Tải bản đầy đủ (.doc) (28 trang)

Thế giới quan duy vật biện chứng theo tư tưởng hồ chí minh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (187.44 KB, 28 trang )

MỤC LỤC
MỞ ĐẦU.......................................................................................................................1
NỘI DUNG...................................................................................................................3
I. Thế giới quan ............................................................................................................3
1. Định nghĩa thế giới quan...........................................................................................3
2. Nguồn tư liệu phục vụ xây dựng thế giới quan.........................................................3
3. Phân loại thế giới quan..............................................................................................4
4. Ý nghĩa thế giới quan................................................................................................4
II. Cơ sở hình thành thế giới quan duy vật biện chứng theo tư tưởng Hồ Chí Minh
1. Cơ sở thực tiễn.........................................................................................................5
2. Cơ sở lý luận............................................................................................................7
2.1. Truyền thống văn hóa dân tộc ...............................................................................7
2.2. Tư tưởng và nền văn hóa phương Đông.................................................................8
2.3. Tư tưởng và nền văn hóa phương Tây, chủ yếu là triết học duy vật biện chứng
của chủ nghĩa Mác – Lênin..........................................................................................10
III. Nội dung thế giới quan duy vật biện chứng theo tư tưởng Hồ Chí Minh..............11
1. Hồ Chí Minh yêu cầu làm việc gì cũng phải xuất phát từ thực tiễn khách quan....11
2. Hồ Chí Minh đứng trên lập trường thế giới quan duy vật biện chứng để tiếp cận
những giá trị tốt đẹp của tôn giáo............................................................................14
3. Thế giới quan duy vật biện chứng theo tư tưởng Hồ Chí Minh đối lập với chủ
nghĩa khách quan, Người đặc biệt chú ý đến vai trò cuả nhân tố chủ quan ...........18
4. Hồ Chí Minh đề cao vai trò nhân tố chủ quan đồng thời yêu cầu phải chống bệnh
chủ quan..................................................................................................................22
5. Hồ Chí Minh khẳng định vai trò quyết định của sức sản xuất, của cơ sở kinh tế đối
với sự chuyển biến từ chế độ này sang chế độ khác...............................................24
IV. Giá trị thế giới quan duy vật biện chứng theo tư tưởng Hồ Chí
Minh...................26
KẾT
LUẬN..................................................................................................................29
1



MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
“Từ đầu những năm hai mươi của thế kỷ XX, một con người đã trở
thành hiện thân của quá trình gặp gỡ lịch sử giữa một dân tộc, một thời đại, làm nên
một sự nghiệp cách mạng lớn lao. Con người ấy là Hồ Chí Minh. Dân tộc ấy là dân
tộc Việt Nam. Thời đại ấy là thời đại quá độ trên toàn thế giới từ chủ nghĩa tư bản lên
chủ nghĩa xã hội. Sự nghiệp ấy là sự nghiệp cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân tiến
lên cách mạng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam, góp phần vào công cuộc giải phóng dân
tộc, giải phóng xã hội, giải phóng con người. Một con người, một dân tộc, một thời
đại, một sự nghiệp, đó là bốn nhân tố lịch sử tác động qua lại, đa dạng và quyện chặt
vào nhau, bắt đầu từ một con người và cuối cùng thể hiện trong một sự nghiệp"1
Tư tưởng Hồ Chí Minh đã trở thành kim chỉ nam cho tư duy và hành
động của toàn Đảng, toàn dân ta. Trong giai đoạn hiện nay, khi phong trào cách mạng
trên toàn thế giới tạm thời thoái trào, cách mạng Việt Nam đang bước vào thời kỳ đổi
mới toàn diện, phát triển đầy sáng tạo và không ngừng đi lên, nhưng cũng đứng trước
những thử thách đầy cam go, thì việc nắm vững tư tưởng Hồ Chí Minh là cần thiết
hơn bao giờ hết để củng cố niềm tin và hoạch định bước đi vào chủ nghĩa xã hội.
Chính vì vậy, tôi quyết định chọn đề tài: “Thế giới quan duy vật biện
chứng theo tư tưởng Hồ Chí Minh” là đề tài tiểu luận trong học phần tư tưởng triết
học Hồ Chí Minh.
2.Mục đích nghiên cứu
Tiểu luận nhằm nghiên cứu cụ thể hơn về thế giới quan Hồ Chí Minh –
một trong những bộ phận của tư tưởng triết học Hồ Chí Minh. Từ đó có cách nhìn sâu
sắc và toàn diện hơn về tư tưởng Hồ Chí Minh, phục vụ tốt cho công việc nghiên cứu,
học tập và vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh.

Phạm Văn Đồng: Hồ Chí Minh – một con người, một dân tộc,một thời đại, một sự nghiệp; NXB Sự thật
1990
1


2


3. Phạm vi nghiên cứu
Tiểu luận nghiên cứu những quan điểm trong thế giới quan duy vật biện
chứng theo tư tưởng Hồ Chí Minh trong toàn bộ tiến trình cách mạng Việt Nam.
4. Kết cấu tiểu luận
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh muc tài liệu tham khảo thì tiểu luận
gồm những nội dung cơ bản sau:
I. Thế giới quan
II. Cơ sở hình thành thế giới quan duy vật biện chứng Hồ Chí Minh
III. Nội dung thế giới quan duy vật biện chứng theo tư tưởng Hồ Chí Minh
IV. Giá trị thế giới quan duy vật biện chứng theo tư tưởng Hồ Chí Minh

3


NỘI DUNG
I . Thế giới quan
1. Định nghĩa thế giới quan
Theo từ điển Bách khoa toàn thư: Thế giới quan là hệ thống tổng quát những
quan điểm của con người về thế giới (toàn bộ sự vật và hiện tượng thuộc tự nhiên và
xã hội), về vị trí con người trong thế giới đó và về những quy tắc xử sự do con người
đề ra trong thực tiễn xã hội.
Theo sổ tay thuật ngữ các môn khoa học Mác – Lênin:
-

Diễn đạt một cách cô đọng: Thế giới quan là quan niệm của con người về


thế giới và vị trí của con người trong thế giới đó.
-

Diễn đạt một cách đầy đủ: Thế giới quan là hệ thống tổng quát những quan

điểm về thế giới, bao gồm cả những nguyên tắc, quan điểm, niềm tin và định hướng
hoạt động của con người (cá nhân, tập đoàn, giai cấp, dân tộc...)
Như vậy, ta có thể hiểu thế giới quan là toàn bộ những quan điểm, niềm tin, định
hướng của con người trong cuộc sống.
2. Nguồn tư liệu phục vụ xây dựng thế giới quan
Theo thời gian, xã hội loài người đã xây dựng cho mình những nguồn tư liệu
phong phú đóng vai trò làm “suối nguồn” cung cấp các câu trả lời thế giới quan. Bao
gồm:
- Triết học phương Tây: thiên hướng duy lý, sử dụng luận cứ và tư biện của lý trí.
Nghiên cứu đi sâu nhằm hiểu biết bản chất từ tự nhiên đến xã hội, tư duy để nhận
thức cho khách quan
- Minh triết phương Đông: thiên hướng sử dụng trực giác, đi thẳng vào trả lời những
vấn đề về nhân sinh quan, lối sống: xã hội,chính trị, đạo đức, tâm linh...
- Thành tựu khoa học: hệ thống các tri thức được kiểm chứng, phát triển dựa trên
những thành tự của khoa học tự nhiên và khoa học xã hội. Từ đó giúp cho chúng ta
có một thế giới quan vững chắc hơn, tin cậy hơn.

4


- Tôn giáo học: dựa trên niềm tin về uy quyền tôn giáo đối với vật chất và tinh thần.
Mọi sự lý giải về thế giới đều có can dự bởi quan hệ tới chúa và sự sáng tạo tối cao
của Chúa.
3. Phân loại thế giới quan
Bất luận thế giới quan nào đều phải quan tâm giải quyết các câu hỏi: thế

giới quanh ta là gì? Con người có nguồn gốc từ đâu và con người có nhận thức được
thế giới xung quanh không...?Những câu hỏi đó đều liên quan đến vật chất và ý thức,
tư duy và tồn tại...Đó là vấn đề của hệ thống các thế giới quan, cũng chính là vấn đề
cơ bản của triết học.
Thế giới quan duy vật cho rằng: giữa vật chất và ý thức thì vật chất là cái
có trước, cái quyết định ý thức. Thế giới vật chất tồn tại khách quan, độc lập đối với ý
thức của con người, không do ai sáng tạo và không ai tiêu diệt được.
Thế giới quan duy tâm cho rằng: ý thức là cái có trước và là cái sản sinh ra thế
giới tự nhiên.
Thực tế khẳng định rằng, thế giới quan duy vật có vai trò tích cực trong
việc phát triển khoa học, nâng cao vai trò của con người đối với giới tự nhiên và sự
tiến bộ xã hội. Trong triết học Mác, thế giới quan duy vật và phương pháp biện chứng
thống nhất hữu cơ với nhau phản ánh quy luật vận động và phát triển của thế giới.
4. Ý nghĩa thế giới quan
Từ các hiểu biết về thế giới chúng ta có được bức tranh về thế giới trong ý thức tức
thế giới quan và từ đó nó quyết định lại thái độ và hành vi đối với thế giới.
Có một thế giới quan đúng đắn sẽ hướng con người hoạt động theo sự phát
triển logic của xã hội và góp phần vào sự tiến bộ của xã hội. Thế giới quan là trụ cột
về mặt tư tưởng và nhân cách, là cơ sở cho đạo đức, chính trị và hành vi.
Như vậy, để có cách nhìn toàn diện đầy đủ về thế giới quan duy vật biện
chứng theo Tư tưởng Hồ Chí Minh thì vấn đề hiểu thế giới quan là gì, có ý nghĩa
như thế nào là vấn đề cơ bản đầu tiên.
II. Cơ sở hình thành thế giới quan duy vật biện chứng theo tư tưởng Hồ Chí
Minh
1. Cơ sở thực tiễn
5


Cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX, thế giới chứng kiến nhiều sự kiện lịc sử
trọng đại phản ánh xu hướng biến động vô cùng phức tạp của xã hội loài người. Các

nước đế quốc chủ nghĩa hầu như đã phân chia xong thị trường thế giới. Đa số các
quốc gia phong kiến phương Đông, các nước lạc hậu ở Châu Phi, châu Mỹ Latinh đã
bị xâm chiếm làm thuộc địa. Những mâu thuẫn lớn của thời đại ngày càng gay gắt,
tích tụ lại thành thời kỳ bão táp cách mạng và chiến tranh ở những năm đầu thế kỷ
XX. Mở đầu là cách mạng tháng Mười Nga vĩ đại năm 1917. Trước đó, phong trào
giải phóng dân tộc ở các nước thuộc địa đã diễn ra mạnh mẽ và liên tục, nhất là ở các
nước thuộc địa phương Đông – nơi tồn tại hàng nghìn năm của chế độ phong kiến.
Tuy nhiên, các phong trào đó đều thất bại và người lãnh đạo phần lớn là thuộc giai
cấp địa chủ phong kiến, số ít là lãnh tụ nông dân và sau đó thuộc giai cấp tư sản dân
tộc; vì mục tiêu của phong trào chỉ hướng vào mục tiêu dân tộc, ít nhằm vào mục tiêu
dân chủ và không nhằm mục tiêu giải phóng triệt để nhân dân lao động; do đường lối
không đúng nên không thu hút được sức mạnh của cả dân tộc.
Cách mạng tháng Mười Nga thành công là do giai cấp vô sản lãnh đạo, đứng đầu là
Đảng cộng sản Nga và Lênin vĩ đại; vì mục tiêu của nó nhằm giải quyết mâu thuẫn
lớn của thời đại nước Nga lúc đó, giải phóng triệt để giai cấp những người lao động ,
đưa nước Nga tiến lên chủ nghĩa xã hội.
Sự thất bại của phong trào giải phóng dân tộc ở các nước thuộc địa và phụ
thuộc và sự thành công của cách mạng tháng Mười Nga đã chỉ ra rằng: chỉ có phong
trào cách mạng nào có mục tiêu giải quyết đồng thời những mâu thuẫn lớn của thời
đại ở nước mình thì mới có thể đi đến thắng lợi . Một cuộc cách mạng như vậy chỉ có
thể do giai cấp công nhân và Đảng cộng sản lãnh đạo dưới ánh sáng chủ nghĩa Mác Lênin. Cách mạng tháng Mười Nga có sứ mệnh vạch ra con đường cách mạng đúng
đắn cho phong trào cách mạng toàn thế giới. Tuy vậy, ánh sáng đó chưa phải một
sớm một chiều mà tới ngay được các nước thuộc địa phương Đông. Điều này được
Chủ tịch Hồ Chí Minh giải thích rất rõ ở bài “ Mấy ý nghĩ về vấn đề thuộc địa” của
Người. Ở các nước này, phong trào giải phóng dân tộc vẫn hoàn toàn bị bế tắc về mặt
đường lối, nó đang chờ “một bàn tay chèo lái”.

6



Việt Nam, một quốc gia phong kiến nhỏ bé và lạc hậu ở Đông Dương
cũng không thoát khỏi thân phận là thuộc địa của thực dân Pháp. Phong trào giải
phóng dân tộc của nhân dân Việt Nam cũng liên tiếp nổ ra nhưng lần lượt bị thất bại
vì bế tắc về đường lối, khủng hoảng về lực lượng lãnh đạo có đủ khả năng đáp ứng
yêu cầu của lịch sử. Nhưng cũng vì vậy mà tư tưởng chống Pháp, nguyện vọng giải
phóng dân tộc ngày càng trở nên tha thiết mãnh liệt, nhất là đối với tầng lớp trí thức
mới có lòng yêu nước nồng nàn. Đa số họ xuất thân từ tầng lớp khoa bảng, thấm
nhuần học thuyết Nho giáo và các học thuyết phương Đông khác đồng thời lại tiếp
thu ít nhiều tri thức mới của phương Tây, nhất là văn minh Pháp. Tuy nhiên, tất cả
những con đường giải phóng dân tộc mà họ tìm kiếm vẫn chưa thoát khỏi cái vòng
luẩn quẩn trước đây...
Trong bối cảnh lịch sử ấy của đất nước và thời đại, Chủ tịch Hồ Chí
Minh sinh ra và lớn lên, nhận sứ mệnh lịch sử giải phóng dân tộc, thực hiện dân chủ,
đưa đất nước tiến lên chủ nghĩa xã hội, theo con đường cách mạng tháng Mười Nga
đã vạch ra. Hoàn cảnh lịch sử với yêu cầu cách mạng là nguồn gốc đầu tiên quy định
mục tiêu, khơi nguồn động lực cho việc hình thành và phát triển thế giới quan Hồ
Chí Minh.
2. Cơ sở lý luận
2.1. Truyền thống văn hóa dân tộc
Hồ Chí Minh sinh ra ở Kim Liên - Nam Đàn – Nghệ An, một vùng quê
giàu truyền thống yêu nước. Người lại sinh ra trong một gia đình mà cả ông và cha là
những nho sĩ tiến bộ, có ý nguyện an dân dựng nước. Từ thủa thiếu thời, Hồ Chí
Minh đã được rèn dũa lịch sử dân tộc, hun đúc truyền thống bất khuất, yêu nước
thương dân, căm ghét sự bất công, tàn bạo.
Cũng như đối với nhiều cộng đồng dân cư trên thế giới, lịch sử dân tộc
Việt Nam bắt đầu ngay từ lúc con người xuất hiện và xã hội hình thành. Trong những
điểm chung của lịch sử loài người , lịch sử Việt Nam cũng có những đặc điểm thể
hiện bản sắc văn hóa dân tộc, tính cách con người Việt Nam.
Việt Nam nằm ở vùng đông nam lục địa Châu Á – một vùng đất được
hình thành cách đây khoảng 185 – 520 triệu năm, từ thời cổ sinh trong lịch sử quả

7


đất. Việt Nam cũng là một trong những cái nôi của loài người. Từ người khôn ngoan
đến cuối thời đại đồ đã trở đi, cư dân ta đã xây dựng nên những nền văn hóa bản địa:
văn hóa Sơn Vi, Hòa Bình, Bắc Sơn, Đông Sơn...Những nền văn hóa của các tộc
người được kế thừa và phát triển qua biết bao thế hệ đã dần hình thành truyền thống
dân tộc. Giá trị tinh thần này là chất keo gắn chặt các cộng đồng cư dân trên đất nước,
tạo một ấn tượng sâu sắc trong lòng mỗi người dân Việt... Hồ Chí Minh dù xa nước
30năm, xa quê hương nửa thế kỷ vẫn nhớ món cà muối, điệu hò xứ Nghệ.
Mặt khác, Việt Nam lại nằm ở vị trí chiến lược của vùng Đông Nam Á,
ngã tư đường thủy, đường bộ thuận lợi từ bắc xuống nam, từ đông sang tây. Vì vậy,
cư dân Việt Nam sớm có điều kiện tiếp xúc, giao lưu với nhiều nền văn hóa lớn của
nhân loại, tiêu biểu là văn hóa Trung Hoa và Ấn Độ ở phương Đông cổ đại. Tuy
nhiên, văn hóa Việt Nam biết hấp thụ có chọn lọc tinh hoa văn hóa nước ngoài để
làm nền cho văn hóa dân tộc thêm phong phú và hùng mạnh. Thực trạng văn hóa “
tam giáo đồng hành” là một biểu hiện cụ thể của truyền thống bao dung, quảng đại,
biết học cái hay của người, biết bỏ cái dở của mình. Đây chính là một cơ sở quan
trong hình thành nên thế giới quan Hồ Chí Minh.
Trong quá trình dựng nước và giữ nước, nhân dân ta đã gặp biết bao khó
khăn gian khổ do điều kiện tự nhiên và sự xâm lược từ bên ngoài. Sức mạnh truyền
thống của người dân Việt Nam đã làm cho mọicuộc xâm lược phải lần lượt thất bại.
Truyền thống yêu nước là dòng tư tưởng lớn nhất xuyên suốt tư duy và hành động
của dân tộc ta. Nước là nước dân, yêu nước là yêu nhân dân, là sự thống nhất biện
chứng , phải có tinh thần xả thân vì cuộc đấu tranh cho độc lập dân tộc. Từ đây, Hồ
Chí Minh đã tiếp nhận được tư tưởng về mối quan hệ giữa dân với nước – mối quan
hệ lớn nhất xuyên suốt trong tư duy và hành động của Người.
2.2. Tư tưởng và nền văn hóa phương Đông
* Tư tưởng và nèn văn hóa Trung Hoa
Hồ Chí Minh xuất thân trong một gia đình khoa bảng, Người không chỉ

tiếp thu tri thức Quốc học mà còn tiếp thu tri thức Hán học, trong đó chủ yếu là Nho
giáo.

8


Nho giáo chủ trương “Nhập thế”, “Chính danh”, “Hành đạo”, phải có hành
động tích cực đối với cuộc đời, phải “tận nhân lực”...Triết lý Nho giáo là triết lý hành
động giúp đời, cứu người. Nho giáo vào Việt Nam đã kết hợp với chủ nghĩa yêu nước
truyền thống tạo thành những tiêu chuẩn cụ thể của nhân nghĩa, dũng...là đánh giặc
giữ nước, là cứu dân khỏi vòng nô lệ... Hồ Chí Minh đã sử dụng nhưng phát triển
sáng tạo các giá trị của học thuyết Nho giáo. Nho giáo chủ trương tu thân để trị quốc
nhưng ở Hồ Chí Minh thì tu thân không phải để làm quan, đè đầu cưỡi cổ dân mà làm
“đầy tớ trung thành” của nhân dân, phục vụ nhân dân, phục vụ Tổ quốc, tu thân trước
hết là rèn luyện đạo đức cách mạng và ra sức học tập.
Nho gia chủ trương “nhập thế”, “hành đạo” còn Đạo gia thì chủ trương “xuất thế”,
“vô vi”. Nho gia va Đạo gia là hai hệ tư tưởng đối lập nhau. Nhưng Hồ Chí Minh đã
tìm được sự thống nhất của hai mặt đối lập đó, rằng khi dân khổ nước mất thì xả thân
vì nước vì dân. Khi nước nhà đã giành được độc lập, nhân dân đã ấm no hạnh phúc
thì “thân thoái” trở về với cảnh điền viên, gần gũi với thiên nhiên, với nhân dân lao
động.
Phái Mặc gia đề cao “kiêm ái” nhưng lại là sự kiêm ái một chiều, kiêm ái siêu thực.
Còn “kiêm ái” ở Hồ Chí Minh là thương yêu mọi kiếp người đau khổ và đứng lên đấu
tranh cho hạnh phúc của con người. Kiêm ái đó là yêu Tổ quốc, yêu đồng bào “trơn
mắt coi khinh ngàn lực sỹ, khom lưng làm ngựa cháu nhi đồng”
Như vậy, cả một hệ thống tư tưởng văn hóa Trung Hoa đã được Hồ Chí Minh kế thừa
và vận dụng có chọn lọc. Đó là những viên gạch hợp thành thế giới quan của Hồ Chí
Minh ở trình độ và nhận thức mới.
*Tư tưởng và văn hóa Ấn Độ mà chủ yếu là Phật giáo
Tuy vào Việt Nam sau Nho giáo nhưng Phật giáo đã ảnh hưởng sâu rộng

đến mọi tầng lớp nhân dân. Trong học thuyết Phật giáo nguyên thủy có thuyết “Chân
như” thừa nhận thế giới tồn tại và vận động một cách vĩnh hằng. Vũ trụ, vạn vật sinh
ra do sự biến chuyển trong bản thân nó, vũ trụ là tự tại, quy luật vận hành của vũ trụ
là luật nhân quả, dây chuyền của nhân quả là vô tận. Vũ trụ là “vô thủy, vô chung” –
gọi là thế giới “thường trụ”; còn mỗi sự vật hiện tượng thì có thủy, có chung – nghĩa

9


là có ra đời rồi mất đi, có sinh có tử...nên gọi là “vô thường”. Thế giới Thường trụ,
thế giới tự nó gọi là Chân như
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã vận dụng thuyết “ Chân như”, tư tưởng “vô
thường, vô ngã” để giáo dục cán bộ, đảng viên. Người nói “Con người ta đẻ ra, ai
cũng lớn lên, già đi rồi chết. Chết rồi thì bảo người ta bầu làm sao được”. Đó chính là
luật vô ngã Người vận dụng để phê phán tư tưởng tham quyền cố vị “sống lâu lên lão
làng” của một số cán bộ, đảng viên mất phẩm chất.
Trong những bài viết của Hồ Chí Minh cũng có một số tư tưởng của
Phật giáo được thể hiện như “Nhân nhị tối thắng”. Đó là tư tưởng Phật tổ đánh giá
vai trò của con người trong vũ trụ trời đất. Vận dụng những yếu tố tích cực của Phật
giáo vào hoàn cảnh Việt Nam, Hồ Chí Minh kêu gọi mọi người kể cả những người tu
hành không nên mê tín dị đoan, cần lao động để sống, cần đánh giặc để giữ nước. Đó
là chủ trương tự do tín ngưỡng, đoàn kết tôn giáo, hòa hợp dân tộc.
2.3. Tư tưởng và văn hóa phương Tây, chủ yếu là triết học duy vật biện
chứng của chủ nghĩa Mác - Lênin
Thế giới quan Hồ Chí Minh có nguồn gốc từ tinh hoa của tư tưởng, văn
hóa truyền thống Việt Nam, của các trường phái triết học phương Đông. Nhưng chỉ
với những nguồn gốc tư tưởng ấy thì chưa đủ để Hồ Chí Minh xây dựng một thế giới
quan duy vật biện chứng hoàn chỉnh.
Hạn chế của những tư tưởng cổ truyền đã thôi thúc Người tìm tòi, nghiên cứu, tiếp
thu hệ tư tưởng mới. Người đã tìm hiểu tư tưởng dân chủ của cách mạng tư sản Pháp:

tự do, bình đẳng, bác ái; tư tưởng của các nhà văn hóa Pháp chống phong kiến, chống
“chủ nghĩa kinh viện”; tìm hiểu chủ nghĩa nhân đạo Phục hưng, triết học Khai sáng
và chủ nghĩa duy vật Pháp chứa đựng nhiều yếu tố biện chứng được hỗ trợ đắc lực
của khoa học tự nhiên thế kỷ XVI – XVIII. Ngoài việc nghiên cứu tư tưởng của các
nhà văn, nhà triết học như Môngtetxkio, Rutxo, Vônte...Người còn nghiên cứu kinh
tế học của Ricácđô, Adam Smit và các tác phẩm của C.Mác, trong đó có “Tư bản
luận” và nghiên cứu “Luận cương về vấn đề dân tộc và thuộc địa” của Lênin. Từ bản
Luận cương này, Người đã tìm thấy ánh sáng và đường lối cách mạng đúng đắn cho
dân tộc Việt Nam. Từ năm 1920 cho đến cuối đời, Hồ Chí Minh đã dày công nghiên
10


cứu, tiếp thu, kế thừa, bảo vệ và vận dụng thành công những nguyên lý của triết học
Mác - Lênin vào thực tiễn cách mạng Việt Nam. Trong tất cả những bài viết và bài
nói của Hồ Chí Minh, toàn bộ hệ thống tư tưởng của triết học Mác - Lênin luôn được
thể hiện như một bộ phận chủ yếu, giữ vai trò nòng cốt trong tư tưởng Hồ Chí Minh.
Trong đó, thế giới quan duy vật triệt để, phép biện chứng duy vật khoa học và cách
mạng với những nguyên lý, quy luật được vận dụng thành công. Tư tưởng Hồ Chí
Minh dựa trên nền tảng thế giới quan duy vật khoa học. Chính thế giới quan duy vật
khoa học đã giúp cho người xem xét, đánh giá đúng tình hình khi đề ra đường lối
trong từng giai đoạn cách mạng mà không mắc phải sai lầm ảo tưởng, chủ quan duy ý
chí.
Như vậy, ngoài hoàn cảnh lịch sử xã hội, hoạt động thực tiễn của Chủ
tịch Hồ Chí Minh, còn có thể tìm thấy nguồn gốc thế giới quan duy vật biện chứng ở
Hồ Chí Minh từ ba yếu tố: truyền thống dân tộc Việt Nam, những giá trị tiến bộ của
triết học phương Đông và phương Tây, hệ thống tư tưởng triết học Mác - Lênin –
đỉnh cao của sự phát triển tư tưởng nhân loại. Tổng hợp tất cả các yếu tố đó làm cho
thế giới quan Hồ Chí Minh trở nên hoàn thiện, nâng lên ngang tầm thời đại, hướng
tới tương lai.
III. Nội dung thế giới quan duy vật biện chứng theo tư tưởng Hồ Chí Minh

Mặc dù sinh thời Hồ Chí Minh rất ít dùng các từ “thế giới quan”, “chủ
nghĩa duy vật”, “chủ nghĩa duy tâm” nhưng thế giới quan duy vật macxit đã được toát
lên từ trong cuộc sống, trong hoạt động thực tiễn cách mạng của Người. Thế giới
quan duy vật biện chứng trong tư tưởng Hồ Chí Minh được biểu hiện cụ thể trên một
số nét cơ bản sau:
1. Hồ Chí Minh yêu cầu làm việc gì cũng phải xuất phát từ thực tiễn khách
quan
Trong lý luận nhận thức của triết học duy vật biện chứng, “thực tiễn”
được coi là những hoạt động vật chất có mục đích mang tính lịch sử - xã hội của con
người nhằm cải tạo tự nhiên và xã hội. Nó gồm các dạng cơ bản là hoạt động sản xuất
vật chất, hoạt động chính trị - xã hội, hoạt động thực nghiệm khoa học. Thực tiễn

11


được coi là mục đích, là cơ sở, là động lực chủ yếu và trược tiếp của nhận thức, thực
tiễn là tiêu chuẩn của chân lý.
Vận dụng nguyên lý này vào hoàn cảnh cụ thể của cách mạng Việt Nam,
Hồ Chí Minh thường dùng các khái niệm “thực tế” hay “thực hành”...cùng với khái
niệm “thực tiễn”. Theo Người: Thực tế là các vấn đề mình phải giải quyết, là mâu
thuẫn của sự vật. Chúng ta là những người cán bộ cách mạng, thực tế của chúng ta là
những vấn đề mà cách mạng đề ra cho chúng ta giải quyết. Thực tế bao gồm rất rộng.
Nó bao gồm kinh nghiệm công tác và tư tưởng của cá nhân, chính sách và đường lối
của Đảng, kinh nghiệm lịch sử của Đảng cho đến các vấn đề trong nước và trên thế
giới”. Hồ Chí Minh luôn yêu cầu cán bộ, đảng viên bắt đầu làm việc gì cũng phải
xuất phát từ đièu kiện thực tiễn khách quan
“Lấy thực tế Việt Nam làm điểm xuất phát, lấy cải tạo biến đổi hiện thực
Việt Nam làm mục tiêu cho mọi hành động” là một trong những phương pháp có ý
nghĩa chiến lược định hướng cho mọi hoạt động cách mạng của Chủ tịch Hồ Chí
Minh. Đó chính là điểm xuất phát cho mọi suy nghĩ và hành động của Người.

Thực tế Việt Nam là đất nước, dân tộc, con người Việt Nam với những
truyền thống đã có mấy nghìn năm trong lịch sử; là những điều kiện kinh tế, văn hóa,
xã hội của Việt Nam; là những mối quan hệ của Việt Nam và thế giới...Hơn nữa, thực
tiễn mà Hồ Chí Minh đề cập tới không chỉ là thực tiễn Việt Nam mà còn là thực tiễn
thế giới rộng lớn. Xuất phát từ chỗ hiểu thực tiễn rất rộng như vậy cho nên Người
luôn căn dặn cán bộ, đảng viên khi liên hệ lý luận với thực tế cần tránh sự lệch lạc
không hiểu rõ vấn đề, đòi hỏi phải giải quyết mọi vấn đề xuất phát từ thực tế khách
quan.
Từ thực tiễn Việt Nam những năm cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX, cách mạng
lâm vào bế tắc, đất nước như không có đường ra, các phong trào cách mạng bị đàn áp
tàn bạo, Hồ Chí Minh với tư duy độc lập tự chủ đã vượt qua lối mòn của người đi
trước, quyết định chọn một cách đi riêng để cứu nước. Đến với học thuyết cách mạng
và khoa học là chủ nghĩa Mác - Lênin, trung tâm chú ý của Người là rút ra những gì
cần thiết cho cách mạng Việt Nam, phù hợp với dân tộc Việt Nam, giúp cho sự
nghiệp giải phóng dân tộc. Trên cơ sở nắm vững lập trường, quan điểm của chủ nghĩa
12


Mác - Lênin để phân tích tình hình xã hội Việt Nam, từ đó xác định đường lối cách
mạng đúng đắn. Con đường mà Người đi ra thế giới để rồi lại trở về Việt Nam, từ chủ
nghĩa yêu nước đến chủ nghĩa Mác - Lênin để rồi trở về cứu nước, từ người đi tìm
đường trở thành người dẫn đường cho cả dân tộc di tới độc lập và chủ nghĩa xã hội.
“Lấy thực tế Việt Nam làm điểm xuất phát” là cơ sở của sự chuyển hướng
chiến lược rất kiên quyết trong Nghị quyết Hội nghị TW lần thứ tám (5/1941) và chỉ
thị “Nhật – Pháp bắn nhau và hành động của chúng ta”. Hồ Chí Minh yêu cầu từ thực
tế chung của cả nước, cần phải căn cứ vào tình hình thực tế riêng của mỗi địa phương
để vận động, lãnh đạo quần chúng tìm cách làm thích hợp nhằm giành thắng lợi cao
nhất. Kết quả là chúng ta từ khởi nghĩa từng phần đi tới thắng lợi vĩ đại của tổng khởi
nghĩa cách mạng tháng Tám năm 1945 trên phạm vi cả nước. Cũng chính từ thực tiễn
điều kiện cách mạng đã làm nảy sinh biết bao cách đánh chưa hề có trong từ điển

quân sự thế giới, sáng tạo ra bao phương thức đấu tranh có thể trở thành kinh điển
của phong trào giải phong dân tộc, đưa đến những thắng lợi ý nghĩa thời đại.
Cách mạng tháng Tám theo con đường cách mạng tháng Mười Nga, xóa
bỏ áp bức, xây dựng xã hội mới công bằng, hnạh phúc. Tuy nhiên, Chủ tịch Hồ Chí
Minh yêu cầu Đảng ta phải nhìn nhận xuất phát từ thực tiễn Việt Nam là một nước
thuộc địa nửa phong kiến, cần giải quyết vấn đề “ruông đất cho dân cày”, thực hiện
cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân, chưa thực hiện chuyên chính vô sản như cách
mạng tháng Mười. Và trong tình hình đất nướcở giai đoạn này, Đảng và Chủ tịch Hồ
Chí Minh lãnh đạo nhân dân giải quyết khó khăn trước mắt. Trong phiên họp đầu tiên
của Chính phủ, Người đã đề ra những nhiệm vụ cấp bách mà toàn Đảng, toàn dân cần
thực hiện:
- Tăng gia sản xuất, tiết kiệm, chống đói
- Mở ngay phong trào chống nạn mù chữ, diệt “giặc dốt”
- Tổ chức càng sớm càng hay Tổng tuyển cử với chế độ phổ thông đầu phiếu, thực
hiện quyền tự do dân chủ cho nhân dân
- Giáo dục cho nhân dân bằng cách thực hiện “Cần, kiệm,liêm, chính” để bài trừ
những thói hư tục xấu do thực dân để lại
- Bỏ ngay ba thứ thuế: thuế thân, thuế chợ, thuế đò “là một lối bóc lột vô nhân đạo”
13


- Tuyên bố tín ngưỡng tự do và lương giáo đoàn kết
Từ những biện pháp đúng đắn phù hợp với tình hình thực tế đã cổ vũ nhân dân nhiệt
tình hăng hái tham gia giải quyết những nhiệm vụ cấp bách, xây dựng và bảo vệ
chính quyền non trẻ bằng mọi giá, phát huy sức mạnh của khối đại đoàn kết dân tộc.
Qua trên chúng ta có thể thấy thực tiễn luôn vận động và biến đổi không
ngừng. Nếu không làm theo lời dạy của Chủ tịch Hồ Chí Minh “làm việc gì cũng phải
xuất phát từ thực tiễn khách quan” thì chúng ta chỉ có thể làm cách mạng trên lý
thuyết suông, không tìm ra được phương pháp nào phù hợp để giải phóng dân tộc,
giành tự do hạnh phúc cho nhân dân. Có nắm bắt được thực tiễn, có hoạt động thực

tiễn mới có cơ sở, nguồn gốc để con người đúc rút thành kinh nghiệm và tổng kết
khái quát thành lý luận. Rồi lại đem lý luận đó chứng minh, áp dụng vào thực tiễn.
Do vậy, Hồ Chí Minh luôn yêu cầu cán bộ, đảng viên phải vừa học tập
và nắm vững lý luận để chỉ đạo hành động cách mạng đi đúng hướng, vừa phải đi sâu
đi sát hoàn cảnh, điều kiện thực tế khách quan. Có như vậy cách mạng mới giành
thắng lợi to lớn và triệt để.
2. Hồ Chí Minh đứng trên lập trường thế giới quan duy vật biện chứng để tiếp
cận những giá trị tốt đẹp của tôn giáo
Một nét đặc sắc trong thế giới quan Hồ Chí Minh là thái độ của Người
đối với tôn giáo. Là người cộng sản theo chủ nghĩa duy vật và vô thần, Người công
khai khẳng định quan điểm triết học của mình: chủ nghĩa duy linh và chủ nghĩa duy
vật là ngược nhau, rõ ràng là thế. Tuy nhiên, Hồ Chí Minh không phải là nhà duy vật
vô thần siêu hình, máy móc, nên Người có thái độ rất biện chứng với các tôn giáo.
Người phát hiện ra những giá trị tích cực của tôn giáo và biết khai thác, kết hợp
chúng với tư tưởng công sản nhằm đem lại lợi ích cho cách mạng.
Ông Xăngtơni đã có một nhận xét đúng rằng: Về phần tôi, phải nói rằng,
chưa bao giờ tôi có cớ để nhận thấy nơi các chương trình của cụ Hồ Chí Minh một
dấu vết nào, dầu rất nhỏ, của sự công kích, đa nghi hoặc chế giễu đối với một tôn
giáo bất kỳ
Nhận xét trên là có cơ sở vì sợi chỉ đỏ xuyên suốt tư tưởng Hồ Chí Minh là giải
phóng cho con người khỏi đói rét, đau khổ, giành độc lập cho dân tộc, tự do và hạnh
14


phúc cho đồng bào. Đó là lý tưởng sống cơ bản chi phối lập trường của Người trên
nhiều vấn đề, trong đó có vấn đề tôn giáo, làm nổi bật tư tưởng chỉ đạo: tôn trọng tự
do tín ngưỡng và thực hiện đoàn kết lương giáo, hòa hợp dân tộc. Trong “Bút ký triết
học”, Lênin đã có một nhận xét, một luận điểm nổi tiếng “Chủ nghĩa duy tâm thông
minh còn hơn chủ nghĩa duy vật ngu xuẩn”. Là người Á đông, Hồ Chí Minh lại nhìn
nhận về các tôn giáo trên những phương diên sau:

Thứ nhất, Hồ Chí Minh thừa nhận những lý tưởng chứa đựng các giá trị nhân đạo,
nhân văn của các tôn giáo
Dịp Nôen năm 1956, trong không khí hòa bình ở miền bắc, Người đã nhắc đến hình
ảnh tươi đẹp trong bài Thánh ca: Sáng danh thiên chúa trên các tầng giời, hòa bình
lành cho mọi người dưới thế. Đối với Phật giáo, Người cũng thừa nhận: Phật sinh ra
cũng để nhằm “lợi lạc quần sinh, vô ngã vị tha”. Trước đó, năm 1927, trong một bài
báo có tiêu đề “Khổng Tử”, Hồ Chí Minh viết: “Với việc xóa bỏ nghi lễ tưởng niệm
Khổng Tử, chính phủ Trung Quốc đã làm mất đi một thể chế cũ và trái với tinh thần
dân chủ. Còn những người An Nam chúng ta hãy tự hoàn thiện mình về mặt tinh thần
bằng cách đọc các tác phẩm của Khổng Tử và về mặt cách mạng thì cần đọc các tác
phẩm của Lênin”
Cùng với việc thừa nhận mặt tốt đẹp của các tôn giáo, Hồ Chí Minh
đồng thời cũng ghi nhận đóng góp của các vị sáng lập ra các tôn giáo. Người cho
rằng: “Đức Giêsu hy sinh vì muốn loài người được tự do, hạnh phúc”, “Đức Phật là
đại từ đại bi, cứu khổ cứu nạn, muốn cứu chúng sinh ra khỏi khổ nạn thì Người phải
hy sinh tranh đấu, diệt lũ ác ma”, “Nếu đức Giêsu sinh ra vào thời đại chúng ta và
phải đặt mình trước nỗi khổ đau của người đương thời, chắc ngài sẽ là một người xã
hội chủ nghĩa đi tìm đường cứu khổ cho loài người”.
Thứ hai, theo Hồ Chí Minh thì tranh độc lập cho dân tộc, giành tự do và hạnh phúc
cho đồng bào là phù hợp với tôn chỉ, mục đích của các tôn giáo và các đấng sáng lập
các tôn giáo. Vì vậy, chủ nghĩa xã hội và lý tưởng tôn giáo có nhiều điểm tương
đồng, bởi lẽ chủ nghĩa xã hội không có mục đich nào khác ngoài việc giải phóng cho
con người khỏi áp bức, khỏi đau khổ. Đương nhiên, quan niệm về hạnh phúc con

15


người, về con đường giải phóng con người của tôn giáo và của người cộng sản khác
nhau nhiều.
Thứ ba, đau nỗi đau của dân tộc, sự thống khổ của đồng bào, Người ra đi tìm đường

cứu nước mà không hề hạn chế sự giải phóng đó trong bộ phận người không có tín
ngưỡng. Bản chất vấn đề là ở chỗ, Người xem mọi người Việt Nam đều là một, trong
một nghĩa thiêng liêng nhất là đồng bào. Nều đồng bào còn tin ở chúa trời, ở phật thì
cách mạng phải có trách nhiệm lo cho phần xác của đồng bào được tự do, ấm no, bởi
“phần xác no ấm thì phần hồn mới thong dong”.
Thứ tư, theo Người tôn giáo (chân chính) là một thành tố cấu thành văn hóa hiểu
theo nghĩa rộng. Ở “Mục đọc sách” của tập Nhật ký trong tù, Người viết: “Vì lẽ sinh
tồnn cũng như mục đích của cuộc sống, loài người mới sáng tạo và phát minh ra ngôn
ngữ, chữ viết, đạo đức, pháp luật, khoa học và tôn giáo, văn học, nghệ thuật, những
công cụ cho sinh hoạt hàng ngày về mặc, ăn, ở và các phương thức sử dụng. Toàn bộ
những phát minh và sáng tạo đó tức là văn hóa...
Quan điểm của Hồ Chí Minh rất tương thích với tình hình thực tế ở Việt Nam – một
quốc gia đa tôn giáo, đa dân tộc và trong nhiều giai đoạn, các thế klực ngoại xâm
luôn tìm cách lợi dụng tôn giáo nhằm chia rẽ khối đại đoàn kết toàn dân tộc để dễ
dàng thôn tính.
Việc thừa nhận tôn giáo là một thành tố của văn hóa đã giúp Hồ Chí Minh vượt qua
các tư tưởng duy vật tầm thường, xem tôn giáo chỉ là “tập đại thành của những lý
thuyết ủy mị, chống lý tính, tử thù của khoa học..” để đưa ra cách ứng xử đúng đắn
với tôn giáo trong điều kiện Việt Nam. Cũng nhờ vậy, Người đã có những phân biệt
tinh tế giữa vai trò của giáo hội với tín đồ, chức sắc; giữa giáo lý tôn giáo chân chính
với việc thực thi giáo lý ấy trong thực tế của mỗi tín đồ; giữa tôn giáo trong điều kiện
bị chính trị phản động lợi dụng với tôn giáo trong điều kiện xã hội chủ nghĩa. Đó
cũng là cơ sở để Hồ Chí Minh không rập khuôn tiến hành một cuộc đấu tranh về tư
tưởng một cách trừu tượng với thế giới quan tôn giáo như thường ấy ở Châu Âu.
Ngược lại, cách làm chủ yếu ở Người là phát hiện, khai thác, phát huy những giá trị
tốt đẹp về văn hóa, đạo đức của các tôn giáo phục vụ mục tiêu độc lập cho dân tộc, tự

16



do hạnh phúc cho đồng bào mà không có bất kỳ một sự phân biệt nào, kỳ thị nào giữa
Giáo với Lương và thực hành thành công khối đại đoàn kết toàn dân tộc. Người viết:
“Học thuyết của Khổng Tử có ưu điểm của nó là sự tu dưỡng đạo đức cá nhân. Tôn
giáo Giêsu có ưu điểm của nó là lòng nhân ái cao cả. Chủ nghĩa Mác có ưu điểm của
nólà phương pháp làm việc biện chứng. Chủ nghĩa Tôn Dật Tiên có ưu điểm của nó
là chính sách của nó phù hợp với điều kiện nước ta.
Khổng Tử, Giêsu, Mác, Tôn Dật Tiên chẳng có những ưu điểm chung đó sao? Họ
đều mưu hạnh phúc cho loài người, cho xã hội. Nếu nay họ còn sống trên đời này,
nếu họ hợp lại một chỗ, tôi tin rằng họ nhất định sống chung với nhau hoàn mỹ như
những người bạn thận thiết. Tôi cố gắng làm người học trò nhỏ của các vị ấy”.
Có thể nói Hồ Chí Minh là hiện thân của sự kết hợp hài hòa những điều tốt đẹp của
con người “trần thế” với những giá trị của các tôn giáo. Đúng như một nhà báo
phương tây đã viết: “Hình ảnh của Hồ Chí Minh đã hoàn chỉnh với sự kết hợp đức
khôn ngoan của Phật, lòng bác ái của Chúa, triết học của Mác, thiên tài cách mạng
của Lênin và tình cảm của một người chủ gia tộc, tất cả bao bọc trong một dáng dấp
rất tự nhiên”.
3. Thế giới quan duy vật biện chứng theo tư tưởng Hồ Chí Minh đối lập với chủ
nghĩa khách quan, Người đặc biệt chú ý đến vai trò của nhân tố chủ quan
Không bao giờ bó gối trước hoàn cảnh, Hồ Chí Minh là con người hành
động không thụ động, ỷ lại vào điều kiện khách quan.
Người đã vận dụng một cách tài tình các phạm trù “thời” và “thế” trong
tư tưởng truyền thống phương đông, chủ động tạo ra tình thế và chơp lấy thời cơ, cải
tại hiện thực. Không thể trông chờ thời cơ đến mà phải “thúc đẩy” thời cơ mau đến.
Trong bài thơ “Học đánh cờ”, Hồ Chí Minh viết:
“Phải nhìn cho rộng, suy cho kỹ
Kiên quyết không ngừng thế tiến công
Lạc nước hai xe đành bỏ phí
Gặp thời, một tốt cũng thành công”
Chỉ trong bốn câu thơ rất cô đọng, Người đã đề cập đến một vấn đề lớn của cách
mạng. Thắng lợi của cách mạng không phải tự nhiên mà đến, cũng không phải đến

17


bất cứ lúc nào. Không thể cứ ngồi đó chờ đợi thắng lợi mà phải hành động. Vấn đề có
ý nghĩa quyết định là phải thường xuyên chuẩn bị và tăng cường lý luận cách mạng,
như Hồ Chí Minh đã nói “phải đem sức ta mà tự giải phóng cho ta”, phải “tự lực cánh
sinh”. Không ai có thể đem lại cho ta độc lập tự do, ám no, hạnh phúc. Dân tộc ta là
dân tộc giàu lòng tự trọng, dưới sự lãnh đạo của Đảng và Chủ tich Hồ Chí Minh, lòng
tự trọng dân tộc càng được nâng cao trong cuộc đấu tranh giải phóng, chống ngoại
xâm, đói nghèo. Cùng với việc tự mình xây dựng lực lượng, hiểu rõ thời – thế - lực
để tạo nên sức mạnh tổng hợp cho cách mạng, sử dụng lực lượng đúng lúc để giàng
thắng lợi quyết định.
Thời cơ có thể do thực lực cách mạng trong nước tạo ra, cũng có thể do hoàn cảnh
bên ngoài đưa lại. Nếu không có sẵn thực lực cách mạng đến mức đủ mạnh thì không
thể tạo ra thời cơ và khi thời cơ đến sẽ không kịp thời lợi dụng được. Cho nên Hồ Chí
Minh rất chú ttrọng việc phát huy vai trò nhân tố chủ quan, vai trò của ý thức, của
con người để cải tạo, biến đổi hoàn cảnh. Điều mà Người luôn chú ý là khơi dậy lòng
yêu nước, chủ nghĩa cách mạng anh hùng, lòng căm thù giặc trong nhân dân để đưa
cách mạng tiến lên. Điều chủ yếu là phải nỗ lực lâu dài làm thay đổi tình hình so
sánh lực lượng giữa ta và địch.
Trong những hoàn cảnh khó khăn gian khổ, điều kiện vật chất thiếu thốn, càng cần
phải phát huy cao độ nhiệt tình cách mạng, tinh thần tự lực tự cường. Đối với Người:
Không có việc gì khó
Chỉ sợ lòng không bền
Đào núi và lấp biển
Quyết chí ắt làm nên
Điều đó có nghĩa là con người phải vươn lên trên hoàn cảnh, tu dưỡng cá nhân, rèn
luyện bồi dưỡng phẩm chất và năng lực cách mạng. Hồ Chí Minh là một tầm gương
sáng trong việc phát huy vai trò nhân tố chủ quan. Đặc biệt là quá trình tự học của
Người. Lớn lên ở một cái nôi của phong trào yêu nước, tiếp thu giáo dục của gia

đình, ảnh hưởng của quê hương, Hồ Chí Minh ấp ủ khát vọng giải phóng dân tộc từ
rất sớm. Bằng sự học tập của bản thân, sự gần gũi quần chúng lao động, quá trình
khảo sát cách mạng thế giới, Người có dịp đến tận nơi để tự mình quan sát chủ nghĩa
18


đế quốc và xã hội phương tây tại những nước Âu – Mỹ tiêu biểu nhất, đến gặp chủ
nghĩa Mác - Lênin với một hành trang bách khoa về vốn sống. Từ đây, Người tìm ra
con đường cách mạng đúng đắn, ra sức thực hiện mục tiêu giải phóng dân tộc, giải
phóng con người.
Đối với Hồ Chí Minh thì mục tiêu, phương tiện và động lực cách mạng đều ở trong
con người. Sức mạnh để chiến thắng khó khăn là sức mạnh của quần chúng nhân dân
Dễ mười lần không dân cũng chịu
Khó trăm lần dân liệu cũng xong
Tuy nhiên đây là sức mạnh của quần chúng được tổ chức. Để phát huy vai trò của
nhân tố chủ quan cần phải đoàn kết quần chúng, tổ chức quần chúng, phải biết tìm ra
các hình thức tổ chức đa dạng, linh hoạt, rộng rãi để thu hút mọi tầng lớp xã hội cho
cách mạng. Để làm được điều ấy, Hồ Chí Minh thấy rõ cần phải đưa chủ nghĩa Mác Lênin vào phong trào công nhân và phong trào yêu nước, từ đó thành lập Đảng công
sản để “trong thì vậ động quần chúng, ngoài thì liên lạc với các dân tộc bị áp bức và
vô sản giai cấp mọi nơi”. Đảng phải xây dựng được khối liên minh công nông vững
chắc và sau này là khối liên minh công – nông – trí thức để từ đó tập hợp , huy động
được các tầng lớp nhân dân vào mặt trận dân tộc thống nhất, một trong những nhân tố
quyết định thắng lợi của cách mạng. Mặt trận Việt Minh ra đời 5/1941 là một bước
ngoặt quan trọng trong việc tập hợp, huy động lực lượng nhân dân tham gia vào sự
nghiệp cách mạng. Hầu hết các tầng lớp nhân dân đều được tập hợp vào các tổ chức
hội, đoàn thích hợp nhất định, gắn với hai chữ cứu quốc: công nhân cứu quốc, nông
dân cứu quốc, thanh niên cứu quốc,phụ nữ cứu quốc...Tuy Đảng cộng sản lúc đó chỉ
có khoảng 5000 đảng viên nhưng do tập hợp được lực lượng của toàn dân nên đã đưa
cách mạng đến thắng lợi. Năm 1955, khi mặt trận dân tộc thống nhất đổi tên thành
Mặt trận Tổ quốc, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nói:

“Lịch sử trong nhưng năm qua đã tỏ rõ lực lượng đoàn kết của nhân dân ta là vô địch
và mặt trận dân tộc thống nhất đã nhiều lần thắng lợi....Chúng ta có thể tin chắc rằng:
Với sự cố gắng của mọi người và ủng hộ của toàn dân, mặt trận Tổ quốc sẽ làm tròng
nhiệm vụ vẻ vang là giúp xây dựng một nước Việt Nam hòa bình, thống nhất, độc
lập, dân chủ và giàu mạnh.
19


Hồ Chí Minh còn tập hợp các nhân sỹ, trí thức đã tư tưởngừng sống à làm việc ở chế
độ cũ, kể cả một bộ phận quan lại trong bộ máy Nam triều hoặc chức sắc trong các
tôn giáo, làm cho mọi người hăng hái đứng về phía cách mạng, phía nhân dân. Người
còn thu hút đông đảo những người Việt Nam đang sống ở nước ngoài hướng về Tổ
quốc; lôi cuốn cả một số trí thức Việt kiều yêu nước đồng camcộng khổ cùng nhân
dân, cùng tham gia kháng chiến kiến quốc. Với tất cả tấm lòng bao dung thể hiện tinh
thần nhân nghĩa truyền thống Việt Nam cũng như tinh thần nhân đạo chủ nghĩa cộng
sản, với lòng tin ở con người ít nhiều ai cũng có lòng yêu nước, Hồ Chí Minh đã cảm
hóa nhiều người, kể cả những người đã lầm đường lạc lối vẫn có thể nhìn ra lẽ phải
để trở về với nhân dân.
Từ cách nhìn nhận như vậy, Người đã tạo ra được sự cuốn hút đối với mọi người và
giúp tập hợp được đông đảo các tầng lớp nhân dân phấn đấu cho sự nghiệp chung.
Hàng triệu, hàng chục triệu người không tập hợp lại cũng không thể trở thành sức
mạnh ngay được nếu sự tập hợp ấy chỉ là con số cộng đơn giản trong một tổ chức có
tính hình thức trang trí; nếu số đông ấy chỉ là số đông không nhận thức được mục tiêu
đấu tranh, không hiểu rõ được mình cần phải làm gì và làm như thế nào; nếu đó chỉ là
một số đông thụ động. Việc phát huy vai trò nhân tố chủ quan, vai trò của con người
để cải tạo và biến dổi hoàn cảnh là vô cùng quan trọng. Chủ tịch Hồ Chí Minh trong
toàn bộ tiến trình cách mạng không quên tuyên truyền, giáo dục, vận động, thuyết
phục quần chúng để giác ngộ họ, đưa họ vào những tổ chức thích hợp để họ gắn bó
với nhau và biết phát huy sức mạnh, chủ động tiến hành sự nghiệp cách mạng bở
cách mạng không phải là sự nghiệp của bất cứ cá nhân anh hùng nào hay của bất cứ

một nhóm người nào mà là công việc chung của toàn dân.
4. Hồ Chí Minh đề cao vai trò nhân tố chủ quan đồng thời cũng yêu cầu phải
chống bệnh chủ quan
Khi yêu cầu phải phát huy vai trò nhân tố chủ quan, vai trò của con
người để cải tạo biến đổi hoàn cảnh, Hồ Chí Minh đồng thời cũng yêu cầu phải chống
bệnh chủ quan và Người coi nó như một kẻ địch trong bản thân
Người chỉ ra nguyên nhân của bệnh chủ quan là “kém lý luận, khinh lý luận
hoặc lý luận suông”. Người khẳng định tầm quan trọng của lý luận và vai trò của lý
20


luận đối với thực tiễn, bởi: “Lý luận là đem thực tế trong lịch sử, trog kinh nghiệm,
trong các cuộc tranh đấu, xem xét, so sánh thật kỹ lưỡng rõ ràng, làm thành kết luận.
Rồi lại đem nó chứng minh với thực tế”. Do đó “lý luận như cái ki chỉ nam, nó chỉ
phương hướng cho chúng ta trong công việc thực tế” và “không có lý luận thì lúng
túng như nhắm mắt mà đi”.
Cũng vì kém lý luận mà cán bộ ta “gặp mọi việc không biết xem xét cho rõ, cân nhác
cho đúng, xử trí cho khéo. Không biết nhận rõ điều kiện hoàn cảnh khách quan, ý
nghĩ thế nào làm thế ấy” và kết quả sẽ thất bại. Từ đó làm cho bệnh kinh nghiệm chủ
nghĩa dễ nảy sinh và phát triển. Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn lưu ý cán bộ, đảng viên
chỉ dẫn của Lênin: “Không có lý luận cách mạng thì không có phong trào cách
mạng”, “Chỉ có một đảng có lý luận tiền phong hướng dẫn thì mới có thể làm tròn
được vai trò chiến sỹ tiền phong”. Người cũng luôn lưu ý rằng lý luận cách mạng của
ta là chủ nghĩa Mác - Lênin. Đây là vũ khí tư tưởng, là kim chỉ nam cho hành động
cách mạng của Đảng nhưng chủ nghĩa Mác - Lênin không phải là nhngx kinh thánh,
những bài thuốc chữa bách bệnh, những lý thuyết khô cứng. Đòi hỏi phải nắm được
bản chất cách mạng và khoa học của học thuyết ấy để vận dụng sáng tạo vào thực
tiễn cách mạng Việt Nam vvà khôg ngừng phát triển.
Tuy đề cao lý luận song Hồ Chí Minh không coi nhẹ kinh nghiệm. Người coi kinh
nghiệm là tốt là quý báu. Song, kinh nghiệm có hạn chế của nó vì kinh nghiệm “cũng

chẳng qua là từng bộ phận mà thôi, chỉ thiên vè một mặt mà thôi”. Vì vậy “nếu họ đã
có kinh nghiệm mà lại biết thêm lý luận thì công việc tốt hơn nhiều”, còn “có kinh
nghiệm mà không có lý luận cũng như một mắt sáng một mắt mờ”. Từ đó Người yêu
cầu phải học lý luận, Đảng phải tổ chức học lý luận để nâng cao trình độ lý luận
chung của Đảng. Nhưng học tập lý luận là cốt để áp dụng vào thực tế, lý luận phải
đem ra thực hành, phải liên hệ với thực tế “lý luận mà khôg có thực tiễn là lý luận
suông. Thực tiễn mà không có lý luận là thực tiễn mù quáng”.
Từ mối quan hệ biện chứng giữa lý luận và thực tiễn, Hồ Chí Minh đã phê phán sai
lầm của chủ nghĩa kinh nghiệm và chủ nghĩa giáo điều. Tri thưcs kinh nghiệm nảy
sinh một cách tự nhiên từ thực hành mà sinh ra. Nó có vai trò quan trọng trong đời
sống hàng ngày, trong công tác cách mạng và thực nghiệm khoa học. Tuy nhiên, tri
21


thức kinh nghiệm có những hạn chế nhất định bởi sự hiểu biét riêng rẽ, rời rạc, không
liên hệ...Không thể hiện được bản chất, tính tất yếu của sự vật, hiện tượng. Vì vậy,
nếu đề cao kinh nghiệm, coi thường lý luận thì sẽ rơi vào bệnh kinh nghiệm hay “chủ
nghĩa kinh nghiệm”. Cách mạng Việt Nam sau khi giành được chính quyền còn phải
trải qua hai cuộc chiến tranh chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ xâm lược. Điều
kiện học tập của cán bộ là rất hạn chế nhưng do hoạt động trong thực tế mà họ lại có
nhiều kinh nghiệm quý báu. Khi hòa bình lập lại, do không tiếp tục học tập nên họ
thường coi kinh nghiệm của bản thân, của địa phương mình là trên hết, coi thường lý
luận.
Tuy nhiên nếu quá đề cao lý luận, coi thường kinh nghiệm sẽ rơi vào “chủ nghĩa giáo
điều”. Đó là tư tưởng tuyệt đối hóa vai trò của lý luận, coi lý luận là chìa khóa vạn
năng có thể giải quyết mọi bài toán của hiện thực. Hồ Chí Minh chỉ rõ: “Trong khi
nhấn mạnh sự quan trọng của lý luận, đã nhiều lần đồng chí Lênin nhắc đi nhắc lại
rằng lý luận cách mạng không phải là giáo điều lý luận không phải là một cái gì cứg
nhắc, nó đầy tính chất sáng tạo; lý luận cần được bổ sung bằng những kết luận mới
rút ra từ trong thưc tiễn sinh động”.

Khi đặt vấn đề phải học lý luận, Hồ Chí Minh đã chỉ ra phương pháp học tập
đúng đắn, phù hợp bản chất cách mạng và khoa học của lý luận Mác - Lênin. Theo
Người, học lý luận không phải để thuộc lòng từng câu từng chữ, cũng không phải học
lý luận vì lý luận, học lý luận để đem lòe thiên hạ, để kiêu ngạo, để thành lý luận
suông mà “phải học lập trường, quan điểm và phương pháp của chủ nghĩa Mác Lênin để áp dụng...giải quyết cho tốt những vấn đề thực tế trong công tác cách mạng
của chúng ta”.
Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn mong đào tạo đội ngũ cán bộ, đảng viên của Đảng từ thế
hệ này sang thế hệ khác luôn nắm vững nguyên tắc về sự thống nhất giữa lý luận và
thực tiễn, khắc phục bệnh chủ quan nhằm phát huy cao vai trò của nhân tố q, vai trò
của con ngời trong sự nghiệp cách mạng.
5. Hồ Chí Minh khẳng định vai trò quyết định của sức sản xuất, của cơ sở kinh
tế đối với sự chuyển biến từ chế độ này sang chế độ khác

22


Sự phát triển của xã hội xét đến cùng là do các nhân tố vật chất quyết định. Con
người muốn tồn tại trước hết phải có ăn, mặc, ở, đi lại. Do đó, đời sống vật chất quyết
định đời sống tinh thần, trong đó sức sản xuất là yếu tó năng động nhất.
Triết học phương Đông cũng đã nói nhiều về sự chuyển hóa của âm dương, tuần
hoàn...nhưng vẫn dững lại ở suy nghiệm trừu tượng mà chưa lý giải được yếu tố vật
chất nào là nguyên nhân và điều kiện tạo ra sự chuyển biến đó.
Ngay từ năm 1921, trả lời câu hỏi: chủ nghĩa cộng sản có áp dụng được ở Châu Á nói
chung và Đông Dương nói riêng không? Người đã vận dụng quan điểm hình thái
phân tích các điều kiện xã hội lịch sử , kinh tế chính trị, đi sâu vào chế độ tỉnh điền,
chế độ công điền – cơ sở kinh tế tạo nên tính cộng đồng bền chặt của xã hội Việt
Nam để cuối cùng đi tới kết luận: “Chủ nghĩa cộng sản thâm nhập vào Châu Á dễ
dàng hơn là Châu Âu”
Năm 1950, trong một bài giảng tại lớp huấn luyện trung ương, Hồ Chí Minh đã nói:
“Lịch sử của xã hội là lịch sử của sự phát triển trong cách sản sinh (tức phương thức

sản xuất)...Sự thay đổi luôn luôn bắt đầu từ sự phát triển của sức sinh sản (tức lực
lượng sản xuất) mà trước hết là công cụ sinh sản (tức công cụ sản xuất) thay đổi , sức
sinh sản thay đổi, quan hệ sinh sản (tức quan hệ sản xuất) giữa người với người cũng
do đó mà thay đổi. Sức sinh sản như thế nào thì quan hệ sinh sản phải như thế ấy”...
Như vậy, Người đã chỉ rõ vai trò quyết định của sức sản xuất vật chất đối với sự phát
triển của xã hội, đối với sự chuyển biến từ một chế độ này sang chế độ khác. Người
viết: “Sản xuất phát triển tức là xã hội phát triển. Chế độ nào hợp với sức sản xuất thì
đứng vững. Nếu không hợp thì giai cấp đại biểu của sức sản xuất mới sẽ làm nổi lên
cách làm cách mạng lật đổ chế độ cũ”. Khi miền Bắc bước vào thời kỳ quá độ lên chủ
nghĩa xã hội, Người chỉ rõ sự lựa chọn con đường đi lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế
độ tư bản chủ nghĩa và chỉ rõ “nhiệm vụ quan trọng bậc nhất của chúng ta hiện nay là
phát triển sản xuất để nâng cao đời sống vật chất và văn hóa của nhân dân. Muốn có
chủ nghĩa xã hội thì không có cách nào khác là phải dốc lực lượng của mọi người ra
để sản xuất. Sản xuất là mặt trận chính của ta hiện nay...Tất cả chúng ta, ở bất kỳ cấp
nào, ngành nào đều phải góp sức làm cho sản xuất phát triển”

23


Đề cập đến sự thay đổi và phát triển của thời đại, Hồ Chí Minh trước hết cũng nói
đền sự phát triển vượt bậc của lực lượng sản xuất, của khoa học kỹ thuật – nhân tố
vật chất dẫn đến những chuyển biến về chính trị - xã hội. Minh chứng cho điều này,
Người đã chỉ rõ sự biến chuyển chủ nghĩa tư bản từ tự do cạnh tranh chuyển sang độc
quyền lũng đoạn, tiến hành chủ nghĩa đế quốc.
Ngoài ra, Người cũng chỉ rõ “trong 50 năm đã có hai cuộc chiến tranh thế giới khủng
hoảng nhất do bọn đế quốc gây ra...Quan trọng nhất là cách mạng tháng Mười Nga
thành công, Liên Xô, một nước xã hội chủ nghĩa thành lập, rộng một phần sáu thế
giới và gần một nửa loài người, đã tiến vào con đường dân chủ mới, những dân tộc bị
áp bức lần lượt nổi dậy, chống chủ nghĩa đế quốc, đòi độc lập tự do.”
Đó là một sự tổng kết ngắn gọn mà bao quát được các mặt cơ bản của thời đại trong

nửa đầu thế kỷ XX, một sự tổng kết đững vững trên quan điểm duy vật lịch sử, từ sự
phát triển của sức sản xuất đến đấu tranh giai cấp và cách mạng xã hội.
IV. Giá trị thế giới quan duy vật biện chứng theo tư tưởng Hồ Chí Minh
Thế giới quan Hồ Chí Minh là thế giới quan duy vật khoa học. Thế giới quan đó đã
giúp Hồ Chí Minh nhận thức đúng, đánh giá đúng tình hình để đề ra chiến lược, sách
lược cho cách mạng Việt Nam từng giai đoạn.
Trước tiên Người đã tìm ra đường lối cứu nước, giải phóng dân tộc theo con đường
cách mạng vô sản. Con đường cách mạng vô sản hoàn toàn phù hợp với những yêu
cầu cấp bách mà thực tiễn cách mạng Việt Nam đặt ra, từ đó chấm dứt cuộc khủng
hoảng về đường lối, mở ra một thời đại mới vô cùng oanh liệt trong lịch sử dân tộc –
thời đại Hồ Chí Minh.
Người đã có công đầu tiên trong việc truyền bá chủ nghĩa Mác - Lênin vào Việt Nam,
vận dụng thế giới quan và phương pháp luận Mác - Lênin vào Việt Nam để đánh giá
đúng truyền thống Việt Nam, bồi dưỡng nhưng nhân tố bảo đảm cho thắng lợi của
Cách mạng. Khối đại đoàn kết dân tộc vững chắc đã làm nền tảng tăng sức mạnh
chiến thắng kẻ thù, phát huy vai trò của con người trong mọi hoạt động của cách
mạng, dương cao ngọn cờ yêu nước quyết tâm chiến thắng, làm nên những chiến
công vang dội được cả thế giới khâm phục và ca ngợi.

24


Trên thế giới, những năm gần đây, số tác phẩm, bài nghiên cứu, bài báo, số trang cảm
tưởng... viết về Người cứ dài thêm mãi. Thời gian càng lùi xa, sự đánh giá càng sâu
sắc, mức độ tình cảm càng nồng nhiệt. Tất cả đều tìm thấy trong tư tưởng Hồ Chí
Minh những giá trị có tầm thời đại, gợi ra những phương hướng đi tới một tương lai
tốt đẹp.
Ngày nay, nước ta đang đẩy mạnh công nghiệp hóa hiện đại hóa trong bối cảnh toàn
cầu hóa kinh tế quốc tế đang la xu thế tất yếu. Đó vừa là cơ hội vừa là thách thức đối
với chúng ta. Muốn tiến hành phát triển đất nuớc có hiệu quả phải nắm vững và vận

dụng sáng tạo tư tưởng Hồ Chí Minh trong điều kiện hiện nay, đặc biệt là vận dụng
thế giới quan duy vật biện chứng theo Người để nâng cao sứ lãnh đạo của Đảng phat
huy sức mạnh của toàn dân. Đảng và Chính phủ luôn phải chủ động tỉnh táo phân tích
tình hình trong nước và thế giới, xây dựng lộ trình phát triển hợp lý, có chương trình
kế hoạch cụ thể, quán triệt đến từng ngành, từng địa phương về đường lối chính sách
của Đảng và Nhà nước; Về xu thế- tình hình- bối cảnh của giai đoạn hiện tại giúp
mọi người nắm bắt được cái gì là thời cơ, cái gì là thách thức để không bỏ lỡ vận hội.
Mặt khác, Đảng phải xuất phát từ thực tế của đời sống nhân dân trong cả nước để đề
ra những đường lối chính sách cụ thể phù hợp với nguyện vọng của nhân dân, tăng
niềm tin của nhân dân vào Đảng. Từ đó phát huy tối đa nội lực đất nước, nâng cao
tiềm lực.
Đảng cần phải có những biện pháp thiết thực để chống tham ô lãng phí, quan liêu,
chống bệnh chủ nghĩa cá nhân. Cần phải tiếp tục hoàn thiện thể chế “Đảng lãnh đạo,
nhân dân làm chủ, nhà nước quản lý”. Hiện nay, nhiều nơi quyền lực vẫn còn tập
chung ở người đứng đầu cơ quan, đơn vị, ngành,địa phương... cấp ủy nhiều nơi chỉ là
bình phong- nơi hợp thức ý muốn chủ quan của một cá nhân. Phải cảnh giác với nguy
cơ tiềm ẩn có thể dẫn đến vi phạm dân chủ trong chế độ một đảng cầm quyền. Đó là
nguy cơ chủ quan duy ý chí, xa rời thực tế, xa rời quần chúng dẫn đến những quyết
định vội vã sai lầm. Đó là tình trạng áp đặt, bao biện, làm thay công việc của nhà
nước không tham khảo ý kiến của các cơ quan dân cử mà không chịu bất cứ một
trách nhiệm pháp lý nào về cách quyết định nào của mình. Đó là sự coi nhẹ vai trò
tham gia quản lý dân chủ của các đoàn thể xã hội, làm triệt tiêu chức năng của các tổ
25


×