Tải bản đầy đủ (.doc) (146 trang)

luận văn thạc sĩ Vấn đề bảo tồn, phát triển văn hóa dân tộc thiểu số trên sóng truyền hình các đài phát thanh – truyền hình khu vực miền núi phía bắc luận văn thạc sĩ báo chí học

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (694.74 KB, 146 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA
HỒ CHÍ MINH
HỌC VIỆN BÁO CHÍ VÀ TUYÊN TRUYỀN

VẤN ĐỀ BẢO TỒN, PHÁT TRIỂN VĂN HÓA DÂN TỘC THIỂU SỐ TRÊN
SÓNG TRUYỀN HÌNH CÁC ĐÀI PHÁT THANH–TRUYỀN HÌNH KHU
VỰC MIỀN NÚI PHÍA BẮC
(Khảo sát các Đài Phát thanh – Truyền hình: Hà Giang, Lào Cai, Sơn La
từ tháng 1/2014 đến tháng 6/2014)

LUẬN VĂN THẠC SĨ BÁO CHÍ HỌC

Hà Nội, 11/2014


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA
HỒ CHÍ MINH
HỌC VIỆN BÁO CHÍ VÀ TUYÊN TRUYỀN

VẤN ĐỀ BẢO TỒN, PHÁT TRIỂN VĂN HÓA DÂN TỘC THIỂU SỐ TRÊN
SÓNG TRUYỀN HÌNH CÁC ĐÀI PHÁT THANH–TRUYỀN HÌNH KHU
VỰC MIỀN NÚI PHÍA BẮC
(Khảo sát các Đài Phát thanh – Truyền hình: Hà Giang, Lào Cai, Sơn La
từ tháng 1/2014 đến tháng 6/2014)
Chuyên ngành : Báo chí học
Mã số


: 60320101

LUẬN VĂN THẠC SĨ BÁO CHÍ HỌC

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: TS.

Hà Nội, 11/2014


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu,
kết quả điều tra nêu trong luận văn này là trung thực, được ghi rõ nguồn gốc một
cách minh bạch, đầy đủ. Đề tài nghiên cứu này chưa được công bố trong bất kỳ
công trình nào khác.
Hà Nội, tháng 11 năm 2014
Tác giả luận văn


MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài.
Giá trị bản sắc văn hóa dân tộc được coi là tấm giấy thông hành để mỗi con
người bước ra với cộng đồng nhân loại mà không bị trộn lẫn. Điều này càng có ý
nghĩa quan trọng khi chúng ta xây dựng nền kinh tế thị trường giao lưu và hội
nhập với thế giới trong xu thế toàn cầu hóa.
Bản sắc văn hóa Việt Nam bao gồm những giá trị bền vững, những tinh hoa
được vun đắp qua hàng ngàn năm đấu tranh dựng nước và giữ nước, tạo thành
những nét đặc sắc của cộng đồng các dân tộc Việt Nam, con người Việt Nam. Xét
về bản chất, lịch sử dân tộc ta ngay từ thời dựng nước đã không ngừng đấu tranh
chống ngoại xâm để dành và giữ nền độc lập, tạo nên phẩm chất cao cả và thiêng
liêng nhất của văn hóa dân tộc ta, đó là tinh thần yêu nước, thương nòi. Chủ nghĩa

yêu nước của văn hóa dân tộc ta không chỉ biểu lộ ở lòng dũng cảm, đức hy sinh
mà còn ở tinh thần đoàn kết, nhân ái, yêu thương con người, ý thức bảo vệ nhân
phẩm, giữ gìn đạo lý.
Trải qua hàng ngàn năm lịch sử, văn hóa Việt Nam đã vượt qua thế bị động
để tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại, làm giàu thêm bản sắc của mình
Trong quá trình lãnh đạo cách mạng, Đảng cộng sản Việt Nam luôn coi
trọng mặt trận văn hóa mà cốt lõi của nó là bản sắc văn hóa dân tộc. Nghị quyết
hội nghị lần thứ 5 của Ban chấp hành TW khóa VIII đã đánh dấu bước phát triển
mới về đường lối văn hóa, văn nghệ của Đảng. Với phương hướng chung của sự
nghiệp văn hóa nước ta là: “Xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên
tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại, làm cho văn hóa
thấm sâu vào toàn bộ đời sống và hoạt động xã hội, vào từng người…tạo nên trên
đất nước ta đời sống tinh thần cao đẹp, trình độ dân trí cao…”
Tinh thần Nghị quyết TW5 thực sự là nguồn cảm hứng, nâng cao tinh thần
của nhân dân ta bước vào thế kỷ mới, làm cho văn hóa vừa là mục tiêu, vừa là
động lực của sự phát triển của đất nước. Nghị quyết cũng chỉ rõ “Nền văn hóa Việt


Nam là nền văn hóa thống nhất mà đa dạng trong cộng đồng các dân tộc Việt
Nam”
Theo tinh thần Nghị quyết Trung ương 5 khóa VIII, năm 2011 Thủ tướng
Chính phủ đã phê duyệt đề án “Bảo tồn, phát triển văn hóa các dân tộc thiểu số
Việt Nam đến năm 2020”. Đây là sự kiện quan trọng tiếp tục thể hiện chính sách
của Đảng, Nhà nước trong sự nghiệp bảo tồn và phát huy bản sắc văn hóa các dân
tộc thiểu số Việt Nam.
Đảng và Nhà nước ta luôn có những chủ trương, chính sách nhằm ưu tiên,
phát triển vùng dân tộc thiểu số và miền núi với quan điểm chỉ đạo xuyên suốt:
Các dân tộc trong đại gia đình các dân tộc Việt Nam bình đẳng, đoàn kết, thương
yêu, tôn trọng và giúp đỡ nhau cùng tiến bộ. Tuy nhiên, khoảng cách chênh lệch
về trình độ phát triển giữa vùng dân tộc thiểu số và miền núi với các khu vực khác

trong cả nước đang ngày càng có xu hướng gia tăng cách biệt, vùng miền núi và
dân tộc thiểu số đang còn những khó khăn, thách thức rất lớn, trong đó văn hoá
truyền thống các dân tộc thiểu số đang đặt ra vấn đề giải quyết hài hoà giữa bảo
tồn và phát triển, giữa kinh tế và văn hoá.
Bên cạnh đó, nhiều di sản văn hóa truyền thống của các dân tộc thiểu số
chưa được nghiên cứu, đánh giá một cách bài bản khoa học. Nghệ thuật diễn
xướng Then của các dân tộc Tày, Nùng, Thái; Kho sách cổ của dân tộc Dao…,
hàng nghìn làng, bản, buôn… truyền thống với các giá trị văn hóa tiêu biểu của
các dân tộc (kiến trúc, trang phục dân tộc, nghề truyền thống và các món ăn truyền
thống, các làn điệu dân ca, dân vũ, lễ hội…) đang đứng trước nguy cơ biến mất
theo xu hướng kiên cố hoá, hiện đại hoá hoặc do tác động mặt trái của cơ chế thị
trường rất cần phải nhanh chóng được hướng dẫn, hỗ trợ để bảo tồn, phát huy
trong cuộc sống đương đại.
Qua 4 năm đầu thực hiện đề án (2011 – 2014), Đảng, Nhà nước, các cấp
chính quyền và ngành chức năng đã có sự nhìn nhận, đánh giá được thực trạng còn
tồn tại trong việc bảo tồn, phát triển văn hóa các dân tộc thiểu. Trong đó, vấn đề
đặc biệt cấp bách đặt ra là bản sắc văn hóa của các dân tộc thiểu số, cụ thể là


những dân tộc ít người đã dần bị mai một nhanh chóng. Thậm chí có dân tộc khó
có thể tìm được các nét văn hóa đặc trưng. Đó là kết quả của việc hội nhập văn
hóa. Do đó, xu hướng tất yếu trong thời gian tới mà Đảng, Nhà nước ta hướng tới
đó là đề cao tính đặc thù, bản sắc văn hoá dân tộc, coi trọng việc giữ gìn và phát
huy giá trị di sản văn hoá, đấu tranh chống khuynh hướng đồng hoá về văn hoá;
Đồng thời chọn lọc tiếp thu các giá trị tinh hoa văn hoá của nhân loại. Toàn cầu
hoá và hội nhập quốc tế là một xu thế tất yếu, khách quan, vừa là quá trình hợp tác
để phát triển, vừa là quá trình đấu tranh bảo vệ lợi ích quốc gia. Bản sắc văn hoá
dân tộc là vấn đề trọng đại, sống còn của mỗi quốc gia. Trong bối cảnh toàn cầu
hoá, văn hoá là một lĩnh vực dễ bị tổn thương, trong đó bản sắc văn hoá, văn hoá
truyền thống dễ bị tổn thương hơn cả, đặc biệt là văn hoá các dân tộc thiểu số. Xử

lý đúng đắn mối quan hệ giữa bảo vệ bản sắc văn hoá dân tộc với tiếp thu có chọn
lọc tinh hoa văn hoá nhân loại sẽ làm phong phú cho văn hoá đất nước, thúc đẩy
văn hoá phát triển.
Đây không phải là trách nhiệm của riêng ngành văn hóa, mà việc bảo tồn,
phát triển bản sắc văn hóa các dân tộc thiểu số là trách nhiệm chung của toàn xã
hội. Và vai trò của những người làm công tác tuyên truyền nói chung và đối với
lĩnh vực truyền hình nói riêng có ý nghĩa rất quan trọng trong việc gìn giữ, phát
triển bản sắc văn hóa các dân tộc thiểu số. Với thế mạnh đặc trưng của thể loại báo
hình, truyền hình cần phải phát huy cao hơn nữa vai trò xung kích trên mặt trận
tuyên truyền bảo tồn, phát triển bản sắc các dân tộc thiểu số.
Khu vực miền núi phía Bắc gồm các tỉnh là: Hà Giang, Cao Bằng, Lào Cai,
Bắc Kạn, Lạng Sơn, Tuyên Quang, Yên Bái, Điện Biên, Lai Châu và Sơn La, Thái
Nguyên. Đây là khu vực giàu có tiềm năng, với lợi thế phát triển nông, lâm
nghiệp, thủy điện, khoáng sản, du lịch và kinh tế cửa khẩu. Đây là nơi có nhiều
nguồn tài nguyên thiên nhiên thiết yếu đối với sự phát triển bền vững của Vùng và
của cả nước.
Bên cạnh đó, các tỉnh miền núi phía Bắc là khu vực có số lượng các dân
tộc đa dạng và đặc trưng nhất ở Việt Nam, trong đó có những dân tộc chiếm số


lượng lớn như người Tày, Nùng, Thái, Mông, Dao… Ở bất kỳ đâu trên khu vực
này đều dễ dàng gặp những người thuộc các dân tộc khác nhau sinh sống. Và ở
những vùng đất khác nhau, các dân tộc cũng phân bố với số lượng nhiều ít khác
nhau.
Khu vực này cũng là nơi có nhiều di tích lịch sử và danh thắng nổi tiếng
thế giới. Trong lịch sử cũng như hiện tại, khu vực miền núi phía Bắc luôn luôn
có vị thế địa - chính trị vô cùng quan trọng, liên quan mật thiết đến sự hưng
thịnh, tồn vong của đất nước. Tuy nhiên, hiện nay khu vực miền núi phía Bắc là
một trong những vùng đang phải đương đầu với những khó khăn gay gắt và
phức tạp nhất.

Khu vực miền núi phía Bắc có một nền văn hóa cội nguồn đa dạng, độc đáo,
được kết tinh từ đời này sang đời khác. Đó là một trong những nội lực to lớn của
đất nước. Tuy nhiên, hiện nay, giá trị bản sắc văn hóa các dân tộc các tỉnh miền
núi phía Bắc đang xuất hiện xu hướng bị đồng hóa về văn hóa, từ nghi thức sinh
hoạt, lễ hội tín ngưỡng, phong tục tập quán đến những bộ trang phục truyền thống
các dân tộc giờ đây ít được lớp trẻ chuộng dùng, tiếng nói riêng của từng dân tộc
cũng bị pha trộn, nhiều lớp trẻ không biết nói tiếng của dân tộc mình. Âm nhạc,
những làn điệu dân ca cũng bị xem thường hoặc chỉ là thú vui của người cao
tuổi… Do đó, “Coi trọng và bảo tồn, phát huy những giá trị truyền thống và xây
dựng những giá trị mới về văn hóa, nghệ thuật các dân tộc thiểu số” là một trong
những nhiệm vụ quan trọng mà Nghị quyết Trung ương V khóa VIII của Đảng đã
đề cập tới. Tôn vinh các giá trị văn hóa truyền thống tốt đẹp của các dân tộc thiểu
số cũng là vấn đề được đề cao trong Đề án "Bảo tồn, phát triển văn hóa các dân tộc
thiểu số Việt Nam"
Với vai trò là một kênh thông tin quan trọng, đáp ứng yêu cầu thúc đẩy sự
nghiệp phát triển kinh tế, văn hóa, an ninh, quốc phòng của Đảng bộ, chính quyền
các tỉnh miền núi phía Bắc, hệ thống báo chí nói chung và các Đài truyền hình nói
riêng đã có những đóng góp tích cực trong việc tuyên truyền chủ trương, đường
lối, chính sách của Đảng và Nhà nước đến đông đảo nhân dân, góp phần đáp ứng


nhu cầu hưởng thụ văn hóa tinh thần ngày càng cao của nhân dân các dân tộc, nhất
là trong công tác tuyên truyền, gìn giữ và nâng cao bản sắc văn hóa các dân tộc
thiểu số. Bằng sức mạnh của mình, báo chí tác động vào nhận thức của công
chúng, của xã hội, tạo ra ý thức cao về vị trí vai trò của văn hóa trong phát triển, từ
đó xây dựng nên những ước muốn gìn giữ và phát huy giá trị văn hóa truyền thống
tốt đẹp của dân tộc, nhằm tăng thêm sức mạnh nội sinh, phát triển đất nước, tiến
lên giàu đẹp, văn minh.
Tuy nhiên, cũng phải thừa nhận rằng việc tuyên truyền văn hóa các dân tộc
thiểu số trên hệ thống báo chí các tỉnh miền núi phía Bắc thời gian qua vẫn còn

nhiều bất cập, hạn chế như: Nội dung thể hiện chưa phong phú, đa dạng, chậm đổi
mới, chưa hấp dẫn; Đội ngũ phóng viên, biên tập viên chưa có chuyên môn sâu, sự
am hiểu về văn hóa các dân tộc thiểu số còn hạn chế…. Nền kinh tế thị trường do
Đảng cộng sản Việt Nam khởi xướng và lãnh đạo đã gặt hái được kết quả bước
đầu đáng phấn khởi. Song, những hệ lụy do mặt trái của cơ chế thị trường gây ra
không phải là nhỏ. Điều này đang tác động trực tiếp vào đời sống văn hóa của
nhân dân nói chung và đồng bào các dân tộc thiểu số miền núi phía Bắc nói riêng
gây nguy cơ sói mòn đạo đức dân tộc, hủy hoại những giá trị dân tộc mà ông cha
ta bao đời nay dầy công vun đắp.
Khu vực miền núi phía Bắc là một vùng có cơ cấu dân tộc thiểu số cùng
chung sống khá đa dạng. Qua cơ cấu dân tộc ở đây cho thấy khu vực này có
nền văn hóa rất phong phú và đa dạng. Mỗi dân tộc có nét đẹp, giá trị bản sắc
văn hóa riêng. Trước tình hình đó, hệ thống báo chí nói chung và các Đài Phát
thanh – Truyền hình nói riêng cần phải có những nghiên cứu cụ thể, khoa học
tìm ra những giải pháp nhằm nâng cao chất lượng và hiệu quả tuyên truyền
bảo tồn những giá trị bản sắc văn hóa các dân tộc thiểu số. Do đó, tôi chọn đề
tài: “Vấn đề bảo tồn, phát triển văn hóa các dân tộc thiểu số trên sóng
truyền hình của các Đài Phát thanh - Truyền hình khu vực miền núi phía
Bắc” (Khảo sát tại Đài Phát thanh – Truyền hình 3 tỉnh: Hà Giang, Lào Cai và


Sơn La từ tháng 1/2014 đến 6/2014) làm đề tài nghiên cứu cho luận văn thạc
sỹ.
Qua kết quả nghiên cứu này, tác giả muốn đóng góp một phần nhất định vào
việc nghiên cứu vấn đề bảo tồn, phát triển bản sắc các dân tộc thiểu số. Chính vì
vậy, việc nghiên cứu đề tài này có ý nghĩa cả về mặt lý luận và thực tiễn, giúp tác
giả có thêm kiến thức để vận dụng vào công việc của mình trong thời gian tới
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Trong những năm qua, vấn đề văn hóa và bản sắc văn hóa đã có nhiều công
trình nghiên cứu và tìm hiểu, nhưng ở mỗi góc độ, mỗi nhà khoa học lại có cách

nhìn và tiếp cận vấn đề khác nhau. Có thể kể ra một số công trình nghiên cứu tiêu
biểu sau:
Bản sắc văn hóa Việt Nam – Phan Ngọc, 2002, Nxb Văn hóa thông tin; Tìm
hiểu về bản sắc văn hóa dân tộc Việt Nam – Trần Ngọc Thêm, 1996, Nxb Thành
phố Hồ Chí Minh; Văn hóa các dân tộc vùng Tây Bắc – Thực trạng và những vấn
đề đặt ra – Trần Văn Bính, 2004, Nxb Chính trị Quốc Gia; Giữ gìn, bảo vệ bản
sắc văn hóa các dân tộc thiểu số Việt Nam – Nông Quốc Chấn, Hoàng Tuấn Cư,
Vi Hồng Nhân, 1996, Nxb Văn hóa dân tộc Hà Nội; Văn hóa Việt Nam tìm tòi và
suy ngẫm – Trần Quốc Vượng, 2003, Nxb Văn học Hà Nội; Một số vấn đề về bảo
tồn và phát triển di sản văn hóa các dân tộc – Hoàng Vinh, 1997, Nxb Chính trị
Quốc Gia; Bước đầu tìm hiểu văn hóa tộc người văn hóa Việt Nam – Hoàng Nam,
1998, Nxb Văn hóa dân tộc Hà Nội; Trang phục các tộc người thiểu số nhóm ngôn
ngữ Việt – Mường và Tày – Thái – Bảo tàng văn hóa các dân tộc Việt Nam, 2003,
Nxb văn hóa dân tộc; Hành trình văn hóa Việt Nam – Đặng Đức Siêu, 2002, Nxb
lao động…
Các khóa luận tốt nghiệp Đại học và luận văn Thạc sỹ có liên quan đến
đề tài:
Chu Đức Kiu (1993): Khảo sát đội ngũ nhà báo dân tộc ít người Cao Bằng
lịch sử và thực trạng, Khóa luận tốt nghiệp Đại học: Đề tài tập trung vào việc khảo
sát đội ngũ nhà báo là người dân tộc ít người tại Cao Bằng.


La Vũ Quang (1993): Một số vấn đề về tiếp tục nâng cao chất lượng, hiệu
quả thông tin tuyên truyền với đối tượng là đồng bào dân tộc thiểu số ở buổi phát
thanh đại gia đình các dân tộc Việt Nam, Khóa luận tốt nghiệp Đại học: Đề tài
hướng tới việc tuyên truyền tới đối tượng là đồng bào dân tộc thiểu số. Mục đích
chính là nâng cao chất lượng tuyên truyền thông qua hệ thống phát thanh
Giàng Seo Pùa (1994): Những bước đi ban đầu của chương trình phát thanh
tiếng Mông (Đài tiếng nói Việt Nam), tiềm năng và xu hướng phát triển, Khóa
luận tốt nghiệp Đại học: Đề tài chủ yếu tập trung vào việc nêu thực trạng và giải

pháp nâng cao chất lượng chương trình phát thanh tiếng Mông tại Đài tiếng nói
Việt Nam.
Nguyễn Thu Liên (1997): Vấn đề gìn giữ bản sắc văn hóa dân tộc trong các
chương trình phát thanh của Đài Tiếng nói Việt Nam. Luận văn Thạc sỹ báo chí:
Đề tài cũng đề cập tới việc giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc nói chung trong
chương trình phát thanh tại Đài tiếng nói Việt Nam.
Nguyễn Xuyên An Việt (2001): Thông tin về miền núi và dân tộc trên sóng
VTV1 – Đài Truyền hình Việt Nam, Luận văn thạc sỹ Báo chí: Đề tài chủ yếu
khảo sát các chương trình có nội dung về miền núi và dân tộc trên sóng VTV1 của
Đài Truyền hình Việt Nam, từ đó chỉ ra thực trạng cũng như giải pháp khắc phục.
Đỗ Thanh Phúc (2005): Vấn đề bảo tồn bản sắc văn hóa các dân tộc trên
sóng truyền hình tại Đài Truyền hình Hòa Bình, Luận văn thạc sỹ truyền thông đại
chúng: Đề tài đề cập tới vấn đề bảo tồn bản sắc văn hóa dân tộc nói chung trên
sóng truyền hình tại một địa phương cụ thể là Hòa Bình.
Trịnh Liên Hà Quyên (2006): Báo Văn hóa với vấn đề bảo tồn và phát huy
di sản văn hóa trong giai đoạn hiện nay. Luận văn thạc sỹ truyền thông đại chúng:
Đề tài khảo sát các tin, bài đăng trên Báo văn hóa về vấn đề bảo tồn và phát huy
các di sản văn hóa nói chung.
Qua thống kê trên cho thấy, cho đến thời điểm hiện tại đã có nhiều công
trình nghiên cứu về đề tài văn hóa các dân tộc nói chung và dân tộc thiểu số nói
riêng. Mỗi công trình nghiên cứu đã đề cập tới những khía cạnh khác nhau của


lĩnh vực văn hóa và tuyên truyền văn hóa các dân tộc nói chung hoặc của từng dân
tộc cụ thể với những góc nhìn mới hơn tạo nên tổng thể đa dạng, phong phú ở lĩnh
vực văn hóa nói chung và văn hóa dân tộc thiểu số nói riêng.
Tuy nhiên, các công trình nghiên cứu về việc bảo tồn, phát triển văn hóa các
dân tộc thiểu số trên sóng truyền hình được đề cập còn khá khiêm tốn. Số lượng
công trình nghiên cứu nào đề cập tới đối tượng cụ thể là dân tộc thiểu số khu vực
miền núi phía Bắc còn hạn chế, thậm chí là chưa có. Địa bàn nghiên cứu của các

công trình nghiên cứu trước đều tập trung ở một địa phương cụ thể hoặc trên một
chương trình cụ thể, chưa có công trình nghiên cứu nào đề cập tới vấn đề bảo tồn,
phát triển các dân tộc thiểu số tại khu vực miền núi phía Bắc. Đây chính là 2 điểm
khác biệt quan trọng nhất và cũng là nhiệm vụ xuyên suốt của đề tài nghiên cứu
mà tôi lựa chọn là: “Vấn đề bảo tồn, phát triển bản sắc văn hóa các dân tộc
thiểu số trên sóng truyền hình của các Đài Phát thanh – Truyền hình khu vực
miền núi Phía Bắc” (Khảo sát tại Đài PT – TH 3 tỉnh: Lào Cai, Sơn La và Hà
Giang từ tháng 1 đến tháng 6/2014)
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở nghiên cứu lý luận và khảo sát thực tiễn về vấn đề bảo tồn, phát
triển bản sắc văn hóa các dân tộc thiểu số trên sóng truyền hình của các Đài Phát
thanh – truyền hình khu vực miền núi phía Bắc, luận văn chỉ ra thực trạng, ưu
điểm và những hạn chế trong công tác tuyên truyền trên sóng truyền hình tại các
địa phương này từ đó đề xuất các giải pháp phù hợp nhằm tăng cường vai trò của
truyền hình trong việc tuyên truyền bảo tồn, phát triển bản sắc văn hóa các dân tộc
thiểu số khu vực miền núi phía Bắc trong thời gian tới.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để đạt được mục đích nêu trên, luận văn thực hiện những nhiệm vụ sau:
- Một là, làm rõ những vấn đề lý luận về bảo tồn, phát triển bản sắc văn hóa
các dân tộc thiểu số như:


- Hai là, phân tích làm rõ vai trò, những thế mạnh, hạn chế của truyền hình
trong việc việc bảo tồn, phát triển bản sắc văn hóa các dân tộc thiểu số.
- Ba là, tiến hành khảo sát, thống kê, phân tích làm rõ thực trạng, thành
công, hạn chế và nguyên nhân của những hạn chế trong việc bảo tồn, phát triển
bản sắc văn hóa các dân tộc thiểu số trên sóng truyền hình của các Đài Phát thanh
- Truyền hình khu vực miền núi phía Bắc.
- Bốn là, đề xuất một số giải pháp phù hợp nhằm nâng cao chất lượng hiệu

quả tuyên truyền bảo tồn, phát triển bản sắc văn hóa các dân tộc thiểu số trên
truyền hình khu vực Tây Bắc.
4. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là các hoạt động tuyên truyền về vấn đề
bảo tồn, phát triển bản sắc văn hóa các dân tộc thiểu số trên sóng truyền hình của
Đài Phát thanh – Truyền hình khu vực miền núi phía Bắc.
4.2. Đối tượng khảo sát
- Khảo sát các tin, bài trên sóng truyền hình của Đài Phát thanh – Truyền
hình Lào Cai, Sơn La, Hà Giang.
Chúng tôi chọn 2 nhóm chương trình của các Đài gồm: Nhóm thời sự (bao
gồm tin thời sự, phóng sự phản ánh và phóng sự chuyên đề); Nhóm văn hóa –
nghệ thuật (Đài PT – TH Hà Giang gồm chuyên mục: Sắc màu văn hóa, Giai điệu
quê hương, Nghề và làng nghề; Đài PT – TH Lào Cai gồm: Sắc màu Lào Cai,
Đi và khám phá; Đài PT – TH Sơn Là gồm: Văn hóa dân tộc; Dân ca dân vũ).
- Các nhà báo, các nhà lãnh đạo quản lý, phóng viên các Đài Phát thanh Truyền hình của các Đài trong phạm vi khảo sát.
- Khán giả truyền hình - công chúng mục tiêu của các Đài truyền hình.
4.3. Phạm vi nghiên cứu
Do thời gian và điều kiện có hạn, với khuôn khổ của đề tài này, tác giả chỉ
tập trung đi sâu vào nghiên cứu vấn đề bảo tồn, phát triển bản sắc văn hóa các dân
tộc thiểu số trong các chương trình truyền hình của ba Đài phát thanh – Truyền
hình khu vực miền núi phía Bắc đó là Lào Cai, Sơn La và Hà Giang với các


chương trình sau: Nhóm thời sự (bao gồm tin thời sự, phóng sự phản ánh); Nhóm
văn hóa – nghệ thuật (Đài PT – TH Hà Giang gồm chuyên mục: Sắc màu văn hóa,
Giai điệu quê hương, Nghề và làng nghề; Đài PT – TH Lào Cai gồm: Sắc màu
Lào Cai, Đi và khám phá; Đài PT – TH Sơn Là gồm: Văn hóa dân tộc; Dân ca
dân vũ)
Việc chọn 3 đơn vị này trong phạm vi khảo sát vì các lý do sau:

Thứ nhất: 3 tỉnh này có số lượng lớn các dân tộc thiểu số cùng sinh sống,
trong đó Hà Giang có 22 dân tộc, Lào Cai có 25 dân tộc và Sơn La có 12 dân tộc.
Mỗi dân tộc có những nét văn hóa độc đáo khác nhau.
Thứ hai, Khu vực miền núi phía Bắc, theo vị trí địa lý chia thành 2 là Tây
Bắc và Đông Bắc. Ở 2 khu vực này có những nét văn hóa độc đáo như văn hóa
Thái, Tày – Nùng… Tỉnh Sơn La có đặc trưng văn hóa Thái; Hà Giang có đặc
trưng văn hóa Tày – Nùng, Mông – Dao; Lào Cai là tỉnh bao gồm cả văn hóa
Mông – Dao và văn hóa Thái.
Thời gian khảo sát từ tháng 1 đến tháng 6/2014
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
5.1. Cơ sở lý luận
Đề tài dựa trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí
Minh về báo chí và văn hóa truyền thống các dân tộc thiểu số; đường lối, chủ
trương, chính sách của Đảng và Nhà nước ta về bảo tồn, phát triển giá trị văn hóa
truyền thống các dân tộc thiểu số; hoạt động báo chí và hệ thống lý luận báo chí
nói chung, báo chí truyền hình nói riêng.
5.2. Phương pháp nghiên cứu.
Các phương pháp cụ thể được áp dụng trong đề tài là:
- Phương pháp nghiên cứu tài liệu
Thông qua việc tìm kiếm và tập hợp tài liệu từ nhiều nguồn khác nhau, tác
giả làm rõ lý luận về văn hóa, văn hóa các dân tộc thiểu số.
- Phương pháp phân tích, tổng hợp, đánh giá


Được dùng để nhận diện, phân tích cách thức, nội dung tuyên truyền về bảo
tồn, phát triển bản sắc văn hóa các dân tộc thiểu số đã được phát sóng trên sóng
truyền hình của các Đài Phát thanh – Truyền hình.
- Phương pháp thống kê
Trong quá trình khảo sát, tác giả sử dụng phương pháp này kết hợp với
phương pháp phân tích, tổng hợp, đánh giá để rút ra thực trạng trong công tác

tuyên truyền về vấn đề bảo tồn, phát triển bản sắc văn hóa các dân tộc thiểu số trên
sóng truyền hình của các Đài Phát thanh – truyền hình Lào Cai, Sơn La và Hà
Giang. Từ đó đưa ra những kiến nghị, đề xuất để nâng cao chất lượng sản xuất các
chương trình
- Phương pháp so sánh
Tác giả sử dụng phương pháp này để làm nổi rõ những khác biệt trong công
tác tuyên truyền về vấn đề bảo tồn, phát triển bản sắc văn hóa các dân tộc thiểu số
trên sóng truyền hình của các Đài Phát thanh – truyền hình trong khu vực miền núi
phía Bắc. Từ đó nhìn nhận những mặt còn hạn chế và đề xuất các giải pháp khắc
phục
- Phương pháp điều tra xã hội học
Việc sử dụng phương pháp này, thông qua việc điều tra đối tượng công
chúng khán giả, tác giả có những câu trả lời khách quan nhất về việc tuyên truyền
vấn đề bảo tồn, phát triển bản sắc văn hóa các dân tộc thiểu số trên sóng truyền
hình Đài Phát thanh – truyền hình. Đồng thời có những hướng giải pháp khắc phục
trên cơ sở ý kiến công chúng khán giả.
+ Tác giả phát phiếu trưng cầu ý kiến ngẫu nhiên của 300 công chúng tại 3
tỉnh Sơn La, Lào Cai và Hà Giang, mỗi tỉnh 100 phiếu. Qua khảo sát, tác giả chỉ
sử dụng được 264 phiếu thu về để phân tích các nội dung nghiên cứu của đề tài bởi
264 phiếu này.
-Phương pháp phỏng vấn sâu


Phương pháp này tác giả sử dụng với nhóm đối tượng là các đồng chí lãnh
đạo tỉnh, lãnh đạo các Đài và nhóm biên tập viên, phóng viên các Đài thuộc phạm
vi khảo sát nhằm có những ý kiến cá nhân đánh giá về vấn đề nghiên cứu.
Việc kết hợp hiệu quả các phương pháp nghiên cứu sẽ tạo được hiệu quả tốt
hơn. Nhìn chung các phương pháp được sử dụng đều có tác dụng tích cực vào kết
quả của luận văn. Trong đó, các phương pháp bao trùm là phân tích, so sánh, tổng
hợp, điều tra xã hội học.

6. Đóng góp của đề tài
6.1. Về mặt lý luận
Việc nghiên cứu đề tài sẽ bước đầu khái quát những quan điểm cơ bản về
báo chí nói chung và hoạt động tuyên truyền trên sóng truyền hình nói riêng về
vấn đề bảo tồn, phát triển bản sắc văn hóa các dân tộc thiểu số ở khu vực miền núi
phía Bắc.
6.2. Về thực tiễn
Đây là công trình nghiên cứu đầu tiên về vấn đề bảo tồn, phát triển bản sắc
văn hóa các dân tộc thiểu số trên sóng truyền hình ở khu vực miền núi phía Bắc, cho
nên đề tài sẽ có ích cho đối tượng lãnh đạo, quản lý báo chí địa phương để hiểu hơn
về vai trò, vị trí, thực trạng của truyền hình đối với việc tuyên truyền cho bảo tồn,
phát triển bản sắc văn hóa các dân tộc thiểu số tại các tỉnh miền núi phía Bắc. Từ đó
có những chính sách phù hợp nhằm lãnh đạo, quản lý hiệu quả hơn
Đề tài cũng là có thể là tài liệu tham khảo cho những người quan tâm đến
việc bảo tồn, phát triển bản sắc văn hóa các dân tộc thiểu số tại khu vực miền núi
phía Bắc.
Bên cạnh đó, đề tài cũng làm phong phú thêm những công trình nghiên cứu
về bảo tồn, phát triển bản sắc văn hóa các dân tộc thiểu số, nhất là việc phát huy
vai trò của truyền hình trong công tác bảo tồn, gìn giữ những giá trị, tinh hoa văn
hóa dân tộc. Từ việc nâng cao ý thức công dân, cộng đồng các dân tộc trong việc
bảo tồn, phát triển văn hóa các dân tộc, tạo thói quen, nếp sống coi trọng bản sắc
văn hóa dân tộc mình, tạo môi trường thuận lợi cho việc bảo tồn, phát triển bản sắc


văn hóa các dân tộc thiểu số. Qua đây cũng tạo ra phong trào toàn dân bảo vệ, phát
triển những giá trị văn hóa phong phú và đặc sắc của dân tộc thiểu số. Những hệ
thống giải pháp và biện pháp thiết thực của đề tài sẽ góp phần thực hiện tốt không
chỉ công tác thông tin, tuyên truyền trên truyền hình mà còn nâng cao nhận thức, ý
thức của cả cộng đồng về góp phần gìn giữ bản sắc văn hóa các dân tộc thiểu số.
Đồng thời góp phần quan trọng trong việc giao lưu văn hóa, nhân rộng những mô

hình hay, điển hình sáng tạo trong cộng đồng về bảo tồn, phát triển bản sắc văn
hóa các dân tộc thiểu số tại khu vực.
Với bản thân tác giả, quá trình hoàn thành công trình nghiên cứu này là sự vận
dụng hệ thống lý luận đã được tiếp thu trong cả khóa học để nghiên cứu một vấn đề cụ
thể. Đó cũng là quá trình tự hoàn thiện thêm về phương diện lý thuyết, và các vấn đề
thực tiễn từ đó tạo cơ sở cho hoạt động báo chí sau này tại địa phương.
7. Kết cấu của luận văn
- Luận văn được chia thành 3 phần chính: Phần mở đầu; Phần nội dung và
Phần kết luận. Cụ thể :
Chương 1: Cơ sở lý luận về bảo tồn, phát triển văn hóa các dân tộc thiểu số
khu vực miền núi phía Bắc
Chương 2 : Thực trạng hoạt động tuyên truyền về vấn đề bảo tồn, phát triển
văn hóa các dân tộc thiểu số trên sóng truyền hình các Đài PT – TH khu vực miền
núi phía Bắc
Chương 3: Một số giải pháp nâng cao chất lượng, hiệu quả việc tuyên
truyền bảo tồn, phát triển văn hóa các dân tộc thiểu số trên truyền hình
- Ngoài ra, luận văn còn có phần tài liệu tham khảo và phụ lục gồm một số
biên bản phỏng vấn sâu lãnh đạo tỉnh, lãnh đạo Đài PT-TH các tỉnh và mẫu phiếu
thăm dò ý kiến khán giả và tổng hợp kết quả khảo sát.


Chương 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ BẢO TỒN, PHÁT TRIỂN VĂN HÓA
DÂN TỘC THIỂU SỐ TRÊN TRUYỀN HÌNH KHU VỰC MIỀN NÚI PHÍA
BẮC
1.1.Một số khái niệm
1.1.1.Văn hóa
Văn hóa là khái niệm được sử dụng phổ biến trong đời sống xã hội, thuật
ngữ này không những có nhiều nghĩa trong ngôn ngữ hàng ngày mà còn được sử
dụng ở các ngành khoa học khác nhau. Tuy nhiên, việc xác định nội hàm của nó

cũng còn nhiều ý kiến. Thực tế, trên thế giới hiện nay có hàng trăm cách định
nghĩa về văn hóa.
Người đầu tiên sử dụng khái niệm “văn hóa” với tư cách là thuật ngữ
chuyên môn là E.B. Tylor, ông tổ ngành Nhân loại học của nước Anh. Trong cuốn
Văn hóa nguyên thủy, năm 1871, Tylor đưa ra khái niệm về “văn hóa” như sau:
“Văn hóa hay văn minh, theo nghĩa rộng về tộc người học nói chung gồm có tri
thức, tín ngưỡng, nghệ thuật, đạo đức, luật pháp, tập quán và một số năng lực và
thói quen khác được con người chiếm lĩnh với tư cách một thành viên của xã hội
[10, tr.13].
Tổ chức Văn hóa Khoa học và Giáo dục thế giới (UNESSCO) đưa ra định
nghĩa về “văn hóa”: Văn hóa hôm nay có thể coi là tổng thể những nét riêng biệt
tinh thần và vật chất, trí tuệ và xúc cảm quyết định tính cách của một xã hội hay
của một nhóm người trong xã hội. Văn hóa bao gồm nghệ thuật và văn chương,
những lối sống, những quyền con người, những hệ thống các giá trị, những tập tục
và những tín ngưỡng [40].


Năm 2011, Đại hội đồng UNESSCO lần thứ 31 đã định nghĩa về “văn
hóa”: “Văn hóa nên được xem là một tập hợp các đặc trưng nổi bật về tinh thần,
vật chất, tri thức và tình cảm của một xã hội hay một nhóm người trong xã hội, và
ngoài văn học nghệ thuật nó còn bao gồm lối sống, phương thức chung sống, hệ
giá trị truyền thống và tín ngưỡng”[5, tr.51]
Theo định nghĩa trên, UNESSCO thừa nhận văn hóa là cội nguồn trực tiếp
của sự phát triển xã hội, có vị trí trung tâm và đóng vai trò điều tiết xã hội. Tuy
vậy, nêu lên vấn đề văn hóa tức là tự đặt mình vào đoạn giao lộ giữa hai vấn đề
vừa mâu thuẫn, vừa đan xen nhau. Đó là sự tiến triển của toàn cầu hóa và sự bảo
tồn của các bản sắc dân tộc.
Ở Việt Nam, nhiều nhà nghiên cứu, học giả cũng đưa ra quan niệm của
mình về văn hóa. Năm 1943 Chủ tịch Hồ Chí Minh quan niệm:
“Vì lẽ sinh tồn cũng như mục đích cuộc sống, loài người mới sáng

tạo và phát minh ra ngôn ngữ, chữ viết, đạo đức, pháp luật, khoa học, tôn
giáo, văn hóa, nghệ thuật, những công cụ cho sinh hoạt hàng ngày về ăn, ở
và các phương thức sử dụng. Toàn bộ những sáng tạo và phát minh đó tức là
văn hóa. Văn hóa là tổng hợp của mọi phương thức sinh hoạt cũng như biểu
hiện của nó mà loài người tạo ra nhằm mục đích thích ứng với nhu cầu đời
sống và đòi hỏi của sinh tồn”. [19, tr.431]
Phan Ngọc vào thập niên 90 của thế kỷ XX cũng đã đưa ra một định nghĩa
văn hóa mang tính thao tác luận, khác với các định nghĩa trước đó, theo ông:
“Văn hóa là mối quan hệ giữa thế giới biểu tượng trong óc một cá
nhân hay một tộc người với cái thế giới thực tại ít nhiều đã bị cá nhân này
hay tộc người này mô hình hóa theo các mô hình tồn tại trong biểu tượng.
Điều biểu hiện rõ nhất chứng tỏ mối quan hệ này đó là văn hóa dưới hình
thức dễ nhìn thấy nhất, biểu hiện thành một kiểu lựa chọn riêng của cá
nhân hay tộc người, khác với kiểu lựa chọn của cá nhân hay tộc người
khác” [26, tr.19-20]


Như vậy, theo Phan Ngọc, nét khác biệt giữa các kiểu lựa chọn của cá nhân
hay tộc người làm cho chúng khác nhau, tạo thành những nền văn hóa khác nhau
là độ khúc xạ. Tất cả mọi cái mà tộc người này tiếp thu hay sáng tạo đều có một độ
khúc xạ riêng ở mặt ở mọi lĩnh vực và rất khác độ khúc xạ ở một tộc người khác
[35, tr.21-22]
Hay một số nhà nghiên cứu gần đây cũng đã nghiên cứu sâu về lĩnh vực này
và đưa ra các quan niệm về văn hóa như sau:
“Văn hóa là tất cả những sản phẩm vật chất và không vật chất của hoạt
động con người, là giá trị và phương thức xử thế được công nhận, đã khách thể
hóa và thừa nhận trong một cộng đồng truyền lại cho một cộng đồng khác và cho
các thể hệ mai sau” [38, tr.11].
Định nghĩa này nhấn mạnh trong văn hóa bao gồm các sản phẩm vật chất và
các hệ thống giá trị các mẫu mực xử thế và các hệ thống hành vi. Vấn đề cần được

nhấn mạnh ở đây là trong khái niệm văn hóa, điều quan trọng là phải được thừa
nhận hoặc có nhiều khả năng được thừa nhận trong một nhóm xã hội, và được
truyền bá cho các cá thể hoặc các nhóm trong cộng đồng.
Như vậy, từ những quan niệm hay định nghĩa đã được nêu ra ở trên, có thể thấy
văn hóa không phải một lĩnh vực riêng biệt. Văn hóa là tổng thể nói chung những giá trị
vật chất và tinh thần do con người sáng tạo ra. Văn hóa là tổng thể những giá trị vật chất
và tinh thần do con người sáng tạo ra. Qua thời gian, những hoạt động sáng tạo ấy sẽ tạo
nên hệ thống các giá trị mang đặc tính riêng của mỗi dân tộc.
Từ phân tích ở trên, tác giả luận văn đưa ra một quan niệm riêng về văn hóa
để tiện cho quá trình nghiên cứu như sau: Văn hóa là tổng thể các hệ thống giá trị
- cả giá trị vật chất và giá trị tinh thần do con người sáng tạo trong hoạt động
thực tiễn và lịch sử xã hội của mình.
1.1.2.Dân tộc thiểu số
Theo từ điển bách khoa Việt Nam, khái niệm “dân tộc thiểu số” là “dân tộc
ít người (có thể từ hàng trăm, hàng nghìn cho đến hàng triệu) cư trú trong một
quốc gia thống nhất có nhiều dân tộc, trong đó có một dân tộc có số dân đông


nhất” [42,tr.820]. Đây là khái niệm dùng phổ biến trong các văn kiện chính thức
của Đảng và nhà nước ở Việt Nam.
Trên bình diện quốc tế, thuật ngữ “dân tộc thiểu số” được Liên hợp quốc
đề cập tới trong “Tuyên ngôn về quyền của người thuộc nhóm thiểu số về dân tộc
hay tộc người, tôn giáo và ngôn ngữ, theo đó, “dân tộc thiểu số” xác định dùng để
chỉ một nhóm người “cư trú trên lãnh thổ của một quốc gia có chủ quyền mà họ là
công dân; duy trì mối quan hệ lâu dài với quốc gia mà họ đang sinh sống, thể hiện
bản sắc riêng về chủng tộc, văn hóa, tôn giáo và ngôn ngữ của mình; đủ tư cách
đại diện nhóm dân tộc của họ mặc dù số lượng ít hơn ở nước này, có mối quan tâm
đến bảo tồn bản sắc chung của mình, bao gồm các yếu tố văn hó, phong tục tập
quán, tôn giáo và ngôn ngữ” [26,tr.24]
Từ các định nghĩa trên có thể hiểu khái niệm “dân tộc thiểu số” không

mang ý nghĩa phân biệt địa vị, trình độ phát triển của các dân tộc. Địa vị, trình độ
phát triển của các dân tộc không phụ thuộc ở số dân nhiều hay ít, mà nó được chi
phối bởi những điều kiện kinh tế - chính trị - xã hội và lịch sử của mỗi dân tộc.
Theo số liệu điều tra dân số năm 2009, Việt Nam là một quốc gia thống nhất
gồm 54 dân tộc thành viên với khoảng trên 80 triệu người. Trong tổng số các dân
tộc nói trên thì dân tộc Việt (Kinh) chiếm 86,2% dân số, được quan niệm là “dân
tộc đa số”, 53 dân tộc còn lại, chiếm 13,8% dân số được quan niệm là “dân tộc
thiểu số” trong cộng đồng các dân tộc Việt Nam [2]
Như vậy, khái niệm “dân tộc thiểu số” dùng để chỉ những dân tộc có số dân
ít, chiếm tỷ trọng thấp trong tương quan so sánh về lượng dân số trong một quốc
gia đa dân tộc. Khái niệm “dân tộc thiểu số” cũng không có ý nghĩa biểu thị tương
quan so sánh về dân số giữa các quốc gia dân tộc trên phạm vi khu vực và thế giới.
Một dân tộc có thể được quan niệm là đa số ở quốc gia này, nhưng đồng thời có
thể là thiểu số ở quốc gia khác. Tóm lại, có thể hiểu: “dân tộc thiểu số là những
dân tộc có số dân ít hơn so với dân tộc đa số trên phạm vi lãnh thổ nước đó”.


Trên cơ sở nghiên cứu khái niệm “dân tộc thiểu số” ở trên chúng ta có thể
hiểu khái niệm “dân tộc thiểu số khu vực miền núi phía Bắc” là những dân tộc có
số dân ít so với dân tộc đa số sinh sống tại các tỉnh miền núi phía Bắc Việt Nam.
1.1.3. Bảo tồn
Từ điển Tiếng Việt cắt nghĩa: “Bảo tồn là giữ lại không để cho mất đi” [11,
tr.151]
Bảo tồn là bảo vệ và giữ gìn sự tồn tại của sự vật, hiện tượng theo dạng thức
vốn có có của nó. Bảo tồn là không để mai một, không để bị thay đổi, biến hóa hay
biến thái. Như vậy, trong nội hàm của thuật ngữ này, không có khái niệm “cải
biến”, “nâng cao” hoặc “phát triển”. Đối tượng bảo tồn cần thỏa mãn 2 điều kiện
đó là:
Một là, nó phải được nhìn là tinh hoa, là một giá trị đích thực được nhìn
nhận minh bạch, không có gì hồ nghi hay bàn cãi.

Hai là, nó phải hàm chứa khả năng, chí ít là tiềm năng, đứng vững, lâu dài
trước những biến đổi tất yếu về đời sống vật chất và tinh thần của con người.
1.1.4. Phát triển
Thuật ngữ “Phát triển” được dùng khá phổ biến, gắn với các lĩnh vực,
ngành, nghề nhằm chỉ sự tiến hóa, biến thiên từ thấp vươn lên tới cao hoặc từ cao
vươn lên đến tầm cao hơn nữa của một sự kiện, hiện tượng, vấn đề trong đời sống
xã hội của con người.
Ngày nay theo sự vấn động biến bổi của lịch sử và của quy luật tự nhiên, thuật
ngữ “Phát triển” được dùng chung cho tất cả các nhành, lĩnh vực, hoạt động khác nhau
trong sự vận động, biến đổi từ con số không đến con số có thể đếm được, từ con số có sự
xác định còn nhỏ đến con số lớn theo hướng cấp số cộng, cấp số nhân.
Theo Đại từ điển Tiếng việt, “Phát triển có nghĩa là vận động, tiến triển
theo chiều hướng đi lên” [11, tr. 1321]
Từ các phân tích ở trên, tác giả luận văn quan niệm: Phát triển là khái quát
những vận động theo chiều hướng tiến lên từ thấp đến cao, từ đơn giản đến phức


tạp, từ kém hoàn thiện đến hoàn thiện hơn. Cái mới ra đời thay thế cái cũ, cái tiến
bộ ra đời thay thế cái lạc hậu.
1.1.5. Bảo tồn, phát triển văn hóa dân tộc thiểu số
Từ các khái niệm “Bảo tồn”, “Phát triển”, “Văn hóa”, “Dân tộc thiểu số”
trình bày ở trên, theo tác giả luận văn: Bảo tồn, phát triển văn hóa dân tộc thiểu số là
Giữ lại không để mất đi những giá trị văn hóa đặc trưng của đồng bào dân tộc thiểu số
đồng thời nhân rộng những giá trị bản sắc văn hóa đó trong cộng đồng.
Trong khuôn khổ nghiên cứu của đề tài, luận văn đề cập tới vấn đề bảo tồn, phát
triển văn hóa các dân tộc thiểu số khu vực miền núi phía Bắc. Vậy, từ định nghĩa trên
có thể hiểu bảo tồn, phát triển văn hóa dân tộc thiểu số khu vực miền núi phía Bắc là
Giữ gìn và phát triển các giá trị văn hóa đặc trưng của các dân tộc thiểu số đang sinh
sống tại các tỉnh miền núi phía Bắc nước ta.
Việc bảo tồn, phát triển văn hóa DTTS ở đây có thể hiểu là bảo tồn toàn bộ

các giá trị văn hóa vật chất, tinh thần hay văn hóa vật thể, phi vật thể của cộng
đồng các DTTS, bao gồm: Toàn bộ các giá trị văn hóa lễ hội, tín ngưỡng, trang
phục, ẩm thực, kiến trúc nhà ở, di sản văn hóa….
Bảo tồn và phát triển văn hóa có thể được coi là thúc đẩy nhau; bảo tồn văn
hóa giữ vai trò là cơ sở góp phần thúc đẩy phát triển văn hóa. Bên cạnh đó, thông
qua phát triển văn hóa, con người nhận thức và thực hiện hoạt động bảo tồn văn
hóa nhằm thể hiện bản sắc riêng của mình. Cũng bởi tầm quan trọng của việc bảo
tồn văn hóa mà trong quá trình phát triển chứa đựng sự đánh giá, xác lập vị thế của
yếu tố văn hóa mới dựa trên nền tảng giá trị đã được bảo tồn.
Để thực hiện tốt vấn đề bảo tồn văn hóa DTTS trong thời kỳ mở cửa, chúng
ta không tránh khỏi những cái đi ngược lại với thuần phong mĩ tục của văn hóa
dân tộc. Vì vậy, để thực hiện việc bảo tồn, chúng ta cần nhận thức rằng không đơn
thuần là giữ gìn không cho mất đi những giá trị vật chất và tinh thần của các DTTS
đã được sáng tạo trong quá trình lịch sử, mà gắn liền với nó là sự phát triển, tiếp
thu có chọn lọc những tinh hoa văn hóa của nhân loại, loại bỏ những gì không phù
hợp với truyền thống văn hóa của dân tộc, có thế thì trong quá trình phát triển và


hội nhập, chúng ta mới không bị hòa tan, từ đó mới có thể khẳng định vị trí, vai trò
của mình trên trường quốc tế.
1.2. Những nội dung biểu hiện đặc trưng của văn hóa dân tộc thiểu số khu
vực miền núi phía Bắc
1.2.1. Đặc trưng văn hóa dân tộc thiểu số
Hiện nay ở Việt Nam, có nhiều cách hiểu khác nhau về văn hóa và đặc
trưng của văn hóa. Theo nhà nghiên cứu Trần Ngọc Thêm: “Văn hóa là hệ thống
hữu cơ các giá trị vật chất và tinh thần do con người sáng tạo và tích lũy qua quá
trình hoạt động thực tiễn, trong sự tương tác giữa con người với môi trường tự
nhiên và xã hội của mình” [39, tr.21]. Định nghĩa này đã chỉ ra 2 nhóm giá trị
riêng biệt đó là văn hóa vật chất và văn hóa tinh thần. Văn hoá vật chất chỉ ra
phương thức hành động của con người để tồn tại trong đời sống vật chất, thường

được gọi là văn minh (civilisation). Mặt này luôn biến động theo đà phát triển của
khoa học kỹ thuật. Văn hoá tinh thần: bao gồm các lĩnh vực như: văn hoá - nghệ
thuật, vui chơi giải trí, tôn giáo, tín ngưỡng, lối sống, phong tục, tập quán v.v... và
những phương diện thuộc về trình độ ứng xử của con người được gọi là văn hoá
(Culture). Hai mặt này cùng song song tồn tại và phát triển trong đời sống xã hội.
Chúng luôn có mối quan hệ biện chứng và tương hỗ với nhau.
Cũng có những nét tương đồng như văn hóa vật chất và văn hóa tinh thần,
Luật di sản Văn hóa Việt Nam lại quan niệm văn hóa là bao gồm văn hóa vật thể
và văn hóa phi vật thể. Theo đó, văn hoá vật thể, là sản phẩm vật chất có giá trị về
lịch sử, văn hoá, khoa học được lưu truyền từ thế hệ này qua thế hệ khác ở nước
Cộng hoà XHCN Việt Nam. Hình thức này bao gồm nhà cửa, trang phục… Văn
hoá phi vật thể là sản phẩm tinh thần có giá trị lịch sử, văn hoá, khoa học được lưu
giữ bằng trí nhớ, chữ viết, được lưu truyền bằng truyền miệng, truyền nghề, trình
diễn và các hình thức lưu giữ, lưu truyền khác. Hình thức này bao gồm tiếng nói,
chữ viết, tác phẩm văn học, nghệ thuật và khoa học, ngữ văn truyền miệng, diễn
xướng dân gian, lối sống, nếp sống, lễ hội, bí quyết về nghề thủ công truyền thống,


tri thức về y dược học cổ truyền, về văn hoá ẩm thực và những tri thức dân gian
khác. [3]
Là một bộ phận không thể tách rời của văn hóa Việt Nam, văn hóa các
DTTS cũng bao gồm văn hóa vật chất (hay văn hóa vật thể) và văn hóa tinh thần
(hay văn hóa phi vật thể). Trong đó, mỗi dân tộc lại có những phương thức biểu
hiện cụ thể riêng biệt của dân tộc mình, nhưng có thể tổng kết lại thành một số
hình thức cơ bản như sau:
Thứ nhất, phong tục tập quán dân tộc thiểu số
Phong tục, tập quán của các DTTS là hệ thống các quy tắc sinh hoạt công
cộng lâu đời của các cộng đồng dân tộc thiểu số được hình thành qua quá trình lịch
sử lặp đi lặp lại, trở thành thói quen trong lao động, sản xuất; trong cuộc sống;
trong sinh hoạt hàng của các cộng đồng xã hội. Phong tục là một tập quán xã hội

tương đối bền vững và tương đối thống nhất. Chính đặc điểm này cho thấy phong
tục tập quán là yếu tố quy định bản sắc văn hóa mỗi dân tộc. Những biểu hiện cụ
thể của phong tục tập quán gồm các luật tục, hệ thống tín ngưỡng dân gian, hệ
thống tôn giáo bản địa, lễ hội tộc người…
Thứ hai, các trang phục dân tộc thiểu số
Trang phục là phương tiện cấu thành và thể hiện bản sắc của các dân tộc
thiểu số rõ nét nhất trong việc nhận dạng văn hóa của từng dân tộc. Trải qua các
thời kỳ lịch sử, các DTTS nước ta đã tạo dựng được những bộ trang phục mang
nét riêng, đẹp, độc đáo, thấm nhuần giá trị văn hóa truyền thống của mỗi tộc
người.
Người dân tộc quan niệm khi chết phải mặc trang phục truyền thống thì tổ
tiên mới nhận diện được con cháu, mới có thể nhận biết cội nguồn khi đã rời xa
cuộc sống... Thế nên, phần lớn các DTTS ở nước ta có trang phục truyền thống
riêng biệt, độc đáo, để người am hiểu chỉ cần nhìn trang phục là phân biệt được
người mặc nó thuộc dân tộc gì, thậm chí là nhánh dân tộc nào. Nếu coi bản sắc văn
hóa là đặc trưng cơ bản nhất của một tộc người, thì trang phục chính là biểu hiện
đầu tiên để có thể nhận biết một dân tộc.


Thứ ba, văn hóa ẩm thực các dân tộc thiểu số
Ẩm thực của mỗi dân tộc trong cộng đồng các dân tộc Việt Nam đều có bản
sắc riêng biệt, nhiều món ăn đã trở thành đặc sản trên đất nước Việt Nam và được
nhiều người biết đến. Và mỗi dân tộc có những món ăn độc đáo, riêng biệt mà chỉ
có ở dân tộc ấy.
Cùng là một món ăn nhưng mỗi một dân tộc đều có riêng cách chế biến, nấu
nướng riêng trong ăn uống. Đối với đồng bào DTTS những sản phẩm trong ẩm
thực đều làm chính từ những nguyên liệu sản vật do chính người dân lao động nơi
đây làm ra. Thông qua những sản phẩm ẩm thực mà người ta có thể biết được đời
sống văn hoá tinh thần cũng như điều kiện kinh tế, điều kiện tự nhiên của vùng đất
ấy. Mỗi một sản phẩm ẩm thực là những chắt lọc kinh nghiệm sống, kinh nghiệm

ứng xử giữa con người với thiên nhiên, giữa con người với con người…
Thứ tư, tiếng nói và chữ viết của các dân tộc thiểu số
Tiếng nói, chữ viết là một trong những đặc trưng văn hoá vô cùng quan
trọng của mỗi dân tộc. Nó là phương tiện giao tiếp, giao lưu, ghi lại lịch sử quá
trình hình thành phát triển của dân tộc đó từ thế hệ này sang thế hệ khác. Tiếng
nói, chữ viết là phương tiện để bảo tồn, phát huy, phát triển vốn văn hoá truyền
thống của dân tộc. Nó là yếu tố văn hoá đặc trưng nhất để phân biệt dân tộc này
với dân tộc khác.
Tiếng nói, chữ viết không chỉ là một thành tố cơ bản của văn hóa, một biểu
hiện của những giá trị nhân văn, mà đây còn là phương tiện để hình thành và lưu
truyền các hình thái quan trọng nhất trong đời sống văn hóa tinh thần của mỗi dân
tộc.
Cho tới nay, trong số 53 dân tộc thiểu số chính thức ở Việt Nam thì đã có 27
dân tộc đã có bộ chữ viết riêng của mình. Trong đó, có những bộ chữ cổ truyền
của dân tộc (Chữ Thái, chữ Chăm, chữ Khmer, chữ Hán…) và cũng có những bộ
chữ được chế tác vào nhiều thời điểm khác nhau trong lịch sử theo tự dạng Latinh.
Chữ viết không chỉ thể hiện sự phát triển cao về mặt văn hoá mà còn thể hiện trình
độ phát triển tư duy của mỗi dân tộc.


×