan niệm đầu tiên về hôn nhân hợp pháp hay
không hợp pháp. Trải qua các giai đoạn phát triển khác nhau của xã hội,
những yếu tố về kinh tế, chính trị, văn hóa đã dần đƣợc hình thành và tác
động trực tiếp tới các quy luật tự nhiên, điều chỉnh các mối quan hệ tự nhiên
đó theo những chuẩn mực mà xã hội đặt ra vì mục đích lợi ích của giai cấp
thống trị. Chỉ đến khi trong xã hội loài ngƣời có sự xuất hiện của pháp luật thì
quan hệ HN&GĐ từ một quan hệ tự nhiên mới chính thức đƣợc xem xét trên
khía cạnh một quan hệ pháp luật.Khi đó, quan hệ pháp luật hôn nhân gia đình
là những quan hệ ý chí và phụ thuộc chặt chẽ vào ý chí pháp luật hay chính là
những quy định pháp luật [62].
Dƣới góc độ pháp luật, trong hệ thống pháp luật trƣớc năm 1945 chƣa có
văn bản nào đề cập đến khái niệm “kết hôn”, chỉ đến Luật HN&GĐ năm 1986
mới đƣa ra giải nghĩa nhƣ sau: “Kết hôn là việc nam nữ lấy nhau thành vợ
chồng theo quy định của pháp luật. Việc kết hôn phải thuận theo các Điều 5,
6,7 và 8 của Luật HN&GĐ”. Đến Luật HN&GĐ năm 2000 khái niệm này
chính thức đƣợc định nghĩa tại khoản 2 Điều 8 và mới nhất là quy định tại
khoản 5 Điều 3 Luật HN&GĐ năm 2014: “Kết hôn là việc nam và nữ xác lập

8


quan hệ vợ chồng với nhau theo quy định của Luật này về điều kiện kết hôn
và đăng ký kết hôn”. Để đảm bảo tạo ra những tế bào tốt, những gia đình ổn
định, lành mạnh thì trƣớc hết ngay từ việc kết hôn của hai bên nam nữ đã phải
tuân thủ theo những điều kiện nhất định, sao cho cuộc hôn nhân đó đƣợc pháp
luật cũng nhƣ xã hội công nhận. Theo quy định của Luật HN & GĐ 2014 thì
nam nữ kết hôn đƣợc coi là hợp pháp khi đảm bảo hai yếu tố sau:
Thứ nhất, phải thể hiện ý chí của cả nam và nữ là mong muốn đƣợc kết
hôn với nhau, sự bày tỏ ý chí phải thống nhất với ý chí, bởi lẽ đây là điều kiện
đảm bảo cho hôn nhân có giá trị pháp lý đồng thời là cơ sở xây dựng gia đình

bền vững, hạnh phúc. Ý chí và mong muốn đó đƣợc thể hiện bằng lời khai
của họ trong tờ khai đăng ký kết hôn trƣớc cơ quan Nhà nƣớc có thẩm quyền.
Thứ hai, việc kết hôn phải đƣợc Nhà nƣớc thừa nhận. Hôn nhân chỉ đƣợc
Nhà nƣớc thừa nhận khi việc xác lập quan hệ hôn nhân mà cụ thể là việc kết
hôn phải tuân thủ các quy định của pháp luật về điều kiện kết hôn và đăng ký
kết hôn.
Nhƣ vậy khi kết hôn, hai bên nam nữ phải thể hiện và đảm bảo hai yếu tố
nêu trên mới đƣợc pháp luật thừa nhận và làm phát sinh quyền, nghĩa vụ vợ
chồng. Từ những phân tích trên có thể đƣa ra khái niệm kết hôn nhƣ sau: Kết
hôn là một sự kiện pháp lý nhằm xác lập quan hệ vợ chồng trên cơ sở các bên
đáp ứng đầy đủ điều kiện kết hôn do pháp luật quy định và được cơ quan Nhà
nước có thẩm quyền công nhận thông qua trình tự, thủ tục đăng ký kết hôn.
1.1.2. Khái niệm điều kiện kết hôn
Việc kết hôn luôn gắn liền với các điều kiện kết hôn.Đảm bảo đầy đủ các
điều kiện khi kết hôn là một trong những yếu tố không thể thiếu để công nhận
hôn nhân hợp pháp. Do đó, việc đƣa ra khái niệm đầy đủ và khái quát cho
thuật ngữ “điều kiện kết hôn” có ý nghĩa quan trọng. Nó vừa phản ánh đƣợc
bản chất pháp lý của hôn nhân, vừa tạo ra cơ sở lý luận cho việc áp dụng pháp

9


luật đúng đắn. Tính hợp pháp của việc kết hôn đƣợc xem xét ở hai khía cạnh:
điều kiện kết hôn và đăng ký kết hôn. Luật HN&GĐ năm 2014 quy định Điều
kiện kết hôn tại Điều 8, còn Đăng ký kết hôn đƣợc quy định tại Điều 9.Thông
qua thủ tục đăng ký kết hôn, cơ quan Nhà nƣớc có thẩm quyền xác minh điều
kiện kết hôn của hai bên nam nữ.
Các điều kiện kết hôn theo Luật HN&GĐ năm 2014 gồm:
- Điều kiện về độ tuổi quy định tại điểm a khoản 1 Điều 8: “Nam từ đủ
20 tuổi trở lên, nữ từ đủ 18 tuổi trở lên”, nghĩa là nam, nữ phải đạt đến độ

tuổi theo quy định pháp luật thì mới đƣợc phép kết hôn. Điểm b khoản 2 Điều
5 cấm hành vi “tảo hôn”, tảo hôn là việc lấy vợ, lấy chồng khi một hoặc cả hai
bên chƣa đủ tuổi kết hôn theo quy định tại điều khoản trên. Luật HN&GĐ
năm 2000 chỉ quy định độ tuổi kết hôn là nam từ 20 tuổi trở lên, nữ từ 18 tuổi
trở lên, cách tính tuổi ở đây, đối với nữ là sau ngày sinh nhật thứ 17, đối với
nam là sau ngày sinh nhật thứ 19 thì ngƣời đó có quyền kết hôn. Ví dụ : Một
anh A sinh ngày 1/2/1992 thì sau ngày sinh nhật thứ 19, nghĩa là sau ngày
1/2/2011 thì anh ta đã đủ độ tuổi kết hôn theo quy định của pháp luật. Đối với
nữ, nếu chị B sinh ngày 31/12/1992 thì sau sinh nhật thứ 17, nghĩa là sau ngày
31/12/2009 thì đủ tuổi kết hôn theo quy định của pháp luật. Tuy nhiên Luật
HN&GĐ năm 2014 bắt buộc nam phải từ đủ hai mƣơi trở lên và nữ phải từ đủ
mƣời tám tuổi trở lên.
- Điều kiện về ý chí tự nguyện của hai bên nam nữ khi kết hôn.Tự
nguyện là ý muốn, nguyện vọng của bản thân trong việc kết hôn mà không bị
ép buộc, chi phối bởi các yếu tố khác.Điểm b khoản 1 Điều 8 quy định: “Việc
kết hôn do nam và nữ tự nguyện quyết định”, điểm a, điểm b khoản 2 Điều 5
cấm các hành vi “kết hôn giả tạo”, “cƣỡng ép kết hôn, lừa dối kết hôn, cản trở
kết hôn”. Đây là các hành vi đi ngƣợc lại ý chí tự nguyện của hai bên nam, nữ.
Cƣỡng ép kết hôn là việc đe dọa, uy hiếp tinh thần, hành hạ, ngƣợc đãi, yêu sách

10


của cải hoặc hành vi khác để buộc ngƣời khác phải kết hôn trái với ý muốn của
họ. Cản trở kết hôn là việc đe dọa, uy hiếp tinh thần, hành hạ, ngƣợc đãi, yêu
sách của cải hoặc hành vi khác để ngăn cản việc kết hôn của ngƣời có đủ điều
kiện kết hôn theo quy định pháp luật trái với ý muốn của họ. Tuy nhiên, hành vi
kết hôn giả tạo hay lừa dối kết hôn lại hoàn toàn không dễ xác định. Vì vậy, cần
phải nhấn mạnh sự “tự nguyện” ở đây đƣợc hiểu là sự bày tỏ ý chí phải thống nhất
với ý chí. Các hành vi kết hôn giả tạo và lừa dối kết hôn không có sự thống nhất

giữa bày tỏ ý chí và mong muốn nguyện vọng đích thực. Hành vi đƣợc xem là kết
hôn giả tạo khi các bên kết hôn nhằm che giấu một mục đích khác mà không
nhằm mục đích xây dựng gia đình. Lừa dối kết hôn không đƣợc giải nghĩa trong
Luật HN&GĐ năm 2014 nhƣng đƣợc hiểu là hành vi cố ý của một bên nhằm làm
cho bên kia hiểu sai về nhân thân, hoàn cảnh nên đồng ý kết hôn hoặc đã hứa hẹn
làm việc gì đó có lợi cho bên kia làm bên kia đồng ý kết hôn. Trên thực tế, tình
trạng vi phạm hôn nhân tự nguyện vẫn diễn ra với vô vàn hình thức khác nhau,
khiến các nhà tƣ pháp đau đầu trong việc xử lý các vụ việc phức tạp đó.
- Điều kiện về năng lực hành vi dân sự của ngƣời kết hôn. Khoản 2 Điều
10 Luật HN&GĐ năm 2000 quy định ngƣời mất năng lực hành vi dân sự bị
“cấm kết hôn”, song Luật HN&GĐ năm 2014 lại đƣa quy định ngƣời kết hôn
“không bị mất năng lực hành vi dân sự” là điều kiện kết hôn “phải tuân thủ”
chứ không đƣa vào quy định “cấm”(Điều 8). Ngƣời mất năng lực hành vi dân
sự là ngƣời bị bệnh tâm thần hoặc mắc bệnh khác mà không thể nhận thức, làm
chủ đƣợc hành vi của mình. Tuy nhiên, một ngƣời chỉ bị coi là mất năng lực
hành vi dân sự khi có quyết định của Tòa án tuyên ngƣời đó mất năng lực hành
vi dân sự theo quy định của Bộ luật Dân sự. Quy định cấm ngƣời mất năng lực
hành vi dân sự kết hôn nhằm bảo đảm cho hôn nhân đƣợc thiết lập trên cơ sở tự
nguyện, bình đẳng. Ngƣời tham gia kết hôn phải là ngƣời nhận thức đƣợc hành
vi của mình, xác định đƣợc mục đích của hôn nhân khi kết hôn.

11


- Việc kết hôn không thuộc một trong các hành vi bị cấm đƣợc quy định
tại điểm c, điểm d khoản 2 Điều 5, ngoài ra Luật HN&GĐ năm 2014 cũng
quy định rõ các trƣờng hợp chung sống nhƣ vợ chồng, bao gồm cấm các hành
vi: ngƣời đang có vợ, có chồng mà kết hôn hoặc chung sống nhƣ vợ chồng
với ngƣời khác và ngƣợc lại; cấm kết hôn hoặc chung sống nhƣ vợ chồng
giữa những ngƣời cùng dòng máu về trực hệ; giữa những ngƣời có họ trong

phạm vi ba đời; giữa cha, mẹ nuôi hoặc từng là cha, mẹ nuôi với con nuôi;
cha chồng với con dâu, mẹ vợ với con rể, cha dƣợng với con riêng của vợ, mẹ
kế với con riêng của chồng. Hành vi chung sống nhƣ vợ chồng khi một hoặc
hai bên nam, nữ chƣa đủ tuổi kết hôn theo luật định cũng là hành vi bị
cấm.Đây cũng là điểm tiến bộ so với Luật HN&GĐ năm 2000. Luật HN&GĐ
năm 2000 chỉ quy định các trƣờng hợp cấm “kết hôn” nhƣng không quy định
cấm “chung sống nhƣ vợ chồng” đối với các trƣờng hợp đó. Điều này thể hiện
tính chặt chẽ trong Luật HN&GĐ năm 2014.Nhà nƣớc cũng không thừa nhận
hôn nhân giữa những ngƣời cùng giới tính.
Việc quy định các trƣờng hợp cấm kết hôn là cần thiết, đảm bảo trật tự
trong gia đình, xã hội; giữ gìn thuần phong mỹ tục, đạo đức truyền thống của
dân tộc Việt Nam; đảm bảo lợi ích hợp pháp của các bên trong quan hệ hôn
nhân.
Từ những phân tích nêu trên, tác giả đƣa ra khái niệm Điều kiện kết hôn
nhƣ sau: Điều kiện kết hôn là quy định của pháp luật về các điều kiện gắn với
nhân thân người kết hôn mà hai bên kết hôn cần phải đáp ứng, là cơ sở để cơ
quan Nhà nước có thẩm quyền công nhận việc kết hôn hợp pháp.
1.2. Vi phạm điều kiện kết hôn
1.2.1. Khái niệm vi phạm điều kiện kết hôn
Để có cách nhìn nhận đúng đắn khái niệm “vi phạm điều kiện kết hôn”,
cần phân biệt đƣợc khái niệm “vi phạm điều kiện kết hôn” và khái niệm “kết

12


hôn trái pháp luật”. Luật HN&GĐ năm 2014 đã giải nghĩa cụm từ “kết hôn
trái pháp luật” tại khoản 6 Điều 3, theo đó “kết hôn trái pháp luật là việc nam,
nữ đã đăng ký kết hôn tại cơ quan nhà nước có thẩm quyền nhưng một bên
hoặc cả hai bên vi phạm điều kiện kết hôn theo quy định tại Điều 8 của Luật
này”, khái niệm này đã bao hàm “vi phạm điều kiện kết hôn”. Từ đó dẫn đến

nhiều quan điểm, cách hiểu khác nhau.
Quan điểm thứ nhất cho rằng, khái niệm “kết hôn trái pháp luật” đồng
nghĩa với “vi phạm điều kiện kết hôn”, quan điểm này xuất phát từ cách hiểu
vi phạm điều kiện kết hôn là việc nam, nữ đã đăng ký kết hôn tại cơ quan nhà
nƣớc có thẩm quyền nhƣng một hoặc hai bên vi phạm điều kiện kết hôn
(không tuân thủ điều kiện kết hôn hoặc vi phạm các hành vi bị cấm) theo quy
định tại Điều 8. Kết hôn trái pháp luật là vi phạm điều kiện kết hôn, vi phạm
điều kiện kết hôn chính là kết hôn trái pháp luật. Do đó, đƣờng lối xử lý là
nhƣ nhau.
Quan điểm thứ hai không đồng nhất hai khái niệm “kết hôn trái pháp
luật” và “vi phạm điều kiện kết hôn”, theo đó, quan điểm này cho rằng khái
niệm vi phạm điều kiện kết hôn bao gồm cả trƣờng hợp nam, nữ chung sống
nhƣ vợ chồng không đăng ký kết hôn, trong đó một hoặc hai bên vi phạm điều
kiện kết hôn hoặc vi phạm các hành vi bị cấm theo quy định tại Điều 8. Vì
vậy, tùy từng trƣờng hợp, đƣờng lối xử lý là không giống nhau.
Theo Từ điển Tiếng Việt, “vi phạm” là không tuân theo hoặc làm trái lại
những điều đã đƣợc quy định. Nhƣ vậy “vi phạm điều kiện kết hôn” đƣợc
hiểu là không tuân theo hoặc làm trái lại các quy định về điều kiện kết hôn
đƣợc quy định trong Luật HN&GĐ. Khi kết hôn, các bên nam nữ phải tuân
thủ các điều kiện đƣợc pháp luật quy định, không vi phạm các trƣờng hợp
cấm kết hôn thì hôn nhân mới đƣợc coi là hợp pháp. Điều đó có nghĩa là, chỉ
khi tuân thủ các điều kiện kết hôn thì cuộc hôn nhân mới có giá trị pháp lý,

13


giữa các bên mới phát sinh và tồn tại quan hệ vợ chồng.Nếu các bên nam, nữ
quyết định kết hôn mà không tuân thủ các quy định của pháp luật về điều kiện
kết hôn thì sẽ không đƣợc cơ quan có thẩm quyền công nhận.
Mặt khác, Luật HN&GĐ năm 2014 không xem đăng ký kết hôn là một

trong những điều kiện kết hôn thuộc Điều 8, đây chỉ là một hình thức để kiểm
soát việc tuân theo các điều kiện kết hôn pháp luật đặt ra đối với các bên nam
nữ trong việc kết hôn. Nếu điều kiện kết hôn là điều kiện quy định của pháp
luật, đòi hỏi các bên chủ thể kết hôn phải thỏa mãn và điều kiện đó gắn với
nhân thân ngƣời kết hôn, thì đăng ký kết hôn là thủ tục, nghi thức pháp luật
quy định khi cơ quan có thẩm quyền công nhận việc kết hôn của các bên nam
nữ, và nó nằm ngoài chủ thể kết hôn. Nhƣ vậy, vi phạm điều kiện kết hôn chỉ
là vi phạm về mặt nội dung đƣợc quy định tại Điều 8, không bao hàm việc
đăng ký kết hôn. Vi phạm trình tự, thủ tục đăng ký kết hôn không phải là vi
phạm điều kiện kết hôn.
Trƣờng hợp nam, nữ chung sống với nhau nhƣ vợ chồng mà không
đăng ký kết hôn thì đƣợc hiểu là việc “nam, nữ tổ chức cuộc sống chung và
coi nhau là vợ chồng” (khoản 7 Điều 3 Luật HN&GĐ năm 2014). Có hai
trƣờng hợp chung sống nhƣ vợ chồng: trƣờng hợp thứ nhất là hai bên nam, nữ
chung sống nhƣ vợ chồng đủ điều kiện kết hôn theo quy định nhƣng không
đăng ký kết hôn, hành vi chung sống này không vi phạm pháp luật. Trƣờng
hợp thứ hai là hai bên nam, nữ chung sống nhƣ vợ chồng vi phạm điều kiện
kết hôn, vi phạm các hành vi cấm chung sống theo quy định, hành vi chung
sống này là hành vi vi phạm pháp luật.
Nhƣ vậy, các bên nam nữ vi phạm điều kiện kết hôn khi thuộc hai trƣờng
hợp: Một là các bên đã đăng ký kết hôn, xác lập quan hệ vợ chồng nhƣng một
trong hai bên hoặc cả hai bên vi phạm điều kiện kết hôn; Hai là các bên chung
sống với nhau nhƣ vợ chồng nhƣng vi phạm điều kiện kết hôn hoặc vi phạm

14


các trƣờng hợp cấm chung sống nhƣ vợ chồng do pháp luật quy định. Do đó,
cách hiểu về “vi phạm điều kiện kết hôn” theo quan điểm thứ hai là hợp lý.
Từ phân tích trên có thể hiểu khái niệm: vi phạm điều kiện kết hôn là việc

nam, nữ xác lập quan hệ vợ chồng có đăng ký kết hôn hoặc chung sống như
vợ chồng nhưng vi phạm điều kiện kết hôn hoặc vi phạm các trường hợp cấm
chung sống như vợ chồng theo quy định của pháp luật.
1.2.2. Các trường hợp vi phạm điều kiện kết hôn
 Vi phạm độ tuổi
Theo Luật HN&GĐ năm 2014 thì độ tuổi kết hôn phải là "Nam từ đủ
hai mươi tuổi trở lên, nữ từ đủ mười tám tuổi trở lên".Đây là điểm mới so với
Luật HN&GĐ năm 2000. Nhƣ vậy, vi phạm độ tuổi là trƣờng hợp một trong
hai bên hoặc cả hai bên nam nữ lấy chồng, lấy vợ khi chƣa đạt đến tuổi quy
định. Tảo hôn là trƣờng hợp lấy vợ, lấy chồng (kết hôn hoặc tổ chức cƣới hỏi,
chung sống nhƣ vợ chồng) vi phạm về độ tuổi.
Ngày nay, xã hội đã có những bƣớc phát triển lớn, cách nhìn nhận của
con ngƣời về hôn nhân, gia đình đã đúng đắn hơn rất nhiều. Hiện tƣợng vi
phạm điều kiện kết hôn về độ tuổi phần lớn chỉ còn tồn tại ở một số dân tộc
thiểu số. Đƣờng lối xử lý cũng hết sức mềm dẻo căn cứ vào tình trạng thực tế
của từng trƣờng hợp vi phạm.
 Vi phạm sự tự nguyện
Kết hôn là một sự kiện pháp lý làm phát sinh quan hệ hôn nhân giữa hai
chủ thể nam nữ đƣợc Luật HN&GĐ ghi nhận và quy định những điều kiện
riêng.Một trong số những điều kiện đó là sự tự nguyện của các bên nam nữ
khi kết hôn. Trái ngƣợc với sự tự nguyện đó chính là những hành vi cƣỡng ép,
cản trở, kết hôn giả tạo hoặc lừa dối kết hôn, đây là các hành vi vi phạm sự tự
nguyện. Hôn nhân tự nguyện là nguyên tắc cơ bản không chỉ đƣợc ghi nhận
trong pháp luật Việt Nam mà pháp luật hầu hết các nƣớc phát triển, văn minh

15


trên thế giới đều ghi nhận điều kiện này. Điều 146 Bộ luật Dân sự Cộng hòa
Pháp ghi nhận: “Không có hôn nhân khi không có sự tự nguyện”.

 Kết hôn với ngƣời bị mất năng lực hành vi dân sự
Điều kiện về năng lực hành vi dân sự của ngƣời kết hôn, đó là ngƣời
kết hôn “không bị mất năng lực hành vi dân sự” theo điểm c khoản 1 Điều 8.
Ngƣời mất năng lực hành vi dân sự không thể thể hiện ý chí khi tham gia kết
hôn, do đó không đảm bảo đƣợc ý chí tự nguyện khi đăng ký kết hôn. Nhƣ
vậy, pháp luật không công nhận việc kết hôn với ngƣời bị mất năng lực hành
vi dân sự. Có thể nói quy định này là hết sức cần thiết, phù hợp với quy luật
tự nhiên của quan hệ hôn nhân, đảm bảo hạnh phúc thực sự của gia đình.
 Vi phạm các trƣờng hợp cấm kết hôn hoặc cấm chung sống nhƣ vợ
chồng
Khoản 1 Điều 2 Luật HN&GĐ năm 2014 đã khẳng định một trong
những nguyên tắc của hôn nhân đó là hôn nhân một vợ - một chồng. Vì vậy,
điểm c khoản 2 Điều 5 quy định cấm ngƣời nào đang có vợ, có chồng mà kết
hôn hoặc chung sống nhƣ vợ chồng với ngƣời khác hoặc chƣa có vợ, chƣa có
chồng mà kết hôn hoặc chung sống nhƣ vợ chồng với ngƣời đang có chồng,
có vợ.
Tại điểm d khoản 2 Điều 5 Luật HN&GĐ năm 2014 quy định: "Kết hôn
hoặc chung sống như vợ chồng giữa những người cùng dòng máu về trực hệ,
giữa những người có họ trong phạm vi ba đời; Giữa cha, mẹ nuôi với con
nuôi; giữa những người đã từng là cha, mẹ nuôi với con nuôi, cha chồng với
con dâu, mẹ vợ với con rể, cha dượng với con riêng của vợ, mẹ kế với con
riêng của chồng". Xét về mặt khoa học, việc cấm kết hôn hoặc cấm chung
sống nhƣ vợ chồng giữa những ngƣời có quan hệ huyết thống để nhằm đảm
bảo cho sự phát triển khỏe mạnh của con cái, sự phát triển bền vững và hạnh
phúc của gia đình. Xét về yếu tố phong tục, tập quán và những quy định về

16


chuẩn mực đạo đức, chuẩn mực văn hóa theo xã hội Việt Nam, thì việc cấm

những ngƣời có quan hệ huyết thốngkết hôn, chung sống nhƣ vợ chồng với
nhau còn có tác dụng làm lành mạnh các mối quan hệ trong gia đình, phù hợp
với đạo đức và truyền thống từ xƣa đến nay của dân tộc Việt Nam. Ngày nay,
hiện tƣợng kết hôn, chung sống nhƣ vợ chồng cận huyết thống vẫn tồn tại ở
một số dân tộc thiểu số và vẫn là một vấn đề vô cùng nhức nhối.
 Kết hôn giữa những ngƣời cùng giới tính
Hôn nhân giữa những ngƣời cùng giới tính là hôn nhân giữa hai ngƣời
có cùng giới tính sinh học (bao gồm cả đồng tính nữ và đồng tính nam).
Những ngƣời đồng tính là những ngƣời có sự hấp dẫn tình yêu và tình dục với
những ngƣời cùng giới tính một cách lâu dài và cố định.Luật HN&GĐ năm
2000 quy định cấm kết hôn giữa những ngƣời cùng giới tính, và vì cấm nên đi
kèm sẽ có chế tài, xử phạt, bởi lẽ một trong những chức năng quan trọng của
gia đình đó chính là chức năng sinh sản. Mà chức năng này chỉ có thể đƣợc
thực hiện bởi hai chủ thể khác nhau về giới tính.Luật HN&GĐ năm 2014 bỏ
quy định “cấm kết hôn giữa những người cùng giới tính” nhƣng quy định cụ
thể “không thừa nhận hôn nhân giữa những người cùng giới tính" (khoản 2
Điều 8). Theo nhƣ quy định hiện hành thì những ngƣời cùng giới tính có thể
chung sống với nhau, không vi phạm pháp luật, tuy nhiên sẽ không đƣợc pháp
luật thừa nhận quan hệ vợ chồng về mặt pháp lý.
1.2.3. Hậu quả của việc vi phạm các điều kiện kết hôn
Hậu quả của việc vi phạm điều kiện kết hôn không chỉ ảnh hƣởng đến
bản thân ngƣời vi phạm, con cái, gia đình mà rộng hơn là xã hội.
Trƣớc hết, việc lấy vợ lấy chồng sớm khi chƣa đủ tuổi kết hôn ảnh
hƣởng đến thể chất và tâm sinh lý của các em, nhất là các em gái. Khi chƣa đủ
tuổi trƣởng thành, cơ thể chƣa phát triển hoàn thiện, việc quan hệ tình dục
sớm, mang bầu, rồi nuôi con khiến sự phát triển đầy đủ của ngƣời phụ nữ bị

17



chậm lại, thoái hoá, nhiều trƣờng hợp để lại di chứng nặng nề, thậm chí có
nhiều trƣờng hợp tử vong. Việc phải nuôi con khi chƣa đủ sức khoẻ, thiếu
hiểu biết gây ra hậu quả là những em bé bị suy dinh dƣỡng, còi cọc, dễ mắc
bệnh. Trên thực tế nhiều trƣờng hợp trẻ sơ sinh do các bà mẹ đang tuổi vị
thành niên sinh ra tỷ lệ tử vong cao hơn hoặc nhẹ hơn thì làm cho đứa trẻ bị
ảnh hƣởng xấu đến thể chất và tƣ duy. Nhiều trƣờng hợp các cặp vợ chồng lập
gia đình khi tuổi đời còn quá trẻ, suy nghĩ, nhận thức chƣa sâu sắc, dễ xảy ra
mâu thuẫn, cãi vã, thậm chí đánh đập nhau rồi ai đi đƣờng nấy.
Thứ hai, kết hôn với ngƣời mất năng lực hành vi dân sự hay hôn nhân
giữa những ngƣời cùng giới tính tuy không phải là hiện tƣợng phổ biến trong
xã hội nhƣng lại là vấn đề gây nhiều tranh cãi bởi những hệ lụy phức tạp nó
mang lại, ảnh hƣởng tiêu cực đến đạo đức truyền thống cũng nhƣ các chuẩn
mực gia đình. Có trƣờng hợp bố chồng chung sống nhƣ vợ chồng với con dâu
và dùng việc kết hôn giữa con dâu và con trai bị mắc bệnh tâm thần để che
giấu mối quan hệ, chỉ đến khi vụ việc bị trình báo lên cơ quan có thẩm quyền
thì mới xác minh ngƣời chồng bị mất năng lực hành vi dân sự. Có trƣờng hợp
ngƣời nhà lại che giấu tình trạng bệnh tâm thần của con và để con lấy vợ với
tâm lý muốn có ngƣời nối dõi, khiến ngƣời vợ phải chịu đựng nhiều trận hành
hung mỗi lần chồng phát bệnh…Đây là những trƣờng hợp bi kịch trên thực tế.
Đối với vấn đề hôn nhân giữa những ngƣời cùng giới tính, bên cạnh những
quan điểm ủng hộ thì nhiều quan điểm cho rằng kiểu gia đình này thƣờng có
những khiếm khuyết (trẻ em thiếu cha hoặc mẹ nên dễ gặp tổn thƣơng tâm lý
và lệch lạc hành vi, hạnh phúc gia đình thƣờng không bền vững), không có
khả năng duy trì nòi giống, làm sụt giảm giá trị của hôn nhân trong văn hóa xã
hội, thúc đẩy tình trạng làm cha/mẹ đơn thân..., do vậy nếu chấp thuận và để
nó nhân rộng thì sẽ gây ảnh hƣởng cho xã hội và đặc biệt là trẻ em.

18



Thứ ba, những cuộc hôn nhân không xuất phát từ sự tự nguyện dễ dẫn
đến hậu quả là đổ vỡ hạnh phúc gia đình. Xuất phát từ chỗ tình yêu đƣợc coi
là cơ sở của hôn nhân cho nên việc quyết định lựa chọn bạn đời và đi đến hôn
nhân phải là việc của bản thân hai bên nam nữ, do đó nam nữ đƣợc tự do bày
tỏ ý chí đồng ý hay không đồng ý xác lập quan hệ hôn nhân với ngƣời kia.
Trong nhiều trƣờng hợp ngƣời kết hôn bị cƣỡng ép, bị cản trở làm nảy sinh
tính tiêu cực: ngƣời bị cƣỡng ép, bị cản trở kết hôn có các hành vi chống đối
lại nhƣ tự tử, bỏ nhà ra đi…Khi hai bên nam nữ không có sự gắn kết về tình
cảm, không tự nguyện khi kết hôn thì việc kết hôn có thể dẫn đến nhiều hậu
quả nghiêm trọng nhƣ ngoại tình, chung sống không hòa hợp, nảy sinh nhiều
mâu thuẫn, mục đích hôn nhân không đạt đƣợc. Đây là hậu quả đi ngƣợc lại
với tinh thần của Luật HN&GĐ.
Thứ tƣ, việc vi phạm các trƣờng hợp cấm kết hôn hoặc cấm chung sống
nhƣ vợ chồng không chỉ vi phạm pháp luật mà còn vi phạm đạo đức, lối sống,
thuần phong mỹ tục của ngƣời Việt, làm đảo lộn trật tự gia đình, làm suy đồi
các giá trị văn hóa, con ngƣời. Riêng hợp tảo hôn, kết hôn hoặc chung sống
nhƣ vợ chồng cận huyết thống còn gây ra hậu quả nghiêm trọng tới chất
lƣợng giống nòi, chất lƣợng dân số. Trẻ em sinh ra từ các cặp vợ chồng cận
huyết thống dễ có nguy cơ mắc các bệnh di truyền nhƣ mù màu, bạch tạng, da
vảy cá… đặc biệt là bệnh tan máu bẩm sinh (Thalassemia).
Tóm lại, vi phạm điều kiện kết hôn gây ra nhiều hậu quả xấu đối với
bản thân ngƣời vi phạm, rộng hơn là với con cái, gia đình, xã hội. Do đó, việc
bảo đảm thực thi các quy định của pháp luật về điều kiện kết hôn là hết sức
cần thiết, nhằm góp phần bảo vệ chế độ HN&GĐ, xây dựng chuẩn mực pháp
lý cho cách ứng xử của các thành viên trong gia đình, nâng cao chất lƣợng
giống nòi, bảo đảm trật tự xã hội, phát huy các truyền thống tốt đẹp của dân
tộc, xây dựng gia đình tiến bộ, ấm no, hạnh phúc, bền vững.

19



×