Tải bản đầy đủ (.doc) (100 trang)

Phát triển hoạt động giao nhận vận tải hàng hoá đối với công ty TNHH SANHO

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (433.47 KB, 100 trang )

LỜI MỞ ĐẦU
Trong công cuộc công nghiệp hoá - hiện đại hoá, đất nước ta
đang chuyển mình từ nền kinh tế bao cấp, nhỏ lẻ sang nền kinh tế
nhiều thành phần, một nền kinh tế thị trường có sự quản lý của
Nhà nước. Nhất là giai đoạn hiện nay khi thực hiện gia nhập WTO
thì vấn đề nâng cao năng lực sản xuất trong nước và thu hút vốn
đầu tư nước ngoài đang được đặt lên hàng đầu trong kim chỉ nam
phát triển kinh tế đất nước.
Để mỗi quốc gia có thể mở rộng quan hệ làm ăn buốn bán và
đầu tư sang các quốc gia khác thì đòi hỏi phải có các đơn vị đứng
ra chịu trách nhiệm kết nối họ với nhau. Đặc biệt vấn đề vận tải và
giao nhận hàng hoá là một công đoạn hữu ích, cần có để giao lưu
kinh tế, mở rộng buôn bán quốc tế. Nước ta đã và đang thực hiện
việc đa dạng hoá, đa phương hoá trong các mối quan hệ kinh tế,
văn hoá, giáo dục, chính trị với tất cả các quốc gia khác trên thế
giới không phân biệt sắc tộc, tôn giáo, bản chất chính trị.
Một trong số hàng trăm công ty lớn nhỏ trực thuộc Nhà nước
hay tư nhân thì Công ty TNHH Vận tải và Giao nhận hàng hoá
SANHO là một doanh nghiệp đóng góp đáng kể vào nguồn thu
ngân sách Nhà nước và đẩy nhanh việc xúc tiến thương mại quốc
tế. SANHO giúp cho hàng hoá mang thương hiệu Việt Nam có
được cơ hội tham gia cạnh tranh trên trường quốc tế. Bên cạnh đó,
SANHO cũng đồng thời là một đơn vị mạnh trong lưu thông hàng
hoá trong nước được rất nhiều đối tác tín nhiệm. Tuy nhiên,

Sinh viªn thùc hiÖn: Ph¹m ChÝ Híng

Líp TM - 42A 1


SANHO cũng là một doanh nghiệp trụ vững ở thị trường chưa lâu


(gần 5 năm) nên còn gặp phải không ít những khó khăn trong quan
hệ hợp tác kinh tế quốc tế, chưa thực sự đủ mạnh để có thể có được
phần lớn thị trường trong nước và quốc tế. Từ những lý do trên mà
bản thân tôi đã rất trăn trở đi tìm giải pháp cho vấn đề đó: “Phát
triển hoạt động giao nhận vận tải hàng hoá đối với Công ty TNHH
SANHO”.
Để có thể giải quyết được những vấn đề đó thì qua đề tài này
tôi sẽ đề cấp tới một số vấn đề sau đây:
Thứ nhất: Lý luận chung về hoạt động giao nhận vận tải ở các
doanh nghiệp.
Thứ hai: Phân tích hoạt động giao nhận vận tải hàng hoá của
Công ty TNHH SANHO (CORAL).
Thứ ba: Một số giải pháp phát triển hoạt động giao nhận vận tải
hàng hoá đối với Công ty TNHH SANHO (CORAL).
Tuy nhiên, tôi đã rất cố gắng để đưa ra những ý kiến đóng góp
cho sự phát triển của công ty CORAL cũng như cho sự hưng thịnh
của Quốc gia nhưng do thời gian còn hạn hẹp nên một số thiếu sót
là không thể tránh khỏi. Tôi rất mong có được những ý kiến đóng
góp quý giá của các thầy cô cùng các anh chị đang công tác tại
Công ty TNHH SANHO. Qua đây cho tôi gửi lời cảm ơn trân thành
tới GS.PTS.Nguyễn Thừa Lộc cùng toàn thể các anh chị trong
Công ty TNHH SANHO đã nhiệt tình giúp đỡ tôi trong quá trình
hoàn thiện đề tài này.
Sinh viªn thùc hiÖn: Ph¹m ChÝ Híng

Líp TM - 42A 2


Hà nội, ngày….. tháng 04 năm 2007
Sinh viên thực hiện

Phạm Chí Hướng

Sinh viªn thùc hiÖn: Ph¹m ChÝ Híng

Líp TM - 42A 3


CHƯƠNG I:
LÝ LUẬN CHUNG VỀ HOẠT ĐỘNG GIAO NHẬN VẬN
TẢI Ở CÁC DOANH NGHIỆP.
I. BẢN CHẤT, VAI TRÒ DỊCH VỤ VẬN TẢI VÀ GIAO
NHẬN HÀNG HOÁ TRONG CÁC DOANH NGHIỆP.
1.1. Bản chất hoạt động giao nhận vận tải hàng hoá của các
doanh nghiệp trong nền kinh tế quốc dân.
1.1.1. Khái niệm giao nhận vận tải hàng hoá.
* Vận tải hàng hoá: Là sự chuyển dịch hàng hoá từ nơi sản xuất
tới nơi tiêu dùng do một tổ chức hay cá nhân đứng ra chịu trách
nhiệm. Đây là một hoạt động nhằm đảm bảo cho hàng hoá được lưu
thông trên thị trường có sự cam kết giữa người sản xuất và đơn vị
nhận chuyển giao hàng hoá tới nơi mà người sản xuất chỉ định. Bên
cạnh đó, dịch vụ giao nhận hàng hoá là một loại hình dịch vụ do một
đơn vị, tổ chức đứng ra đảm bảo rằng hàng hoá sẽ được chuyển đến
đúng nơi mà hàng hoá cần đến bằng sự cam kết giữa bên uỷ quyền và
người giao nhận với chi phí dịch vụ do bên giao hay nhận hàng trả.
* Giao nhận hàng hoá: cũng giống như vận tải hàng hoá, giao
nhận hàng hoá nằm trong khâu lưu thông. Giao nhận hàng hoá bao
gồm tất cả những hoạt động liên quan đến vận chuyển, gom hàng, lưu
kho, bốc xếp, đóng gói hay phân phối hàng hoá cũng như các hoạt
động dịch vụ tư vấn có liên quan tới các hoạt động kể trên, kể cả các
vấn đề hải quan, tài chính, mua bán bảo hiểm, thanh toán, thu thập

chứng từ liên quan đến hàng hoá. Theo luật thương mại Việt nam thì
Sinh viªn thùc hiÖn: Ph¹m ChÝ Híng

Líp TM - 42A 4


giao nhận hàng hoá là hành vi thương mại, theo đó người làm dịch vụ
giao nhận hàng hoá nhận hàng từ người gửi, tổ chức vận chuyển, lưu
kho, lưu bãi, làm các thủ tục giấy tờ và các dịch vụ khác có liên quan
để giao hàng cho người nhận theo sự uỷ thác của chủ hàng, của người
vận tải hay của người giao nhận khác có liên quan.
Nói một cách ngắn gọn, giao nhận là tập hợp những nghiệp vụ,
thủ tục có liên quan đến quá trình vận tải nhằm thực hiện việc di
chuyển hàng hoá từ nơi gửi hàng( người gửi hàng ) đến nơi nhận
hàng( người nhận hàng ). Người giao nhận có thể làm các dịch vụ trực
tiếp hoăc thông qua đại lý và thuê dịch vụ của người thứ ba.
Trong bất kỳ xã hội nào cũng đều có những ưu nhược điểm của
nó, từ khi xã hội có sự phân hoá giai cấp, của cải ngày càng nhiều thì
vấn đề lưu thông, phân phối hàng hoá càng diễn ra mạnh mẽ. Quốc gia
cũng như cá nhân không thể sống một cách riêng rẽ mà có được đầy
đủ mọi thứ hàng hoá. Từ đó nảy sinh ra việc trao đổi hàng hoá cho
nhau, nảy sinh những mối quan hệ buôn bán giữa các vùng kinh tế
trong khu vực và giao lưu buôn bán quốc tế. Như vậy, để thực hiện
cho việc giao lưu hàng hoá trong buôn bán nội địa hay quốc tế thì tất
yếu nảy sinh đơn vị, tổ chức đứng ra chịu trách nhiệm chuyển đưa
hàng hoá cũng như tìm hiểu thị trường tiêu dùng, tập quán, văn hoá,
lối sống của một địa phương, vùng kinh tế hay một quốc gia, châu lục
trên thế giới.
1.1.2. Sự hình thành dịch vụ giao nhận hàng hóa.


Sinh viªn thùc hiÖn: Ph¹m ChÝ Híng

Líp TM - 42A 5


Như trên ta đã đề cập tới vấn đề tại sao lại phải có dịch vụ vận tải
và giao nhận hàng hoá, qua đây chúng ta sẽ hiểu hơn về sự tất yếu
trong quá trình phát triển kinh tế xã hội. Xu thế ngày càng chuyên
môn hoá tức là phân công lao động rõ rệt hơn, mỗi cá nhân, đơn vị
hay tổ chức chịu trách nhiệm sản xuất hay cung ứng một chi tiết, công
đoạn hoàn thiện sản phẩm. Từ đó, người chỉ chuyên tâm vào sản xuất,
mặt khác lại có một nhóm người đứng ra như là một sự nhận uỷ thác
phân phối sản phẩm bằng sự chia lợi nhuận của người sản xuất cho
người phân phối.
Dịch vụ giao nhận hàng hoá rất phát triển trong giao lưu buôn
bán quốc tế, hình thức này chúng ta có thể nhận biết rất dễ thông qua
ngành Bưu chính Viễn thông. Qua đó, người ta gửi một lượng hàng
hoá cho một đơn vị Bưu chính (Bưu phẩm), Tổng cục Bưu chính có
nghĩa vụ bảo quản và vận chuyển rồi giao cho người đích danh hay uỷ
quyền nhận số bưu phẩm đó.
Ngày nay, Đảng và Nhà nước ta khẳng định “không ngừng mở
rộng phân công và hợp tác quốc tế trên các lĩnh vực kinh tế, khoa học
kỹ thuật, đẩy mạnh các hoạt động xuất nhập khẩu, đó là những đòi hỏi
khách quan của thời đại”. Kinh doanh xuất nhập khẩu đóng một vai
trò to lớn: Là một khâu của quá trình tái sản xuất xã hội.
Nguồn lực một Quốc gia có được thì tất yếu phải đẩy mạnh giao
lưu buôn bán quốc tế, mở rộng thị trường quan hệ kinh doanh. Buôn
bán với nước ngoài có nghĩa là gửi hàng hoá ra nước ngoài và ngược
lại, phương tiện vận tải bao gồm: vận tải đường biển, đường sắt, máy
bay và xe vận tải. Trong quá trình thực hiện việc chuyển giao hàng

Sinh viªn thùc hiÖn: Ph¹m ChÝ Híng

Líp TM - 42A 6


hoá thì hàng hoá cần được bảo quản tốt để đáp ứng yêu cầu đối với
điều kiện khí hậu khác nhau hoặc khi phải chuyển đổi phương tiện vận
tải. Đơn vị đứng ra chịu trách nhiệm vận tải không chỉ đơn thuần là
vận tải mà còn hỗ trợ dịch vụ thanh toán tiền hàng hay cước phí thông
qua ngân hàng.
Bản chất chung nhất của dịch vụ vận tải và giao nhận hàng hoá
đó là: Tổ chức hay đơn vị đứng ra như một người môi giới hay thực
hiện dịch vụ vận chuyển giúp cho hàng hoá được lưu thông một cách
thuận tiện hơn nhờ có sự quan hệ, hiểu biết thị trường, tập quán của
nơi hàng muốn đến hay đối tác tiềm năng người uỷ quyền cần biết và
khai thác. Như vậy, để xã hội ngày càng phát triển thì những đơn vị
làm dịch vụ hay tỷ trọng về ngành dịch vụ càng tăng theo đà phát
triển, nó làm rút ngắn chi phí cũng như thời gian cho người uỷ quyền,
người được uỷ quyền chỉ chuyên tâm vào phần công việc của mình và
đưa xã hội ngày một đi lên.
1.2. Vai trò hoạt động giao nhận vận tải hàng hoá.
Trong nền kinh tế tập trung bao cấp thì vận tải và giao nhận hàng
hoá đều nằm trong quốc doanh, nhiều quan hệ buôn bán chỉ giới hạn
ở trong nước mà ít chú trọng tơi giao lưu, trao đổi hàng hoá quốc tế.
Chính vì những lý do đó mà làm chậm tiến trình phát triển công nghệ,
khoa học, giao lưu văn hoá, kinh tế, chính trị với các Quốc gia khác.
Nhà nước đóng một vai trò to lớn trong thông thương, phân phối hàng
hoá gần như cào bằng nhau. Từ những điều kiện trên cho thấy vai trò
của dịch vụ vận tải và giao nhận hàng hoá không được phát triển, chỉ
có một phần về xuất nhập khẩu thể hiện được vai trò của mình. Trong

Sinh viªn thùc hiÖn: Ph¹m ChÝ Híng

Líp TM - 42A 7


chế độ này làm ẩn đi vai trò to lớn của dịch vụ, chỉ có Nhà nước là
đơn vị duy nhất được phép đứng ra kinh doanh nên thiếu tính cạnh
tranh lành mạnh, kìm hãm sự phát triển của tiến bộ khoa học, kinh tế,
xã hội. Hình thức giao nhận vận tải trong thời gian đó chỉ mang tính
chất hạch toán đơn thuần cho sự lưu thông sản phẩm hàng hoá, tất cả
chiều hướng hay quy định đều do Nhà nước là ngừơi chịu trách nhiệm
đứng ra ban hành rồi thực hiện nó. Tất cả đều do Nhà nước nắm giữ
mà không tồn tại doanh nghiệp tư nhân nào đứng ra được phép kinh
doanh dịch vụ đó.
Như vậy, vai trò của dịch vụ vận tải và giao nhận hàng hoá trong
nền kinh tế tự cung, tự cấp, tự bao tiêu là bán phát triển, không thể
hiện rõ ra bên ngoài ngoại trừ buôn bán giao lưu quốc tế thì Nhà nước
lại có sự phân công cho một đơn vị trực thuộc giám sát, thực hiện chỉ
nhằm mục đích xuất hay nhập đơn thuần theo đơn hàng đã được chỉ
định.
Từ sau những năm đất nước phát triển trong thời kỳ bao cấp
trước năm 1985, đất nước ta đã bị ngưng trệ rất nhiều, không khai thác
được thế mạnh của mình, không có nhiều mối hợp tác giao lưu buôn
bán với thị trường bên ngoài nên tụt hậu so với các nước phát triển rất
xa. Sau hội nghị Đảng bộ lần thứ VI (1986), đất nước bắt đầu chuyển
mình đi theo hướng mở rộng phát triển nhiều ngành hàng, tự do hoá
kinh doanh và dần dần đi vào cổ phần hoá một số lĩnh vực không
mang tính chủ chốt, chính trị nhằm đảm bảo phát triển bền vững cần
thiết của một Quốc gia.


Sinh viªn thùc hiÖn: Ph¹m ChÝ Híng

Líp TM - 42A 8


Chính từ những lý do trên mà vai trò của dịch vụ vận tải và giao
nhận hàng hoá bắt đầu thực sự thể hiện được đúng cái vốn có của
mình. Khi xã hội ngày càng phát triển với sự chuyên môn hoá, đa
dạng hoá thì hoạt động này càng có xu thế phát triển mạnh cũng như
cạnh tranh hết sức mạnh mẽ.
* Vai trò giao nhận vận tải hàng hoá đối với thị trường nội địa.
Thứ nhất: Vận tải là một ngành hay một yếu tố không thể thiếu
với một nền kinh tế quốc dân. Bất kể một nền kinh tế nào cũng phải
cần có sự dịch chuyển của hàng hoá, cũng cần phải có yếu tố vận tải, ở
đâu vận tải và giao nhận hàng hoá phát triển thì ở đó có sự phát triển
mạnh mẽ của thị trường hàng hoá, của sản xuất hưng thịnh.
Thứ hai: Vận tải và giao nhận hàng hoá không làm tăng quy mô,
khối lượng hàng hoá nhưng nó chính là tác nhân làm thay đổi mọi mặt
của hàng hoá. Ví dụ: Để có được quần áo chúng ta mặc thì ban đầu
bông phải được chuyển từ nới trồng đến nơi chế biến thành vải rồi
thành quần áo và phân phối nó trên thị trường đến tay người tiêu dùng.
Như vậy, vận tải đóng một vai trò không thể thiếu trong cơ cấu hàng
hoá trên thị trường, nó mang đến những nơi có nhiều nhu cầu hơn để
chuyển dịch lại cơ cấu tiêu dùng, tác động vào giá cả hàng hoá.
Thứ ba: Vận tải, giao nhận hàng hoá nhằm đảm bảo cho việc dự
trữ hay giữ gìn an ninh cho một quốc gia. Một Quốc gia cho dù phát
triển hay không phát triển thì đều phải có dự trữ: vàng, lương thực,
ngoại tệ mạnh… hơn nữa đảm bảo cho phòng tuyến hậu cần vững
mạnh của Quốc gia đó.


Sinh viªn thùc hiÖn: Ph¹m ChÝ Híng

Líp TM - 42A 9


Dự trữ là một bộ phận của sản xuất và lưu thông, kho dự trữ
thuộc cơ cấu không thể tách rời trong bộ phận tổ thành của một đơn vị
doanh nghiệp bất kỳ. Ăngghen đã chỉ rõ: “ở đâu có sự phân công lao
động trở thành độc lập với nhau”. Dự trữ hàng hoá cũng góp phần tạo
ra những sản phẩm có đủ tiêu chuẩn chất lượng tiếp tục lọt vào lưu
thông, góp phần bảo vệ lợi ích của người tiêu dùng cũng như các
doanh nghiệp sản xuất và kinh doanh hàng hoá.
* Vai trò giao nhận vận tải hàng hoá đối với thị trường quốc tế.
Thứ nhất: Nói đến giao lưu buôn bán quốc tế không thể không
nói tới hoạt động vận tải và giao nhận quốc tế. Hoạt động này là một
nhân tố góp phần thúc đẩy nhập khẩu hay xuất khẩu bất kỳ một mặt
hàng nào trên thị trường phạm vi toàn cầu. Các đơn vị doanh nghiệp
nhỏ không thể tự mình đứng ra tự làm các thủ tục liên quan đến giao
nhận vận tải quốc tế được, do đó đã hình thành một lực lượng chuyên
làm nhiệm vụ nhằm đảm bảo cho hàng hoá vượt ra khỏi biên giới
quốc gia và đến mọi nơi trên thế giới.
Thứ hai: Vận tải và giao nhận hàng hoá làm chuyển dịch cơ cấu
sản xuất hay tiêu dùng của một Quốc gia. Đóng một vai trò to lớn
trong lưu thông nên không tránh khỏi việc làm cho một Quốc gia
chuyên môn hoá sản xuất một hay một số mặt hàng, từ đó hoạt động
này sẽ phân bố lại thị trường tiêu dùng của sản phẩm hàng hóa đó.
Thứ ba: Cán cân thanh toán quốc tế bị ảnh hưởng lớn do hoạt
động này. Đó chính là mối quan hệ biện chứng tương hỗ lẫn nhau, mà
rất nhiều ngành xảy ra. Cán cân thanh toán quốc tế giữ vai trò đặc biệt
Sinh viªn thùc hiÖn: Ph¹m ChÝ Híng


Líp TM - 42A 10


quan trọng trong hệ thống cán cân của các nước. Tình trạng của nó sẽ
ảnh hưởng tới sự thay đổi của tỷ giá hối đoái, tình hình ngoại hối của
các nước và ảnh hưởng tới toàn bộ nền kinh tế của một nước,trước hết
là đến ngoại thương.
Bên cạnh đó, hoạt động vận tải và giao nhận hàng hoá còn phát
huy nội lực nền kinh tế, sự sáng tạo của mọi người, đơn vị, tổ chức,
ngành nghề, địa phương trong xã hội. Trong điều kiện nền kinh tế
hàng hoá nhiều thành phần tất yếu dẫn đến sự cạnh tranh, theo dõi
kiểm soát lẫn nhau rất chặt chẽ giữa các chủ thể tham gia vào quá
trình giao lưu trao đổi hàng hoá quốc tế. Nhờ đó chất lượng hàng hoá
được nâng lên, áp dụng khoa học kỹ thuật mới một cách thường xuyên
và có ý thức. Hơn nữa, chính nó làm cho việc hình thành các liên
doanh, liên kết giữa các chủ thể trong và ngoài nước một cách dễ
dàng, xoá bỏ nhanh chóng những cá thể yếu trên thị trường.
* Vai trò giao nhận vận tải hàng hoá trong xu thế hội nhập
WTO.
Năm 2007 là năm đầu tiên Việt Nam phải thực hiện các cam kết
của WTO, tạo đà cho việc hoàn thành các mục tiêu kế hoạch năm năm
2006 – 2010, chiến lược phát triển kinh tế xã hội 10 năm 2001- 2010.
Nền kinh tế Việt Nam sẽ tiếp tục phát triển ổn định theo chiều hướng
tích cực và hội nhập kinh tế quốc tế sâu rộng hơn.
Mục tiêu kế hoạch của Chính phủ đề ra trong năm 2007 là tổng
sản phẩm trong nước (GDP) tăng 8,2 – 8,55 cao hơn năm 2006 và cao
hơn mức đặt ra cho trung bình năm năm 2006 – 2010, cơ cấu ngành

Sinh viªn thùc hiÖn: Ph¹m ChÝ Híng


Líp TM - 42A 11


GDP sẽ tiếp tục có chuyển dịch theo hướng tích cực, khu vực nông
nghiệp khoảng 19%, khu vực công nghiệp và xây dựng khoảng 42%
và dịch vụ khoảng 38,5%. Tổng kim ngạch xuất khẩu tăng 17,4% so
với năm 2006, nhập khẩu tăng 15,5%, nguồn vốn đầu tư toàn xã hội
bằng khoảng 40% GDP, chỉ số giá tiêu dùng thấp hơn tốc độ tăng
trưởng kinh tế.
Là thành viên của tổ chức thương mại thế giới (WTO), làm ăn
với thị trường nước ngoài chắc chắn Việt Nam sẽ khác khi chưa gia
nhập WTO. Theo Bộ Thương mại, ngay trong tháng đầu tiên của năm
2007, kim ngạch xuất khẩu cả nước đã đạt 3,3 tỷ USD, tăng 7,7% so
với cùng kỳ năm ngoái.
Từ những con số trên cho thấy, nước ta đang từng bước xây
dựng những kế hoạch phát triển cải tổ đất nước. Những thành tựu đó
có được phần lớn do dịch vụ vận tải và giao nhận hàng hoá phát triển.
Trong quý I/2007, lương xuất dầu thô giảm 7,8% năm ngoái (~ 3,9
triệu tấn); than đá 7,6 triệu tấn; kim ngạch đạt 236 triệu USD, tăng
19%; hàng dệt may kim ngạch xuất khẩu đạt 1,65 tỷ USD, tăng 30%
cùng kỳ 2006… Với xu thế hội nhập WTO, chúng ta tin tưởng vào
một thế giới phát triển phồn thịnh, thu nhập quốc dân tăng cao theo
kịp các nước đang phát triển khác trên thế giới.
1.3. Một số đặc điểm, hình thức của hoạt động giao nhận vận
tải hàng hoá.
1.3.1. Các hình thức giao nhậnvận tải hàng hoá.

Sinh viªn thùc hiÖn: Ph¹m ChÝ Híng


Líp TM - 42A 12


Trong xu thế hội nhập hiện nay có rất nhiều những hình thức vận
tải khác nhau tuỳ thuộc vào vị trí địa lý, mặt hàng cần chuyên trở, chi
phí hợp lý, thời gian giao nhận hàng hoá… Các hình thức vận tải hiện
nay đang thông dụng như: vận tải bộ, hàng không, vận tải biển, vận tải
chuyển tin qua mạng có dây, không dây, nhờ thanh toán qua dịch vụ
ngân hàng… Các hoạt động giao nhận hàng hoá cũng bao gồm: Nhờ
uỷ thác, lập chứng từ, xuất nhập khẩu, lưu giữ kho bãi, làm các thủ tục
lưu thông hàng hoá trong và ngoài nước….
Mỗi đơn vị kinh doanh dịch vụ này đều phải trang bị cho mình
một sự hiểu biết một cách tổng thể về đối tác, khách hàng của mình để
tránh rủi ro cao trong kinh doanh quốc tế.
1.3.2. Một số đặc điểm hoạt động giao vận tải nhận hàng hoá.
1.3.2.1. Đặc điểm dịch vụ vận tải đường bộ.
Đây là hình thức vận tải, chuyển giao chủ yếu trong nền kinh tế
quốc dân, nó mang trong mình một số đặc điểm sau:
* Với chi phí không cao và thời gian đáp ứng khá nhanh và linh
hoạt, hình thức này thuận tiện với những hàng hoá manh mún nhỏ lẻ,
cần phân phối mạng nhện trong khu vực, ngành vận tải đường sắt của
nước ta tuy phát triển không cao nhưng đáp ứng đủ khả năng chuyên
trở những khối lượng hàng lớn trong mục tiêu phát triển bền vững
giữa ba miền của tổ quốc.
* Bên cạnh đó, thủ tục trong vận tải bằng đường bộ đã hết sức
gọn nhẹ, nhanh, linh hoạt. Với cơ chế quản lý hiện nay thì hầu hết các
doanh nghiệp đều lựa chọn phương thức vận tải này cho việc phân
Sinh viªn thùc hiÖn: Ph¹m ChÝ Híng

Líp TM - 42A 13



phối hàng hoá lưu thông nội địa và đưa tới các cảng, cửa khẩu buôn
bán quốc tế. Đối với loại hàng hoá cần tới thời gian nhanh, chi phí rẻ,
thủ tục nhanh gọn như: Các loại hoa, quả, củ; các sản phẩm chế xuất
phân phối đại lý trong nước…
* Cuối cùng hoạt động vận tải giao nhận đường bộ cũng mang
trong mình bản chất dự trữ hay đứng ra giao hay nhận các loại hàng
hoá mà không trái với quy định của pháp luật từng địa phương. ở hình
thức giao nhận này cũng như vận tải hàng hoá thì chi phí thấp, đáp
ứng tương đối nhanh và khả năng phân phối hàng hoá nhỏ lẻ cao.
1.3.2.2. Đặc điểm hoạt động vận tải và giao nhận hàng hoá bằng
đường hàng không.
Ở loại hình này ta thấy rõ nét nhất là chi phí trên một đơn vị
hàng hoá đẩy lên khá cao, tuy rút ngắn được thời gian lưu thông của
hàng hoá nhưng đa phần là với những hàng hoá đáp ứng nhanh cho
quốc phòng hay những loại hàng hoá có giá trị lớn (hàng chục ngàn đô
trên một sản phẩm). Trong điều kiện nước ta thì loại hình này chưa
được thực sự phát triển vì một lẽ đơn giản là nền kinh tế còn tương đối
lạc hậu, chưa có những hàng hoá có phẩm chất cao và cơ sở hạ tầng
còn thấp kém.
Qua loại hình vận tải và giao nhận này ta cũng thấy được sức vận
tải hay trọng tải lớn phù hợp với những loại hàng hoá khó gây cháy
nổ. Hình thức này cũng được sử dụng trong buôn bán quốc tế như xuất
nhập khẩu, cứu trợ lương thực, thực phẩm cho những khu vực xảy ra

Sinh viªn thùc hiÖn: Ph¹m ChÝ Híng

Líp TM - 42A 14



thiên tai, các trường hợp khẩn cấp khác phục vụ cho quốc phòng,
chiến tranh…
1.3.2.3. Một số đặc điểm hoạt động vận tải và giao nhận bằng
đường thuỷ, đường biển.
* Chúng ta được biết đến rõ nét nhất đó là trong lĩnh vực giao
lưu buôn bán quốc tế nó bao gồm các đặc điểm riêng sau:
- Thứ nhất: Giá thành chuyên trở thấp, điều này phù hợp với
những loại hàng hoá xuất nhập khẩu mang tính cạnh tranh quốc tế.
Đây chính là một điểm mạnh của hình thức vận tải biển, hiện nay đa
phần hàng hoá được chuyên trở bằng hình thức này.
- Thứ hai: Khối lượng chuyên trở lớn, đây là năng lực đặc biệt
của vận tải đường biển, đường thủy. Tất cả các chủng loại hàng hoá
đều có thể chuyên trở bằng đường thuỷ hay đường biển với khả năng
trọng tải và năng lực không giới hạn, có nhiều loại tàu biển của các
hãng dịch vụ lớn có thể có trọng tải hàng triệu tấn trên một đơn vị tàu.
- Thứ ba: Các tuyến đường vận tải trên biển hay vận tải thuỷ là
những tuyến đường mang tính giao thông tự nhiên, người ta chỉ vẽ,
đưa ra lịch trình mà ít phải xây dựng các tuyến đường như trong vận
tải đường bộ. Điều này phụ thuộc khá nhiều vào vị trí địa lý của từng
khu vực, Quốc gia nào có đường giao thông thuỷ phát triển thì khả
năng phát triển kinh tế rất lớn. Từ thời xa xưa Crixop – Colombo đã
từng có những cuộc phiêu lưu tìm ra những vùng đất mới, xây dựng
những tuyến đường biển, cảng biển để giao lưu buôn bán và mở rộng
bờ cõi, gianh giới Quốc gia. Nước ta cũng là một trong những Quốc
Sinh viªn thùc hiÖn: Ph¹m ChÝ Híng

Líp TM - 42A 15



gia có tiềm năng lớn trong khai thác vận tải biển, các cảng biển hiện
nay như: Cảng Hải Phòng, Cảng biển Vũng Tàu, Cảng Cái Lân, Cảng
biển Cửa Lò…vv.
- Thứ tư: Vận tải đường biển phụ thuộc khá nhiều vào điều kiện
thời tiết, các hàng hoá chuyên trở theo phương thức này đều rất chú
trọng đến chi phí mua bảo hiểm hàng hoá tránh những rủi ro do thiên
tai gây ra. Đây là một điều hết sức cần thiết vì giá trị hàng hoá được
chuyên trở là rất lớn (hàng triệu USD), nên rủi ro xảy ra thì sẽ gây ảnh
hưởng rất lớn tới sự sống còn của nhiều doanh nghiệp tham gia vào
hoạt động buôn bán quốc tế.
- Thứ năm: Tốc độ vận tải thường thấp và mất nhiều thời gian
chuyên trở, quãng đường vận chuyển cũng khá dài nên hình thức vận
tải biển chỉ phù hợp với những hàng hoá không đòi hỏi thời gian giao
hàng nhanh chóng.
Từ các lý do trên chúng ta thấy được năng lực cũng như một số
hạn chế của vận tải thuỷ, vận tải biển. Tuy nhiên, với vận tải biển
đang rất được phát triển từ xưa tới nay, từ khi có buôn bán quốc tế.
Khối lượng hàng hoá hàng năm thông qua vận tải thuỷ đối với các
doanh nghiệp tham gia kinh doanh xuất nhập khẩu là rất lớn, đáp ứng
cao cho nhu cầu phát triển mỗi Quốc gia.
* Giao nhận hàng hoá xuất nhập khẩu chuyên trở bằng đường
biển.
Theo quy tắc mẫu của FLATA về dịch vụ giao nhận, dịch vụ
giao nhận được định nghĩa như là bất kỳ loại dịch vụ nào liên quan
Sinh viªn thùc hiÖn: Ph¹m ChÝ Híng

Líp TM - 42A 16


đến vận chuyển, gom hàng, lưu kho, bốc xếp, đóng gói hay phân phối

hàng hoá cũng như các dịch vụ tư vấn có liên quan đến các dịch vụ kể
trên kể cả các vấn đề hải quan, tài chính mua bảo hiểm, thanh toán,
thu thập chứng từ liên quan đến hàng hoá.
Theo luật thương mại Việt Nam thì giao nhận hàng hoá là hành
vi thương mại, theo đó người làm dịch vụ giao nhận hàng hoá nhận
hàng từ người gửi, tổ chức vận chuyển, lưu kho, lưu bãi, làm các thủ
tục giấy tờ và các dịch vụ khác có liên quan đến giao hàng cho người
nhận theo sự uỷ thác của chủ hàng, của người vận tải hoặc của người
giao nhận khác.
Nói một cách ngắn gọn, giao nhận là tập hợp những nghiệp vụ,
thủ tục có liên qua đến quá trình vận tải nhằm thực hiện việc di
chuyển hàng hoá từ nơi gửi hàng (người gửi hàng) đến nơi nhận hàng
(người nhận hàng). Người giao nhận có thể làm các dịch vụ một cách
trực tiếp hoặc thông qua đại lý và thuê dịch vụ của người thứ ba khác.
II. NỘI DUNG CỦA HOẠT ĐỘNG VẬN TẢI VÀ GIAO
NHẬN HÀNG HOÁ.
2.1. Nghiên cứu nhu cầu thị trường vận tải và giao nhận hàng
hoá.
Vấn đề nghiên cứu thị trường là một việc làm cần thiết đầu tiên
đối với bất cứ công ty nào muốn tham gia vào thị trường nội địa hay
thị trường thế giới. Nghiên cứu thị trường theo nghĩa rộng là quá trình
điều tra để tìm triển vọng bán hàng cho một sản phẩm cụ thể hay một
nhóm sản phẩm, kể cả phương pháp thực hiện mục tiêu đó. Quá trình
Sinh viªn thùc hiÖn: Ph¹m ChÝ Híng

Líp TM - 42A 17


nghiên cứu thị trường là quá trình thu thập thông tin, số liệu về thị
trường, so sánh, phân tích những số liệu đó và rút ra kết luận. Những

kết luận này sẽ giúp cho nhà quản lý đưa ra quyết định đúng đắn để
lập kế hoạch marketting công tác nghiên cứu thị trường phải góp phần
chủ yếu trong việc thực hiện phương châm hành động “chỉ bán cái thị
trường cần chứ không phải bán cái có sẵn” công tác nghiên cứu thị
trường phải trả lời một số câu hỏi sau đây:
+ Thị trường nào là thị trường có triển vọng nhất đối với sản
phẩm của công ty?
+ Khả năng số lượng bán ra được bao nhiêu?
+ Sản phẩm cần có những thích ứng gì trước những đòi hỏi của
thị trường?
+ Nên chọn phương pháp bán nào cho phù hợp?
* Để nghiên cứu thị trường vận tải và giao nhận hàng hoá ta sử
dụng hai phương pháp sau:
+ Nghiên cứu tại bàn.
+ Nghiên cứu tại hiện trường.
Nghiên cứu tại bàn: là phương pháp phổ thông nhất về nghiên
cứu thị trường vì nó đỡ tốn kém và phù hợp với khả năng của những
người mới tham gia vào thị trường. Tuy nhiên, nó cũng chậm và mức
độ tin cậy có hạn chế, kết quả nghiên cứu tại bàn cũng cần được sự bổ
sung, hỗ trợ bằng nghiên cứu hiện trường. Nguồn tin tham gia nghiên
cứu tại bàn có thể thông qua: Thông tin từ các tổ chức, sách báo

Sinh viªn thùc hiÖn: Ph¹m ChÝ Híng

Líp TM - 42A 18


thương mại do các tổ chức quốc gia hoặc cá nhân xuất bản, từ quan hệ
với thương nhân. Số lịch thống kê là một trong những loại thông tin
quan trọng nhất được sử dụng nhiều nhất trong nghiên cứu thị trường,

đặc biệt là nghiên cứu tại bàn. Đó là những số liệu thống kê về tình
hình sản xuất, tiêu thụ, xuất nhập khẩu, dự trữ, tồn kho, giá cả… nó
giúp cho người nghiên cứu có một cái nhìn bao quát và dung lượng thị
trường và xu hướng phát triển. Nghiên cứu tại hiện trường bao gồm
việc thu thập thông tin chủ yếu thông qua tiếp xúc với mọi người trên
hiện trường.
Nghiên cứu tại hiện trường: là một phương pháp nghiên cứu
quan trọng, về mặt trình tự nghiên cứu hiện trường có thể được thực
hiện sau khi đã sơ bộ phân tích đánh giá những kết quả nghiên cứu tại
bàn, nghĩa là sau khi đã xử lý thông tin. Những việc thu thập và xử lý
thông tin là một quá trình liên tục, nhiều khi nó xảy ra cùng một lúc và
luôn được bổ sung những thông tin mới cũng như thường xuyên điều
chỉnh và có phản ứng linh hoạt. Đây là một hình thức nghiên cứu khá
tốn kém và đòi hỏi trình độ mà không phải ai cũng có thể làm được.
Vì vậy, trước hết cần sơ bộ xử lý các thông tin về các thị trường đã đề
cập, chọn ra những thị trường được cho là có triển vọng nhất. Sau đó,
căn cứ vào kết quả lựa chọn để tiến hành lập kế hoạch khảo sát.
Thông qua hai phương pháp nghiên cứu thị trường tổng hợp
những kết quả tình hình vận tải và giao nhận hàng hoá, lập được
những con số thống kê về các hãng tàu lớn, thế mạnh của từng loại
cũng như con số về tình hình xuất nhập khẩu, thông tin doanh nghiệp
làm ăn thua lỗ trên thị trường…
Sinh viªn thùc hiÖn: Ph¹m ChÝ Híng

Líp TM - 42A 19


Có như vậy chúng ta mới có thể tránh được những rủi ro và lập
kế hoạch tiếp cận giới thiệu các dịch vụ công ty cung cấp.
2.2. Lựa chọn thị trường tiềm năng phù hợp với năng lực của

doanh nghiệp.
Đây là một khâu khá quan trọng để từ đó có thể xây dựng được
một kế hoạch đúng đắn cho mỗi loại thị trường. Trong bước này có
thể bao gồm những mảng sau:
+ Phân tích tình hình “cung” trên thị trường.
+ Phân tích tình hình “cầu”.
+ Phân tích những điều kiện của thị trường
Trước hết, cần phải biết và nắm rõ được tình hình cung toàn bộ,
tính ra được số lượng cung dịch vụ: khối lượng, rự phân bố, giá cả,
giai đoạn của từng loại sản phẩm khu vực, cấu trúc của “cung” tức là
nói đến tình hình cạnh tranh trên thị trường. Nếu sự cạnh tranh đã gay
gắt, điều đó không có nghĩa là doanh nghiệp phải rút lui, nó có thể giữ
vị trí thế thủ chờ đợi giai đoạn chuyển hướng sang tấn công. Khi đó,
cần phải xem sự canh trạnh ấy tồn tại bằng cách nào, tỷ lệ hoa hồng
thường được chấp nhận là bao nhiêu, hậu quả của cạnh tranh như thế
nào, nó sẽ được diễn biến ra sao…

Sinh viªn thùc hiÖn: Ph¹m ChÝ Híng

Líp TM - 42A 20


Song song với việc phân tích tình hình cung thì ta cũng thực hiện
phân tích tình hình “cầu” trên thị trường. Từ những thông tin về
những dịch vụ đang cung cấp cần xác định xem những sản phẩm nào,
dịch vụ nào có thể thương mại hoá được. Người sử dụng dịch vụ của
ta là ai, họ được phân nhóm như thế nào: nhóm sản xuất, nhóm tiêu
thụ…
Cuối cùng ta cũng đi phân tích những điều kiện của thị trường,
những rủi ro bất trắc, nhất là trong thương mại quốc tế phải phân tích

cẩn thận tất cả những yếu tố điều kiện mà việc thương mại hoá của ta
có thể gặp phải để đáp ứng tối đa nhu cầu của khách hàng: quy chế
pháp lý, tài chính, kỹ thuật hoặc về con người và tâm lý, tập quán…
trong quy chế pháp lý ta cần phải nắm rõ được quy chế về giá cả, điều
kiện thương mại, hóa đơn hải quan hoặc hoá đơn lãnh sự, kiểm soát
hối đoái, phương thức nhờ thu, hạn ngạch, giấy phép xuất nhập khẩu,
giấy chứng nhận y tế, phẩm chất… những điều ghi chú riêng trên sản
phẩm… với điều kiện về tài chính ta cần phải quan tâm đó là thuế
quan mặt hàng, chi phí bên cung cấp dịch vụ vận chuyển, bảo hiểm
vận chuyển, bảo hiểm tín dụng, chi phí có thể về tín dụng thư… Điều
kiện về kỹ thuật bao gồm kích thước, trọng lượng các kiện hàng, tình
hình kho bãi, thời tiết khí hậu, tiêu chuẩn sản phẩm, khả năng thanh
toán của người uỷ thác… vấn đề an ninh chính trị khác.
2.3. Tổ chức ký kết hợp đồng giao nhận vận tải hàng hoá

Sinh viªn thùc hiÖn: Ph¹m ChÝ Híng

Líp TM - 42A 21


* Yêu cầu chung đối với hợp đồng giao nhận vận tải hàng hoá:
hợp đồng thương mại liên quan tới quá trình trao đổi lưu thông hàng
hoá và những dịch vụ trên thương trường. Chúng có những nội dung
của một hợp đồng kinh tế nói chung song có những nét đặc thù so với
những hợp đồng kinh tế trong những lĩnh vực khác. Đặc biệt là tính đa
dạng và phức tạp của hợp đồng thương mại, bởi vậy khi soạn thảo hợp
đồng các chủ thể của hợp đồng cần phải nắm vững một số lưu ý sau:
+ Từ ngữ trong văn bản hợp đồng phải chính xác, cụ thể và đơn
nghĩa: tính chính xác cao của ngôn ngữ hợp đồng được hiểu là từ ngữ
khi các bên giao dịch ký kết phải thể hiện đúng ý định mong nuốn của

các bên kí kết.tính cụ thể của từ ngữ trong hợp đồng đòi hỏi khi thoả
thuận về các điều khoản của hợp đồng phải chọn những số liệu,
những ngôn ngữ chỉ đích danh ý định mục tiêu, nội dung mà họ đang
bàn đến nhằm đạt được chúng.
+ Trong hợp đồng chỉ dùng từ thông dụng, phổ thông, không
dùng thổ ngữ, tiếng địa phương: hợp đồng là văn bản pháp lý, nghiêm
túc do đó ngôn ngữ trong hợp đồng phải là ngôn ngữ phổ thông, để
các bên tham gia hợp đồng hiểu đúng, chính xác ý muốn của nhau.
Mặt khác, hợp đồng còn liên quan đến các ơ quan chức năng như tài
chính, ngân hàng, kiểm toán…v.v.
+ Trong văn bản hợp đồng không được tuỳ tiện ghép chữ, ghép
tiếng, không tuỳ tiện thay đổi từ ngữ pháp lý: việc ghép chữ, ghép tiến
dễ dẫn đến hiểu nhầm ý chí của các bên chủ thể. Việc thay đổi từ ngữ
pháp lý trong hợp đồng có thể dẫn đến tình trạng vận dụng sai lệch,
việc thực hiện hợp đồng bị vi phạm.
Sinh viªn thùc hiÖn: Ph¹m ChÝ Híng

Líp TM - 42A 22


+ Trong văn bản hợp đồng không được dùng chữ thừa, không
tuỳ tiện dùng chữ vv.v hoặc dấu chấm lửng: chữ thừa làm mất đi tính
nghiêm túc của sự thoả thuận, hoặc có thể làm sai lệch đi mục tiêu của
sự thoả thuận trong hợp đồng. Việc dùng chữ vv hay …. được hiểu là
còn nhiều nội dung tương tự không cần thiết phải viết ra. Điều này trái
với nguyên tắc chính xác cụ thể của hợp đồng, rễ bị lợi dụng làm sai
đi nội dung thoả thận hợp đồng.
+ Văn phạm trong hợp đồng phải nghiêm túc dứt khoát: trong
nội dung này tất nhiên không thể chấp nhận sự mô tả dông dài, thiếu
nghiêm túc, thiếu chặt chẽ và dứt khoát. Lối văn tả cảnh, hành văn

bóng bẩy, nhận xét gợi mở không phù hợp với tính pháp lý chặt chẽ
của văn bản hợp đồng kinh tế.
+ Văn phạm trong hợp đồng phải rõ ràng ngắn gọn và đủ ý: yêu
cầu ngắn gọn, rõ ràng nhưng phải chứâ đựng đầy đủ những thông tin
cần thiết về nội dung mà hai bên thoả thụân.
* Nội dung của hợp đồng giao nhận vận tải:
- Quốc hiệu: đối với hợp đồng giao nhận vận tải trong nước
- Số và ký hiệu hợp đồng
- Những căn cứ để xây dựng hợp đồng
- Thời gian và địa điểm ký kết hợp đồng
- Tên doanh nghiệp
- Địa chỉ doanh nghiệp
- Điện thoại, telex, fax
Sinh viªn thùc hiÖn: Ph¹m ChÝ Híng

Líp TM - 42A 23


- Số hiệu tài khoản mở tại ngân hàng
- Người đại diện ký kết hợp đồng
- Điều khoản về đối tựợng hợp đồng
- Điều khoản về số lượng hàng hoá
- Điều khoản về chất lượng qui cách hàng hoá
- Điều khoản về giá cả hàng hoá
- Điều khoản về phương thức tính toán
- Điều khoản về địa điểm và thời gian giao hàng
- Điều khoản về bao bì, kí mã hiệu hàng hoá
- Điều khoản về những biện pháp bảo đảm thực hiện hợp đồng
- Điều khoản về hiệu lực hợp đồng và giải quyết tranh chấp hợp
đồng

Như vậy khi tổ chức việc kí kết hợp đồng thì các doanh nghiệp
cần phải tìm hiểu kỹ tất cả những yêu cầu về ngôn ngữ cũng như các
điều khoản của hợp đồng. Tất cả những điều trên nhằm đảm bảo cho
tính pháp lý của một hợp đồng kinh tế nói chung và hợp đồng trong
giao nhận vận tải nói riêng.
2.4. Tổ chức thực hiện hợp đồng giao nhận vận tải hàng hoá
* Nguyên tắc chung trong việc thực hiện hợp đồng kinh tế:
- Thực hiện đúng những điều khoản đã cam kết trong hợp đồng:
đúng đối tượng, chất lượng, số lượng, chủng loại, thời hạn, phương
thức và các thoả thuận khác.
Sinh viªn thùc hiÖn: Ph¹m ChÝ Híng

Líp TM - 42A 24


- Thực hiện một cách trung thực, hợp tác đảm bảo tin cậy lẫn
nhau,
- Tôn trọng lợi ích của nhau, không được xâm phạm lợi ích của
Nhà nước, lợi ích cộng đồng, lợi ích hợp pháp của người khác.
Việc tổ chức thực hiện hợp đồng giao nhận vận tải hàng hoá đòi
hỏi phải thống nhất theo quy trình nghiệp vụ đối với từng phương thức
vận tải hay giao nhận hàng hoá. Trong hoạt động giao nhận vận tải
hàng hoá bao gồm hai mảng chủ yếu: giao nhận vận tải nội địa và giao
nhận vận tải quốc tế.
* Đối với hoạt động giao nhận vận tải nội địa:
Trong hoạt động vận tải và giao nhận nội địa, việc thực hiện hợp
đồng diễn ra nhanh chóng và linh hoạt hơn giao nhận vận tải quốc tế,
các doanh nghiệp cần phải kiểm tra hợp đồng và sắp xếp thời gian
cũng như phương tiện phù hợp với từng chủng loại hàng hoá. Tất cả
những yếu tố trên nhằm đảm bảo uy tín của doanh nghiệp và giảm

thiểu chi phí do thực hiện sai hợp đồng kinh tế đã ký kết.
+ Nhắc nhở người uỷ thác chuẩn bị hàng hoá,
+ Chuẩn bị phương tiện vận tải, kho bãi, phương tiện bốc dỡ
hàng hoá
+ Thực hiện việc bốc dỡ, lưu kho bãi, vận tải và giao nhận hàng
hoá
+ Thanh lý hợp đồng giao nhận vận tải hàng hoá

Sinh viªn thùc hiÖn: Ph¹m ChÝ Híng

Líp TM - 42A 25


×