Tải bản đầy đủ (.pdf) (103 trang)

Vai trò của tòa án trong tố tụng trọng tài thương mại quốc tế thực tiễn ở việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.07 MB, 103 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT

NGUYỄN MẠNH THỌ

VAI TRÒ CỦA TÒA ÁN TRONG TỐ TỤNG TRỌNG TÀI
THƢƠNG MẠI QUỐC TẾ. THỰC TIỄN Ở VIỆT NAM

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

HÀ NỘI - 2015

1


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT

NGUYỄN MẠNH THỌ

VAI TRÒ CỦA TÒA ÁN TRONG TỐ TỤNG TRỌNG TÀI
THƢƠNG MẠI QUỐC TẾ. THỰC TIỄN Ở VIỆT NAM
Chuyên ngành : Luật quốc tế
Mã số

: 60 38 01 08

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

Người hướng dẫn khoa học: TS. Nguyễn Lan Nguyên


HÀ NỘI - 2015

2


Lời cam đoan

Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên
cứu khoa học của riêng tôi. Các số liệu, ví dụ và
trích dẫn trong luận văn đảm bảo độ tin cậy, chính
xác và trung thực. Những kết luận khoa học của
luận văn ch-a từng đ-ợc ai công bố trong bất kỳ
công trình nào khác.

Tác giả luận văn

Nguyễn Mạnh Thọ

3


MỤC LỤC
Trang
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Mục lục
Danh mục các từ viết tắt
Danh mục các bảng
Danh mục các biểu đồ
1


MỞ ĐẦU

Chương 1:

NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ TRỌNG TÀI

6

THƢƠNG MẠI QUỐC TẾ VÀ VAI TRÒ CỦA TÒA ÁN
TRONG TỐ TỤNG TRỌNG TÀI THƢƠNG MẠI QUỐC TẾ

1.1.

Khái quát về Trọng tài thương mại quốc tế và vai trò của tòa

6

án trong tố tụng Trọng tài thương mại quốc tế
1.1.1. Khái niệm và đặc điểm của Trọng tài thương mại quốc tế

6

1.1.2. Vai trò của Tòa án trong tố tụng Trọng tài thương mại quốc tế

13

1.1.3. Ưu điểm và hạn chế của tố tụng Trọng tài so với tố tụng Tòa án

17


1.2.
Các hình thức Trọng tài thương mại quốc tế
1.2.1. Trọng tài quy chế (Trọng tài thường trực)

19
19

1.2.2. Trọng tài vụ việc (Ad-hoc Arbitration)

21

Chương 2: TỔ CHỨC VÀ HOẠT ĐỘNG CỦA MỘT SỐ TRỌNG TÀI

23

THƢƠNG MẠI QUỐC TẾ TRÊN THẾ GIỚI VÀ THỰC
TIỄN VAI TRÒ CỦA TÒA ÁN TRONG TỐ TỤNG TRỌNG
TÀI THƢƠNG MẠI QUỐC TẾ TẠI VIỆT NAM

2.1.

Tổ chức và hoạt động của một số Trọng tài thương mại quốc

23

tế trên thế giới
2.2.

Thủ tục tố tụng trọng tài


37

2.3.

Thực tiễn vai trò của tòa án trong tố tụng Trọng tài thương

49

mại quốc tế tại Việt Nam
2.3.1. Vai trò của Tòa án trong tố tụng trọng tài thương mại theo
Luật Trọng tài thương mại Việt Nam

4

49


2.3.2. Thực tiễn thi hành Luật Trọng tài thương mại Việt Nam về

57

vai trò của Tòa án đối với tố tụng Trọng tài thương mại
Chương 3:

MỘT SỐ BẤT CẬP KHI ÁP DỤNG LUẬT TRỌNG TÀI

71

THƢƠNG MẠI VIỆT NAM VÀ GIẢI PHÁP, KIẾN NGHỊ

HOÀN THIỆN CÁC QUY ĐỊNH PHÁP LUẬT VỀ VAI
TRÒ CỦA TÒA ÁN TRONG TỐ TỤNG TRỌNG TÀI
THƢƠNG MẠI QUỐC TẾ TẠI VIỆT NAM

3.1.

Một số bất cập khi áp dụng Luật Trọng tài thương mại Việt

71

Nam về vai trò của Tòa án đối với tố tụng trọng tài
3.1.1. Về khiếu nại quyết định của Hội đồng trọng tài về thỏa thuận

71

trọng tài vô hiệu, thỏa thuận Trọng tài không thể thực hiện
được, thẩm quyền của Hội đồng trọng tài
3.1.2. Về khái niệm "Trọng tài nước ngoài"

73

3.1.3. Về lệ phí yêu cầu Tòa án giải quyết một số loại việc liên quan

75

đến hoạt động Trọng tài thương mại
3.1.4. Về các biện pháp khẩn cấp tạm thời trong tố tụng Trọng tài

75


3.1.5. Về việc hủy phán quyết Trọng tài

78

3.1.6. Về việc xem xét lại quyết định của Tòa án hủy hoặc không

81

hủy phán quyết trọng tài theo thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm
3.2.

Giải pháp, kiến nghị hoàn thiện các quy định pháp luật về vai trò

83

của Tòa án trong tố tụng Trọng tài thương mại quốc tế tại Việt Nam
3.2.1. Tiếp tục hoàn thiện về thể chế về Trọng tài thương mại và

83

triển khai thực hiện các văn bản pháp luật hiện hành về Trọng
tài thương mại
3.2.2. Tăng cường năng lực đội ngũ Trọng tài viên và Trung tâm Trọng

84

tài nhằm nâng cao chất lượng giải quyết tranh chấp thương mại
3.2.3. Tăng cường hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước về Trọng tài
thương mại


85

KẾT LUẬN

91

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

93

5


DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT

GQTC

: Giải quyết tranh chấp

HĐTT

: Hội đồng trọng tài

PQTT

: Phán quyết trọng tài

TTTM

: Trọng tài thương mại


TTTMQT

: Trọng tài thương mại quốc tế

TTV

: Trọng tài viên

VIAC

: Trung tâm Trọng tài quốc tế Việt Nam

6


DANH MỤC CÁC BẢNG

Số hiệu

Tên bảng

Trang

Số lượng và trình độ chuyên môn của TTV của các Trung

59

bảng
2.1


tâm Trọng tài
2.2

Tình hình ban hành và thực thi PQTT của các Trung tâm

61

Trọng tài (Thời gian từ 01/01/2011 đến 30/12/2014)
2.3

Bảng thống kê thụ lý và giải quyết các vụ việc về Trọng tài

63

2.4

Thống kê sự hỗ trợ của Tòa án đối với hoạt động Trọng

65

tài (Thời gian kể từ 01/01/2011 đến 30/06/2014)

DANH MỤC CÁC BIỂU ĐỒ

Số hiệu

Tên biểu đồ

Trang


Số liệu thống kê vụ tranh chấp giải quyết tại VIAC từ

62

biểu đồ
2.1

1993-2014
2.2

Số liệu thống kê vụ tranh chấp giải quyết tại Tòa án từ
2006-2013

7

62


MỞ ĐẦU
1. Cơ sở khoa học và thực tiễn của đề tài
Với sự phát triển của thương mại quốc tế, các doanh nhân phải tiếp
xúc với các đối tác, quốc gia, nền văn hóa và tập quán thương mại mới, cơ hội
mới đồng thời cũng mang đến cho doanh nghiệp những rủi ro mới; chính vì
vậy, hiện nay, phương thức giải quyết tranh chấp (GQTC) được thừa nhận là
một bộ phận quan trọng trong việc kiểm soát rủi ro liên quan đến quá trình
hoạt động. Giao dịch thương mại tất yếu dẫn đến tranh chấp, nhưng nếu đó là
các giao dịch thương mại quốc tế thì khó khăn càng tăng thêm do liên quan
đến nhiều hệ thống pháp luật, truyền thống pháp lý, thủ tục tố tụng và ngôn
ngữ khác nhau. Phương thức GQTC bằng Tòa án là phương thức GQTC hữu

hiệu nhất mà các bên lựa chọn khi xảy ra tranh chấp. Tuy nhiên, việc lựa chọn
cơ quan có thẩm quyền giải quyết các tranh chấp phụ thuộc vào thỏa thuận
của các bên. Chỉ những tranh chấp mà trong hợp đồng các bên có thỏa thuận
Trọng tài hoặc mặc dù trong hợp đồng các bên không thỏa thuận nhưng trong
tiến trình GQTC (trước khi tranh chấp được đưa đến Tòa án) các bên có thống
nhất thỏa thuận Trọng tài giải quyết thì khi đó cơ quan Trọng tài có thẩm
quyền giải quyết.
Hiện nay với sự phát triển của nền kinh tế thị trường, các quan hệ
thương mại ngày càng đa dạng, phức tạp; các doanh nghiệp ngày càng sử
dụng nhiều hơn thỏa thuận Trọng tài trong việc GQTC phát sinh từ hoạt động
thương mại trong nước và quốc tế. Ưu điểm nổi bật của con đường GQTC
bằng Trọng tài so với Tòa án ở chỗ nhanh gọn, kín đáo và phán quyết của
Trọng tài có giá trị chung thẩm, tức có hiệu lực cuối cùng và được cưỡng chế
thi hành như các phán quyết của Tòa án. Các bên có quyền tự do lựa chọn
Trọng tài, tự do lựa chọn địa điểm, thời gian xét xử, luật áp dụng với những
tranh chấp có yếu tố nước ngoài. Nếu giải quyết qua con đường Tòa án ở

8


nước ngoài thì Tòa án Việt Nam có thể không công nhận thi hành bản án nếu
nước đó không ký các hiệp định tương trợ tư pháp với Việt Nam. Trong khi
quyết định của Trọng tài có thể được thừa nhận tại nhiều quốc gia nếu quốc
gia đó tham gia Công ước Newyork 1958 về công nhận và thi hành quyết định
Trọng tài nước ngoài của Liên hợp quốc. Quyết định Trọng tài có thể được
công nhận và có hiệu lực thi hành tại hơn 130 quốc gia và vùng lãnh thổ trên
thế giới.
Lợi thế của việc GQTC bằng Trọng tài là vậy; tuy nhiên ở Việt Nam,
Trọng tài chưa trở thành một hình thức GQTC ngoài Tòa án được ưa chuộng.
Các cá nhân, tổ chức kinh doanh chưa ưu tiên lựa chọn Trọng tài trong việc

GQTC mà vẫn có xu hướng lựa chọn Tòa án như một phương thức GQTC tối
ưu. Do đó, số lượng tranh chấp thương mại được giải quyết bằng Trọng tài
còn thấp (chiếm chưa đến 1% số lượng các tranh chấp thương mại). Trong các
Trung tâm Trọng tài thương mại (TTTM), Trung tâm Trọng tài quốc tế Việt
Nam (VIAC) được đánh giá là Trung tâm Trọng tài lớn cũng chỉ giải quyết
được trên dưới 100 vụ/năm. So với hàng chục nghìn vụ/năm của các Trung
tâm Trọng tài lớn trong khu vực và trên thế giới như Trung tâm Trọng tài
Singapore hoặc Trung tâm Trọng tài Hồng Kông thì số vụ việc mà VIAC giải
quyết còn rất khiêm tốn so với tiềm năng của Trung tâm và nhu cầu GQTC
bằng Trọng tài. Trong khi đó, việc GQTC tại Tòa án luôn ở mức quá tải;
trong năm 2012 (tính từ 1/10/2011 đến 30/09/2012), Tòa án các cấp xét xử
332.868 vụ án các loại trong tổng số 360.941 vụ án đã thụ lý (đạt 92%). Theo
số liệu của Tòa án nhân dân tối cao (tháng 3/2013), trong tổng số gần 400 vụ
án cần được xét xử Giám đốc thẩm của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân
tối cao nhưng Hội đồng này chỉ họp toàn thể để xét xử được hơn 200 vụ [6].
Thực tế tại Việt Nam xuất phát từ việc nhiều doanh nghiệp, cá nhân
vẫn còn mơ hồ về hình thức GQTC bằng Trọng tài khi tham gia vào các quan
hệ thương mại trong nước và quốc tế, điều này khác xa so với các nước trên

9


thế giới có nền kinh tế thị trường phát triển. Chính vì vậy dẫn đến nhiều
doanh nghiệp, cá nhân chịu thua thiệt với các đối tác và phải trả một cái giá
rất đắt về sự kém hiểu biết về con đường GQTC bằng Trọng tài thương mại
quốc tế (TTTMQT).
Tóm lại, hiện nay Tòa án và Trọng tài là hai phương thức GQTC phổ
biến nhất mà các bên lựa chọn khi xảy ra tranh chấp; tuy nhiên, vì Trọng tài là
một cơ quan phi Chính phủ nên vẫn cần có vai trò trợ giúp của Tòa án. Tòa án
có vai trò rất lớn đối với việc thực thi các phán quyết trọng tài (PQTT), vai trò

trong việc thu thập chứng cứ, vai trò trong việc áp dụng các biện pháp khẩn
cấp tạm thời… Như vậy, có thể thấy Trọng tài không thể hoạt động tốt nếu
thiếu vai trò hỗ trợ của Tòa án. Do đó, việc nghiên cứu tổng thể về vai trò của
Tòa án trong tố tụng TTTMQT sẽ đưa ra những nội dung kiến giải hợp lý
nhằm xây dựng cơ sở lý luận và thực tiễn cho hoạt động của TTTMQT tại
Việt Nam.
Từ những phân tích trên, Tôi đã quyết định chọn đề tài nghiên cứu:
"Vai trò của Tòa án trong tố tụng Trọng tài Thương mại Quốc tế. Thực tiễn ở
Việt Nam" để làm Luận văn thạc sĩ Luật học, chuyên ngành: Luật Quốc tế.
2. Tình hình nghiên cứu
Trong thời gian qua, đã có một số bài báo, bài viết về vấn đề này; tuy
nhiên, mới chỉ đề cập những vấn đề chung mà chưa đi sâu nghiên cứu về pháp
luật TTTMQT, vai trò của Tòa án trong tố tụng TTTMQT; qua đó đánh giá về
vai trò của Tòa án trong tố tụng TTTMQT tại Việt Nam theo Luật TTTM Việt
Nam. Vì vậy, việc nghiên cứu tổng thể về vai trò của Tòa án trong Tố tụng
TTTMQT sẽ đưa ra được những nội dung giải pháp phù hợp nhằm xây dựng
cơ sở lý luận và thực tiễn cho hoạt động của TTTMQT tại Việt Nam.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
Luận văn phân tích làm rõ những vấn đề lý luận chung về TTTMQT,
sơ lược về pháp luật Trọng tài của một số nước và tổ chức Trọng tài của một

10


số khu vực trên thế giới về TTTMQT và vai trò của Tòa án đối với hoạt động
tố tụng của TTTMQT, qua đó đánh giá thực tiễn vai trò của Tòa án trong tố
tụng TTTMQT theo quy định của pháp luật Trọng tài Việt Nam tại các giai
đoạn tố tụng Trọng tài như: (i) giai đoạn tiền tố tụng Trọng tài; (ii) giai đoạn
tố tụng Trọng tài; (iii) giai đoạn tố tụng Trọng tài kết thúc.
Trên cơ sở nghiên cứu các quy định của Luật quốc tế về TTTMQT và

Luật TTTM Việt Nam tại Việt Nam, đánh giá thực tiễn thi hành Luật TTTM
Việt Nam về vai trò của Tòa án đối với tố tụng TTTM. Cuối cùng trên cơ sở
đánh giá một số bất cập khi áp dụng Luật TTTM Việt Nam; luận văn đưa ra
các giải pháp, kiến nghị hoàn thiện các quy định pháp luật về vai trò của Tòa
án trong tố tụng TTTMQT tại Việt Nam.
4. Cơ sở lý luận và phƣơng pháp nghiên cứu
Đề tài nghiên cứu cả hai phương diện lý luận và thực tiễn về vai trò
của Tòa án trong tố tụng TTTMQT; qua đó, đánh giá một số bất cập khi áp
dụng Luật TTTM Việt Nam và đưa ra các giải pháp, kiến nghị hoàn thiện
pháp luật về vai trò của Tòa án trong tố tụng TTTMQT tại Việt Nam.
Cơ sở lý luận của đề tài là lý luận chủ nghĩa duy vật biện chứng và
chủ nghĩa duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác - Lênin. Đồng thời, để nghiên
cứu đề tài, luận văn đã sử dụng các phương pháp nghiên cứu phân tích, đối
chiếu, so sánh, tổng hợp kết hợp với phương pháp khảo sát thực tiễn, thống kê
dữ liệu xuất phát từ thực trạng để nghiên cứu.
5. Đóng góp của luận văn
Luận văn đã nghiên cứu một cách có hệ thống và tương đối toàn diện
cơ sở lí luận, thực tiễn và cơ sở pháp lý ở các khía cạnh sau:
- Những vấn đề lý luận chung về TTTMQT và vai trò của Tòa án
trong tố tụng TTTMQT;
- Tổ chức và hoạt động của một số TTTMQT trên thế giới và thực tiễn
vai trò của Tòa án trong tố tụng TTTMQT tại Việt Nam;

11


- Một số bất cập khi áp dụng Luật TTTM Việt Nam và giải pháp, kiến
nghị hoàn thiện các quy định pháp luật về vai trò của Tòa án trong tố tụng
TTTMQT tại Việt Nam.
6. Kết cấu của luận văn

Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội
dung của luận văn gồm 3 chương:
Chương 1: Những vấn đề lý luận chung về Trọng tài Thương mại
Quốc tế và vai trò của Tòa án trong tố tụng Trọng tài thương mại quốc tế.
Chương 2: Tổ chức và hoạt động của một số Trọng tài Thương mại
Quốc tế trên thế giới và thực tiễn vai trò của Tòa án trong tố tụng Trọng tài
thương mại quốc tế tại Việt Nam.
Chương 3: Một số bất cập khi áp dụng Luật Trọng tài thương mại Việt
Nam và giải pháp, kiến nghị hoàn thiện các quy định pháp luật về vai trò của
Tòa án trong tố tụng Trọng tài thương mại quốc tế tại Việt Nam.

12


Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG
VỀ TRỌNG TÀI THƢƠNG MẠI QUỐC TẾ VÀ VAI TRÒ CỦA TÒA ÁN
TRONG TỐ TỤNG TRỌNG TÀI THƢƠNG MẠI QUỐC TẾ
1.1. KHÁI QUÁT VỀ TRỌNG TÀI THƢƠNG MẠI QUỐC TẾ VÀ VAI
TRÒ CỦA TÒA ÁN TRONG TỐ TỤNG TRỌNG TÀI THƢƠNG MẠI QUỐC TẾ

1.1.1. Khái niệm và đặc điểm của Trọng tài thƣơng mại quốc tế
Khái niệm Trọng tài thương mại quốc tế
Trong bối cảnh hội nhập kinh tế hiện nay, TTTMQT được coi là một
phương thức GQTC phổ biến và hiệu quả nhất; việc sử dụng Trọng tài đem
lại cho các thương nhân rất nhiều tiện ích khi tham gia vào đời sống thương
mại quốc tế; vậy, TTTMQT là gì?
Để hiểu rõ khái niệm "Trọng tài thương mại quốc tế", cần hiểu tính
"thương mại" và "quốc tế" trong khái niệm này.
Theo phần chú thích tại Điều 1 của Luật mẫu UNCITRAL quy định:

Khái niệm thương mại cần phải được giải thích theo nghĩa
rộng, bao gồm các vấn đề phát sinh từ tất cả các quan hệ có bản chất
thương mại, dù là có hợp đồng hay không có hợp đồng. Quan hệ có
bản chất thương mại bao hàm nhưng không chỉ giới hạn đối với các
giao dịch sau đây: bất kỳ giao dịch buôn bán nào nhằm cung cấp hoặc
trao đổi hàng hóa hay dịch vụ, hợp đồng phân phối, đại diện thương
mại hoặc đại lý, các công việc sản xuất, thuê máy móc thiết bị, xây
dựng, tư vấn thiết kế cơ khí, li-xăng (mua bán sáng chế phát minh),
đầu tư, ngân hàng, tài chính, bảo hiểm, các hợp đồng khai thác hoặc
chuyển nhượng, liên doanh và các hình thức khác của hợp tác công
nghiệp hoặc kinh doanh, vận tải hàng hóa hoặc hành khách bằng
đường không, đường biển, đường sắt hoặc đường bộ [40, Điều 1].

13


Khái niệm này tuy không được chính thức đưa vào một điều khoản
nào mà nằm ở phần chú thích của Luật mẫu UNCITRAL nhưng đây cũng
được coi là một gợi ý cho các nước khi quy định phạm vi khái niệm thương
mại trong luật quốc gia của mình.
Ở các nước có nền kinh tế thị trường phát triển cao, thường sử dụng
khái niệm thương mại và quy định phạm vi của nó khá rõ ràng trong các văn
bản pháp luật với phạm vi rộng. Các quan hệ thương mại được phân biệt với
các quan hệ dân sự ở mục đích của chúng: các quan hệ thương mại là các
quan hệ nhằm mục đích thu lợi nhuận còn các quan hệ dân sự là các quan hệ
chỉ nhằm mục đích thỏa mãn nhu cầu của cá nhân. Chẳng hạn, khiếu nại của
người mua đối với người bán được coi là quan hệ thương mại nhưng nếu là
khiếu nại của người tiêu dùng đối với người bán thì lại là quan hệ dân sự.
Ở Việt Nam, Luật thương mại năm 2005 quy định:
Hoạt động thương mại là việc thực hiện một hay nhiều hành vi

thương mại của thương nhân, bao gồm việc mua bán hàng hóa, cung
ứng dịch vụ thương mại và các hoạt động xúc tiến thương mại nhằm
mục đích lợi nhuận hoặc nhằm thực hiện các chính sách kinh tế xã hội.
Dịch vụ thương mại gồm những dịch vụ gắn với việc mua bán hàng
hóa. Xúc tiến thương mại là hoạt động nhằm tìm kiếm, thúc đẩy cơ
hội mua bán hàng hóa và cung ứng dịch vụ thương mại [23, Điều 5].
Quy định này có nghĩa khái niệm thương mại được hiểu theo nghĩa
hẹp, chỉ là các hoạt động mua bán hàng hóa và những hoạt động gắn liền với
việc mua bán hàng hóa.
Ở Trung quốc cũng vậy, khái niệm "thương mại" được hiểu theo nghĩa
hẹp truyền thống. Do đó, để mở rộng phạm vi các vấn đề thuộc thẩm quyền
xét xử của Trọng tài, năm 1989, Trung quốc đã đổi tên Trung tâm TTTMQT
(thành lập năm 1956) thành Trung tâm TTTM và kinh tế quốc tế. Về lý luận,
Trung Quốc vẫn duy trì khái niệm "thương mại" theo nghĩa hẹp, chưa phân

14


biệt rõ ràng khái niệm "thương mại" và "kinh tế". Tuy nhiên, Trung tâm
Trọng tài này của Trung Quốc có thẩm quyền giải quyết các vấn đề gần với
khái niệm thương mại theo Luật mẫu UNCITRAL.
Như vậy, khái niệm "thương mại" ở những nước khác nhau có thể là
không thống nhất, song sự không thống nhất này được quốc tế công nhận và tôn
trọng như trong Công ước NewYork 1958 ở Điều 1 khoản 3 có nêu: "Quốc
gia đó cũng có thể tuyên bố chỉ áp dụng công ước đối với các tranh chấp phát
sinh từ các quan hệ pháp luật, theo hợp đồng hoặc ngoài hợp đồng, mà pháp
luật của quốc gia đó quy định là quan hệ pháp luật thương mại" [17]. Hay như
trong Công ước Giơnevơ 1927 cũng quy định: "Mỗi nước tham gia hợp đồng
có thể giới hạn nghĩa vụ của mình đối với hợp đồng được coi là hợp đồng
thương mại do luật quốc gia quy định" [16].

Thuật ngữ "quốc tế" được sử dụng để đánh dấu sự khác biệt giữa
Trọng tài mang tính quốc gia - Trong tài trong nước và Trong tài vượt qua
biên giới của quốc gia - Trong tài quốc tế. Các yếu tố nước ngoài trong
thương mại quốc tế được xác định qua ba dấu hiệu: chủ thể trong quan hệ
thương mại là các bên có quốc tịch khác nhau hoặc có trụ sở ở các nước khác
nhau; sự kiện làm phát sinh, thay đổi hoặc chấm dứt quan hệ thương mại xảy
ra ở nước ngoài; và đối tượng của quan hệ thương mại như hàng hóa, dịch vụ,
hoặc các đối tượng khác ở nước ngoài.
Về bản chất của tranh chấp quốc tế, trong Nghị định thư Giơnevơ
1927 quy định rằng tranh chấp quốc tế là những tranh chấp trong đó có chứa
yếu tố nước ngoài. Hiện nay, thuật ngữ "quốc tế" trong khái niệm TTTMQT
được mở rộng ra rất nhiều. Các tài liệu của Phòng Thương mại quốc tế có nói
rõ về điều này, chẳng hạn như trong ấn phẩm "The International Solution to
International Business Disputes" của Phòng Thương mại quốc tế xuất bản số
301 năm 1977 có ghi: "Khi hợp đồng được kí kết giữa hai công dân của cùng
một nước nhưng việc thực hiện hợp đồng lại ở một nước khác hoặc khi hợp

15


đồng kí kết giữa Nhà nước và chi nhánh của một công ty nước ngoài trong việc
kinh doanh của nước đó thì cũng được coi là hợp đồng mang tính quốc tế".
Để phù hợp với xu hướng kinh tế hiện nay, luật quốc gia nhiều nước
cũng mở rộng khái niệm "quốc tế" trong hợp đồng thương mại quốc tế. Việc
hiểu thuật ngữ "quốc tế" theo nghĩa rộng cũng được tìm thấy trong Luật
TTTMQT của Pháp ban hành ngày 12/5/1981. Điều 1492 trong bộ luật này
định nghĩa "Trọng tài sẽ là trọng tài thương mại quốc tế khi liên quan đến lợi
ích của thương mại quốc tế" [50], liên quan đến định nghĩa này, bộ luật còn
công nhận định nghĩa do Tòa án tối cao Pháp đưa ra trước đó: "định nghĩa này
bao trùm sự vận chuyển hàng hóa hoặc tiền tệ từ một nước này sang một nước

khác, cùng với việc coi trọng những yếu tố khác như quốc tịch các bên, nơi kết
thúc thực hiện hợp đồng". Trong Công ước La-Hay năm 1988, theo đó: "Trọng
tài là nhằm để giải quyết những bất đồng giữa các bên thông qua một người
thứ ba do chính các bên lựa chọn trên cơ sở tôn trọng luật pháp". Hiệp định
La-Hay 1907 qui định: "Trọng tài quốc tế có đối tượng giải quyết là những
tranh chấp giữa các quốc gia qua sự can thiệp của những trọng tài viên do các
quốc gia tranh chấp tự chọn và đặt trên cơ sở của sự tôn trọng luật pháp". Theo
giáo sư Ph.Farrchar thuộc trường đại học Pans II thì: "Trọng tài là một phương
thức giải quyết tranh chấp, theo đó các bên giao cho một cá nhân (trọng tài
viên) thẩm quyền giải quyết tranh chấp phát sinh giữa họ với nhau". Luật sư
tòa thượng thẩm Paris Didier Skonicki định nghĩa ngắn gọn: "Trọng tài là tòa
án tư, do ý chí của đôi bên tranh chấp. Nó cũng xét xử như tòa án nhà nước".
Hiện nay, việc coi bản chất của tranh chấp quốc tế là yếu tố để xác
định TTTMQT được nhiều nước áp dụng. Bên cạnh đó, quốc tịch các bên
cũng là một yếu tố để xác định TTTMQT.
Công ước Châu Âu năm 1961 ở Điều 1 khoản 1 mục (a) quy định:
"Thỏa thuận trọng tài được thực hiện nhằm giải quyết các tranh chấp phát
sinh giữa các tự nhiên nhân hay giữa các pháp nhân trong thương mại quốc tế;

16


khi thực hiện thỏa thuận này, đó sẽ là ở nơi cư trú thường xuyên của người
định cư hoặc là nơi của những nước tham gia hợp đồng", có nghĩa thỏa thuận
Trọng tài sẽ được thực hiện ở nơi các cá nhân thường xuyên cư trú hoặc tại
nơi đăng kí kinh doanh, nơi tiến hành hoạt động kinh doanh hay liên doanh,
liên kết thậm chí cả ở nơi pháp nhân điều hành quản lý công ty đó. Còn theo
Công ước NewYork 1958 sẽ công nhận và thi hành quyết định của Trọng tài
được tuyên tại lãnh thổ của một quốc gia khác với quốc gia được yêu cầu
công nhận và thi hành quyết định.

Hai công ước trên đều quy định việc thi hành quyết định của Trọng tài
nước ngoài về tranh chấp giữa hai thể nhân và pháp nhân có quốc tịch khác
nhau tại một trong hai nước có thể nhân hay pháp nhân đó tham gia vào tranh
chấp. Như vậy, sự khác nhau về quốc tịch của các bên khẳng định bản chất
quốc tế của tranh chấp thương mại giữa các bên đó.
Theo giáo trình Tư Pháp quốc tế - Trường Đại học Luật Hà Nội, xuất
bản năm 2006, thì "Trọng tài quốc tế là một phương pháp giải quyết tranh
chấp có yếu tố nước ngoài, mà trong đó các bên tranh chấp, thỏa thuận, lập ra
hoặc chỉ định ra một bên thứ ba và giao cho bên thứ ba đó quyền được phán
xét tranh chấp của họ, phán xét này buộc các bên phải thực hiện" [35]. Theo
Từ điển Luật học, Nxb Tư pháp năm 2006, định nghĩa, "Trọng tài quốc tế là
cơ quan hoặc phương thức giải quyết tranh chấp phát sinh từ các quan hệ
pháp luật thuộc lĩnh vực điều chỉnh của tư pháp quốc tế mà pháp luật cho
phép giải quyết bằng trọng tài".
Tóm lại, có thể coi TTTMQT là Trọng tài giải quyết các tranh chấp thương
mại quốc tế, như trong Luật mẫu UNCITRAL Điều 1 khoản 3 có quy định:
Là trọng tài thương mại quốc tế nếu:
a) Các bên có thỏa thuận đưa đến trọng tài, vào lúc kí kết
thỏa thuận này, những nơi kinh doanh của họ là ở những nước khác
nhau, hoặc:

17


b) Một trong những nơi sau ở nước ngoài mà các bên tiến
hành hoạt động kinh doanh của họ:
- Nơi đặt trọng tài nếu được xác định trong thỏa thuận, hoặc
theo đúng thỏa thuận trọng tài;
- Một nơi bất kì nào đó mà một phần nghĩa vụ chủ yếu của
quan hệ thương mại được thực hiện hoặc là nơi vấn đề chủ yếu của

tranh chấp liên quan đến nhiều nhất, hoặc:
c) Các bên có thỏa thuận rằng vấn đề chủ yếu của thỏa thuận
trọng tài liên quan đến nhiều nước [40].
Do đó, TTTMQT chính là một phương thức GQTC do các bên thỏa
thuận lập ra, hoạt động với tư cách là bên thứ ba độc lập, khách quan, vô tư,
đứng ra phân xử cho các bên khi xảy ra tranh chấp thương mại có yếu tố nước
ngoài. Trọng tài là cơ quan tài phán tư và phán quyết của Trọng tài có giá trị
chung thẩm.
Đặc điểm của Trọng tài thương mại quốc tế
- Trọng tài là phương thức GQTC phi Chính phủ
Các trung tâm Trọng tài được thành lập theo sáng kiến của các Trọng tài
viên (TTV) sau khi được các cơ quan nhà nước có thẩm quyền cho phép chứ không
phải được thành lập bởi Nhà nước. Do đó, Trọng tài không nằm trong hệ thống
cơ quan quản lý nhà nước và không thuộc hệ thống cơ quan xét xử Nhà nước.
Trọng tài viên là người hành nghề tự do, không nhân danh quyền lực
nhà nước mà nhân danh cá nhân hoặc Trung tâm Trọng tài. Với tư cách là
người GQTC, việc đảm bảo tính vô tư, khách quan của TTV được đặt lên
hàng đầu. Trong hình thức Trọng tài quy chế, Trọng tài được tổ chức dưới
hình thức các Trung tâm Trọng tài là tổ chức xã hội nghề nghiệp hoạt động
theo phương thức tự thu chi và tự chủ về mặt tài chính.
Các PQTT không có bộ máy cưỡng chế riêng để đảm bảo thi hành. Để
phán quyết này được thực thi, các bên phải sử dụng thủ tục công nhận và cho
thi hành PQTT theo Công ước NewYork 1958 hoặc được pháp luật quy định

18


- Thủ tục Trọng tài xét xử kín
Đây là một đặc điểm đặc trưng của phương thức Trọng tài so với xét
xử bằng Tòa án. Các phiên họp GQTC của Trọng tài không được tổ chức

công khai và chỉ có các bên tranh chấp nhận được quyết định. Đây là một ưu
điểm lớn của Trọng tài khi vụ kiện liên quan đến tới các bí mật thương mại và
phát minh; các nhà kinh doanh tham gia vào tranh chấp luôn e ngại rằng tranh
chấp liên quan tới bí mật thương mại, các khiếm khuyết của hàng hóa, sự kém
chất lượng của sản phẩm sẽ bị xét xử dưới sự theo dõi của công luận vì điều
này sẽ ảnh hưởng xấu đến công việc kinh doanh của họ trong tương lai. Song
với nguyên tắc "xét xử kín", GQTC bằng Trọng tài sẽ giúp các bên tránh được
sự chú ý của công luận, đảm bảo bí mật của tranh chấp.
Các điều khoản chính trong hợp đồng bao gồm cả những điều khoản
về tính bí mật phải được tuân thủ trong thỏa thuận Trọng tài. Bởi tính bí mật
rất quan trọng trong tranh chấp đặc biệt là tranh chấp về sở hữu trí tuệ, nên
các điều khoản bổ sung về tính bí mật có thể được các bên lập (dưới dạng
điều khoản hợp đồng) hoặc các TTV (dưới dạng một mệnh lệnh thủ tục hoặc
trong văn bản xác định thẩm quyền - terms of reference)
- Thẩm quyền GQTC của Trọng tài không phụ thuộc vào phạm vi lãnh thổ
Khác với Tòa án, Trọng tài không bị ràng buộc bởi nguyên tắc lãnh
thổ nên các bên có quyền lựa chọn bất kỳ Trung tâm Trọng tài nào để GQTC
cho mình, bất kỳ họ ở đâu, trong nước hay ngoài nước đồng thời các bên có
quyền thỏa thuận lựa chọn TTV có chuyên môn, nghiệp vụ; lựa chọn quy tắc,
thủ tục tố tụng; lựa chọn ngôn ngữ, thời gian, địa điểm... để GQTC.
Đặc điểm này của Trọng tài tạo điều kiện cho các nhà kinh doanh có
nhiều cơ hội trong việc lựa chọn tổ chức Trọng tài GQTC của mình một cách
phù hợp nhất và tạo ra tính cạnh tranh giữa các Trung tâm Trọng tài để không
ngừng nâng cao năng lực và uy tín trong việc đáp ứng các yêu cầu của thực
tiễn xét xử bằng Trọng tài.

19


1.1.2. Vai trò của Tòa án trong tố tụng Trọng tài thƣơng mại quốc tế

Là hai phương thức GQTC có nhiều điểm tương đồng nhưng chỉ khác
nhau về tính chất công và tư; Tòa án và Trọng tài luôn luôn là đối tượng lựa
chọn tự do của các bên tranh chấp. Mặc dù vậy, nhận thức về vai trò, vị trí của
từng thiết chế đó cũng rất khác nhau, không chỉ trong các giới kinh doanh mà
ngay cả trong tư duy của các thẩm phán, nhất là trong vấn đề về mối quan hệ
giữa Tòa án và Trọng tài. Bằng chứng là nhiều quốc gia đã phải có những nỗ
lực cải cách chính sách và đổi mới pháp luật theo hướng khuyến khích lựa
chọn Trọng tài, xác định ngày càng rõ hơn vai trò của Tòa án đối với hoạt
động của Trọng tài. Trong khi đó, mỗi hình thức của nền tài phán, bao gồm cả
Tòa án, bên cạnh những ưu điểm thì đều có những hạn chế cố hữu. Từ đó, sự
tồn tại của mỗi thiết chế tài phán ngoài mục đích tự thân của nó còn có mục
đích hỗ trợ cho các thiết chế khác, "lấp" đi những "khoảng trống" mà thiết chế
khác không thể tự nó khắc phục được để cuối cùng tạo ra hiệu quả chung của
hệ thống tài phán. Trên cơ sở tư duy như vậy, cần làm rõ bản chất của Trọng
tài và vai trò của Trọng tài trong hệ thống tài phán thương mại trước khi xác
định về mối liên hệ của nó với Tòa án và vai trò của Tòa án đối với Trọng tài.
Sự can thiệp và hỗ trợ của Nhà nước trong quá trình Trọng tài là một
vấn đề có nhiều ý kiến trong khoa học pháp lý. Tuy nhiên, tất cả cùng thống
nhất với nhau ở khía cạnh: Trọng tài không thể thoát ly khỏi sự kiểm soát của
Nhà nước. Nhà nước cần phải đóng một vai trò nhất định trong quá trình tố
tụng Trọng tài. Vấn đề là Nhà nước sẽ tác động Trọng tài đến đâu và liệu Nhà
nước can thiệp một cách tích cực hay tiêu cực vào hoạt động Trọng tài. Sự
can thiệp của Nhà nước có thể tích cực nhưng cũng có thể tác động không tốt
đến hoạt động Trọng tài. Sự can thiệp đó sẽ là tích cực nếu Nhà nước quan
tâm đến kết quả Trọng tài và can thiệp khi cần thiết nhằm giúp các bên tham
gia Trọng tài đạt được mục đích Trọng tài trên cơ sở công lý, công bằng. Sự
can thiệp đó có thể là không tích cực nếu nó nhằm chỉ để bảo vệ quyền lợi của

20



một bên tham gia mà không công bằng đối với tất cả các bên. Vai trò của Nhà
nước là bảo đảm sự cân bằng giữa quyền lợi chung và quyền lợi riêng của các
bên tham gia Trọng tài. Chính vì vậy, sự cần thiết phải duy trì "mối quan hệ
lẫn nhau và năng động giữa mong muốn của các bên tham gia Trọng tài và
quyền lợi của hệ thống pháp luật quốc gia trong việc bảo đảm công bằng cho
quá trình Trọng tài và quyền lợi to lớn của quốc gia" là mối quan tâm của
Luật Trọng tài ở tất cả các nước trên thế giới, trong đó có Việt Nam. Thực tế
ở các nước cho thấy, sự hỗ trợ, can thiệp của Nhà nước đối với Trọng tài được
thể hiện thông qua vai trò của Tòa án trong quá trình tố tụng Trọng tài; nội
dung này cũng được Điều 6 của Luật mẫu UNCITRAL về Tòa án hoặc cơ
quan có thẩm quyền khác vì một số chức năng nhất định trong việc hỗ trợ và
giám sát Trọng tài quy định: "…Mỗi quốc gia thông qua luật mẫu này ghi rõ
tòa án, các tòa án hoặc những cơ quan có thẩm quyền khác thực hiện những
chức năng này trong tòa án" [40, Điều 6].
Theo thông lệ và tập quán thương mại của nhiều nước trên thế giới và
quốc tế, xét về bản chất, Trọng tài là một quá trình GQTC dựa trên sự lựa
chọn tự nguyện của các bên tranh chấp. Bằng một Điều khoản trọng tài (trong
hợp đồng kinh tế, thương mại) hay bằng một Thỏa thuận trọng tài (lập ra sau
khi tranh chấp đã phát sinh), các bên tự nguyện đưa tranh chấp ra giải quyết
bằng một cơ quan Trọng tài (Ủy ban Trọng tài hoặc TTV) do các bên lựa
chọn. Các bên tự thỏa thuận về phạm vi các tranh chấp mà trọng tài được
quyền giải quyết, thỏa thuận về luật áp dụng (luật nội dung và các qui tắc tố
tụng), thỏa thuận về tính chung thẩm và hiệu lực bắt buộc của PQTT đối với
các bên tranh chấp… Như vậy, thẩm quyền của cơ quan Trọng tài bắt nguồn
từ "quyền lực theo hợp đồng" hay "quyền lực đại diện" do các bên tranh chấp
giao phó, ủy nhiệm.
Trong khi đó, Tòa án là người đại diện của quyền lực nhà nước (quyền
tư pháp) để xét xử theo pháp luật của quốc gia các tranh chấp trong phạm vi


21


thẩm quyền mà pháp luật cho phép. Các bản án, quyết định của Tòa án có
hiệu lực bắt buộc đối với mọi công dân, tổ chức có liên quan và được đảm
bảo thi hành bằng sức mạnh cưỡng chế của Nhà nước. Chính sự khác biệt về
nguồn gốc quyền lực của Tòa án và Trọng tài như đã phân tích ở trên đã đặt ra
ít nhất hai vấn đề có liên quan đến vai trò của Tòa án trong việc đảm bảo hiệu
quả của Trọng tài, đó là:
- Trong quá trình tố tụng Trọng tài, theo sự thỏa thuận của các bên tranh
chấp, Trọng tài có quyền ra các quyết định có hiệu lực bắt buộc đối với các
bên tranh chấp nhưng lại không có quyền ra lệnh bắt buộc đối với bất kỳ bên thứ
ba nào khác có liên quan đến tranh chấp. Chính sự hạn chế về quyền lực này nên
không phải lúc nào Trọng tài cũng có khả năng bảo đảm cho quá trình Trọng
tài diễn ra suôn sẻ, có hiệu quả (ví dụ: Trọng tài không thể bắt buộc nhân
chứng, giám định viên tham gia phiên họp xét xử của Trọng tài nếu họ không
tự nguyện…). Sau khi có phán quyết của Trọng tài về vụ tranh chấp, cho dù các
bên đã thỏa thuận rằng PQTT là chung thẩm và có giá trị bắt buộc nhưng nếu
một trong hai bên không tự nguyện thi hành thì Trọng tài cũng không có quyền
và nghĩa vụ cưỡng chế thi hành phán quyết hay quyết định do chính mình ban
hành. Trong những trường hợp như vậy, hiệu quả của việc thi hành PQTT sẽ
phụ thuộc hoàn toàn vào vai trò và sự hỗ trợ của Tòa án đối với Trọng tài.
- Trong quá trình tố tụng Trọng tài, Trọng tài chỉ có thể hoạt động
trong phạm vi thẩm quyền do các bên giao phó, cụ thể là Trọng tài chỉ được
giải quyết một số loại tranh chấp nhất định và theo cách thức nhất định do các
bên lựa chọn và thỏa thuận trong điều khoản Trọng tài hoặc thỏa thuận Trọng
tài. Nếu Trọng tài vượt quá thẩm quyền được ủy nhiệm hoặc không tuân thủ
các nguyên tắc tố tụng trong thỏa thuận Trọng tài, không thực hiện đầy đủ,
đúng đắn, khách quan, vô tư, công bằng trách nhiệm được các bên giao phó
thì theo nguyên tắc đại diện, các quyết định của Trọng tài sẽ có thể bị chính

các bên tranh chấp yêu cầu cơ quan nhà nước có thẩm quyền xem xét, hủy bỏ,

22


không công nhận và không cho thi hành để bảo vệ các quyền lợi hợp pháp của
họ và để thực thi công lý. Như vậy, cũng như đối với mọi "quyền lực hợp
đồng" hay "quyền lực đại diện" khác, ở đây cần có một cơ chế kiểm tra, giám
sát của quyền lực nhà nước đối với Trọng tài để bảo đảm cho Trọng tài ngay
từ khi bắt đầu thành lập và trong suốt quá trình GQTC sẽ không vượt quá
thẩm quyền được giao, sẽ thực hiện đúng đắn, vô tư, khách quan, trung lập
các trách nhiệm của mình, do đó hiệu lực của các quyết định Trọng tài cũng
sẽ được bảo đảm, hiệu quả Trọng tài được nâng cao. Đa số các quốc gia đều
quy định Tòa án chính là cơ quan đại diện cho quyền lực nhà nước để thực
hiện việc giám sát đối với Trọng tài.
Có thể nói, vai trò của Tòa án đối với Trọng tài trong quá trình tố tụng
Trọng tài chính là thể hiện vai trò của Nhà nước trong việc hỗ trợ và giám sát
quá trình tố tụng Trọng tài. Nội dung này luôn được công nhận và quy định
trong Luật về Trọng tài ở tất cả các nước trên thế giới, mặc dù có thể khác
nhau ở góc độ này hoặc góc độ khác. Bên cạnh đó, trong khi quy định về vai
trò của Tòa án đối với Trọng tài cần phải đảm bảo hai yêu cầu đặt ra là vừa
phòng ngừa, hạn chế sự can thiệp không cần thiết của Tòa án vào quá trình
Trọng tài, vừa bảo đảm được vai trò hỗ trợ và kiểm tra giám sát cần thiết của
Tòa án để nâng cao hiệu quả của tố tụng Trọng tài. Tùy theo điều kiện, truyền
thống pháp luật, các học thuyết và quan điểm pháp lý về tố tụng Trọng tài ở
từng quốc gia mà vai trò của Tòa án đối với Trọng tài được thể chế hóa ở
những mức độ khác nhau tại những văn bản khác nhau nhưng thông thường là
trong Luật Trọng tài, Bộ luật Tố tụng dân sự hoặc tố tụng thương mại của
từng nước và trong các điều ước quốc tế về Trọng tài.
Tại Việt Nam Pháp lệnh TTTM ghi nhận vai trò của Tòa án đối với

các hoạt động của các Trung tâm TTTM về bốn vấn đề sau: (i) Chỉ định TTV;
(ii) Thay đổi TTV; (iii) Áp dụng, thay đổi, hủy bỏ biện pháp khẩn cấp tạm
thời; (iv) Hủy PQTT.

23


Tuy nhiên, Pháp lệnh TTTM sau một thời gian đi vào thực tế đã có
những hạn chế nhất định; chính vì vậy, Luật TTTM Việt Nam đã ra đời để
khắc phục những mặt hạn chế của Pháp lệnh TTTM nhằm đảm bảo cơ sở
pháp lý cho hoạt động của Tòa án trong việc hỗ trợ các Trung tâm TTTM.
Theo đó, Luật TTTM Việt Nam xác lập toàn diện và đầy đủ hơn vai trò hỗ trợ
của Tòa án đối với TTTM ở những vấn đề sau: (i) Thi hành thỏa thuận Trọng
tài; (ii) Thành lập Hội đồng trọng tài (HĐTT) thông qua việc chỉ định, thay
đổi TTV; Trọng tài vụ việc; (iii) Khiếu nại thẩm quyền của Trọng tài; (iv) Áp
dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời; (v) Thu thập chứng cứ, triệu tập người làm
chứng; (vi) Đăng ký PQTT vụ việc; (vii) Hủy PQTT.
1.1.3. Ƣu điểm và hạn chế của tố tụng Trọng tài so với tố tụng Tòa án
Trước hết, nếu đặt lên "bàn cân" những điểm mạnh, điểm yếu của từng
hình thức GQTC thì mặc dù Trọng tài và Tòa án đều là những phương thức
GQTC của các bên, không cạnh tranh lẫn nhau mà bổ sung cho nhau. Thế
nhưng, nếu xét từ góc độ hiệu quả, chính Tòa án phải tự nhận ra những "thế yếu"
của mình trước nhu cầu thỏa mãn các mong muốn GQTC của các bên, đó là:
- Các Tòa án luôn bị quá tải công việc, điều đó ảnh hưởng không nhỏ
đến chất lượng xét xử và làm cho vụ án bị kéo dài.
- Các thẩm phán của Tòa án không phải bao giờ cũng chuyên về các
vấn đề kinh doanh, thương mại và đủ các kiến thức để giải quyết các tranh
chấp đó một cách chuyên nghiệp, đặc biệt là trong các vấn đề tranh chấp
thương mại quốc tế chẳng hạn như các tranh chấp về bằng sáng chế, ngân
hàng, tên miền, v.v…

- Là một thiết chế quyền lực và mặc nhiên hoạt động trong một quốc
gia có chủ quyền, Tòa án thường bị chi phối về tính độc lập của nó bởi sự tác
động từ nhiều phía và nhiều yếu tố khác nhau.
- Tính quốc tế của Tòa án không cao. Điều đó thể hiện ở nhiều sự ràng
buộc khác nhau liên quan đến nguyên tắc chủ quyền quốc gia: Ngôn ngữ áp
dụng phải là ngôn ngữ quốc gia, thủ tục tố tụng nhất thiết phải theo quy định

24


của pháp luật quốc gia mà Tòa án lại là thiết chế của quốc gia đó. Phán quyết
của Tòa án không mặc nhiên có sự công nhận quốc tế, điều đó chỉ xảy ra khi
có một hiệp định song phương về tương trợ tư pháp giữa hai quốc gia hoặc
trong khuôn khổ pháp lý của một cộng đồng các quốc gia.
- Tổ chức theo thẩm quyền xét xử, các bản án của Tòa án có thể bị
kháng cáo, kháng nghị; việc xét xử được thực hiện công khai.
So với việc GQTC thông qua thiết chế Tòa án; việc GQTC thông qua
Trọng tài có những ưu việt cụ thể như sau:
- Trọng tài là phương thức GQTC linh hoạt, vì vậy khả năng GQTC
nhanh chóng, dễ dàng; Trọng tài là phương thức do các bên tự lựa chọn mà không
cần đến nghi thức, không cần nhiều về cơ sở vật chất, trang thiết bị, đồng phục,
trả lương cho cán bộ, chuyên viên như ở Tòa án. Đa số các quy tắc tố tụng
Trọng tài rất linh hoạt trong việc xác định thủ tục Trọng tài, phiên họp GQTC,
thời hạn, địa điểm tổ chức phiên họp GQTC... Vì vậy, ngoài sự nhanh chóng,
Trọng tài còn thể hiện sự linh hoạt của nó ở tính đơn giản và dễ tiếp cận.
- Trong tài phán Trọng tài, các bên có thể lựa chọn các TTV có trình
độ chuyên môn cao miễn là các TTV bảo đảm được yêu cầu về tính độc lập.
- HĐTT được hình thành bởi ý chí của các bên, do đó, đảm bảo tính
độc lập và khách quan cao hơn.
- Trọng tài có tính quốc tế và do vậy đây là một kênh quan trọng để

giải quyết các tranh chấp có yếu tố quốc tế một cách có hiệu quả. Điều đó thể
hiện ở việc các bên có thể bình đẳng lựa chọn ngôn ngữ sử dụng, quy tắc tố
tụng; quốc tịch của các TTV, đại diện pháp lý. PQTT dễ dàng đạt được sự công
nhận quốc tế của hơn 130 quốc gia trên cơ sở Công ước New York 1958.
- Các phiên họp GQTC của Trọng tài là bí mật. Đây là một ưu điểm
lớn của Trọng tài khi vụ tranh chấp liên quan đến các bí mật, nhất là bí mật
thương mại và phát minh, sáng chế.
- Phán quyết của Trọng tài là chung thẩm, không bị kháng cáo trừ trường
hợp bị Tòa án tuyên hủy trên cơ sở một số điều kiện nhất định do luật định.

25


×