Tải bản đầy đủ (.pdf) (101 trang)

Nghiên Cứu Khả Năng Sinh Trưởng, Phát Triển Và Chất Lượng Của Một Số Dòng, Giống Đậu Tương Nhập Nội Tại Thái Nguyên

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (3.91 MB, 101 trang )

ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NÔNG LÂM

HÀ THỊ HÒA

NGHIÊN CỨU KHẢ NĂNG SINH TRƯỞNG,
PHÁT TRIỂN VÀ CHẤT LƯỢNG CỦA MỘT SỐ DÒNG,
GIỐNG ĐẬU TƯƠNG NHẬP NỘI TẠI THÁI NGUYÊN
Chuyên ngành: TRỒNG TRỌT
Mã số : 60.62.01

LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC NÔNG NGHIỆP

Người hướng dẫn khoa học: TS. TRẦN VĂN ĐIỀN

THÁI NGUYÊN - 2011


i

LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan rằng, số liệu và kết quả nghiên cứu trong luận văn là
trung thực và chưa từng được ai công bố.
Tôi xin cam đoan rằng, mọi sự giúp đỡ cho việc thực hiện luận văn này
đã được cám ơn và các thông tin trích dẫn trong luận văn này đã được chỉ rõ
nguồn gốc.
Thái Nguyên, ngày 18 tháng 9 năm 2011
Tác giả luận văn

Hà Thị Hòa



ii

LỜI CẢM ƠN
Trong suốt thời gian nghiên cứu tôi luôn nhận được sự chỉ dẫn tận tình
của thầy giáo hướng dẫn. Nhân dịp này tôi xin được bày tỏ lòng biết ơn sâu
sắc tới thầy giáo TS. Trần Văn Điền.
Tôi xin chân thành cảm ơn Khoa Sau Đại học, Khoa Nông học, Trường
Đại học Nông Lâm Thái Nguyên đã tạo điều kiện giúp đỡ tôi trong suốt quá
trình thực hiện luận văn.
Tôi xin cảm gia đình ông Nguyễn Văn Quý, Phường Quang Vinh,
Thành phố Thái Nguyên đã tạo điều kiện cho tôi hoàn thành nghiên cứu khả
năng tạo đậu phụ.
Tôi xin chân thành cảm ơn sự giúp đỡ của bạn bè đồng nghiệp, người
thân và gia đình đã tạo điều kiện thuận lợi cho tôi trong quá trình hoàn thiện
luận văn này.
Luận văn này khó tránh khỏi những thiếu sót, tôi rất mong nhận được
những ý kiến đóng góp của quý thầy cô, đồng nghiệp, bạn đọc và xin trân
trọng cảm ơn.
Thái Nguyên, ngày 18 tháng 9 năm 2011
Tác giả luận văn

Hà Thị Hòa


iii

MỤC LỤC
MỞ ĐẦU........................................................................................................................1
1. Đặt vấn đề ................................................................................................. 1

2. Mục đích và yêu cầu của đề tài ................................................................. 2
Chương 1. TỔNG QUAN TÀI LIỆU ......................................................................3
1.1. Cơ sở khoa học và thực tiễn của đề tài .................................................. 3
1.2. Tình hình sản xuất, chọn tạo giống đậu tương trên thế giới và
Việt Nam ............................................................................................... 3
1.2.1. Tình hình sản xuất và chọn tạo đậu tương trên thế giới ................. 3
1.2.1.1. Tình hình sản xuất đậu tương trên thế giới................................ 3
1.2.1.2. Tình hình nghiên cứu,chọn tạo giống đậu tương trên
thế giới.......................................................................................... 5
1.2.2. Tình hình sản xuất, nhập khẩu và chọn tạo giống đậu tương
ở Việt Nam.................................................................................. 14
1.2.2.1. Tình hình sản xuất đậu tương ở Việt Nam ............................ 14
1.2.2.2. Tình hình nhập khẩu đậu tương ở Việt Nam ......................... 16
1.2.2.3. Tình hình nghiên cứu chọn tạo giống đậu tương ở Việt Nam ..... 17
1.3. Tình hình sản xuất đậu tương tại Thái Nguyên ................................... 26
1.4. Tình hình chế biến và sử dụng sản phẩm đậu phụ từ đậu tương ...... 27
Chương 2. NỘI DUNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU .......................29
2.1. Đối tượng nghiên cứu .......................................................................... 29
2.2. Địa điểm và thời gian nghiên cứu ........................................................ 29
2.3. Nội dung nghiên cứu............................................................................ 30
2.4. Phương pháp bố trí thí nghiệm............................................................. 30
2.5. Quy trình kỹ thuật áp dụng cho thí nghiệm ......................................... 31
2.6. Các chỉ tiêu nghiên cứu và phương pháp theo dõi............................... 31
2.7. Phương pháp xử lý số liệu.................................................................... 37


iv

Chương 3. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ THẢO LUẬN................................38
3.1. Các giai đoạn sinh trưởng và phát triển của các dòng, giống

đậu tương ............................................................................................ 38
3.2. Đặc điểm thực vật học của các dòng, giống đậu tương thí nghiệm ........ 43
3.3. Đặc điểm hình thái của các dòng, giống đậu tương thí nghiệm .......... 46
3.4. Một số chỉ tiêu sinh lý của các dòng giống đậu tương thí nghiệm .........49
3.4.1. Chỉ số diện tích lá của các dòng giống đậu tương thí nghiệm...... 49
3.4.2. Khả năng tích lũy vật chất khô của các dòng, giống đậu
tương thí nghiệm......................................................................... 51
3.5. Sự hình thành và phát triển nốt sần của các dòng, giống đậu
tương thí nghiệm ................................................................................. 54
3.6. Một số loại sâu hại chính và khả năng chống đổ, chống tách vỏ
quả của các dòng, giống đậu tương thí nghiệm .................................. 57
3.7. Các yếu tố cấu thành năng suất và năng suất của các dòng, giống
đậu tương thí nghiệm .......................................................................... 61
3.8. Hàm lượng Protein, Lipit của các dòng, giống đậu tương thí nghiệm........ 64
Chương 4. KẾT LUẬN VÀ ĐỀ NGHỊ..................................................................67
1. Kết luận ................................................................................................... 67
1.1. Thời gian sinh trưởng..................................................................................67
1.2. Khả năng chống chịu...................................................................................67
1.3. Năng suất lý thuyết và năng suất thực thu.................................................67
1.4. Hàm lượng Protein tổng số và lipit thô......................................................68
1.5. Khả năng tạo đậu phụ..................................................................................68
2. Đề nghị .................................................................................................... 68
TÀI LIỆU THAM KHẢO .......................................................................................69
PHỤ LỤC


v

DANH MỤC VIẾT TẮT
Bộ NN & PTNT: Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn

cs:

Cộng sự

CSDTL:

Chỉ số diện tích lá

KNTLVCK :

Khả năng tích lũy vật chất khô

CV:

Hệ số biến động (coefficient of variation)

KLNS:

Khối lượng nốt sần hữu hiệu

SLNS:

Số lượng nốt sần hưu hiệu

LSD:

Sai khác nhỏ nhất có ý nghĩa (least significant difference)

NSLT:


Năng suất lý thuyết

NSTT:

Năng suất thực thu

P1000 hạt:

Khối lượng 1000 hạt

TGST:

Thời gian sinh trưởng

Nxb:

Nhà xuất bản

ctv:

Cộng tác viên


vi

DANH MỤC CÁC BẢNG BIỀU
Bảng 1.1. Tình hình sản xuất đậu tương trên thế giới 5 năm gần đây .................4
Bảng 1.2. Tình hình sản xuất đậu tương năm 2009 của 4 nước đứng đầu thế giới....5
Bảng 1.3. Tình hình sản xuất đậu tương ở Việt Nam 5 năm gần đây.............. 15
Bảng 1.4. Số lượng mẫu giống đậu tương được nhập nội giai đoạn 2001- 2005.....24

Bảng 1.5. Các giống đậu tương được tuyển chọn từ nguồn vật liệu nhập nội..........25
Bảng 1.6. Tình hình sản xuất đậu tương tại Thái Nguyên trong 5 năm gần đây......26
Bảng 2.1. Nguồn gốc các dòng, giống đậu tương tham gia thí nghiệm.......... 29
Bảng 3.1. Các giai đoạn sinh trưởng của các dòng, giống đậu tương thí
nghiệm năm 2010-2011 .................................................................. 39
Bảng 3.2. Đặc điểm thực vật học của các dòng, giống đậu tương thí
nghiệm năm 2010- 2011 ................................................................. 44
Bảng 3.3. Một số đặc điểm hình thái của các dòng, giống đậu tương thí
nghiệm năm 2010- 2011 ................................................................. 47
Bảng 3.4. Chỉ số diện tích lá ở thời kỳ hoa rộ và thời kỳ chắc xanh của các
dòng, giống đậu tương thí nghiệm năm 2010- 2011....................... 50
Bảng 3.5. Khả năng tích lũy vật chất khô của các dòng, giống đậu tương
thí nghiệm năm 2010- 2011 ............................................................ 52
Bảng 3.6. Khả năng hình thành nốt sần hữu hiệu của các dòng, giống đậu
tương thí nghiệm năm 2010- 2011.................................................. 55
Bảng 3.7. Một số loài sâu hại chính và khả năng chống đổ, chống tách vỏ
quả của các dòng, giống đậu tương thí nghiệm năm 2010-2011.... 59
Bảng 3.8. Các yếu tố cấu thành năng suất, năng suất của các dòng, giống
đậu tương thí nghiệm năm 2010-2011............................................ 62
Bảng 3.9. Hàm lượng Protein, Lipit của các dòng, giống đậu tương thí
nghiệm năm 2010-2011 .................................................................. 65
Bảng 3.10. Hệ số tạo đậu phụ của các dòng giống đậu tương thí nghiệm
năm 2010-2011 ............................................................................... 66


vii

DANH MỤC CÁC BIỂU ĐỒ
Biểu đồ 2.1. Tình hình nhập khẩu hạt đậu tương của Việt Nam giai đoạn
2007-2010 ................................................................................... 16

Biều đồ 3.1. NSTT của các dòng, giống đậu tương thí nghiệm năm 2010-2011.... 64


1

MỞ ĐẦU
1. Đặt vấn đề
Đậu tương (Glycine max L. Merrill) còn gọi là đậu nành là một cây
trồng cạn ngắn ngày, có giá trị kinh tế cao. Sản phẩm hạt đậu tương làm thực
phẩm cho con người, thức ăn cho gia súc, nguyên liệu cho công nghiệp và là
một mặt hàng xuất khẩu có giá trị. Hạt đậu tương có thành phần dinh dưỡng
cao, hàm lượng protein trung bình khoảng từ 38-40%, lipit từ 15-20%,
hyđrát các bon từ 15-16% và nhiều loại sinh tố, muối khoáng quan trọng cho
sự sống. (Trần Văn Điền, 2010)[13].
Cây đậu tương có nguồn gốc từ miền nam Trung Quốc, nhưng nó đã
được trồng ở Việt Nam từ lâu đời. Đậu tương có thể được gieo trồng trong tất
cả các vùng sinh thái ở Việt Nam, tuy nhiên trong những năm gần đây việc
mở rộng diện tích và nâng cao năng suất đậu tương hầu như không đáng kể và
Việt Nam ngày càng nhập khẩu nhiều đậu tương từ các nước trên thế giới
phục vụ nhu cầu chế biến thực phẩm và dùng làm thức ăn chăn nuôi. Năm
2010, Việt Nam nhập khẩu hơn 227.000 tấn đậu tương, tăng 24% so với cùng
kỳ năm trước. Kim ngạch nhập khẩu đậu tương năm 2010 đạt 106 triệu USD.
FAO dự báo nhập khẩu đậu tương nguyên chất béo năm 2011 vào khoảng
700.000 tấn và năm 2012 là 1,5 triệu tấn (Tổng cục Hải Quan Việt Nam,
Global trade atlas, 2011)[32].
Thái Nguyên là một tỉnh trung du miền núi phía bắc Việt Nam có diện
tích đất và điều kiện sinh thái phù hợp cho phát triển cây đậu tương ở tất cả
các vụ gieo trồng: xuân, hè, thu và đông. Tuy nhiên sản xuất đậu tương ở Thái
Nguyên chưa thực sự được phát triển, hàng năm Thái Nguyên cũng phải nhập
khẩu một lượng lớn đậu tương từ các nước trên thế giới như Trung Quốc, Mỹ,

Úc để phục vụ cho chế biến thực phẩm cho con người và gia súc. Sở dĩ có
nghịch lý như trên là do người trồng đậu tương ở Thái Nguyên chưa có được


2

những bộ giống đậu tương đa dạng có năng suất, chất lượng cao thích hợp cho
từng tiểu vùng sinh thái và đáp ứng được nhu cầu chế biến thực phẩm.
Trong chọn tạo giống đậu tương có thể sử dụng phương pháp lai tạo,
đột biến hoặc chọn lọc từ các nguồn vật liệu nhập nội, trong đó chọn lọc từ
các nguồn vật liệu nhập nội là phương pháp chọn tạo giống nhanh và hiệu quả
nhất. Các nguồn vật liệu chọn giống được nhập nội về trước hết cần phải có
những nghiên cứu đánh giá khả năng sinh trưởng phát triển và chất lượng để
có thể trực tiếp chọn lọc được các giống phù hợp với điều kiện sinh thái của
vùng và mục đích sử dụng.
Xuất phát từ thực tế trên, chúng tôi quyết định chọn đề tài nghiên cứu:
“Nghiên cứu khả năng sinh trưởng, phát triển và chất lượng của một số
dòng, giống đậu tương nhập nội tại Thái Nguyên".
2. Mục đích và yêu cầu của đề tài
* Mục đích
Xác định được dòng, giống đậu tương nhập nội có năng suất cao, chất
lượng tốt, thích hợp với vụ xuân và vụ hè thu tại tỉnh Thái Nguyên.
* Yêu cầu
- Đánh giá được khả năng sinh trưởng, phát triển, tính chống chịu với
ngoại cảnh, sâu bệnh và một số chỉ tiêu sinh lý của các dòng, giống đậu
tương nhập nội;
- Đánh giá các yếu tố cấu thành năng suất và năng suất của các dòng
giống đậu tương nhập nội;
- Đánh giá được chất lượng hạt và khả năng tạo đậu phụ của các dòng
giống đậu tương nhập nội;



3

Chương 1
TỔNG QUAN TÀI LIỆU
1.1. Cơ sở khoa học và thực tiễn của đề tài
Đậu tương là cây trồng cạn ngắn ngày có giá trị kinh tế cao. Tại Thái
Nguyên và các tỉnh miền núi phía bắc, diện tích, năng suất và chất lượng đậu
tương còn thấp. Để nâng cao năng suất, chất lượng và sản lượng cây đậu
tương đặc biệt là trong bối cảnh thời tiết khí hậu có nhiều thay đổi như hiện
nay, thì giống là một khâu then chốt. Hiện nay các nhà khoa học không ngừng
nghiên cứu chọn tạo ra những bộ giống đậu tương cho năng suất cao thích
hợp với nhiều vùng sinh thái. Trong đó nhập nội là một phương pháp hiệu quả
và tiết kiệm thời gian nhất. Tuy nhiên các giống cây trồng nhập nội có điều
kiện sinh thái khác xa so với nơi chúng được tạo ra. Do đó chúng ta cần có
những nghiên cứu đánh giá trước khi tiến hành trồng ra sản xuất về khả năng
sinh trưởng, phát triển, năng suất, chất lượng cũng như hệ số tạo đậu phụ chế
biến từ đậu tương để phục vụ mục đích chế biến thực phẩm tại địa phương,
hạn chế số lượng đậu tương nhập khẩu hàng năm và mang lại hiệu quả kinh tế
cho người trồng.
1.2. Tình hình sản xuất, chọn tạo giống đậu tương trên thế giới và Việt Nam
1.2.1. Tình hình sản xuất và chọn tạo đậu tương trên thế giới
1.2.1.1. Tình hình sản xuất đậu tương trên thế giới
Trên thế giới, cây đậu tương là một cây trồng quan trọng, đứng ở vị trí
thứ 4 sau lúa mì, lúa nước, và ngô. Cây đậu tương là loại cây trồng có giá trị
dinh dưỡng, kinh tế cao, đặc biệt là có khả năng cải tạo đất rất tốt. Vì vậy mà
cây đậu tương được trồng ở khắp mọi nơi trên thế giới (Vũ Đình Chính,
2010)[6].
Tình hình sản xuất đậu tương trên thế giới trong những năm gần đây

được trình bày ở bảng 1.1.


4

Bảng 1.1. Tình hình sản xuất đậu tương trên thế giới 5 năm gần đây
Diện tích

Năng suất

Sản lượng

(triệu ha)

(tạ/ha)

(triệu tấn)

2005

91,39

23,00

209,53

2006

92,99


23,82

221,50

2007

94,90

24,36

219,70

2008

96,87

23,84

230,95

2009

99,50

22,43

223,18

Năm


(Nguồn: FAOSTAT Database,2010 [38]
Qua bảng 1.1 cho thấy sản xuất đậu tương trên thế giới tăng lên cả về
diện tích và sản lượng.
Về diện tích: Qua bảng 1.1 cho thấy diện tích trồng đậu tương trên toàn
thế giới tăng chậm trong giai đoạn 2005-2006, và tăng nhanh trong giai đoạn
từ 2007-2009. Năm 2005 diện tích trồng đậu tương trên thế giới là 91,39 triệu
ha, năm 2009 cả thế giới trồng được 99,50 triệu ha tăng 8,11 triệu ha.
Về năng suất: Năm 2005 năng suất đậu tương thế giới đạt 23,00 tạ/ha
đến năm 2009 giảm xuống còn 22,43 tạ/ha. Năng suất đậu tương có sự biến
động nhỏ, nhưng diện tích tăng nhanh nên sản lượng đậu tương trên toàn thế
giới năm 2009 vẫn đạt 223,18 triệu tấn.
Mặc dù cây đậu tương được trồng trên khắp thế giới nhưng khoảng 80%
sản lượng đậu tương được sản xuất ở 4 nước là: Mỹ ,Brazil, Achentina và
Trung Quốc (Vũ Đình Chính 2010) [6]. Tình hình sản xuất đậu tương của 4
nước này được thể hiện qua bảng 1.2.
Bảng 1.2 cho thấy quốc gia đứng đầu về sản xuất đậu tương trên thế
giới là nước Mỹ. Đặc biệt năng suất đậu tương tại Mỹ cao hơn rất nhiều so
với năng suất bình quân của các nước thế giới. Năm 2009, trong khi năng suất


5

bình quân của thế giới chỉ đạt 22,43 tạ/ha, thì năng suất đậu tương tại Mỹ đã
đạt 28,72 tạ/ha.
Bảng 1.2. Tình hình sản xuất đậu tương năm 2009 của 4 nước
đứng đầu thế giới
Tên nước
Mỹ
Brazil
Achentina

Trung Quốc

Diện tích
(triệu ha)
28,84
22,89
16,78
9,19

Năng suất
(tạ/ha)
28,72
21,92
18,48
16,30

Sản lượng
(triệu tấn)
82,82
50,19
30,99
14,98

(Nguồn: FAOSTAT Database,2010 [38]
Năm 2009, Brazil trở thành nước đứng thứ 2 trên thế giới về diện tích
và sản lượng đậu tương. Quốc gia đứng thứ ba sau Mỹ và Brazil về sản xuất
đậu tương là Achentina. Tại quốc gia này đậu tương thường được trồng luân
canh với lúa mì. Từ năm 1961- 1962 chính phủ đã có chính sách hỗ trợ cho
việc phát triển cây đậu tương, nên cây đậu tương được phát triển khá mạnh.
Cũng nhờ vào chính sách hỗ trợ mà diện tích trồng và sản lượng được tăng

đều hàng năm. Năm 2009 diện tích đậu tương tại Achentina đạt 16,78 triệu
ha, năng suất đạt 18,48 tạ/ha và sản lượng đạt 30,99 triệu tấn.
Trung Quốc trở thành quốc gia đứng thứ 4 trên toàn thế giới về sản
xuất đậu tương. Nhưng do dân số của Trung Quốc gia tăng mạnh mà Trung
Quốc dần trở thành Quốc gia nhập khẩu lớn nhất thế giới để đáp ứng nhu cầu
tiêu dùng trong nước. Mỗi năm Trung Quốc cần 25 - 30 triệu tấn, trong khi đó
sản xuất trong nước mới đạt 15 - 17 triệu tấn (Lê Hưng Quốc, 2007) [18].
1.2.1.2. Tình hình nghiên cứu,chọn tạo giống đậu tương trên thế giới
Nhận thức được vai trò vô cùng quan trọng, cũng như nhu cầu của con
người sử dụng các sản phẩm được chế biến từ đậu tương ngày một tăng mà


6

nhiều nước đã đầu tư lớn cho việc tăng năng suất và diện tích cây đậu tương.
Để đáp ứng được điều đó họ đã chú trọng đến đẩy mạnh việc nghiên cứu khoa
học kỹ thuật, đặc biệt là khoa học kỹ thuật trong công tác chọn tạo giống mới.
Đã có hàng nghìn công trình nghiên cứu khác nhau về cây đậu tương, nhằm
chọn tạo ra những giống như ý muốn, đáp ứng yêu cầu sản xuất. Vì vậy hàng
loạt các công trình nghiên cứu trên thế giới được thực hiện qua các năm, với
các phương pháp nghiên cứu khác nhau nhằm tìm ra những giống đậu tương
có năng suất cao, phẩm chất tốt.
Một số phương pháp chọn tạo giống đậu tương có chất lượng hạt cao
Đậu tương vốn là cây trồng tự thụ phấn nên phương pháp tạo giống và
chọn lọc giống như những cây tự thụ khác, nhưng cũng có đặc thù riêng của
nó. Song song với việc chọn lọc các giống theo phương pháp thông thường thì
công tác chọn lọc các giống theo chỉ số cũng đã được áp dụng đối với nhiều
cây trồng khác nhau, trong đó có cây đậu tương. Kết quả thông báo về nghiên
cứu và áp dụng chỉ số chọn lọc ở đậu tương còn hạn chế và chưa thống nhất.
Để tạo được giống đậu tương có chất lượng hạt cao người ta thường

dùng hai phương pháp chính là đột biến và lai tạo. Hoặc dùng các tia phóng
xạ với liều lượng khác nhau, xử lý hạt rồi đem gieo. Quá trình gây đột biến
thường cho kết quả mong muốn nhanh, rút ngắn thời gian lai tạo. Nhưng tạo
giống bằng phương pháp gây đột biến thường tốn kém và các thế hệ sau biến
dị ngày càng lớn hơn, do đó chất lượng giống giảm dần.
Lai hữu tính để tạo giống có chất lượng cao người ta thường dùng
phương pháp lai trở lại. Con lai trở lại với bố mẹ đã thích ứng để hoà nhập
các gen mong muốn từ gen nhập. Mức độ trở lại phụ thuộc vào độ khác biệt
giữa hai bố mẹ. Phương pháp này cho ra giống ổn định, lâu bền nhưng đòi hỏi
mất nhiều thời gian lai tạo.


7

Johnson và ctv (1955) [41] khi nghiên cứu hiệu quả chọn lọc theo chỉ
số gồm một hoặc nhiều tính trạng cho thấy chọn lọc theo các tính trạng gián
tiếp như thời gian đậu quả, tính chín muộn, hạt to, tính chống tách hạt, chống
đổ, hàm lượng protein thấp có thể cải lương về năng suất hạt, nhưng mức độ
hiệu quả có khác nhau giữa các tính trạng. Trong đó các tính trạng như thời
gian sinh trưởng ở quần thể 1 và khối lượng 1000 hạt ở quần thể 2 có thể thực
sự là các tính trạng khác nhau, các kết quả cho thấy chọn lọc chỉ dựa trên chỉ
số gồm thời gian đậu quả và khối lượng hạt cho hiệu quả tương đương như là
chọn lọc trực tiếp. Khi đưa thêm tính trạng chống đổ, hàm lượng dầu và đạm
vào chỉ số trên thì hiệu quả chọn lọc tăng lên tương đối rõ rệt. Hiệu quả chọn
lọc tương đối theo chỉ số gồm năng suất, thời gian đậu quả, khối lượng hạt,
tính chống đổ, hàm lượng dầu và hàm lượng đạm đạt 140,8% ở quần thể 1 và
126,1% ở quần thể 2.
Pritchard và cs (1973) [45] cho thấy chọn lọc theo chỉ số dựa trên 7 tính
trạng cho hiệu quả cao hơn so với chọn lọc trực tiếp về năng suất hạt. Ở các tổ
hợp lai khác nhau về vai trò tương đối của các yếu tố năng suất trong chỉ số

chọn lọc. Các tác giả cũng chỉ ra rằng trong thực tế sẽ rất khó khăn khi đưa
vượt quá 5 tính trạng vào sơ đồ chỉ số chọn lọc.
Johnson và cs (1955) [40] cho thấy có sự tương tác cao giữa các giống
với môi trường cho năng suất hạt và sự tương tác rất thấp có chiều cao cây và
tương tác trung bình cho kích thước hạt, sự đổ sớm, hàm lượng đạm và hàm
lượng dầu.
Phân tích ổn định kiểu hình dựa theo mẫu hình khác nhau có nhiều
công trình thông báo về việc xác định dòng giống đậu tương tốt, có tính ổn
định, khả năng thích ứng khác nhau đối với điều kiện môi trường khác nhau.


8

Hartwig và Kilen (1992) [39] nghiên cứu khả năng cho năng suất của
đậu tương với những cặp bố mẹ khác nhau về hàm lượng protein, giống nhau
về năng suất tại Mỹ. Họ cho rằng năng suất đậu tương thường không kết hợp
với protein thô. Mục đích của nghiên cứu là xác định sự kết hợp sẽ xảy ra rất
ít bằng sự tạp giao của những dòng có hàm lượng protein cao và bình thường
còn năng suất hạt như nhau. Thế hệ F2 của 1000 cây đã trưởng thành, cây
được thu hoạch riêng và xác định hàm lượng dầu sử dụng kỹ thuật cộng
hưởng sức hút hạt nhân hai phần quần thể được phát triển: 1 phần gồm 8%
hàm lượng dầu cao nhất và phần kia 8% hàm lượng dầu thấp nhất. Với sự
tương quan nghịch giữa protein thô và dầu, quần thể có hàm lượng dầu thấp
chắc chắn sẽ cung cấp những dòng tập trung protein thô cao. Lấy 200 cây từ
hai quần thể trên, tiếp tục làm như vậy với F6, F7 thu được 18 dòng có hàm
lượng đạm cao nhất và 18 dòng này dùng để đánh giá trong 5 môi trường
cho năng suất hạt, protein và dầu. Hầu hết năng suất hạt trung bình của
những dòng có hàm lượng protein cao giảm 6% so với dòng có hàm lượng
dầu cao, mặc dù khi so sánh năng suất hạt của 2 dòng có hàm lượng protein
cao nhất với hai dòng có hàm lượng dầu cao nhất trong cùng môi trường,

những dòng có hàm lượng protein cao cho tăng 1% năng suất hạt, 18%
protein thô và giảm 20% dầu. Kết quả cho thấy tiềm năng cho năng suất của
những dòng, giống đậu tương có chứa hàm lượng protein và hàm lượng dầu
cao là như nhau.
Với ứng dụng công nghệ sinh học trong chọn tạo giống cây trồng người
ta đã tạo ra được các giống đậu tương vượt trội về năng suất (Vũ Minh Sơn,
2004) [30], thì hầu hết các giống đậu tương ở Mỹ là cây biến đổi gen và
khoảng 1/3 sản lượng đậu tương ở Brazil cũng từ các giống đậu tương biến
đổi gen. Giống đậu tương oleic axit là giống chuyển gen có hàm lượng axit
oleic tới 80%, đây là giống có triển vọng thoả mãn nhu cầu dầu ăn của con


9

người. Hiện nay các giống này đang được trồng ở Australia, Canada, Nhật
Bản, Mỹ... Ngày nay, trên cơ sở các kết quả nghiên cứu và ứng dụng công
nghệ sinh học hiện đại đã tạo ra những giống đậu tương mới có nhiều ưu điểm
nổi bật như các giống chịu được thuốc diệt trừ cỏ, cho phép khống chế cỏ dại
tốt hơn và khuyến khích kỹ thuật trồng không lên luống nhằm bảo vệ đất, các
giống này được trồng ở Argentina, Australia, Brazil, Canada, Cộng Hoà Sec,
EU, Mỹ,(Vũ Minh Sơn, 2004) [30]
Hiện nay, công tác nghiên cứu đậu tương trên thế giới nhằm đáp ứng
được những mục đích sau:
- Nhập nội sau đó chọn lọc, thử nghiệm ở các vùng sinh thái khác nhau.
- Dùng các tác nhân vật lý, hoá học gây đột biến để tạo ra những giống
tốt phục vụ cho sản xuất.
- Xác định địa bàn trồng đậu tương trên thế giới và các nước trồng đậu
tương có năng suất cao.
Thông qua con đường nhập nội, chọn lọc, lai tạo và gây đột biến mà
quốc gia sản xuất đậu tương hàng đầu thế giới là Mỹ, đã tạo ra được nhiều

giống đậu tương mới. Các dòng nhập nội có năng suất cao đều được sử dụng
làm dòng, giống gốc trong các chương trình lai tạo và chọn lọc. Vào năm
1804, Mỹ đã tiến hành thí nghiệm đầu tiên tại bang Pelecibuahina đến năm
1893 thì Mỹ đã có trên 10.000 mẫu giống đậu tương thu thập từ các nơi trên
thế giới. Từ năm 1928- 1932 tính trung bình hàng năm nước Mỹ nhập nội trên
1.190 dòng, giống đậu tương từ nhiều quốc gia khác nhau trên thế giới. Hiện
đã có trên 100 dòng đậu tương khác nhau được Mỹ đưa vào sản xuất, và đã
chọn ra được một số giống có khả năng chống chịu với bệnh Phytopthora và
có khả năng thích ứng rộng như: Amsoy 71, Lec 36, Clark 63, Harky 63.
Hướng chính trong công tác nghiên cứu chọn giống là sử dụng các tổ hợp lai


10

cũng như nhập nội, từ đó thuần hoá để trở thành giống thích nghi với từng
vùng sinh thái, đặc biệt chú trọng công tác nhập nội để bổ sung vào nguồn
quỹ gen. Việc chọn ra các giống có khả năng thâm canh cao, chống chịu tốt
với điều kiện bất thuận, phản ứng yếu với quang chu kỳ, hàm lượng Protein
cao, dễ bảo quản và chế biến là mục tiêu của công tác chọn giống tại Mỹ
(Johnson và Bernard, 1967) [42].
Công tác nghiên cứu chọn tạo giống đậu tương bằng phương pháp gây
đột biến tại nước Mỹ cũng đạt được nhiều kết quả. Đặc biệt vào những năm
1988- 1990 thì Tulman-netto và Nazim qua đột biến đã tạo ra được giống
chống chịu bệnh gỉ sắt và bệnh virut) (Trần Đình Đông, 1994)[15].
Hiện nay, công tác nghiên cứu về giống đậu tương trên thế giới đã được
tiến hành với qui mô rộng lớn. Nhiều tập đoàn giống đậu tương đã được tổ
chức quốc tế khảo nghiệm ở rất nhiều vùng sinh thái khác nhau nhằm thực
hiện một số nội dung chính: thử nghiệm tính thích nghi của giống ở từng điều
kiện, môi trường khác nhau nhằm so sánh ưu thế của giống địa phương và
giống nhập nội, đánh giá phản ứng của các giống trong những điều kiện môi

trường khác nhau.
Hiện đã có nhiều thành công trong việc xác định các dòng, giống tốt có
tính ổn định và khả năng thích ứng khác nhau với các điều kiện môi trường
khác nhau. Buitrago và cs (1971) [36] đã xác định được một số giống có khả
năng thích ứng rộng với tất cả các môi trường nghiên cứu, song có một số
giống lại chỉ thích ứng với môi trường riêng rẽ khi nghiên cứu 14 dòng, giống
qua bốn vụ.
Tại Brazil các kết quả nghiên cứu của Silva và cs (1970) [49] cho thấy
có những giống chỉ cho năng suất cao ở môi trường thuận lợi và ngược lại.
Qua thực nghiệm Salado-Navarro (1986) [48] đã xác định được bốn giống


11

đậu tương có năng suất cao và ít nhạy cảm với sự thay đổi của điều kiện môi
trường, và ba giống có tính ổn định trung bình ở tất cả các điều kiện môi
trường nhưng có năng suất thấp hơn trung bình.
Khi nghiên cứu sáu giống đậu tương, Rohwal (1970) [47] đã tìm được
giống Bragg và giống Lee thích hợp cho vùng có năng suất cao, giống Punjabl
và giống Pelican thích hợp cho vùng có năng suất thấp ở Ấn Độ. Tuy nhiên,
ông không tìm được giống lý tưởng phù hợp với mọi môi trường.
Để đáp ứng nhu cầu sử dụng đậu tương trong nước mà không lệ thuộc
vào việc nhập khẩu, nhiều quốc gia tại châu Âu đã quan tâm tới việc nghiên
cứu và phát triển sản xuất cây đậu tương trong nước. Ở Liên Xô cũ, từ năm
1945 thì Kosenco đã xác định được hiệu quả đột biến cao nhất của các liều
lượng chiếu xạ đối với hạt đậu tương khô là 5 kr, còn với mầm non và cây
đang nở hoa là 2 kr. Enken, 1957 bằng gây đột biến phóng xạ đã tạo ra được
các dạng chín sớm, năng suất cao, có hàm lượng Protein cao, chịu rét khá (Vũ
Đình Chính) 2006[5]. Theo nghiên cứu của Masenco vào giai đoạn 19551956 khi tiến hành xử lý tia gamma và hoá chất Ethylenimin (EI),
Diethylsunphat (DES) sẽ tạo ra các giống chín sớm hơn giống khởi đầu từ 8 12 ngày, một số giống khác lại có năng suất vượt giống khởi đầu từ 23 - 24%,

(Vũ Đình Chính) 2006[5].
Từ năm 1984- 1986 tại Bungari khi xử lý tia gamma ở liều lượng 5 - 30
kv cùng với hoá chất EMS (nồng độ 0,1- 0,4%) trên các giống đậu tương tác
giả C.Nikolov đã thu được các dạng đột biến chín sớm hơn từ 10 - 20 ngày so
với giống ban đầu, hơn nữa số lượng nốt sần lại nhiều hơn. Tác giả Goranova
lai tạo được các dòng có hàm lượng dầu vượt giống ban đầu từ 6 - 13%, (Vũ
Đình Chính) 2006[5].


12

Như vậy, việc nghiên cứu nhằm đánh giá sự ổn định và khả năng thích
ứng có ý nghĩa to lớn trong công tác chọn tạo giống đậu tương, cho phép chọn
ra những dòng, giống đậu tương có năng suất cao, ổn định, thích hợp với các
vùng sinh thái khác nhau.
Trong những năm gần đây bằng gây đột biến mà Trung Quốc đã tạo
được một số giống như: giống Tiefeng 18 (xử lý bằng tia gamma) có khả
năng chịu được phèn cao, chống đổ tốt, cho năng suất cao, chất lượng tốt,
giống Heinou No 16 (cũng được xử lý bằng tia gamma) có hệ rễ tốt, nhiều
cành, gióng thân ngắn, khả năng thích ứng rộng (Trần Đình Đông, 1994) [15].
Trung Quốc là nước đứng thứ tư thế giới về sản xuất đậu tương. Sở dĩ
có được kết quả trên là bởi Trung Quốc đã đầu tư cho công tác ứng dụng các
tiến bộ khoa học trong lai tạo và nhập nội giống. Bên cạnh đó còn tổ chức
hàng loạt các chương trình cải tiến giống từ dạng cũ sang dạng mới có khả
năng chống chịu tốt với sâu bệnh và cỏ dại, phù hợp với các tiểu vùng khí
hậu, các giống điển hình như: CN001, CN002, HTF 18, YAT 12 đều cho
năng suất bình quân đạt 34- 42 tạ/ha ở diện tích sản xuất đại trà tại nhiều tỉnh
(FAO, 2010) [38].
Viện khoa học Nông nghiệp Đài Loan đã bắt đầu chương trình chọn tạo
giống từ năm 1961 và đưa vào sản xuất các giống Kaohsing 3, Tainung 3, Tai

nung 4... Các giống được xử lý Nơron và tia X cho các giống đột biến
Tainung. Tainung 1 và Tainung 2 có năng suất cao hơn giống khởi đầu và vỏ
quả không bị nứt Vũ Tuyên Hoàng và cs 1995) [20]. Các giống này (đặc biệt
là Tainung 4) đã được dùng làm nguồn gen kháng bệnh trong các chương
trình lai tạo giống ở các cơ sở khác nhau như Trạm thí nghiệm Marjo
(Thái Lan), Trường đại học Philippin (Vũ Tuyên Hoàng và cs 1995) [20].


13

Hiện nay, vùng Đông Nam Á cũng là một vùng trọng điểm của công
tác phát triển giống đậu tương và được ưu tiên hàng đầu trong hệ thống nông
nghiệp. Tại Indonesia, các nhà nghiên cứu chọn tạo nhằm mục đích cải tiến
giống có năng suất cao trồng được ở vùng đất thấp sau vụ thu hoạch lúa, với
thời gian sinh trưởng ngắn khoảng 70- 80 ngày, chống chịu bệnh gỉ sắt và có
hạt dạng thon dài (Sumarno và T.Adisan wanto, 1991[50]. 13 giống có năng
suất cao đã được tạo ra và được khuyến cáo gieo trồng trong đó có giống
Wilis được trồng phổ biến nhất, giống này có thời gian sinh trưởng 85 ngày,
năng suất bình quân đạt 25 tạ/ha. Việc cải tiến giống đã góp phần đưa năng
suất đạt 25 tạ/ha, giống có thời gian sinh trưởng ngắn, thích ứng với môi
trường không thuận lợi (đất không cày bừa; đất khó tiêu nước), chất lượng hạt
được tăng lên, tăng khả năng chống đổ...(Sumarno và T.Adisan wanto,
1991[50]. Qua chọn lọc mà họ đã chọn ra được một số giống trồng được trên
đất ướt sau vụ thu hoạch lúa với việc làm đất hoặc không làm đất trong mùa
khô mà vẫn cho năng suất 14,7- 16,8 tạ/ha như các giống Kerinci,
Lompobatang, Rinjani, (Buitrago và cs 1971) [36]. Các nhà nghiên cứu thuộc
Viện nghiên cứu cây trồng Thái Lan đã nghiên cứu việc sử dụng DNA marker
để xác định gen kháng bệnh gỉ sắt đậu tương. Hiện tại phần lớn các nghiên
cứu về việc kiểm soát bệnh gỉ sắt đậu tương đều tập trung vào việc xây dựng
tính kháng cho cây chủ. Các nghiên cứu sơ bộ cho thấy có 3 DNA marker có

liên quan đến tính chống chịu gỉ sắt ở đậu tương (Pitaksa và cs 1998[46].
Sự tương tác giữa giống và môi trường có vai trò quan trọng trong quá
trình cải lương giống cây trồng nông nghiệp nói chung và cây đậu tương nói
riêng. Đối với cây đậu tương đã có một số kết quả nghiên cứu về sự tương tác
giữa các giống với môi trường khác nhau.
Byth và Weber (1968) [37] cho thấy có sự tương tác cao giữa các giống
với môi trường cho năng suất hạt và sự tương tác rất thấp cho chiều cao cây,


14

còn tương tác trung bình cho kích thước hạt, sự đổ sớm, hàm lượng đạm và
hàm lượng dầu.
Liu và các cs (2008) [48] cho rằng trong một điều kiện môi trường cụ
thể năng suất đậu tương sẽ đạt đến mức tối đa nếu chỉ số diện tích lá tăng đến
mức tối thích trong từng giai đoạn sinh trưởng phát triển của cây đậu tương
1.2.2. Tình hình sản xuất, nhập khẩu và chọn tạo giống đậu tương ở Việt Nam
1.2.2.1. Tình hình sản xuất đậu tương ở Việt Nam
Hiện nay, ở Việt Nam cây đậu tương có vai trò quan trọng trong sản
xuất nông nghiệp, đặc biệt ở những vùng nông thôn nghèo. Ngoài việc cung
cấp nguyên liệu chế biến làm thực phẩm cho con người, nguyên liệu cho xuất
khẩu, cây đậu tương còn là nguồn cung cấp thức ăn cho chăn nuôi rất tốt.
Cây đậu tương có khả năng thích ứng rộng và được trồng ở nhiều vùng
sinh thái khác nhau. Trong đó vùng đồng bằng sông Hồng có diện tích trồng
đậu tương lớn nhất cả nước, với 73.400 ha chiếm 49,7% diện tích toàn miền
Bắc và 38% diện tích cả nước. Tiếp đến là các vùng: Đông Bắc (24,9%), Tây
Nguyên (12,7%), Tây Bắc(10,7%), đồng bằng sông Cửu Long(8,4%). Các
vùng Bắc Trung Bộ, Duyên hải Nam Trung Bộ và Đông Nam Bộ diện tích chỉ
vài nghìn ha (Vũ Đình Chính 2010)[6].
Theo Lê Quốc Hưng (2007) [18], nước ta có một tiềm năng rất lớn để

mở rộng diện tích trồng đậu tương cả 3 vụ xuân, hè và đông và diện tích có
thể đạt 1,5 triệu ha, trong đó phân bố ở các vùng như sau: vùng Đồng bằng
Sông Hồng có thể mở rộng diện tích tới 600 nghìn ha đậu tương vụ đông trên
đất 2 lúa, miền núi phía Bắc 400 nghìn ha trên các loại đất dốc, Bắc trung bộ
300 nghìn ha và Tây Nguyên là 100 nghìn ha. Quỹ đất đang có này là một lợi
thế để nước ta phát triển sản xuất đậu tương đảm bảo nhu cầu trong nước.


15

Tuy Việt Nam có nhiều tiềm năng để mở rộng diện tích ,nhưng hiện
nay diện tích gieo trồng đậu tương của cả nước đang có xu hướng giảm, kéo
theo sản lượng giảm sút mạnh. Tình hình sản xuất đậu tương ở Việt Nam
trong 5 năm gần đây được trình bày trong bảng 1.3.
Bảng 1.3. Tình hình sản xuất đậu tương ở Việt Nam 5 năm gần đây
Diện tích

Năng suất

Sản lượng

(1000ha)

(tạ/ha)

(1000tấn)

2005

204,10


14,34

292,70

2006

185,60

13,91

258,10

2007

187,40

14,70

275,50

2008

191,50

14,02

268,60

2009


146,20

14,61

213,60

Năm

(Nguồn: FAOSTAT Database,2010) [38]
Bảng 1.3 cho thấy diện tích đậu tương của nước ta có xu hướng giảm
dần trong 5 năm gần đây, năm 2005 diện tích đạt 204,10 nghìn ha nhưng đến
năm 2009 giảm xuống 146,20 nghìn ha, sản lượng cũng giảm xuống 79,10
nghìn tấn so với năm 2005. Tuy nhiên, xét về mặt năng suất thì năng suất đậu
tương của nước ta trong những năm vừa qua có sự nhích lên nhưng không
đáng kể, từ 13,91 tạ/ha năm 2006 tăng lên 14,61tạ/ha vào năm 2009, và còn
thấp hơn nhiều so với năng suất bình quân chung của thế giới, năm 2009 năng
suất đậu tương của Việt Nam đạt 14,61 tạ/ha, trong khi đó năng suất bình
quân của thế giới năm 2009 là 22,43 tạ/ha. Do đó, có thể khẳng định rằng
năng suất là một lợi thế có thể khai thác để tăng sản lượng, hạ giá thành trong
thời gian tới.


16

1.2.2.2. Tình hình nhập khẩu đậu tương ở Việt Nam
Diện tích và sản lượng đậu tương ở Việt Nam trong những năm gần
đây có chiều hướng giảm, trong khi nhu cầu trong nước về thực phẩm cũng
như thức ăn chăn nuôi tăng mạnh, cho nên Việt Nam đã phải nhập khẩu một
lượng lớn đậu tương hạt.


Biểu đồ 2.1. Tình hình nhập khẩu hạt đậu tương của Việt Nam giai đoạn
2007-2010
(Nguồn: Tổng cục Hải quan Việt Nam, Global Trade Atlas, số liệu
điều chỉnh của FAO (2011)[32]
Theo số liệu của Tổng cục Hải Quan Việt Nam, 2011[32], năm 2010
Việt Nam nhập khẩu hơn 227.000 tấn đậu tương, tăng 24% so với cùng kỳ
năm trước. Kim ngạch nhập khẩu đậu tương năm 2010 đạt 106 triệu USD,
gần bằng mức kỷ lục 107 triệu USD năm 2008. Trong đó khoảng 78% đậu
tương được nhập khẩu từ Hoa Kỳ; 22% còn lại là tự Canada, Trung Quốc,
Argentina, Uruguay và một số nước. Căn cứ vào kế hoạch hoạt động của 02


17

nhà máy nhiền hạt có dầu tại Việt Nam vào quý II và quý III năm 2011, FAO
dự báo nhập khẩu đậu tương nguyên chất béo năm nay vào khoảng 700.000
tấn và năm 2012 là 1,5 triệu tấn.
1.2.2.3. Tình hình nghiên cứu chọn tạo giống đậu tương ở Việt Nam
Ở Việt Nam, theo Trung tâm nghiên cứu và thực nghiệm đậu đỗ (Viện
Khoa học Kỹ thuật Nông nghiệp Việt Nam) thì cây đậu tương được trồng ở
hầu khắp các tỉnh trong cả nước với diện tích hàng năm là 150-200 ngàn
ha, năng suất trung bình là 13-14 tạ/ha. Có 3 vùng trồng đậu tương lớn nhất là
miền núi và Trung du Bắc bộ, Đồng bằng Sông Hồng và vùng Đông Nam bộ,
chiếm 72,2% tổng diện tích trồng cả nước. Các tỉnh trồng nhiều đậu tương
như: Cao Bằng, Sơn La, Đồng Nai, Đồng Tháp... Nhu cầu về sản phẩm đậu
tương của các ngành thương mại, chăn nuôi, công nghiệp thực phẩm ngày
càng phát triển nên cây đậu tương ngày càng khẳng định được vị trí, vai trò
quan trọng trong ngành nông nghiệp nước ta. Xuất phát từ vấn đề trên trong
những năm gần đây, cây đậu tương đã được các Viện, trường Đại học đầu tư

nghiên cứu và tuyển chọn ra nhiều giống cho năng suất cao, chất lượng tốt,
thích ứng được nhiều vụ trong năm (Vũ Danh Ca, 2004)[3]. Trong công tác
chọn tạo giống đậu tương được tập trung vào một số hướng chính sau đây:
(Ngô Thế Dân và cs, 1999)[8].
- Chọn tạo giống thích hợp cho từng thời vụ gieo trồng khác nhau: ở
miền nam, chọn bộ giống thích hợp cho 2 vụ: mùa khô và mùa mưa. ở các
tỉnh phía Bắc, chọn bộ giống thích hợp cho vụ xuân, vụ hè và vụ đông
- Xác định các bộ giống thích hợp cho các vùng sinh thái khác nhau.
- Chọn giống năng suất cao và đưa ra định hướng cho những năm sau.
- Chọn tạo giống đậu tương chín sớm để đưa vào chân đất 2 lúa - 1 đậu
tương hè ở Bắc Giang với thời gian sinh trưởng 70-75 ngày.


×