Tải bản đầy đủ (.docx) (16 trang)

Những tác động của chiến tranh triều tiên đến quan hệ quốc tế trong thời kỳ chiến tranh lạnh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (174.85 KB, 16 trang )

LỜI MỞ ĐẦU
Như chúng ta đã biết, bán đảo Triều Tiên có một vị trí địa –
chiến lược hết sức quan trọng tại khu vực Đông Bắc Á nói riêng và
Châu Á – Thái Bình Dương nói chung. Ngày nay, những căng thẳng
trên bán đảo này không ngừng leo thang khiến cho Quan hệ quốc tế
trở nên càng phức tạp. Nơi đây tồn tại sự đan xen lợi ích của nhiều
cường quốc từ chiến tranh thế giới thứ hai. Những lợi ích trở nên xung
đột nhất khi chiến tranh Triều Tiên (1950-1953) xảy ra. Bài tiểu luận
này sẽ trình bày một cách rõ ràng Những tác động của chiến tranh
Triều Tiên đến quan hệ quốc tế trong thời kỳ Chiến Tranh Lạnh.
Bài tiểu luận chia thành hai phần:
Phần 1: Tổng quan về chiến tranh Triều Tiên (1950-1953)
Phần 2: Tác động của chiến tranh Triều Tiên tới các mỗi quan
hệ Xô – Mỹ, Xô – Trung, Trung – Mỹ và Đông Dương trong thời kỳ
chiến tranh Lạnh


NỘI DUNG
I.

Tổng quan về chiến tranh Triều Tiên (1950-1953)
Chiến tranh Triều Tiên (1950-1953) là một cuộc chiến tranh

nóng đầu tiên trong thời kỳ chiến tranh Lạnh và cũng là một cuộc
xung đột nghiêm trọng nhất giữa Đông – Tây1. Cuộc chiến tranh này
không đơn thuần là sự tranh chấp để thống nhất bán đảo giữa hai miền
Nam – Bắc mà nó còn có sự tham gia của nhiều lực lượng phức tạp
khác, không chỉ có sự đối đầu về hệ tự tưởng mà còn đối lập về lợi
ích.
1.


Cơ sở hình thành
Khi Chiến tranh Thế giới thứ hai đi đến hồi kết thì việc phân

chia phạm vi ảnh hưởng giữa các cường quốc trở thành vấn đề nóng
hơn bao giờ hết. Nếu ở châu Âu có vấn đề Đức thì ở Châu Á, vấn đề
Triều Tiên là một trong những “tấm gương phản chiếu sự so sánh lực
lượng của hai siêu cường”2 là Liên Xô đứng đầu phe xã hội của nghĩa
và Mỹ đứng đầu phe tư bản chủ nghĩa.
Tháng 8 năm 1945 Hoa Kì đề nghị với Liên Xô phân chia Triều
Tiên thành hai vùng hoạt động quân sự dọc theo vĩ tuyến 38. Miền
Bắc thuộc vùng kiểm soát của Liên Xô còn miền Nam do Mỹ kiểm
soát. Stalin chấp thuận đề nghị này và lấy vĩ tuyến 38 làm ranh giới
của hai vùng hoạt động. Từ đó hai phần của bán đảo Triều Tiên chịu
sự khống chế của hai cường quốc. Cộng hòa dân chủ nhân dân Triều
1 Trương Tiểu Minh, Chiến tranh lạnh và di sản của nó, Nxb chính trị Quốc gia, 2002, tr.109.
2 Như trên, tr.110.


Tiên dưới sự lãnh đạo của Kim Nhật Thành không phải lúc nào cũng
phục tùng các chỉ thị của I.V Stalin. Ở miền Nam Triều Tiên cũng vậy,
chính quyền của Lý Thừa Vãn tồn tại với sự viện trợ của Mỹ nhưng
vẫn có những tham vọng hiếu chiến muốn thống nhất hai miền đất
nước. Song, trong nhiều năm đầu của sự chia cắt, tham vọng này khó
thực hiện được bởi ảnh hưởng của hai siêu cường. Tại bán đảo Triều
Tiên thời điểm này đã tồn tại hai quốc gia với hai chế độ chính trị đối
lập nhau. Đến năm 1948, sự thành lập của hai nước ở miền Nam –
Bắc là minh chứng rõ nét nhất cho sự đối đầu giữa hai cực Xô – Mỹ,
hai khối Đông – Tây trong quỹ đạo của Chiến tranh Lạnh. Đây là bối
cảnh cơ bản cho sự bùng nổ chiến tranh Triều Tiên vào ngày
25/6/1950.

Bên cạnh việc lãnh đạo hai bên đều muốn thống nhất đất nước
theo kiểu riêng, nhằm mở rộng chế độ chính trị của mình sang phía
bên kia thì chính Stalin cũng có nguyện vọng về một nước Triều Tiên
thống nhất sau khi Ngoại trưởng Mỹ D.Acheson tuyên bố quần đảo
Alevatiennes và quần đảo Ryukyus – Nhật Bản thuộc “chu vi an toàn”
của Mỹ ở Đông Bắc Á. Hiển nhiên, theo bài diễn văn đó, bán đảo
Triều Tiên nằm ngoài “chu vi an toàn” này. Điều này đã làm xua đi
nỗi hoài nghi của Stalin rằng Mỹ sẽ đưa quân đến can thiệp vào các
công việc của Tiều Tiên 3. Đồng thời, sau khi Đảng cộng sản Trung
Quốc dành được chính quyền thì căn cứ để Stalin hi vọng về một
Triều Tiên thống nhất theo mô thức của miền Bắc lại càng rõ ràng
hơn. Theo các bằng chứng lưu trữ là chính I.V.Stalin đã trực tiếp đề
3 Kathryn Wesathersby, the Soviet Role in the Early Phase of the Korean War: New documents
evedence”, Winter 1993, tr.433.


xướng khởi động chiến tranh4. Bằng sự thúc đẩy của môi trường quốc
tế và sự quyết đoán của các nhà lãnh đạo phương Bắc mà ngày 25
tháng 6 năm 1950, quân đội Cộng hòa dân chủ nhân dân Triều Tiên
vượt qua giới tuyến Triều Tiên ở vĩ tuyến 38, đánh về phía Seoul, mở
đầu cho cuộc nội chiến tiềm tàng nhiều nguy cơ về sự đụng độ của hai
cường quốc.
2.

Các lực lượng liên quan
Chiến tranh Triều Tiên ban đầu nổ ra dưới hình thức của một

cuộc nội chiến với sự tham gia của hai lực lượng là quân đội của
Nam-Bắc Triều Tiên. Song với tình hình căng thẳng của chính trị thế
giới lúc bấy giờ và vị thế chiến lược của Triều Tiên mà nội chiến đã

phát triển dần dần và có nguy cơ trở thành một cuộc chiến tranh lớn.
Tuy hai nước đứng đầu phe Đông – Tây không trực tiếp tham gia
nhưng rõ ràng ta vẫn thấy được đây là cuộc chiến tranh xung đột giữa
hai phe xã hội chủ nghĩa và tư bản chủ nghĩa. Lực lượng gìn giữ hòa
bình của Liên hợp quốc vào cuộc để giúp đỡ quân Nam Triều Tiên mà
thành phần chủ yếu là quân Mỹ, chịu sự chỉ đạo của chính quyền H.
Truman. Về phía quân Bắc, những động thái của quân đội Cộng hòa
dân chủ nhân dân Triều Tiên cũng chịu sự chi phối một phần của
người anh cả Liên Xô. Đồng thời cũng nhận được sự giúp sức vô cùng
to lớn của nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa. Do đó có thể thấy
thành phần lực lượng tham chiến khá phức tạp. Rõ ràng chỉ có hai phe
chứ không có bên thứ ba tham dự nhưng tính chất của nó lại không hề
4 A.V.Torkunov, Cuộc chiến tranh bí ẩn: xung đột Triều Tiên 1950-1953, Nxb. Rosspen, 2002.


đơn giản. Những quốc gia tham gia đều có lợi ích và quan điểm nhìn
chung là khác nhau nên đã tạo ra sự phức tạp về lực lượng liên quan
trong cuộc chiến tranh Triều Tiên.
Ngày 25 tháng 6 năm 1950, cuộc nội chiến nổ ra, tình hình hết
sức bất lợi cho Hàn Quốc. Ngày 27 tháng 6, tổng thống H. Truman ra
lệnh cho lực lượng vũ trang Mỹ ở Viễn Đông phải trợ giúp cho Hàn
Quốc mà không chờ tiếng nói của Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc vì
tình hình Hàn Quốc lúc đó hết sức nguy nan. Cùng ngày hôm đó Hội
đồng Bảo an cũng đưa ra khuyến nghị chung cho tất cả các nước
thành viên Liên hợp quốc giúp đỡ Nam Triều Tiên. Những quyết định
này không bị sự phủ quyết của Liên Xô gây trở ngại do đại diện của
Liên Xô không đến dự các cuộc họp của Hội đồng Bảo an để phản đối
việc phương Tây không trao cho những người Cộng sản Trung Quốc
quyền được đại diện cho Cộng hòa nhân dân Trung Hoa tại Liên hợp
Quốc.

Sau nghị quyết thứ ba của Liên hợp quốc về việc thành lập một
đội quân đa quốc gia ở Triều Tiên dưới sự chỉ huy của Mỹ thì việc
hoạt động vũ trang của Mỹ ở Triều Tiên càng có cơ sở pháp lý. Do đó
mà tình hình chiến sự khả quan hơn cho phía Hàn Quốc. Quân đội
Cộng hòa dân chủ nhân dân Triều Tiên bắt đầu rút lui.
Song lòng tham của quân đội Mỹ không chỉ dừng lại ở đó.
Được đà chiến thắng, quân Mỹ ở Triều Tiên chiếm Bình Nhưỡng rồi


tiến về phía biên giới của Cộng hòa dân chủ nhân dân Triều Tiên với
Trung Quốc và Liên Xô nhằm sáp nhập miền Bắc vào miền Nam5.
Để ngăn chặn âm mưu này, ngày 25 tháng 10 năm 1950, Cộng
hòa nhân dân Trung Hoa đã chính thức tham chiến theo yêu cầu của
Liên Xô và Cộng hòa dân chủ nhân dân Triều Tiên. Seoul nhanh
chóng bị quân cộng sản tái chiếm. Lực lượng Liên hợp quốc mà nòng
cốt là quân đội Mỹ đến đầu năm 1951 rơi vào tình thế cực kỳ khó
khăn, có nguy cơ thất bại hoàn toàn. Tuy vậy nhưng chính quyền Mỹ
vẫn bác bỏ đề nghị của tổng chỉ huy lực lượng vũ trang Mỹ ở Viễn
Đông D.McArthur là mở rộng chiến dịch và tấn công vào Trung Quốc
để đảm bảo sẽ không có cuộc chiến tranh lớn nào xảy ra do lo ngại
việc Liên Xô cũng sẽ tham gia vào cuộc chiến trên cơ sở Hiệp ước
hữu nghị liên minh tương trợ Xô – Trung. Song tướng D.MacArthur
vẫn tuyên bố đe dọa sẽ dùng vũ khí nguyên tử nếu quân đội Trung
Quốc không chấm dứt tiến công ở Triều Tiên.
Tình hình trở nên căng thẳng hơn bao giờ hết. Ban lãnh đạo
Soviet đã có những bước đi kiên quyết nhằm thuyết phục Trung Quốc
dừng tiến công. Khi đó, lực lượng Liên hợp quốc đã phản công, chiến
tuyến lại được ổn định ở vĩ tuyến 38. Song song với đó chính quyền
của H.Truman tỏ ý muốn dùng biện pháp đàm phán trên cơ sở ngừng
bắn và tìm giải pháp tối ưu hơn cho khu vực. Ngày 10/7/1951, với sự

ủng hộ bất thành văn của Liên Xô, cuộc đàm phán đình chiến giữa
Cộng hòa dân chủ nhân dân Triều Tiên, Trung Quốc và lực lượng gìn
giữ hòa bình của Liên hợp quốc chính thức bắt đầu. Sau những tranh
5 Bogaturov Aleksey Demofenovich, Avekov Viktor Viktorovich, Lịch sử quan hệ quốc tế, Đặng
Quang Chung dịch, H: Chính trị quốc gia,2012, tr.154


luận gay gắt qua nhiều năm, cuối cùng đình chiến ở Triều Tiên đã
được thực hiện vào tháng 7 năm 1953.
Tuy cuộc chiến tranh chỉ kéo dài có ba năm nhưng tác động của
nó đã làm tình hình chiến tranh Lạnh thêm căng thẳng, quan hệ quốc
tế trở nên phức tạp hơn. Cụ thể là chiến tranh Triều Tiên tạo nên sự
mâu thuẫn giữa một số quốc gia, đồng thời, nó cũng là nhân tố thúc
đẩy sự hợp tác sau này. Tất cả sẽ được làm rõ trong phần tiếp theo của
bài tiểu luận.
II.
1.

Tác động của chiến tranh Triều Tiên (1950-1953) tới
QHQT thời kì chiến tranh Lạnh
Tác động đến quan hệ Xô – Mỹ
Chiến tranh Triều Tiên đẩy mạnh quân sự hóa chiến tranh Lạnh

Đông – Tây, khiến cho chiến tranh lạnh bước vào giai đoạn hết sức
căng thẳng, ác liệt. Chưa bao giờ mối quan hệ giữa hai cường quốc lại
xấu đến như vậy cho dù hai phe không trực tiếp đối đầu.
Ngay từ trước khi chiến tranh Triều Tiên xảy ra Mỹ đã luôn lo
sợ về sự bành trướng của Liên Xô. Năm 1949, Liên Xô chế tạo thành
công bom nguyên tử. Cùng năm đó Đảng Cộng sản Trung Quốc kiểm
soát toàn bộ Trung Quốc đại lục. Chính phủ Washington đã rất lo lắng

về điều này và cho rằng trong vài năm tới Liên Xô sẽ tấn công để thực
hiện kế hoạch thống trị toàn cầu. Tới khi nội chiến ở Triều Tiên nổ ra,
tổng thống Truman đã gia tăng ngân sách Quốc phòng như theo kế
hoạch NSC-68 đề ra trước đó. Chính phủ Mỹ cho rằng hành động
quân sự của Bắc Triều Tiên là do Liên Xô thao túng, vì thế mà nhanh
chóng can thiệp, coi đó là bước ngăn chặn sự bành trướng của Liên


Xô. Chính phủ Mỹ chắc chắn đã khuếch trương “yếu tố Liên Xô” dẫn
đến sự bùng nổ chiến tranh Triều Tiên 6. Mặt khác, chiến tranh Triều
Tiên lại chính là một lý do chính đáng cho sự có mặt của Mỹ ở Đông
Bắc Á để thực hiện nhiệm vụ chống cộng như tổng thống Truman
tuyên bố: “Sự phòng thủ của Hoa Kỳ phải vươn tới Triều Tiên, Đài
Loan và Đông Dương”7. Tuy nhiên, trong suốt ba năm, hai nước
không khi nào trực tiếp bước vào trận chiến mà có thái độ tích cực tìm
kiếm con đường hòa bình để giải quyết vấn đề. Đó là một trong những
yếu tố quan trọng dẫn đến đình chiến ở Triều Tiên. Đặc điểm của hai
siêu cường xử lý xung đột Đông – Tây trong chiến tranh Lạnh một lần
nữa được thể hiện rõ trong chiến tranh Triều Tiên.
Nói tóm lại, chiến tranh Triều Tiên là đỉnh cao của sự đối đầu
Đông – Tây ở Đông Á.
2.

Tác động đến quan hệ Xô – Trung
Chiến tranh Triều Tiên là một phép thử đối với quan hệ Trung –

Xô, làm cho quan hệ Xô – Trung vốn tiềm tàng những bất ổn, chuyển
hẳn sang trạng thái căng thẳng, mâu thuẫn, xấu đi nhanh chóng vào
cuối thập kỷ 50.
Từ lúc nội chiến tại Triều Tiên có nguy cơ nổ ra, thực sự Trung

Quốc không muốn dính líu vào vì Đảng Cộng sản Trung Quốc mới lên
nắm quyền, còn trăm việc bề bộn. Nhưng là một thành viên nước xã
hội chủ nghĩa và là láng giềng thân thiết với Triều Tiên nên Trung
Quốc ủng hộ tối đa sự nghiệp thống nhất đất nước của nước bạn. Sự hi
6 Trương Tiểu Minh, Chiến tranh lạnh và di sản của nó, Nxb chính trị Quốc gia, 2002, tr.118.
7 Trần Trọng Trung (1986), Một cuộc chiến tranh sáu đời Tổng thống, tập 1, Nxb Văn Nghệ TPHồ
Chí Minh., tr. 11.


sinh to lớn đó của Trung Quốc còn là để bảo vệ lợi ích phe xã hội chủ
nghĩa. Cùng chiến đấu với nhau trên mặt trận thống nhất Triều Tiên
của phía Bắc Triều, cùng trải qua bao khó khăn, thử thách, cùng ký
hiệp ước hữu nghị, tương trợ, quan hệ Xô – Trung tưởng chừng thắm
thiết hơn bao giờ hết.
Song, chiến tranh Triều Tiên cũng bộc lộ kẽ nứt tiềm ẩn trong
quan hệ đồng minh Xô – Trung.Khi chiến đấu ở Triều Tiên, Mao
Trạch Đông yêu cầu Liên Xô viện trợ thêm hàng hóa, bảo vệ biên
giới, các khu công nghiệp và quân đội Trung Quốc từ trên không. Nhà
lãnh đạo hàng đầu Trung Quốc này cân nhắc để tham gia cuộc chiến
tranh với những điều kiện có lợi nhất, đặc biệt là tranh thủ vũ khí hiện
đại từ Liên Xô, xây dừng nền quốc phòng vốn nhiều lỗ hổng. Nhưng
tại thời điểm Trung Quốc cần hơn bao giờ hết thì Liên Xô từ chối yểm
trợ không quân đã giáng một đòn chí tử vào liên minh Trung – Xô.
Thực chất vì mục tiêu trong chính sách đối ngoại của Liên Xô là tránh
xung đột trực tiếp với Mỹ. Mặc dù Trung Quốc tham chiến cũng có
những tính toán riêng, nhưng sự cư xử của Liên Xô làm Trung Quốc
ngờ vực mình bị biến thành “tấm lá chắn an ninh” ở khu vực Đông Á.
Tuy cùng chống kẻ thù chung song phần lớn chi phí chiến tranh là của
Trung Quốc, Liên Xô cung cấp ít và không kịp thời. Do quá tập trung
trên mặt trận Triều Tiên mà cơ hội sáp nhập Đài Loan vào đại lục của

Trung Quốc cũng bị nhỏ đi.
Nhìn chung, những mầm mống cho sự rạn nứt quan hệ Xô –
Trung đã được nảy mầm từ những ngày đầu chiến tranh Triều Tiên.
Song sự hợp tác Xô – Trung – Triều đã khiến phe tư bản chủ nghĩa


không thể thắng lợi trong chiến tranh Triều Tiên. Điều đó là một sự cổ
vũ lớn cho phong trào cách mạng châu Á.
3. Tác động đến quan hệ Trung – Mỹ
Trong mối quan hệ Trung – Mỹ, chiến tranh Triều Tiên đã mở ra thời
kỳ xung đột, đối đầu giữa hai nước về rất nhiều vấn đề, mà tiêu biểu là
vấn đề Đài Loan. Sau khi chiến tranh Triều Tiên kết thúc, trong nhận
thức của người Mỹ, Trung Quốc đã trở thành một đối thủ nguy hiểm
đối với Mỹ - thậm chí nguy hiểm hơn cả Liên Xô - ở Châu Á8.
Từ năm 1949 thành lập Trung Quốc mới cho đến cuối thập kỷ 1950,
đặc điểm cơ bản của ngoại giao Trung Quốc là “liên Xô, chống Mỹ”.
Nên quan hệ của Trung Quốc với phe đế quốc chủ nghĩa phương Tây
do Mỹ cầm đầu là rất căng thẳng. Từ bao lâu này, Mỹ giúp đỡ chính
quyền Tưởng Giới Thạch là Quốc dân Đảng nội chiến với Đảng Cộng
sản Trung Quốc. Chính quyền Mỹ luôn phủ nhận điều kiện pháp lý
của Trung Quốc mới, ngăn cản Trung Quốc mới thay thế quyền đại
diện của Quốc dân Đảng tại Liên hợp quốc và các tổ chức Quốc tế
khác. Vì vậy, suy tính từ lợi ích quốc gia thì Mỹ là mỗi nguy hại rất
lớn của Trung Quốc mới.
Ngay sau khi chiến tranh Triều Tiên chính thức bùng nổ thì Mỹ đưa
quân đến can dự và hạ lệnh cho hạm đội 7 tiến vào Đài Loan, ngăn
cản sự tấn công vào đây. Hành động đó nhằm ngăn cản mục đích
chống lại cuộc tấn công của Mao Trạch Đông ra Đài Loan và ngăn cản
Tưởng Giới Thạch phát động một cuộc chiến tranh xâm lược lớn vào
8 Peter Calvocoressi (2007), Chính trị thế giới sau năm 1945, Nxb Lao động, Hà Nội.



Trung Quốc lục địa. Có thể nói quan điểm của Mỹ đối với vấn đề Đài
Loan đã thay đổi, đặc biệt khi quân chí nguyện của Trung Quốc vượt
sông Áp Lục viện trợ cho quân đội Bắc Triều Tiên. Chính quyền
Truman đã luôn cố gắng tránh một cuộc xung đột lan rộng ra toàn
châu Á. Tuy nhiên, việc Hạm đội 7 của Mỹ đóng quân ở Đài Loan đã
vi phạm nghiệm trọng đến chủ quyền lãnh thổ của Trung Quốc. Do
vậy, Stalin đã khôn khéo sử dụng vấn đề này để làm đòn chiến lược để
thúc đẩy Trung Quốc tham gia chiến tranh Triều Tiên dẫn đến việc
Trung Quốc trực tiếp đối đầu với Mỹ.
Nhìn chung, Trung Quốc và Mỹ đều có mối quan tâm chung đến Bán
đảo Triều Tiên. Triều Tiên có tính chất quyết định đến an nguy khu
vực biên giới phía Đông Bắc của Trung Quốc và ảnh hưởng rất lớn
đến Nhật Bản và Philippines thuộc phạm vị ảnh hưởng của Mỹ. Chiến
tranh Triều Tiên là mở đầu cho quy mô chiến tranh Lạnh lan từ châu
Âu đến châu Á, là mốc mở đầu cho cuộc chiến tranh lạnh mới giữa
Mỹ và Trung Quốc. Chiến tranh Triều Tiên kết thúc buộc hai nước
này phải thay đổi chính sách với nhau, đẩy hai cường quốc này vào
cuộc đối đầu trực tiếp lẫn gián tiếp. Mỹ bắt đầu coi nước Cộng hòa
Nhân dân Trung Hoa là một đối tượng riệng biệt so với Liên Xô ở
Châu Á, cần tăng cường cô lập chính trị, bao vây quân sự,... Tháng 12
năm 1954, Mỹ và Đài Loan ký “Hiệp ước phòng ngự chung” đặt Đài
Loan vào chế độ bảo hộ của Mỹ. Mỹ đã sử dụng vị trí quan trọng của
Đài Loan làm con bài để kiềm chế Trung Quốc, từ đó dùng Trung
Quốc kiềm chế Liên Xô9. Tình hình chiến sự qua hai lần khủng hoảng
9 Ninh Xuân Thao, Tác động của chiến tranh Triều Tiên (1950-1953) đến vấn đề Đài Loan trong
quan hệ Mỹ - Trung, tạp chí Nghiên cứu Đông Bắc Á, số 5(135) 5-2012.



Đài Loan năm 1954 và 1958 đã chứng minh rằng hai bên luôn căng
thẳng nhưng đều cố tránh những cuộc đối đầu trực tiếp trên chiến
trường. Ngoài ra, Mỹ và Trung Quốc còn tiếp tục đối đầu tại Liên hợp
quốc khi Mỹ cương quyết phản đối việc Cộng hòa Nhân dân Trung
hoa trở thành thành viên thường trực Hội đồng bảo an. Nói chung,
quan hệ hai nước thời điểm chiến tranh Triều Tiên là vô cùng xấu, sự
thù địch giữa hai nước ngày càng sâu thêm.
Cuộc chiến tranh Triều Tiên đã đánh một dấu mốc rất quan trọng
trong quan hệ Mỹ - Trung trên nhiều lĩnh vực. Nó đẩy mối quan hệ hai
nước này sang trạng thái đối đầu suốt hơn 20 năm và Đài Loan là
minh chứng rõ ràng nhất. Tuy nhiên hai quốc gia luôn hiểu rõ đâu là
giới hạn để tránh cuộc đụng độ hạt nhân. Đồng thời, Chiến tranh Triều
Tiên mà sau này là hai cuộc khủng hoảng Eo biển Đài Loan không
những thúc đẩy sử đối đầu Trung – Mỹ mà còn là nguyên nhân dẫn
đến rạn nứt trong quan hệ Xô – Trung sau này. Vì vậy chiến tranh
Triều Tiên cũng đánh dấu cột mốc quan trọng trong quá trình hình
thành quan hệ tam giác Mỹ - Xô – Trung trong quan hệ quốc tế thời
hiện đại.
3.

Tác động đến tình hình Đông Dương
Chiến tranh Triều Tiên nổ ra làm Mỹ lo ngại tầm ảnh hưởng của

Xô – Trung sẽ lan xuống Đông Dương nên giúp đỡ Pháp can thiệp vào
chiến tranh Đông Dương nhằm khống chế ba nước trên bán đảo này
không nổi lên bất cứ cuộc chiến nào như Triều Tiên. Tuy vậy, do tính
chất phức tạp của Chiến tranh Triều Tiên nên Mỹ không thể nào quan
tâm được hết tình hình ở Đông Dương dẫn đến việc năm 1954 phải



ngồi vào bàn đàm phán hiệp định Geneve chấm dứt chế độ thực dân
Pháp tại bán đảo Đông Dương.
Có thể nói rằng sự bùng nổ chiến tranh Triều Tiên là sự cổ vũ to
lớn cho phong trào cách mạng tại châu Á mà cụ thể là ở Đông Dương.
Sức mạnh của chủ nghĩa Cộng sản lan rộng hơn bao giờ hết. Quan hệ
ngoại giao giữa các nước xã hội chủ nghĩa rất tốt đẹp.

Chiến tranh Triều Tiên dẫu chỉ kéo dài trong 37 tháng nhưng sự tác
động của nó tới quan hệ quốc tế là không hề nhỏ. Nó thể hiện mưu đồ,
tính toán và tham vọng của các cường quốc tại khu vực Đông Á.
Chiến tranh Triều Tiên bùng nổ đánh dấu sự xuất hiện của những cuộc
chiến tranh nóng trong quỹ đạo chiến tranh Lạnh giữa hai cực Xô-Mỹ,
hai khối Đông – Tây. Bên cạnh đó, sự kiện này có ý nghĩa quan trọng
đối với quan hệ tam giác Trung Quốc – Xô – Mỹ và cả những nước
theo phe xã hội chủ nghĩa. Chiến tranh Triều Tiên là tiền đề, là nguyên
nhân, là móc nối quan trọng cho các sự kiện xảy ra sau này, phản ánh
sâu sắc lợi ích và ý chí của các quốc gia liên quan.

KẾT LUẬN
Bán đảo Triều Tiên luôn là địa bàn trọng yếu gây sự chú ý với
các nước bên ngoài. Nơi đây luôn đan xen lợi ích khác nhau của nhiều
cường quốc. Cũng vì vậy mà tình hình trên bán đảo này luôn gắn liền


với sự thay đổi trong chính sách của các nước lớn hoặc thay đổi trong
quan hệ giữa các nước lớn với nhau. Tuy chiến tranh Lạnh đã kết thúc,
trật tự thế giới có nhiều thay đổi, song không phải vì thế mà vị trí và
vai trò chiến lược của bán đảo Triều Tiên trong bàn cờ chiến lực của
các nước lớn lại giảm sút. Ngày nay tình hình căng thẳng trên bán đảo
Triều Tiên là vấn đề nhức nhối đối với toàn thế giới, là quá trình mặc

cả giữa các nước lớn. Bởi vậy mà việc giải quyết tận gốc vấn đề Bán
đảo Triều Tiên không chỉ được quyết định bởi sự thay đổi chính sách
của hai miền Nam – Bắc mà ảnh hưởng của các nước lớn cũng chiếm
vai trò vô cùng quan trọng.


DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1.

Bogaturov Aleksey Demofenovich, Avekov Viktor Viktorovich,
Lịch sử quan hệ quốc tế, Đặng Quang Chung dịch, H: Chính trị

2.

quốc gia,2012.
Trương Tiểu Minh, Chiến tranh lạnh và di sản của nó,Hoàng

3.

Hương-Tú Linh dịch, Nxb chính trị Quốc gia, 2002.
Ninh Xuân Thao, Tác động của chiến tranh Triều Tiên (19501953) đến vấn đề Đài Loan trong quan hệ Mỹ - Trung, tạp chí

4.

Nghiên cứu Đông Bắc Á, số 5(135) 5-2012.
Nguyễn Thị Mai Hoa, Trung Quốc và chiến tranh Triều Tiên, tạp

5.

chí Nghiên cứu Đông Bắc Á, số 5-2013.

Trần Trọng Trung (1986), Một cuộc chiến tranh sáu đời Tổng

6.

thống, tập 1, Nxb Văn Nghệ TP Hồ Chí Minh.
Peter Calvocoressi (2007), Chính trị thế giới sau năm 1945, Nxb
Lao động, Hà Nội.

7.

Kathryn Wesathersby, the Soviet Role in the Early Phase of the
Korean War: New documents evedence”, Winter 1993.

8.

A.V.Torkunov, Cuộc chiến tranh bí ẩn: xung đột Triều Tiên
1950-1953, Nxb. Rosspen, 2002.

9.

Joseph S. Nye (2007), “The Cold War” (charpter 5), in Joseph S.

Nye, Understanding International Conflicts.
10. Robert Jervis, The impact of Korean War on the Cold War.


Mục lục




×