Tải bản đầy đủ (.pdf) (110 trang)

Lý luận và thực tiễn về phòng chống rửa tiền trong lĩnh vực hải quan

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (992.45 KB, 110 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT

NGUYỄN NGỌC LINH

LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ PHÕNG
CHỐNG RỬA TIỀN TRONG LĨNH VỰC HẢI QUAN

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

Hà Nội – 2015


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT

NGUYỄN NGỌC LINH

LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ PHÕNG
CHỐNG RỬA TIỀN TRONG LĨNH VỰC HẢI QUAN
Chuyên ngành: Luật Quốc tế
Mã số: 60 38 01 08

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

Cán bộ hƣớng dẫn khoa học: TS. LÊ VĂN BÍNH

Hà Nội – 2015


LỜI CAM ĐOAN


Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các
kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công trình nào
khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong Luận văn đảm bảo tính chính xác,
tin cậy và trung thực. Tôi đã hoàn thành tất cả các môn học và đã thanh toán
tất cả các nghĩa vụ tài chính theo quy định của Khoa Luật Đại học Quốc gia
Hà Nội.
Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để tôi có thể
bảo vệ Luận văn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!

NGƢỜI CAM ĐOAN

Nguyễn Ngọc Linh


MỤC LỤC
Danh mục từ viết tắt .................................................................................................... i
Danh mục các bảng .................................................................................................... ii
MỞ ĐẦU .....................................................................................................................1
1. Tính cấp thiết của đề tài ..........................................................................................1
2. Tình hình nghiên cứu ..............................................................................................2
3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn .......................................................................2
4. Đối tƣợng và Phạm vi nghiên cứu ..........................................................................2
5. Phƣơng pháp nghiên cứu .........................................................................................3
6.Những điểm mới của Luận văn ................................................................................3
8. Kết cấu của đề tài ....................................................................................................4
Chƣơng 1. CÁC VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ PHÕNG, CHỐNG RỬA TIỀN .................5
1.1. Khái niệm rửa tiền, quy trình rửa tiền và các hình thức rửa tiền .........................5
Quy trình rửa tiền ........................................................................................................7
Các hình thức rửa tiền ...............................................................................................11

1.2. Hậu quả và ảnh hƣởng của rửa tiền ....................................................................18
1.3. Các hệ thống tài chính liên quan đến rửa tiền ....................................................21
1.4. Các tiêu chuẩn quốc tế về chống rửa tiền ..........................................................27
Chƣơng 2. HẢI QUAN VIỆT NAM VÀ MỘT SỐ QUỐC GIA TRÊN THẾ GIỚI
TRONG CÔNG TÁC PHÕNG CHỐNG RỬA TIỀN ..............................................33
2.1. Khung pháp lý cho phòng chống rửa tiền ..........................................................33
2.2. Luật phòng chống rửa tiền ở một số các quốc gia trên thế giới .........................70
2.3. Hải quan Việt Nam trong công tác phòng, chống rửa tiền ................................73
2.4. Hợp tác trong quá trình thực thi luật liên quan tới phòng, chống rửa tiền ................79


Chƣơng 3. THUẬN LỢI, KHÓ KHĂN VÀ MỘT SỐ KIẾN NGHỊ, GIẢI PHÁP
TRONG PHÕNG CHỐNG RỬA TIỀN ...................................................................85
3.1. Thuận lợi, khó khăn trong công tác phòng, chống rửa tiền ...............................85
3.2. Hoàn thiện quy định pháp luật và một số giải pháp nâng cao hiệu quả trong
công tác phòng, chống rửa tiền .........................................................................93
KẾT LUẬN ...............................................................................................................98
TÀI LIỆU THAM KHẢO .......................................................................................100


Danh mục từ viết tắt

AML/CFT

: Chống rửa tiền và tài trợ khủng bố

AMLD

: Cục Phòng chống rửa tiền - Ngân hàng nhà nƣớc Việt Nam


APG

: Nhóm Châu Á/Thái Bình Dƣơng về chống rửa tiền

CEN

: Mạng lƣới thực thi Hải quan

FATF

: Lực lƣợng đặc nhiệm Tài chính

FIU

: Đơn vị tình báo Tài chính

INTERPOL

: Tổ chức Cảnh sát hình sự quốc tế

IMF

: Qũy tiền tệ quốc tế

NHNN

: Ngân hàng nhà nƣớc Việt Nam

PCRT


: Phòng chống rửa tiền

RILO A/P

: Văn phòng Liên lạc tình báo khu vực

STR

: Báo cáo giao dịch đáng ngờ

SWIFT

: Hiệp hội Viễn thông tài chính liên ngân hàng toàn cầu

WCO

: Tổ chức Hải quan thế giới

i


Danh mục các bảng

Hình 1.1. Quy trình rửa tiền điển hình .............................................................. 8
Hình 2.1. Rửa tiền ........................................................................................... 74

ii


MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài
Hiện nay, trên thế giới nguồn tiền và tài sản bất hợp pháp từ hoạt động
của tội phạm rửa tiền rất lớn. Để sử dụng nguồn tiền và tài sản này, tội phạm
phải dùng mọi thủ đoạn để che đậy nguồn gốc phi pháp của nó bằng cách
thông qua các hoạt động chuyển đổi, giao dịch tài chính… Mục đích hoạt
động chuyển đổi, giao dịch của tội phạm nhằm biến số tiền, tài sản bất hợp
pháp có nguồn gốc từ tội phạm thành “tiền, tài sản hợp pháp”. Quá trình
chuyển đổi, giao dịch tiền và tài sản bất hợp pháp này chính là quá trình tội
phạm tiến hành “hợp pháp hóa tiền, tài sản” có nguồn gốc từ hoạt động phạm
tội nhằm trốn tránh sự phát hiện của lực lƣợng thi hành pháp luật. Quá trình
đó là quá trình rửa tiền của tội phạm. Rửa tiền là hành vi của cá nhân hay tổ
chức tìm cách tạo ra vẻ bên ngoài hợp pháp cho các khoản tiền hoặc tài sản
khác có đƣợc từ hành vi phạm tội. Rửa tiền không chỉ giúp cho tội phạm che
giấu đƣợc nguồn gốc của những khoản tiền bất hợp pháp mà còn tạo ra cơ sở
cho chúng hƣởng thụ và sử dụng những đồng tiền đã đƣợc tẩy rửa để phục vụ
cho những hoạt động tội phạm khác.
Việt Nam là một quốc gia hội tụ rất nhiều yếu tố thuận lợi cho hoạt động
rửa tiền nhƣ nền kinh tế tiền mặt, đang cần nhiều vốn đầu tƣ cho nền kinh tế
đang phát triển, hệ thống pháp luật còn nhiều lỗ hổng và đặc biệt là về luật
chống rửa tiền. Hiện nay, trong quá trình hợp pháp hóa tiền, tài sản của tội
phạm, các đối tƣợng rửa tiền thƣờng phải có quan hệ với các đối tƣợng khác
để rửa tiền. Chính vì vậy, trong công tác đấu tranh chống tội phạm rửa tiền,
đòi hỏi lực lƣợng chuyên trách đấu tranh phòng, chống tội phạm phải luôn
gắn với cuộc đấu tranh chống tội phạm rửa tiền. Vì vậy, nhằm hạn chế những
thiệt hại có thể do rửa tiền gây ra, Việt Nam cụ thể là ngành Hải quan cần

1


đánh giá đúng về thực trạng rửa tiền hiện nay và triển khai các biện pháp

phòng chống rửa tiền. Và đó cũng chính là lý do học viên chọn đề tài: “Lý
luận và thực tiễn về phòng chống rửa tiền trong lĩnh vực Hải quan”.
2. Tình hình nghiên cứu
Trong những năm qua ở Việt Nam, đã có nhiều công trình nghiên cứu về
công tác phòng chống rửa tiền trong lĩnh vực ngân hàng nhƣ Luận văn "Pháp
luật quốc tế về phòng chống rửa tiền và thực tiễn áp dụng tại Việt Nam" của thạc
sĩ Chu Ngọc Huyền; Luận văn "Phòng, chống rửa tiền qua hệ thống ngân hàng
Việt Nam" của thạc sĩ Lê Xuân Hiền; "Rửa tiền trở ngại cho phát triển kinh tế"
của tạp chí kinh tế phát triển thành phố Hồ Chí Minh (2005); "phòng chống rửa
tiền: sắp bỏ khai báo thông tin cá nhân" của báo mới (2014). Tuy nhiên, chƣa có
công trình nào nghiên cứu hoàn thiện về công tác phòng chống rửa tiền trong
lĩnh vực hải quan để từ đó đề xuất những vấn đề liên quan đến cải cách pháp lý
nhằm đảm bảo ngăn chặn rửa tiền trên lãnh thổ Việt Nam.
3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn
Hệ thống lại những lý luận cơ bản có liên quan đến rửa tiền;
Đánh giá thực trạng rửa tiền của các nƣớc trên thế giới cũng nhƣ ở Việt
Nam đồng thời nêu lên những tồn đọng của công tác phòng chống rửa tiền
trong lĩnh vực Hải quan Việt Nam hiện nay;
Đƣa ra những kiến nghị nhằm tháo gỡ những khó khăn đồng thời cũng
đƣa ra những giải pháp nhằm hoàn thiện cho việc phòng chống rửa tiền trong
lĩnh vực Hải quan Việt Nam.
4. Đối tƣợng và Phạm vi nghiên cứu
Để thực hiện đề tài trƣớc hết tác giả sẽ tập trung nghiên cứu một cách
toàn diện nội dung và các vấn đề về mặt lí luận liên quan đến rửa tiền trong
lĩnh vực Hải quan.

2


Tiếp đó nội dung phòng, chống rửa tiền đƣợc phân tích thông qua những số

liệu cụ thể trong công tác phòng, chống rửa tiền ở 34 Cục Hải quan tỉnh, thành
phố. Sự phối hợp trong ngành, ngoài ngành Hải quan và hợp tác quốc tế để từ đó
đƣa ra những thuận lợi, khó khăn trong quá trình đấu tranh tội phạm rửa tiền.
Từ những phân tích trên, tác giả kiến giải một số giải pháp nhằm hoàn
thiện pháp luật về rửa tiền cũng nhƣ công tác phòng, chống rửa tiền ở Việt
Nam nói chung và trong ngành Hải quan nói riêng.
5. Phƣơng pháp nghiên cứu
Luận văn sử dụng các phƣơng pháp nghiên cứu khác nhau nhằm tận
dụng đƣợc hết tính ƣu việt của từng loại phƣơng pháp nhƣ:
Thu thập tài liệu để rà soát, phân tích và tham khảo các nguồn thông tin.
Tổng hợp và kế thừa các nghiên cứu trƣớc đây liên quan đến chủ đề
nghiên cứu của tác giả.
Sử dụng các phƣơng pháp nghiên cứu duy vật biện chứng, duy vật lịch
sử kết hợp với các phƣơng pháp thống kế, phân tích, so sánh và đối chiếu,
tổng hợp, tham vấn…để làm sáng tỏ vấn đề đặt ra trong quá trình nghiên cứu.
Vận dụng, các quan điểm, chính sách của Đảng và nhà nƣớc về đổi mới,
mở cửa và hội nhập kinh tế để phân tích thực hiện luận văn.
Nghiên cứu trực tiếp trên các tài liệu liên quan đến Luật Phòng, chống
rửa tiền.
6.Những điểm mới của Luận văn
Rửa tiền là khái niệm còn khá mới mẻ tại Việt Nam cụ thể là trong lĩnh vực
Hải quan, nhận thức của ngƣời dân về vấn đề này chƣa cao. Mặc dù đã có Luật
Phòng, chống rửa tiền và Nghị định quy định chi tiết thi hành một số điều của
Luật phòng, chống rửa tiền nhƣng tính thực tế và hiệu quả thực sự chƣa cao.
Trong giai đoạn đầu của công tác phòng chống rửa tiền nên không thể
tránh khỏi sơ xuất, do đó rất cần những nghiên cứu, các bài học kinh nghiệm
3


của các quốc gia khác cũng nhƣ những đề xuất có hiệu quả cho công tác

phòng chống rửa tiền. Mặc dù thời gian nghiên cứu ngắn nhƣng ngƣời viết
cũng cố gắng đƣa ra đƣợc những giải pháp cơ bản giúp cho giai đoạn đầu của
việc phòng chống rửa tiền tại Việt Nam – cụ thể là trong lĩnh vực Hải quan
đƣợc thực hiện hiệu quả hơn.
7. Kết quả nghiên cứu của Luận văn
Luận văn là công trình nghiên cứu có tính chất chuyên sâu và toàn diện về
phòng chống rửa tiền trong lĩnh vực Hải quan.
Trên cơ sở kết quả nghiên cứu, luận văn đóng góp những kiến nghị hoàn
thiện pháp luật về phòng chống rửa tiền cũng nhƣ tăng cƣờng các biện pháp
phòng chống rửa tiền trong lĩnh vực Hải quan.
8. Kết cấu của đề tài
Ngoài phần mở đầu, phần kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận
văn đƣợc kết cấu làm 3 chƣơng:
Chƣơng 1: Nhận thức cơ bản về Phòng, chống rửa tiền
Chƣơng 2: Hải quan Việt Nam và một số Quốc gia trên thế giới trong
công tác phòng chống rửa tiền
Chƣơng 3: Thuận lợi, khó khăn và một số kiến nghị, giải pháp trong
phòng, chống rửa tiền.

4


Chƣơng 1.
CÁC VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ PHÕNG, CHỐNG RỬA TIỀN
1.1. Khái niệm rửa tiền, quy trình rửa tiền và các hình thức rửa tiền
Ở mỗi một giai đoạn phát triển của nền kinh tế thế giới, khái niệm “rửa
tiền” lại đƣợc hoàn thiện đầy đủ hơn.
Rửa tiền là một quy trình che giấu hoặc che đậy nguồn gốc của tài sản
bất hợp pháp. Quy trình này xuất hiện song song với sự tồn tại của tài sản bất
hợp pháp. Các tài liệu có từ năm 2000 trƣớc Công nguyên đã cho thấy các

thƣơng nhân ở Trung Quốc thƣờng che giấu tài sản của họ và đầu tƣ vào các
doanh nghiệp ở các tỉnh xa hoặc bên ngoài Trung Quốc để tránh bị đế chế cai
trị chiếm mất[35]. Thuật ngữ rửa tiền gắn với tên tuổi Al Capone một thành
viên băng đảng xã hội đen ngƣời sở hữu một doanh nghiệp giặt ủi, một phần
là để che giấu nguồn gốc thu nhập bất hợp pháp của mình[34]. Những kẻ
phạm tội vì lợi ích tài chính luôn phải xử lý vấn đề làm sao để các khoản tiền
có đƣợc do phạm tội hình sự của chúng có vẻ nhƣ có nguồn gốc hợp pháp để
chúng có thể tận hƣởng mà không thu hút sự chú ý không mong muốn, cũng
nhƣ phải chịu những hậu quả tiêu cực từ hành vi phạm tội.
Có nhiều định nghĩa khác nhau về rửa tiền trong luật của các khu vực pháp
lý, trong công ƣớc quốc tế và trong các tài liệu phổ thông hoặc chuyên ngành. Ở
Việt Nam, rửa tiền đƣợc quy định tại Luật Phòng, chống rửa tiền (có hiệu lực bắt
đầu từ ngày 01/01/2013); Nghị định 116/2013/NĐ-CP ngày 04/10/2013 quy định
chi tiết thi hành một số điều của Luật phòng, chống rửa tiền; Thông tƣ số
35/2013/TT-NHNN ngày 31/12/2013 của Ngân hàng Nhà nƣớc Việt Nam hƣớng
dẫn thực hiện một số quy định về phòng, chống rửa tiền; Bộ Luật Hình sự (1999)
và Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Bộ luật Hình sự (2009). Nói chung trong
phần lớn các luật thì rửa tiền thƣờng đƣợc mô tả là quá trình mà theo đó số tiền

5


thu đƣợc do phạm tội hình sự đƣợc tách khỏi tội phạm tạo ra chúng và làm cho
chúng có vẻ nhƣ có nguồn gốc hợp pháp. Nếu đƣợc thực hiện trót lọt và hiệu quả
thì sẽ rất khó hoặc không thể lần theo số tiền tới tội phạm nguồn. Số tiền đƣợc rửa
trót lọt có thể đƣợc sử dụng mà không còn nguy cơ bị tịch biên hoặc tịch thu. Số
tiền thu đƣợc do phạm tội hình sự không chỉ gồm thành quả của việc phạm tội mà
còn gồm khoản lãi trên các thành quả đó (ví dụ nhƣ lãi suất ngân hàng, cổ tức,
tăng giá tài sản, tiền thuê, v.v…). Tiền trả cho một bên thứ ba hỗ trợ quá trình này
cũng đƣợc coi là tiền có đƣợc do phạm tội hình sự và sự hỗ trợ của bên thứ ba đó

cũng đƣợc coi là phạm tội.
Một doanh nghiệp là tội phạm có tổ chức hiện đại (ví dụ chuyên buôn
bán chất ma tuý hoặc buôn ngƣời) thƣờng xuyên tạo ra lƣợng lớn tiền cho tổ
chức của mình. Một phần tiền đƣợc dùng để duy trì doanh nghiệp và hoạt
động tội phạm trong tƣơng lai. Số tiền còn lại cần phải đƣợc rửa vì lợi ích của
kẻ chủ mƣu - đối tƣợng hiếm khi trực tiếp tham gia phạm tội thực tế. Sử dụng
tiền chƣa đƣợc rửa có thể khiến cơ quan thuế để ý đến tội phạm và sẽ đặt câu
hỏi về nguồn gốc của thu nhập. Vì vậy, hoạt động rửa tiền chuyên nghiệp là
cần thiết và cấu thành một phần của tổ chức tội phạm. Các đối tƣợng rửa tiền
chuyên nghiệp của bên thứ ba có thể hỗ trợ trong quá trình rửa tiền với mức
độ và hình thức hỗ trợ khác nhau với một mức phí. Cũng giống nhƣ ở các
dịch vụ khác, phí càng cao thì dịch vụ càng tốt và đáng tin cậy hơn.
Các loại tội phạm khác có thể tạo ra tiền lớn không thƣờng xuyên hoặc
chỉ một lần duy nhất (ví dụ nhƣ một số loại tham nhũng của công). Trong
trƣờng hợp này thì có nhiều khả năng việc rửa tiền sẽ sử dụng kế hoạch không
theo thể thức thông thƣờng. "Tự rửa tiền" là khi tội phạm tự rửa tiền có đƣợc
do phạm tội của mình mà không có sự tham gia hƣởng lợi của bất kỳ một bên
thứ ba nào. Tự rửa tiền cũng là bất hợp pháp. Ngƣợc lại, tội phạm ăn cắp vặt
thƣờng không tạo ra lƣợng tiền đủ lớn để phải rửa và thƣờng có thể sử dụng
tiền bất chính một cách tự do với nguy cơ bị phát hiện không cao.
6


Sự di chuyển của tiền qua biên giới là một cấu phần hấp dẫn và hiệu quả
của bất kỳ một quy trình rửa tiền nào. Lý do cho điều này rất đơn giản: tiền dễ
dàng di chuyển qua biên giới khi đƣợc trao đổi theo thỏa thuận giữa các bên
tƣ nhân (ví dụ nhƣ ngân hàng, cá nhân) trong khi đó những thông tin cần thiết
để giúp chính phủ hiểu đƣợc bản chất của cùng một số tiền đó lại không dễ
dàng thu thập đƣợc. Ở cấp độ pháp lý, các chính phủ thƣờng gặp khó khăn khi
trao đổi thông tin do bị giới hạn bởi các khái niệm cơ bản về tính bảo mật

riêng tƣ và chủ quyền, còn ở cấp độ thực thi thì lại gặp khó khăn do thiếu cơ
chế hiệu quả và thiết thực để trao đổi. Tội phạm rửa tiền liên tục lợi dụng biên
giới để khai thác lỗ hổng này. Chừng nào mà dòng thông tin chính phủ còn
chƣa bắt kịp đƣợc với dòng tiền bất hợp pháp thì tiền còn có thể đƣợc coi là
đã đƣợc rửa. Việc bảo vệ biên giới là một chức năng cơ bản, thiết yếu và
mang tính sống còn đối với bất kỳ một chính phủ nào. Chức năng này cần
đƣợc mở rộng để bao gồm tiền và các công cụ tiền tệ.
Theo xếp hạng của Viện Basel về Chỉ số quản trị rủi ro cho phòng chống
rửa tiền (PCRT), Việt Nam đƣợc coi là có nguy cơ "cao" về rửa tiền (xếp
hạng 25 trong số 144 quốc gia năm 2012). Chỉ số này xem xét một loạt yếu tố
bao gồm cả kết quả đánh giá quốc tế về PCRT, bảng xếp hạng của các chỉ số
khác (ví dụ nhƣ chỉ số về Tham nhũng công của Tổ chức Minh bạch quốc tế
và các đánh giá về quy định pháp luật, rủi ro chính trị, tự do báo chí và sức
mạnh của các tổ chức. Việc sử dụng và chấp nhận tiền mặt rộng rãi tại Việt
Nam làm gia tăng thêm nguy cơ bởi tiền mặt giúp che giấu danh tính và khó
hoặc không thể lần theo nguồn gốc và điểm đến của tiền mặt.
Quy trình rửa tiền
Trƣớc khi có thể rửa tiền phải có tội phạm tạo ra tiền. Tội phạm này
đƣợc gọi là "tội phạm nguồn" bởi vì nó phải diễn ra trƣớc khi tiền đƣợc tạo ra.
Tuy nhiên lại không cần phải chứng minh tội phạm nguồn (dù thông thƣờng
7


thì vẫn chứng minh đƣợc tội phạm nguồn). Thay vào đó, chỉ cần chứng minh
rằng số tiền thu đƣợc là kết quả của phạm tội. Đôi khi việc này có thể đƣợc
chứng minh bằng cách cho thấy rằng không có bất cứ một nguồn thu hợp
pháp nào để hình thành nên số tiền đó. Ở Việt Nam, tất cả các tội phạm hình
sự có thể đƣợc coi là tội phạm nguồn cho tội rửa tiền.

Hình 1.1. Quy trình rửa tiền điển hình

Quá trình rửa tiền bao gồm ba giai đoạn riêng biệt. Các giai đoạn có thể
hiện hữu theo dạng này hay dạng khác với mức độ khác nhau và thậm chí có
thể chồng chéo. Hiểu rõ về ba giai đoạn này sẽ giúp xác định và phân tích
kiểu hình và phát triển các kỹ thuật để phát hiện và phòng chống rửa tiền. Sau
đây là tóm tắt của từng giai đoạn rửa tiền:
Một là, giai đoạn cài đặt. Khi tiền có đƣợc do phạm tội đã đƣợc tạo ra, giai
đoạn đầu tiên của quá trình rửa tiền sẽ nhằm tách tiền có đƣợc từ tội phạm nguồn
bằng cách đƣa nó vào hệ thống tài chính hoặc chuyển đổi nó thành một tài sản
tài chính khác. Việc này có thể tiến hành bằng cách gửi tiền vào ngân hàng, mua
8


trái phiếu hoặc chứng khoán bằng tiền mặt, mua bảo hiểm, mua bất động sản,
mua đá quý và kim loại quý, mua các mặt hàng xa xỉ hoặc mua các phƣơng tiện
tƣơng tự. Những tổ chức có giao dịch liên quan đến tiền mặt cần phải kiểm soát
để phát hiện và báo cáo về việc cài đặt tiền mặt nhƣ trên. Vì vậy, cài đặt là giai
đoạn nguy hiểm nhất của quá trình rửa tiền khi nó diễn ra ở các nƣớc có pháp
luật về phòng chống rửa tiền tuân theo chuẩn mực quốc tế và đƣợc quản lý hiệu
quả. Tội phạm thƣờng sẽ tìm cách di chuyển tiền qua biên giới để tới các vùng
lãnh thổ có luật định về PCRT đƣợc thực thi một cách yếu kém. Sau khi đã qua
giai đoạn cài đặt, tiền vẫn còn "bẩn" và dễ dàng có thể lần theo dấu vết tới đối
tƣợng rửa tiền, nhƣng ít nhất tiền không còn ở dạng ban đầu và hình thức mới
của tiền sẽ phù hợp hơn cho các giai đoạn rửa tiền tiếp theo.
Hai là, giai đoạn xếp lớp. Khi tiền thu đƣợc từ phạm tội hình sự đã đƣợc
đƣa vào hệ thống tài chính, mục tiêu tiếp theo sẽ là tiếp tục tạo thêm khoảng
cách giữa tiền thu đƣợc do phạm tội với tội phạm nguồn. Quá trình tạo
khoảng cách này bao gồm việc tạo ra các lớp phủ phức tạp nhằm gây khó
khăn cho việc lần theo dấu vết đến nguồn tiền. Tiền càng đƣợc rửa kỹ thì càng
có nhiều lớp phủ và sẽ càng khó cho các nhà chức trách lần theo dấu vết giao
dịch thông qua các lớp đó. Các lớp phủ thƣờng gồm chuyển giao quyền sở

hữu nhằm che giấu và/hoặc khiến cho việc xác định chủ sở hữu thực sự gặp
khó khăn hoặc không thể thực hiện đƣợc. Các lớp phủ có thể liên quan đến
giao dịch tài chính cơ bản, giao dịch tài chính phức tạp, giao dịch qua biên
giới quốc tế, giao dịch sản phẩm, giao dịch thƣơng mại, giao dịch dịch vụ,
hay bất kỳ giao dịch nào khác nhằm tạo lớp vỏ che đậy. Số lƣợng và kiểu xếp
lớp tuỳ thuộc vào mức độ liều lĩnh của tội phạm, phí tổn mà tội phạm sẵn
sàng mất và thời gian tội phạm sẵn sàng chờ đợi trƣớc khi hƣởng đƣợc khoản
tiền, kiến thức của tội phạm về hệ thống tài chính, kỹ năng rửa tiền, khả năng
sử dụng vốn hiểu biết và kỹ năng này để tiếp cận với đồng đảng và quan trọng
9


nhất là nguy cơ bị phát hiện, điều tra và truy tố bởi cơ quan thực thi pháp luật.
Các nguy cơ bị phát hiện, điều tra và truy tố bởi cơ quan thực thi pháp luật lại
phụ thuộc vào khả năng và sự sẵn sàng của các tổ chức tài chính để phát hiện
và báo cáo các hoạt động rửa tiền và khả năng phối hợp của các cơ quan điều
tra và tƣ pháp trong việc điều tra và truy tố các hoạt động nhƣ vậy bất cứ khi
nào và ở bất cứ nơi nào tội phạm hoạt động, đặc biệt là khi hoạt động tội
phạm vƣợt qua các biên giới quốc tế và đòi hỏi phải có hợp tác quốc tế.
Ba là, giai đoạn hoà nhập. Giai đoạn cuối cùng khi số tiền thu đƣợc do
phạm tội, vốn đã rất khó để lần theo dấu vết, lại đƣợc tích hợp vào nền kinh tế
chính thống để có vẻ ngoài hợp pháp và làm lợi cho tội phạm nguồn. Số tiền
đƣợc hoà nhập có thể ở dƣới hình thức tiền lƣơng, quà tặng, lãi từ đầu tƣ,
thắng cờ bạc, tiền thu từ các thoả thuận kinh doanh có vẻ nhƣ hợp pháp, tiền
thuê, tiền bản quyền v.v…
Có vô số cách để rửa tiền thông qua các phân đoạn này. Quá trình rửa
tiền rất năng động và liên tục phát triển trong bối cảnh có các phƣơng pháp
điều tra, phát hiện và truy tố tốt hơn. Mỗi lần cơ quan thực thi pháp luật đập
tan một phƣơng thức rửa tiền thì một phƣơng thức rửa tiền mới lại xuất hiện
và điều này là không thể tránh khỏi. Mục tiêu của một cơ chế PCRT hiệu quả

là tiếp tục đẩy tội phạm rửa tiền ra khỏi hệ thống tài chính và buộc chúng phải
sử dụng các phƣơng thức rửa tiền rủi ro, khó khăn và tốn kém hơn. Bằng cách
gia tăng rủi ro và làm giảm các lợi ích của tội phạm kinh tế, chúng ta sẽ triệt
hạ đƣợc căn nguyên để loại tội phạm này tồn tại. Vì lý do đó, mỗi lần đập tan
đƣợc một phƣơng thức rửa tiền có thể đƣợc coi là một lần thành công.
Để minh họa cho quy trình rửa tiền, học viên sẽ đƣa ra một ví dụ để minh
họa từng giai đoạn nhƣ sau:

10


Phân đoạn

Hoạt động
Một chính trị gia tham nhũng nhận các khoản hối lộ

Tội phạm nguồn lớn bằng tiền mặt lớn để tác động đến việc phê duyệt hợp
đồng.
Tiền mặt đƣợc vận chuyển lậu qua biên giới tới một
quốc gia nổi tiếng là có quy định yếu kém trong PCRT.
Cài đặt

Sau khi qua biên giới, số tiền này đƣợc đƣợc đƣa vào một
tài khoản ngân hàng.
Sau khi đƣợc đƣa vào nƣớc ngoài, tiền đƣợc sử dụng
để mua các tài sản nhằm mục đích cho thuê lại để lấy tiền.

Xếp lớp

Tiền thu đƣợc sau đó đƣợc sử dụng để mua một loạt xe

hơi có giá trị cao để xuất ngƣợc trở lại nƣớc xuất xứ của
tội phạm nguồn bằng cách sử dụng hoá đơn giả.
Một công ty nhập khẩu xe ôtô thuộc sở hữu của vợ
của chính trị gia tham nhũng ở nƣớc của tội phạm nguồn

Hoà nhập

nhận xe hơi và bán chúng một cách hợp pháp. Tài sản
đƣợc sử dụng để nhằm phục vụ lợi ích của chính trị gia
tham nhũng và gia đình của mình và đƣợc lý giải thông
qua sự thành đạt của ngƣời vợ là doanh nhân.

Các hình thức rửa tiền
Sau đây là một số phƣơng pháp rửa tiền, thƣờng đƣợc gọi là hình
thức/kiểu hình rửa tiền, đã đƣợc sử dụng trên toàn thế giới:
Một là, hình thức vận chuyển tiền mặt. Đây đƣợc coi là một hình thức
rửa tiền đơn giản và truyền thống vẫn đang đƣợc sử dụng rộng rãi. Thực tế
cho thấy việc sử dụng phƣơng pháp này đang có chiều hƣớng gia tăng vì một
số chính phủ đã quản lý hệ thống tài chính của họ hiệu quả hơn. Theo phƣơng
11


pháp này, bọn tội phạm hoặc đồng phạm của chúng chỉ cần thực hiện hành vi
đơn giản là mang tiền qua biên giới. Sau khi qua biên giới, tiền có thể đƣợc
đổi sang bản tệ và đƣợc sử dụng để chi trả cho tài khoản ngân hàng, đầu tƣ,
mua hàng v.v… Thông thƣờng tiền đƣợc di chuyển từ quốc gia nơi tiền có
đƣợc do phạm tội hình sự đƣợc tạo ra và di chuyển đến các quốc gia mà ở đó
chúng có thể đƣợc sử dụng hoặc cài đặt vào hệ thống. Quốc gia là điểm đến
của luồng tiền thu đƣợc do phạm tội này thƣờng là các quốc gia có luật lệ và/
hoặc kiểm soát PCRT yếu kém. Trong ngành hải quan thì phƣơng pháp này

thƣờng đƣợc gọi là buôn lậu tiền mặt số lƣợng lớn. Lợi ích chủ yếu của
phƣơng pháp này ngoài tính giản đơn của nó là không để lại dấu vết kiểm
toán và rất khó để lần theo nguồn gốc của tiền.
Hai là, thông qua sòng bạc và các trò chơi may rủi khác. Sòng bạc đôi
khi đƣợc sử dụng trong phân đoạn “cài đặt” tiền có đƣợc do phạm tội hình sự.
Tiền phạm tội sẽ đƣợc đổi để lấy “thẻ bài”. Sau đó, tội phạm rửa tiền sử dụng
thẻ bài để đánh bạc. Tội phạm có thể chọn các trò chơi có độ rủi ro thấp hoặc
đặt cƣợc bù trừ để cân bằng rủi ro. Sau khi chơi một thời gian, các thẻ bài có
thể đƣợc đổi lấy séc để đòi tiền từ tài khoản ngân hàng của sòng bạc. Séc sẽ
dễ gửi vào ngân hàng hơn là tiền mặt. “Các trùm xò tổ chức đánh bạc” cũng là
đối tƣợng có nguy cơ rửa tiền.
Xổ số có thể bị lạm dụng bằng cách mua lại vé trúng thƣởng từ ngƣời trúng
số với mức giá cao hơn sau khi quay giải. Vé có thể đƣợc đổi lấy giải và giải
thƣởng có thể là lý giải hợp pháp cho nguồn gốc của số tiền. Vé số cũng có thể
đƣợc mua trƣớc khi công bố vé trúng thƣởng. Nếu mua vé với khối lƣợng đủ lớn
thì có thể có một sự đảm bảo hợp lý là tội phạm rửa tiền có thể trúng thƣởng. Vì
vé thƣờng đƣợc mua với khối lƣợng tiền mặt nhỏ và không có hồ sơ lƣu, đây có
thể trở thành một công cụ hấp dẫn cho các tình huống rửa tiền nhất định.

12


Ba là, hình thức mua kim loại quý, đá quý. Tội phạm rửa tiền đôi khi
chuyển đổi tiền mặt sang kim loại quý, đá quý. Chúng cũng giúp che giấu
danh tính tƣơng tự nhƣ tiền mặt nhƣng chúng thƣờng đỡ cồng kềnh và nhẹ
hơn. Những đặc điểm này làm cho việc che giấu và vận chuyển chúng dễ
dàng hơn. Hơn nữa, chúng có thể đƣợc bán bất cứ nơi nào trên thế giới với giá
phù hợp và có thể dự đoán trƣớc đƣợc (ví dụ nhƣ vàng).
Bốn là, rửa tiền thông qua các công ty bảo hiểm. Tội phạm có thể sử
dụng tiền thu đƣợc để mua bảo hiểm từ một công ty bảo hiểm. Sau một

khoảng thời gian, hợp đồng bảo hiểm có thể đƣợc hoàn trả bằng séc và có vẻ
nhƣ là một nguồn tiền hợp pháp. Đôi khi hợp đồng bảo hiểm có thể đƣợc sử
dụng nhƣ là tài sản thế chấp thể thực hiện các giao dịch khác (ví dụ nhƣ vay
nợ, mua hàng).
Năm là, rửa tiền thông qua hệ thống tín dụng. Tội phạm có thể gửi tiền
trong tài khoản tiết kiệm hoặc sử dụng số tiền đó để mua trái phiếu có kỳ hạn.
Cơ chế tiết kiệm này cho phép tiền nằm yên trong tài khoản trong một khoảng
thời gian nhất định, thƣờng từ ba đến năm năm. Sau thời gian đó, tiền đƣợc
rút ra cùng với lãi và trở thành tiền hợp pháp. Trong thời gian gửi trong tài
khoản, tội phạm có thể sử dụng khoản tiết kiệm đó làm bảo lãnh thế chấp cho
một khoản vay tại một ngân hàng thƣơng mại.
Sáu là, rửa tiền thông qua các doanh nghiệp kinh doanh dịch vụ tiền tệ/
chuyển nhượng giá trị/các hệ thống chuyển tiền thay thế. Hệ thống ngân hàng
chính thức dựa trên các quy tắc và quy định nghiêm ngặt và hiệu lực pháp lý
của hợp đồng trong hoạt động kinh doanh chuyển tiền của họ. Vi phạm các
quy định và luật lệ đƣợc điều chỉnh thông qua cƣỡng chế hành chính và hình
sự. Nếu hợp đồng bị vi phạm, các bên có quyền viện dẫn tới quy định của
pháp luật trong nƣớc và quốc tế. Khách hàng của các ngân hàng chính thức
đặt niềm tin vào "hệ thống". Ngƣợc lại, các hệ thống phi chính thức dựa vào
13


một mạng lƣới các mối quan hệ dựa trên sự tin tƣởng giữa các nhà cung cấp
dịch vụ chuyển tiền. Các nhà cung cấp phi chính thức này sẽ ở trong mạng
lƣới chừng nào họ còn đƣợc các đối tác và khách hàng của họ tin cậy. Khách
hàng đặt niềm tin vào mối quan hệ cá nhân hơn là hệ thống. Vì lý do đó, hệ
thống chuyển giao giá trị không chính thức thƣờng đƣợc gọi là hệ thống tín
thác. Thƣờng, các hệ thống tín thác này có thể chuyển tiền rẻ hơn và nhanh
hơn so với các hệ thống chính thức do có tổng chi phí hoạt động thấp và
không mất chi phí tuân thủ theo quy định. Phạm vi cung cấp của nhà cung cấp

tín thác thƣờng rộng (ví dụ tới tận làng mạc xa xôi) - tới những địa điểm mà
hệ thống ngân hàng chính thức thông qua các chi nhánh của mình cũng không
vƣơn tới đƣợc. Những nhà cung cấp dịch vụ trong hệ thống tín thác không
thực sự chuyển tiền mà thay vào đó, họ nhận tiền hoặc vật có giá trị từ khách
hàng và yêu cầu các đối tác trong mạng lƣới của họ phải trả một giá trị tƣơng
đƣơng cho một ngƣời thụ hƣởng đƣợc chỉ định ở một nơi khác. Việc này tạo
ra các khoản ghi nợ giữa các nhà cung cấp. Nợ có thể đƣợc bù đắp bởi giao
dịch khác theo hƣớng ngƣợc lại hoặc có thể đƣợc trao đổi thƣơng mại giữa
các nhà cung cấp dịch vụ hoặc nó có thể đƣợc thanh toán bằng một khoản vay
hoặc giao dịch thƣơng mại hoặc bằng một số phƣơng tiện khác. Việc không
phải tuân theo quy định chính thống và không mất chi phí vận hành cao làm
cho hệ thống này rất hiệu quả và linh hoạt.
Các hệ thống chuyển nhƣợng giá trị trên cơ sở tín thác mang lại lợi ích rõ
ràng cho tội phạm rửa tiền. Quan trọng nhất là các hệ thống này đảm bảo che
giấu danh tính của đối tƣợng rửa tiền. Do không có thông tin lƣu đầy đủ lâu
dài nên rất khó lần theo giao dịch. Giá trị có thể đƣợc dịch chuyển qua biên
giới với ít hoặc không hề có giám sát. Giá trị có thể đƣợc trao cho ngƣời thụ
hƣởng dƣới hình thức khác so với hình thức gửi ban đầu. Ví dụ, tội phạm có
thể gửi bằng một loại tiền của một nƣớc (ví dụ nhƣ đô la Mỹ) qua một nhà
14


cung cấp địa phƣơng và đối tác của nhà cung cấp này ở đầu bên kia có thể
thực hiện thanh toán tƣơng ứng với ngƣời thụ hƣởng bằng một loại tiền tệ của
một quốc gia khác (ví dụ nhƣ Euro). Các hệ thống tín thác có thể đƣợc gọi
bằng tên khác nhau ở các quốc gia khác nhau nhƣ Hawallah (Ấn Độ), Hundi
(Pakistan), Poey Quan (Thái Lan) và Fie Ch'ieu (Trung Quốc).
Bảy là, rửa tiền thông qua việc làm chứng từ giả. Bất kỳ loại giấy tờ nào
mà có thể đƣợc sử dụng để làm giả giá trị đích thực của một tài sản thì đều có
khả năng trở thành công cụ để tội phạm rửa tiền sử dụng. Phƣơng pháp này đặc

biệt hữu ích khi chứng từ không đi kèm theo tài sản hoặc khi giá thị trƣờng của
một tài sản mang tính chủ quan và không dễ xác định đƣợc. Ví dụ, một thẩm
định viên nghệ thuật chuyên nghiệp đƣa ra thẩm định sai về giá trị của một tác
phẩm nghệ thuật thuộc sở hữu của tội phạm rửa tiền, cho rằng đó là tác phẩm có
giá trị cao và tội phạm rửa tiền bán các tác phẩm nghệ thuật trên cơ sở giá thẩm
định cho một đồng phạm (có thể là đồng phạm ở nƣớc ngoài). Sau đó, tiền đƣợc
chuyển từ kẻ đồng lõa cho tội phạm rửa tiền bằng phƣơng thức có vẻ hợp pháp
dựa trên giá trị thẩm định tác phẩm nghệ thuật của mình. Tuy nhiên,vì giá trị thị
trƣờng bình thƣờng trong thực tế thấp hơn giá trị thẩm định, kết quả chuyển
nhƣợng sẽ bằng sự chênh lệch giữa hai giá trị này từ ngƣời mua (đối tƣợng đồng
lõa) sang ngƣời bán (đối tƣợng rửa tiền).
Việc sử dụng hoá đơn giả để rửa tiền là một phƣơng pháp hiệu quả và là
vấn đề đặc biệt nhức nhối cho hải quan. Có nhiều cách để thực hiện hoá đơn
giả. Một cách là đƣa ra hoá đơn hoàn toàn giả (mà không có trao đổi hàng hóa
và dịch vụ) và công ty là bên phải trả tiền theo hoá đơn đó sẽ gửi tiền bẩn để
thanh toán. Có thể hoá đơn đó là thanh toán cho số hàng thật nhƣng khối
lƣợng hoặc giá trị hàng hoá sẽ khác so với khối lƣợng đƣợc hiển thị trên hoá
đơn và không phản ảnh giá trị thực sự của hàng hóa hoặc dịch vụ. Một thủ
đoạn rửa tiền khác là gửi hoá đơn cho đơn đặt hàng hợp pháp và sau đó một
15


thời gian lại gửi tiếp một lần nữa. Hoá đơn thứ hai này cũng sẽ đƣợc thanh
toán, nhƣng không có hàng hoá đƣợc trao đổi. Rất khó xác định hành vi này,
đặc biệt nếu các công ty có nhiều đơn đặt hàng và hoá đơn hợp pháp.
Tám là, thông qua hình thức cổ phần và các loại chứng khoán khác.
Chứng khoán là một công cụ tài chính có thể trao đổi đƣợc đại diện cho một
giá trị tài chính. Có nhiều loại chứng khoán khác nhau. Ví dụ, trái phiếu là
một loại chứng khoán nợ đại diện cho cam kết của công ty phát hành trái
phiếu là sẽ mua lại trái phiếu tại một thời điểm nhất định với một mức giá

nhất định và thực hiện thanh toán định kỳ cho chủ sở hữu trái phiếu trong một
số trƣờng hợp. Một cổ phiếu là chứng khoán vốn đại diện cho quyền sở hữu
trong một công ty và quyền tƣơng đƣơng với vốn cổ phần trong công ty đó
cũng nhƣ bất kỳ khoản lợi nhuận nào trên vốn chủ sở hữu đó. Một số chứng
khoán đƣợc đại diện bởi một chứng chỉ cụ thể mà cấp quyền sở hữu cho chủ
sở hữu đã đăng ký. Trong một số trƣờng hợp không có đăng ký quyền sở hữu
và ngƣời cầm chứng khoán là ngƣời sở hữu (nhƣ vẫn đƣợc gọi là "trái phiếu
vô danh"). Trong trƣờng hợp này, trái phiếu cũng giống nhƣ tiền mặt ở chỗ
giúp cho việc che giấu danh tính cũng nhƣ truy xuất nguồn gốc, tuy nhiên giá
trị của chứng khoán đó có thể là lớn hơn nhiều so với giá trị của tiền mặt (lƣu
ý trên thực tế, tiền tệ là một hình thức trái phiếu vô danh ở cấp độ thấp).
Vì lý do đó, các trái phiếu và chứng khoán vô danh có thể cực kỳ hấp
dẫn đối với tội phạm rửa tiền và trốn thuế. Cũng vì lý do đó mà nhiều chính
phủ (ví dụ nhƣ Chính phủ Mỹ vào năm 1982) đã phải loại bỏ việc sử dụng trái
phiếu vô danh. Phần lớn các chính phủ đều yêu cầu khai báo chứng khoán vô
danh khi chúng đƣợc dịch chuyển qua biên giới quốc tế.
Một rủi ro của trái phiếu vô danh là có thể dễ dàng bị mất, bị hủy, bị giả
mạo, hoặc bị đánh cắp. Nhìn chung các tổ chức phát hành hợp pháp hoặc chủ
sở hữu chứng khoán không nắm giữ loại hình trái phiếu này. Tuy nhiên, đa
16


phần chứng khoán đƣợc đăng ký với một chủ sở hữu theo hình thức bút toán
điện tử để trao đổi mà không cần cấp chứng chỉ. Đối với các chứng khoán
này, nguy cơ rửa tiền chính là ở giai đoạn cài đặt khi chứng khoán có thể
đƣợc mua bằng tiền mặt ở một số định chế tài chính. Trong trƣờng hợp giả
mạo giấy tờ, giá trị của chứng khoán đƣợc giao dịch với biên độ và phạm vi
hẹp (những chứng khoán mà không có thị trƣờng thực sự), với mức giá có thể
đƣợc thổi phồng hoặc hạ giá một cách giả tạo và đƣợc sử dụng nhƣ một
phƣơng tiện để dịch chuyển giá trị giữa các đồng phạm. Cũng giống nhƣ ở

những nơi có sự xuất hiện tiền bẩn, ảnh hƣởng có thể mang tính bóp méo và
khiến các nhà đầu tƣ hợp pháp thoái lui khỏi thị trƣờng.
Chín là, thực hiện giao dịch bất động sản. Bọn tội phạm thƣờng sử dụng
tiền bẩn để mua bất động sản. Điều này đặc biệt đúng trong các nền kinh tế giao
dịch chủ yếu bằng tiền mặt nhƣ Việt Nam. Sau khi bán bất động sản, số tiền thu
đƣợc có nguồn gốc hợp pháp. Tài sản thƣờng đƣợc mua đứng tên họ hàng nhƣ
vợ/chồng, con, anh, chị, em ruột hoặc tên của ngƣời thứ ba khác. Do giá trị của
bất động sản thƣờng đƣợc xác định qua thẩm định hoặc thông qua các cuộc đàm
phán của hai bên, giá trị bất chính cũng có thể đƣợc dịch chuyển nhờ các giấy tờ
giả hoặc gây hiểu lầm nhƣ đƣợc mô tả ở phần trên (tức là bất động sản có thể
đƣợc định giá thấp tại thời điểm mua và nhờ vậy dịch chuyển tiền từ ngƣời bán
sang ngƣời mua hoặc bất động sản có thể đƣợc định giá quá cao tại thời điểm
mua và do đó chuyển tiền từ ngƣời mua cho ngƣời bán).
Mười là, đầu tư vào các tài sản sinh lời. Nhiều quốc gia nỗ lực thu hút
nguồn vốn đầu tƣ nƣớc ngoài với khối lƣợng lớn để đáp ứng nhu cầu về vốn
và công nghệ trong nƣớc. Bởi vậy, luật đầu tƣ nƣớc ngoài ở các nƣớc này do
đó đƣợc xây dựng theo hƣớng tạo điều kiện thuận lợi và khuyến khích đầu tƣ.
Quy định trong luật đôi khi quá cởi mở và linh hoạt đến mức không xem xét
kỹ lƣỡng nguồn gốc đầu tƣ và tiền bẩn có thể đƣợc chấp nhận cùng với tiền
17


sạch. Trong những trƣờng hợp nhƣ vậy, tội phạm có thể tƣơng đối dễ dàng
đƣa tiền vào các nƣớc này thông qua việc mua bất động sản, nhà máy, các
công ty phá sản, hoặc thông qua việc thiết lập các công ty có vốn đầu tƣ nƣớc
ngoài mới. Lợi nhuận thu đƣợc từ đầu tƣ sẽ có vẻ hợp pháp và tài sản có thể
đƣợc bán sau đó và số tiền thu đƣợc cũng có vẻ nhƣ có nguồn gốc hợp pháp.
1.2. Hậu quả và ảnh hƣởng của rửa tiền
Việc rửa tiền dù thông qua hình thức nào đi nữa cũng đều gây ra những
hậu quả khó lƣờng cho nền kinh tế, chính trị và xã hội không chỉ một mà

nhiều quốc gia khác nhau trên thế giới.
Thứ nhất là, làm xói mòn hệ thống kinh tế, xã hội và chính trị gia tăng
tội phạm. Rửa tiền có thể dẫn đến một loạt các hậu quả tiêu cực cho các cá
nhân, các doanh nghiệp, ngành công nghiệp và nền kinh tế quốc dân. Lý do
cốt lõi là vì tội phạm rửa tiền chủ yếu quan tâm đến việc bảo vệ và hợp pháp
hóa tiền bất hợp pháp của chúng chứ không phải là tối đa hóa lợi nhuận. Vì
cách tiếp cận nhằm tối đa hóa lợi nhuận củng cố sự hiểu biết, tổ chức và quản
lý chung của một nền kinh tế thị trƣờng nên những hành vi khác biệt so với
cách tiếp cận chính thống này sẽ bóp méo và làm suy yếu nền kinh tế ở nhiều
cấp độ. Hơn nữa, chừng nào rửa tiền còn đƣợc thực hiện trót lọt và chứng tỏ
việc phạm tội mang lại lợi nhuận thì tội phạm sẽ nhiều hơn để tạo ra tiền bất
hợp pháp. Điều này có nghĩa là sẽ xảy ra nhiều vụ gian lận, tham nhũng, tham
ô, buôn lậu ma tuý hơn… Điều này cũng có nghĩa là doanh nghiệp hợp pháp
sẽ khó tồn tại hơn và sẽ phải gánh chịu gánh nặng thuế lớn hơn vì các hoạt
động kinh tế bị dịch chuyển khỏi các hình thức hợp pháp.
Rửa tiền thành công trao quyền lực kinh tế vào tay tội phạm trong khi
gây tổn thất cho các cá nhân, những thành viên thị trƣờng hợp pháp, chính
phủ và do đó làm suy yếu kết cấu xã hội và mối quan hệ giữa công dân với

18


×