Tải bản đầy đủ (.docx) (14 trang)

Tiểu luận: Những tác động của chiến tranh Triều Tiên đến quan hệ quốc tế trong thời kỳ chiến tranh Lạnh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (135.71 KB, 14 trang )

LỜI MỞ ĐẦU
Như chúng ta đã biết, bán đảo Triều Tiên có một vị
trí địa – chiến lược hết sức quan trọng tại khu vực Đông
Bắc Á nói riêng và Châu Á – Thái Bình Dương nói chung.
Ngày nay, những căng thẳng trên bán đảo này không
ngừng leo thang khiến cho Quan hệ quốc tế trở nên
càng phức tạp. Nơi đây tồn tại sự đan xen lợi ích của
nhiều cường quốc từ chiến tranh thế giới thứ hai. Những
lợi ích trở nên xung đột nhất khi chiến tranh Triều Tiên
(1950-1953) xảy ra. Bài tiểu luận này sẽ trình bày một
cách rõ ràng Những tác động của chiến tranh Triều
Tiên đến quan hệ quốc tế trong thời kỳ Chiến
Tranh Lạnh. Bài tiểu luận chia thành hai phần:
Phần 1: Tổng quan về chiến tranh Triều Tiên
(1950-1953)
Phần 2: Tác động của chiến tranh Triều Tiên tới các
mỗi quan hệ Xô – Mỹ, Xô – Trung, Trung – Mỹ và Đông
Dương trong thời kỳ chiến tranh Lạnh


NỘI DUNG
I.

Tổng quan về chiến tranh Triều Tiên (19501953)

Chiến tranh Triều Tiên (1950-1953) là một cuộc
chiến tranh nóng đầu tiên trong thời kỳ chiến tranh
Lạnh và cũng là một cuộc xung đột nghiêm trọng nhất
giữa Đông – Tây1. Cuộc chiến tranh này không đơn
thuần là sự tranh chấp để thống nhất bán đảo giữa hai
miền Nam – Bắc mà nó còn có sự tham gia của nhiều


lực lượng phức tạp khác, không chỉ có sự đối đầu về hệ
tự tưởng mà còn đối lập về lợi ích.
1.

Cơ sở hình thành

Khi Chiến tranh Thế giới thứ hai đi đến hồi kết thì
việc phân chia phạm vi ảnh hưởng giữa các cường quốc
trở thành vấn đề nóng hơn bao giờ hết. Nếu ở châu Âu
có vấn đề Đức thì ở Châu Á, vấn đề Triều Tiên là một
trong những “tấm gương phản chiếu sự so sánh lực
lượng của hai siêu cường”2 là Liên Xô đứng đầu phe xã
hội của nghĩa và Mỹ đứng đầu phe tư bản chủ nghĩa.
Tháng 8 năm 1945 Hoa Kì đề nghị với Liên Xô
phân chia Triều Tiên thành hai vùng hoạt động quân sự
dọc theo vĩ tuyến 38. Miền Bắc thuộc vùng kiểm soát
của Liên Xô còn miền Nam do Mỹ kiểm soát. Stalin chấp
thuận đề nghị này và lấy vĩ tuyến 38 làm ranh giới của
hai vùng hoạt động. Từ đó hai phần của bán đảo Triều
Tiên chịu sự khống chế của hai cường quốc. Cộng hòa
dân chủ nhân dân Triều Tiên dưới sự lãnh đạo của Kim
Nhật Thành không phải lúc nào cũng phục tùng các chỉ
1 Trương Tiểu Minh, Chiến tranh lạnh và di sản của nó, Nxb chính trị Quốc gia, 2002, tr.109.
2 Như trên, tr.110.


thị của I.V Stalin. Ở miền Nam Triều Tiên cũng vậy,
chính quyền của Lý Thừa Vãn tồn tại với sự viện trợ của
Mỹ nhưng vẫn có những tham vọng hiếu chiến muốn
thống nhất hai miền đất nước. Song, trong nhiều năm

đầu của sự chia cắt, tham vọng này khó thực hiện được
bởi ảnh hưởng của hai siêu cường. Tại bán đảo Triều
Tiên thời điểm này đã tồn tại hai quốc gia với hai chế độ
chính trị đối lập nhau. Đến năm 1948, sự thành lập của
hai nước ở miền Nam – Bắc là minh chứng rõ nét nhất
cho sự đối đầu giữa hai cực Xô – Mỹ, hai khối Đông – Tây
trong quỹ đạo của Chiến tranh Lạnh. Đây là bối cảnh cơ
bản cho sự bùng nổ chiến tranh Triều Tiên vào ngày
25/6/1950.
Bên cạnh việc lãnh đạo hai bên đều muốn thống
nhất đất nước theo kiểu riêng, nhằm mở rộng chế độ
chính trị của mình sang phía bên kia thì chính Stalin
cũng có nguyện vọng về một nước Triều Tiên thống
nhất sau khi Ngoại trưởng Mỹ D.Acheson tuyên bố quần
đảo Alevatiennes và quần đảo Ryukyus – Nhật Bản
thuộc “chu vi an toàn” của Mỹ ở Đông Bắc Á. Hiển
nhiên, theo bài diễn văn đó, bán đảo Triều Tiên nằm
ngoài “chu vi an toàn” này. Điều này đã làm xua đi nỗi
hoài nghi của Stalin rằng Mỹ sẽ đưa quân đến can thiệp
vào các công việc của Tiều Tiên 3. Đồng thời, sau khi
Đảng cộng sản Trung Quốc dành được chính quyền thì
căn cứ để Stalin hi vọng về một Triều Tiên thống nhất
theo mô thức của miền Bắc lại càng rõ ràng hơn. Theo
các bằng chứng lưu trữ là chính I.V.Stalin đã trực tiếp đề
xướng khởi động chiến tranh 4. Bằng sự thúc đẩy của
môi trường quốc tế và sự quyết đoán của các nhà lãnh
đạo phương Bắc mà ngày 25 tháng 6 năm 1950, quân
đội Cộng hòa dân chủ nhân dân Triều Tiên vượt qua giới
tuyến Triều Tiên ở vĩ tuyến 38, đánh về phía Seoul, mở
3 Kathryn Wesathersby, the Soviet Role in the Early Phase of the Korean War: New documents

evedence”, Winter 1993, tr.433.
4 A.V.Torkunov, Cuộc chiến tranh bí ẩn: xung đột Triều Tiên 1950-1953, Nxb. Rosspen, 2002.


đầu cho cuộc nội chiến tiềm tàng nhiều nguy cơ về sự
đụng độ của hai cường quốc.
2.

Các lực lượng liên quan

Chiến tranh Triều Tiên ban đầu nổ ra dưới hình
thức của một cuộc nội chiến với sự tham gia của hai lực
lượng là quân đội của Nam-Bắc Triều Tiên. Song với tình
hình căng thẳng của chính trị thế giới lúc bấy giờ và vị
thế chiến lược của Triều Tiên mà nội chiến đã phát triển
dần dần và có nguy cơ trở thành một cuộc chiến tranh
lớn. Tuy hai nước đứng đầu phe Đông – Tây không trực
tiếp tham gia nhưng rõ ràng ta vẫn thấy được đây là
cuộc chiến tranh xung đột giữa hai phe xã hội chủ nghĩa
và tư bản chủ nghĩa. Lực lượng gìn giữ hòa bình của
Liên hợp quốc vào cuộc để giúp đỡ quân Nam Triều Tiên
mà thành phần chủ yếu là quân Mỹ, chịu sự chỉ đạo của
chính quyền H. Truman. Về phía quân Bắc, những động
thái của quân đội Cộng hòa dân chủ nhân dân Triều
Tiên cũng chịu sự chi phối một phần của người anh cả
Liên Xô. Đồng thời cũng nhận được sự giúp sức vô cùng
to lớn của nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa. Do đó có
thể thấy thành phần lực lượng tham chiến khá phức
tạp. Rõ ràng chỉ có hai phe chứ không có bên thứ ba
tham dự nhưng tính chất của nó lại không hề đơn giản.

Những quốc gia tham gia đều có lợi ích và quan điểm
nhìn chung là khác nhau nên đã tạo ra sự phức tạp về
lực lượng liên quan trong cuộc chiến tranh Triều Tiên.
Ngày 25 tháng 6 năm 1950, cuộc nội chiến nổ ra,
tình hình hết sức bất lợi cho Hàn Quốc. Ngày 27 tháng
6, tổng thống H. Truman ra lệnh cho lực lượng vũ trang
Mỹ ở Viễn Đông phải trợ giúp cho Hàn Quốc mà không
chờ tiếng nói của Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc vì tình
hình Hàn Quốc lúc đó hết sức nguy nan. Cùng ngày
hôm đó Hội đồng Bảo an cũng đưa ra khuyến nghị
chung cho tất cả các nước thành viên Liên hợp quốc
giúp đỡ Nam Triều Tiên. Những quyết định này không bị


sự phủ quyết của Liên Xô gây trở ngại do đại diện của
Liên Xô không đến dự các cuộc họp của Hội đồng Bảo
an để phản đối việc phương Tây không trao cho những
người Cộng sản Trung Quốc quyền được đại diện cho
Cộng hòa nhân dân Trung Hoa tại Liên hợp Quốc.
Sau nghị quyết thứ ba của Liên hợp quốc về việc
thành lập một đội quân đa quốc gia ở Triều Tiên dưới sự
chỉ huy của Mỹ thì việc hoạt động vũ trang của Mỹ ở
Triều Tiên càng có cơ sở pháp lý. Do đó mà tình hình
chiến sự khả quan hơn cho phía Hàn Quốc. Quân đội
Cộng hòa dân chủ nhân dân Triều Tiên bắt đầu rút lui.
Song lòng tham của quân đội Mỹ không chỉ dừng
lại ở đó. Được đà chiến thắng, quân Mỹ ở Triều Tiên
chiếm Bình Nhưỡng rồi tiến về phía biên giới của Cộng
hòa dân chủ nhân dân Triều Tiên với Trung Quốc và Liên
Xô nhằm sáp nhập miền Bắc vào miền Nam5.

Để ngăn chặn âm mưu này, ngày 25 tháng 10 năm
1950, Cộng hòa nhân dân Trung Hoa đã chính thức
tham chiến theo yêu cầu của Liên Xô và Cộng hòa dân
chủ nhân dân Triều Tiên. Seoul nhanh chóng bị quân
cộng sản tái chiếm. Lực lượng Liên hợp quốc mà nòng
cốt là quân đội Mỹ đến đầu năm 1951 rơi vào tình thế
cực kỳ khó khăn, có nguy cơ thất bại hoàn toàn. Tuy vậy
nhưng chính quyền Mỹ vẫn bác bỏ đề nghị của tổng chỉ
huy lực lượng vũ trang Mỹ ở Viễn Đông D.McArthur là
mở rộng chiến dịch và tấn công vào Trung Quốc để đảm
bảo sẽ không có cuộc chiến tranh lớn nào xảy ra do lo
ngại việc Liên Xô cũng sẽ tham gia vào cuộc chiến trên
cơ sở Hiệp ước hữu nghị liên minh tương trợ Xô – Trung.
Song tướng D.MacArthur vẫn tuyên bố đe dọa sẽ dùng
vũ khí nguyên tử nếu quân đội Trung Quốc không chấm
dứt tiến công ở Triều Tiên.

5 Bogaturov Aleksey Demofenovich, Avekov Viktor Viktorovich, Lịch sử quan hệ quốc tế, Đặng
Quang Chung dịch, H: Chính trị quốc gia,2012, tr.154


Tình hình trở nên căng thẳng hơn bao giờ hết. Ban
lãnh đạo Soviet đã có những bước đi kiên quyết nhằm
thuyết phục Trung Quốc dừng tiến công. Khi đó, lực
lượng Liên hợp quốc đã phản công, chiến tuyến lại được
ổn định ở vĩ tuyến 38. Song song với đó chính quyền
của H.Truman tỏ ý muốn dùng biện pháp đàm phán trên
cơ sở ngừng bắn và tìm giải pháp tối ưu hơn cho khu
vực. Ngày 10/7/1951, với sự ủng hộ bất thành văn của
Liên Xô, cuộc đàm phán đình chiến giữa Cộng hòa dân

chủ nhân dân Triều Tiên, Trung Quốc và lực lượng gìn
giữ hòa bình của Liên hợp quốc chính thức bắt đầu. Sau
những tranh luận gay gắt qua nhiều năm, cuối cùng
đình chiến ở Triều Tiên đã được thực hiện vào tháng 7
năm 1953.
Tuy cuộc chiến tranh chỉ kéo dài có ba năm nhưng
tác động của nó đã làm tình hình chiến tranh Lạnh
thêm căng thẳng, quan hệ quốc tế trở nên phức tạp
hơn. Cụ thể là chiến tranh Triều Tiên tạo nên sự mâu
thuẫn giữa một số quốc gia, đồng thời, nó cũng là nhân
tố thúc đẩy sự hợp tác sau này. Tất cả sẽ được làm rõ
trong phần tiếp theo của bài tiểu luận.
II.
1.

Tác động của chiến tranh Triều Tiên (19501953) tới QHQT thời kì chiến tranh Lạnh
Tác động đến quan hệ Xô – Mỹ

Chiến tranh Triều Tiên đẩy mạnh quân sự hóa
chiến tranh Lạnh Đông – Tây, khiến cho chiến tranh lạnh
bước vào giai đoạn hết sức căng thẳng, ác liệt. Chưa
bao giờ mối quan hệ giữa hai cường quốc lại xấu đến
như vậy cho dù hai phe không trực tiếp đối đầu.
Ngay từ trước khi chiến tranh Triều Tiên xảy ra Mỹ
đã luôn lo sợ về sự bành trướng của Liên Xô. Năm 1949,
Liên Xô chế tạo thành công bom nguyên tử. Cùng năm
đó Đảng Cộng sản Trung Quốc kiểm soát toàn bộ Trung
Quốc đại lục. Chính phủ Washington đã rất lo lắng về
điều này và cho rằng trong vài năm tới Liên Xô sẽ tấn
công để thực hiện kế hoạch thống trị toàn cầu. Tới khi



nội chiến ở Triều Tiên nổ ra, tổng thống Truman đã gia
tăng ngân sách Quốc phòng như theo kế hoạch NSC-68
đề ra trước đó. Chính phủ Mỹ cho rằng hành động quân
sự của Bắc Triều Tiên là do Liên Xô thao túng, vì thế mà
nhanh chóng can thiệp, coi đó là bước ngăn chặn sự
bành trướng của Liên Xô. Chính phủ Mỹ chắc chắn đã
khuếch trương “yếu tố Liên Xô” dẫn đến sự bùng nổ
chiến tranh Triều Tiên6. Mặt khác, chiến tranh Triều Tiên
lại chính là một lý do chính đáng cho sự có mặt của Mỹ
ở Đông Bắc Á để thực hiện nhiệm vụ chống cộng như
tổng thống Truman tuyên bố: “Sự phòng thủ của Hoa Kỳ
phải vươn tới Triều Tiên, Đài Loan và Đông Dương” 7. Tuy
nhiên, trong suốt ba năm, hai nước không khi nào trực
tiếp bước vào trận chiến mà có thái độ tích cực tìm
kiếm con đường hòa bình để giải quyết vấn đề. Đó là
một trong những yếu tố quan trọng dẫn đến đình chiến
ở Triều Tiên. Đặc điểm của hai siêu cường xử lý xung
đột Đông – Tây trong chiến tranh Lạnh một lần nữa
được thể hiện rõ trong chiến tranh Triều Tiên.
Nói tóm lại, chiến tranh Triều Tiên là đỉnh cao của
sự đối đầu Đông – Tây ở Đông Á.
2.

Tác động đến quan hệ Xô – Trung

Chiến tranh Triều Tiên là một phép thử đối với
quan hệ Trung – Xô, làm cho quan hệ Xô – Trung vốn
tiềm tàng những bất ổn, chuyển hẳn sang trạng thái

căng thẳng, mâu thuẫn, xấu đi nhanh chóng vào cuối
thập kỷ 50.
Từ lúc nội chiến tại Triều Tiên có nguy cơ nổ ra,
thực sự Trung Quốc không muốn dính líu vào vì Đảng
Cộng sản Trung Quốc mới lên nắm quyền, còn trăm việc
bề bộn. Nhưng là một thành viên nước xã hội chủ nghĩa
và là láng giềng thân thiết với Triều Tiên nên Trung
6 Trương Tiểu Minh, Chiến tranh lạnh và di sản của nó, Nxb chính trị Quốc gia, 2002, tr.118.
7 Trần Trọng Trung (1986), Một cuộc chiến tranh sáu đời Tổng thống, tập 1,
Nxb Văn Nghệ TPHồ Chí Minh., tr. 11.


Quốc ủng hộ tối đa sự nghiệp thống nhất đất nước của
nước bạn. Sự hi sinh to lớn đó của Trung Quốc còn là để
bảo vệ lợi ích phe xã hội chủ nghĩa. Cùng chiến đấu với
nhau trên mặt trận thống nhất Triều Tiên của phía Bắc
Triều, cùng trải qua bao khó khăn, thử thách, cùng ký
hiệp ước hữu nghị, tương trợ, quan hệ Xô – Trung tưởng
chừng thắm thiết hơn bao giờ hết.
Song, chiến tranh Triều Tiên cũng bộc lộ kẽ nứt
tiềm ẩn trong quan hệ đồng minh Xô – Trung.Khi chiến
đấu ở Triều Tiên, Mao Trạch Đông yêu cầu Liên Xô viện
trợ thêm hàng hóa, bảo vệ biên giới, các khu công
nghiệp và quân đội Trung Quốc từ trên không. Nhà lãnh
đạo hàng đầu Trung Quốc này cân nhắc để tham gia
cuộc chiến tranh với những điều kiện có lợi nhất, đặc
biệt là tranh thủ vũ khí hiện đại từ Liên Xô, xây dừng
nền quốc phòng vốn nhiều lỗ hổng. Nhưng tại thời điểm
Trung Quốc cần hơn bao giờ hết thì Liên Xô từ chối yểm
trợ không quân đã giáng một đòn chí tử vào liên minh

Trung – Xô. Thực chất vì mục tiêu trong chính sách đối
ngoại của Liên Xô là tránh xung đột trực tiếp với Mỹ.
Mặc dù Trung Quốc tham chiến cũng có những tính toán
riêng, nhưng sự cư xử của Liên Xô làm Trung Quốc ngờ
vực mình bị biến thành “tấm lá chắn an ninh” ở khu vực
Đông Á. Tuy cùng chống kẻ thù chung song phần lớn chi
phí chiến tranh là của Trung Quốc, Liên Xô cung cấp ít
và không kịp thời. Do quá tập trung trên mặt trận Triều
Tiên mà cơ hội sáp nhập Đài Loan vào đại lục của Trung
Quốc cũng bị nhỏ đi.
Nhìn chung, những mầm mống cho sự rạn nứt
quan hệ Xô –Trung đã được nảy mầm từ những ngày
đầu chiến tranh Triều Tiên. Song sự hợp tác Xô – Trung –
Triều đã khiến phe tư bản chủ nghĩa không thể thắng lợi
trong chiến tranh Triều Tiên. Điều đó là một sự cổ vũ lớn
cho phong trào cách mạng châu Á.
3. Tác động đến quan hệ Trung – Mỹ


Trong mối quan hệ Trung – Mỹ, chiến tranh Triều Tiên đã
mở ra thời kỳ xung đột, đối đầu giữa hai nước về rất
nhiều vấn đề, mà tiêu biểu là vấn đề Đài Loan. Sau khi
chiến tranh Triều Tiên kết thúc, trong nhận thức của
người Mỹ, Trung Quốc đã trở thành một đối thủ nguy
hiểm đối với Mỹ - thậm chí nguy hiểm hơn cả Liên Xô - ở
Châu Á8.
Từ năm 1949 thành lập Trung Quốc mới cho đến cuối
thập kỷ 1950, đặc điểm cơ bản của ngoại giao Trung
Quốc là “liên Xô, chống Mỹ”. Nên quan hệ của Trung
Quốc với phe đế quốc chủ nghĩa phương Tây do Mỹ cầm

đầu là rất căng thẳng. Từ bao lâu này, Mỹ giúp đỡ chính
quyền Tưởng Giới Thạch là Quốc dân Đảng nội chiến với
Đảng Cộng sản Trung Quốc. Chính quyền Mỹ luôn phủ
nhận điều kiện pháp lý của Trung Quốc mới, ngăn cản
Trung Quốc mới thay thế quyền đại diện của Quốc dân
Đảng tại Liên hợp quốc và các tổ chức Quốc tế khác. Vì
vậy, suy tính từ lợi ích quốc gia thì Mỹ là mỗi nguy hại
rất lớn của Trung Quốc mới.
Ngay sau khi chiến tranh Triều Tiên chính thức bùng nổ
thì Mỹ đưa quân đến can dự và hạ lệnh cho hạm đội 7
tiến vào Đài Loan, ngăn cản sự tấn công vào đây. Hành
động đó nhằm ngăn cản mục đích chống lại cuộc tấn
công của Mao Trạch Đông ra Đài Loan và ngăn cản
Tưởng Giới Thạch phát động một cuộc chiến tranh xâm
lược lớn vào Trung Quốc lục địa. Có thể nói quan điểm
của Mỹ đối với vấn đề Đài Loan đã thay đổi, đặc biệt khi
quân chí nguyện của Trung Quốc vượt sông Áp Lục viện
trợ cho quân đội Bắc Triều Tiên. Chính quyền Truman đã
luôn cố gắng tránh một cuộc xung đột lan rộng ra toàn
châu Á. Tuy nhiên, việc Hạm đội 7 của Mỹ đóng quân ở
Đài Loan đã vi phạm nghiệm trọng đến chủ quyền lãnh
thổ của Trung Quốc. Do vậy, Stalin đã khôn khéo sử
dụng vấn đề này để làm đòn chiến lược để thúc đẩy
8 Peter Calvocoressi (2007), Chính trị thế giới sau năm 1945, Nxb Lao động, Hà Nội.


Trung Quốc tham gia chiến tranh Triều Tiên dẫn đến
việc Trung Quốc trực tiếp đối đầu với Mỹ.
Nhìn chung, Trung Quốc và Mỹ đều có mối quan tâm
chung đến Bán đảo Triều Tiên. Triều Tiên có tính chất

quyết định đến an nguy khu vực biên giới phía Đông
Bắc của Trung Quốc và ảnh hưởng rất lớn đến Nhật Bản
và Philippines thuộc phạm vị ảnh hưởng của Mỹ. Chiến
tranh Triều Tiên là mở đầu cho quy mô chiến tranh Lạnh
lan từ châu Âu đến châu Á, là mốc mở đầu cho cuộc
chiến tranh lạnh mới giữa Mỹ và Trung Quốc. Chiến
tranh Triều Tiên kết thúc buộc hai nước này phải thay
đổi chính sách với nhau, đẩy hai cường quốc này vào
cuộc đối đầu trực tiếp lẫn gián tiếp. Mỹ bắt đầu coi nước
Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa là một đối tượng riệng
biệt so với Liên Xô ở Châu Á, cần tăng cường cô lập
chính trị, bao vây quân sự,... Tháng 12 năm 1954, Mỹ
và Đài Loan ký “Hiệp ước phòng ngự chung” đặt Đài
Loan vào chế độ bảo hộ của Mỹ. Mỹ đã sử dụng vị trí
quan trọng của Đài Loan làm con bài để kiềm chế Trung
Quốc, từ đó dùng Trung Quốc kiềm chế Liên Xô 9. Tình
hình chiến sự qua hai lần khủng hoảng Đài Loan năm
1954 và 1958 đã chứng minh rằng hai bên luôn căng
thẳng nhưng đều cố tránh những cuộc đối đầu trực tiếp
trên chiến trường. Ngoài ra, Mỹ và Trung Quốc còn tiếp
tục đối đầu tại Liên hợp quốc khi Mỹ cương quyết phản
đối việc Cộng hòa Nhân dân Trung hoa trở thành thành
viên thường trực Hội đồng bảo an. Nói chung, quan hệ
hai nước thời điểm chiến tranh Triều Tiên là vô cùng
xấu, sự thù địch giữa hai nước ngày càng sâu thêm.
Cuộc chiến tranh Triều Tiên đã đánh một dấu mốc rất
quan trọng trong quan hệ Mỹ - Trung trên nhiều lĩnh
vực. Nó đẩy mối quan hệ hai nước này sang trạng thái
đối đầu suốt hơn 20 năm và Đài Loan là minh chứng rõ
ràng nhất. Tuy nhiên hai quốc gia luôn hiểu rõ đâu là

9 Ninh Xuân Thao, Tác động của chiến tranh Triều Tiên (1950-1953) đến vấn đề Đài Loan trong
quan hệ Mỹ - Trung, tạp chí Nghiên cứu Đông Bắc Á, số 5(135) 5-2012.


giới hạn để tránh cuộc đụng độ hạt nhân. Đồng thời,
Chiến tranh Triều Tiên mà sau này là hai cuộc khủng
hoảng Eo biển Đài Loan không những thúc đẩy sử đối
đầu Trung – Mỹ mà còn là nguyên nhân dẫn đến rạn nứt
trong quan hệ Xô – Trung sau này. Vì vậy chiến tranh
Triều Tiên cũng đánh dấu cột mốc quan trọng trong quá
trình hình thành quan hệ tam giác Mỹ - Xô – Trung trong
quan hệ quốc tế thời hiện đại.
3.

Tác động đến tình hình Đông Dương

Chiến tranh Triều Tiên nổ ra làm Mỹ lo ngại tầm
ảnh hưởng của Xô – Trung sẽ lan xuống Đông Dương
nên giúp đỡ Pháp can thiệp vào chiến tranh Đông
Dương nhằm khống chế ba nước trên bán đảo này
không nổi lên bất cứ cuộc chiến nào như Triều Tiên. Tuy
vậy, do tính chất phức tạp của Chiến tranh Triều Tiên
nên Mỹ không thể nào quan tâm được hết tình hình ở
Đông Dương dẫn đến việc năm 1954 phải ngồi vào bàn
đàm phán hiệp định Geneve chấm dứt chế độ thực dân
Pháp tại bán đảo Đông Dương.
Có thể nói rằng sự bùng nổ chiến tranh Triều Tiên
là sự cổ vũ to lớn cho phong trào cách mạng tại châu Á
mà cụ thể là ở Đông Dương. Sức mạnh của chủ nghĩa
Cộng sản lan rộng hơn bao giờ hết. Quan hệ ngoại giao

giữa các nước xã hội chủ nghĩa rất tốt đẹp.
Chiến tranh Triều Tiên dẫu chỉ kéo dài trong 37 tháng
nhưng sự tác động của nó tới quan hệ quốc tế là không
hề nhỏ. Nó thể hiện mưu đồ, tính toán và tham vọng
của các cường quốc tại khu vực Đông Á. Chiến tranh
Triều Tiên bùng nổ đánh dấu sự xuất hiện của những
cuộc chiến tranh nóng trong quỹ đạo chiến tranh Lạnh
giữa hai cực Xô-Mỹ, hai khối Đông – Tây. Bên cạnh đó,
sự kiện này có ý nghĩa quan trọng đối với quan hệ tam
giác Trung Quốc – Xô – Mỹ và cả những nước theo phe
xã hội chủ nghĩa. Chiến tranh Triều Tiên là tiền đề, là


nguyên nhân, là móc nối quan trọng cho các sự kiện
xảy ra sau này, phản ánh sâu sắc lợi ích và ý chí của
các quốc gia liên quan.

KẾT LUẬN
Bán đảo Triều Tiên luôn là địa bàn trọng yếu gây
sự chú ý với các nước bên ngoài. Nơi đây luôn đan xen
lợi ích khác nhau của nhiều cường quốc. Cũng vì vậy mà
tình hình trên bán đảo này luôn gắn liền với sự thay đổi
trong chính sách của các nước lớn hoặc thay đổi trong
quan hệ giữa các nước lớn với nhau. Tuy chiến tranh
Lạnh đã kết thúc, trật tự thế giới có nhiều thay đổi,
song không phải vì thế mà vị trí và vai trò chiến lược
của bán đảo Triều Tiên trong bàn cờ chiến lực của các
nước lớn lại giảm sút. Ngày nay tình hình căng thẳng
trên bán đảo Triều Tiên là vấn đề nhức nhối đối với toàn
thế giới, là quá trình mặc cả giữa các nước lớn. Bởi vậy

mà việc giải quyết tận gốc vấn đề Bán đảo Triều Tiên
không chỉ được quyết định bởi sự thay đổi chính sách
của hai miền Nam – Bắc mà ảnh hưởng của các nước
lớn cũng chiếm vai trò vô cùng quan trọng.


DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1.

Bogaturov Aleksey Demofenovich, Avekov Viktor
Viktorovich, Lịch sử quan hệ quốc tế, Đặng Quang

2.

Chung dịch, H: Chính trị quốc gia,2012.
Trương Tiểu Minh, Chiến tranh lạnh và di sản của
nó,Hoàng Hương-Tú Linh dịch, Nxb chính trị Quốc

3.

gia, 2002.
Ninh Xuân Thao, Tác động của chiến tranh Triều
Tiên (1950-1953) đến vấn đề Đài Loan trong quan
hệ Mỹ - Trung, tạp chí Nghiên cứu Đông Bắc Á, số

4.

5(135) 5-2012.
Nguyễn Thị Mai Hoa, Trung Quốc và chiến tranh
Triều Tiên, tạp chí Nghiên cứu Đông Bắc Á, số 5-


5.

2013.
Trần Trọng Trung (1986), Một cuộc chiến tranh sáu
đời Tổng thống, tập 1, Nxb Văn Nghệ TP Hồ Chí

6.

Minh.
Peter Calvocoressi (2007), Chính trị thế giới sau
năm 1945, Nxb Lao động, Hà Nội.


7.

Kathryn Wesathersby, the Soviet Role in the Early
Phase of the Korean War: New documents
evedence”, Winter 1993.

8.

A.V.Torkunov, Cuộc chiến tranh bí ẩn: xung đột Triều
Tiên 1950-1953, Nxb. Rosspen, 2002.

9.

Joseph S. Nye (2007), “The Cold War” (charpter 5),
in


Joseph

S.

Nye,

Understanding

International

Conflicts.
10. Robert Jervis, The impact of Korean War on the
Cold War.

Mục lục



×