Tải bản đầy đủ (.docx) (13 trang)

Chứng nhận nuôi tôm sinh thái, một cách tiếp cận mới với Chi trả dịch vụ môi trường rừng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (813.12 KB, 13 trang )

Chứng nhận nuôi tôm sinh thái, một cách tiếp cận
mới với Chi trả dịch vụ môi trường rừng

Rừng ngập măn Cà Mau chiếm ½ tổng diện tích rừng ngập măn Việt Nam, đồng thời Cà Mau cũng là tỉnh chiếm ½
tổng diện tích nuôi trồng và ¼ tổng sản lượng tôm của cả nước. Xuất khẩu tôm của Việt Nam thu về 2 tỷ USD mỗi
năm và là một trong các sản phẩm xuất khẩu chủ lực. Tuy vậy nuôi tôm cũng là một trong các nguyên nhân chính dẫn
đến sự suy giảm diện tích rừng ngập mặn ở Việt Nam, nơi có đường bờ biển dài, nằm ở độ cao thấp với dân cư tập
trung đông, dễ bị thiệt hại nặng trước tác động của bão nhiệt đới và nước biển dâng. Vi vậy sự phát triển bền vừng
nghề nuôi tôm và bảo tồn rừng ngập mặn đều nằm trong những ưu tiên quốc gia.

Để góp phần giải quyết những vấn đề đối lập này một cách hài hòa, IUCN và
Tổ chức phát triển Hà Lan SNV đang thực hiện một dự án ở tỉnh Cà Mau nhằm giúp người dân nuôi tôm được nhận các
chứng chỉ tôm sinh thái. Đây là 1 dự án 4 năm được tài trợ bởi Bộ Môi trường, bảo tồn thiên nhiên và an toàn hạt nhân
CHLB Đức (BMU), mục tiêu giúp tạo vị thế bền vững hơn cho ngành nuôi tôm, đồng thời tăng cường sức chống chịu
của khu vực bờ biển trước biến đối khí hậu.
Dự án hoạt động trên diện tích 12.500 Ha của Ban quản lý rừng phòng hộ Nhưng Miên, là khu vực sinh sống và canh
tác của khoảng 2.600 hộ nuôi tôm. Người dân trong khu vực sử dụng mô hình canh tác kết hợp tôm và rừng ngập
mặn, với mỗi hộ dân được giao từ 3 đến 5 hecta rừng, theo quy định ban hành năm 2006 của chính phủ, rừng ngập
mặn phải chiếm ít nhất 60% diện tích. Với một mô hình nuôi tôm quảng canh, các ao tôm được liên kết với nhau qua
một hệ thống dẫn nước và cửa cống. Cứ mỗi nửa tháng, vào kì nước triều cao, cửa cống được mở ra lấy nước, đồng
thời thu hút thêm cá và ấu trùng tôm. Khi triều thấp, của cống được mở trong khoảng 4-5 đêm, tôm trưởng thành bơi
ra và được thu hoạch bằng túi lưới.
Mô hình này có một số đặc trưng:



Mật độ thả tôm giống và năng suất thấp: Năng suất khoảng 300kg/1 hecta/ năm, so với 10.000kg/ 1hecta/
năm của nuôi công nghiệp.







Sản phẩm đa dạng: tôm bạc, đất, cua, cá, ngêu, sò chiếm khoảng 30% thu nhập trong khi chỉ tốn khoảng
13% chi phí.
Chi phí bỏ ra thấp: Chỉ phí chính là con tôm giống mua tại các trại ấp địa phương, không cho ăn, không hóa
chất xử lý, không có kháng sinh.
Rủi ro mất mùa thấp: các trại nuôi tôm ở Ngọc Hiển đã không bị ảnh hưởng trong khi dịch bệnh gây thiệt hại

nặng khu vực nuôi tôm công nghiệp vào năm 2012.
Mô hình này không chỉ ít bị ảnh hưởng trước các biến động của thị trường và dịch bệnh, mà còn rất ổn định và cho thu
nhập cao. Một nghiên cứu của GIZ kết hợp với SNV tiến hành vào năm nay (2013) đã chỉ ra rằng tổng thu nhập của
mô hình tôm – rừng ngập mặn là 2.142 USD/ hecta / năm, cao gấp 2 lần hình thức nuôi tôm truyền thống, hay nuôi
tôm kết hợp trồng lúa không có rừng ngập mặn (đạt 1.000 đến 1.300 USD/ hecta/ năm)
Với phương thức nuôi tôm hoàn toàn thiên nhiên, sản phẩm tôm rừng Cà Mau có thể được chứng nhận sinh thái,
điều này giúp giải quyết vấn đề các yêu cầu ngày càng cao của quốc tế đối với phương thức nuôi tôm thân thiện với
môi trường, cùng với các lo ngại về an toàn thực phẩm, giúp sản phẩm nhận được giá cao hơn trên thị trường.

Dự án của IUCN và SNV được xây dựng trên cơ sở 1 dự án 10 năm tài trợ bởi Thụy Sỹ hỗ trợ nuôi tôm sinh thái trên
địa bàn Ngọc Hiển và Năm Căn. Các hộ nuôi tôm được thanh tra bởi IMO – Viện thị trường sinh thái, dựa trên tiêu
chuẩn Natural Land cho sản phẩm thủy sản xuất khẩu vào Coop, chuỗi siêu thị lớn thứ 2 tại Thụy Sỹ. Hiện tại, chính
quyền tỉnh Cà Mau muốn mở rộng việc chứng nhận tôm sinh thái lên toàn bộ diện tich 20.000 hecta nuôi tôm kết hợp
trồng rừng vào năm 2020. Mục tiêu là xây dựng một “vùng bờ biển sinh thái” vừa sản xuất tôm được chứng nhận với
giá trị cao, vừa bảo vệ trước tác động của nước biển dâng và thiên tai ngày càng mạnh lên. Theo đó, mô hình nuôi
tôm kết hợp trồng rừng vừa là một cách thích ứng với biến đổi khí hậu vừa cung cấp nhiều lợi ích khác, tiêu biểu là
cung cấp bãi đẻ, nơi cư trú cho các loài thủy sinh có giá trị kinh tế cao.
Tuy nhiên, dự án của Thụy Sỹ kết thúc vào năm 2012 đã vấp phải một số vấn đề. Trước tiên, 5-6% tăng thêm so với
giá thị trường là thấp và thường bị trả châm 3-4 tháng, khi tôm đã được xuất khẩu sang châu Âu. Thêm vào đó, việc
phân chia phần giá tăng thêm này giữa nhà chế biến, người thu mua và người nuôi không có sự minh bạch. Thứ hai là,
cơ sở chế biến chỉ thu mua giá cao loại tôm nhỏ (40 con/kg) mặc dù các loại tôm to hơn (20con/kg hoặc ít hơn) có giá

thị trường cao hơn rất nhiều, đơn giản vì nhà nhập khẩu (Coop) chỉ mua tôm nhỏ. Các cỡ tôm to hơn bị bán với giá
như tôm không có chứng nhận. Ngoài ra còn có trường hợp người thu mua trộn tôm có và không có chứng nhận để thu
lợi bất chính. Kết quả là người dân bắt đầu hoài nghi về lợi ích kinh tế của việc chứng nhận, và số lượng hộ dân tham
gia, khởi điểm là 143 hộ trong 2002, đạt cao điểm năm 2006 với 854 hộ và giảm xuống còn 784 trong năm 2009.
Dự án của IUCN và SNV giải quyết các vấn đề đó bằng nhiều cách khác nhau.
Trong tháng 3 năm 2013, SNV đã đàm phán với Minh Phú – công ty chế biến tôm lớn thứ 2 trên thế giới, tính về
giá trị xuất khẩu, cam kết mua toàn bộ sản phẩm tôm được chứng nhận (cả lớn lẫn nhỏ) với 10% giá cao hơn giá thị
trường (giá hiện tại mua tại hộ dân cho tôm 20con/kg là 300.000VND/kg hay 15USD/kg). Đồng thời Minh Phú sẽ trả
toàn bộ chi phí thanh tra hàng năm, chi phí cho hệ thống kiểm soát nội bộ (ICS) để duy trì chuỗi cung ứng từ hộ nuôi
tôm đến nhà máy.
Trong tháng 7 năm 2013, SNV đã tổ chức tập huấn cho 1008 hộ dân nuôi tôm, trong đó 783 hộ dân đã đồng ý đăng
ký tham gia dự án. 225 hộ còn lại không đủ điều kiện vì diện tích phủ rừng trong khu vực nuôi tôm của họ không đạt
mức tối thiểu.


Đã có 27 nhóm nông dân được thành lập, mỗi nhóm gồm 30-40 thành viên
bầu 1 nhóm trưởng. Để giảm chi phí và tăng cường sự tuân thủ các tiêu chuẩn qua hoạt động tự giám sát, việc chứng
nhận sẽ được tiến hành theo nhóm hộ dân hơn là từng hộ cá thể. Vì vậy tỉ lệ che phủ rừng sẽ được tính toán không
phải trên từng trại nuôi mà trên cơ sở nhóm hộ dân. Việc tiếp cận trên cơ sở nhóm này dựa trên ý kiến của người dân
về việc chất lượng đất, địa hình ở một số trại nuôi có điều kiện tốt hơn để tái sinh rừng.
Để đảm bảo số lượng lớn nhất có thể các hộ dân được cấp chứng nhận, ban đầu dự án sẽ hộ trợ trồng rừng ở
42 trên tổng số 225 hộ có tỷ lệ che phủ rừng gần đạt được tiêu chuẩn. Còn hàng trăm hecta rừng ngập mặn chất
lượng thấp cần được phục hồi bằng việc tái trồng và bảo vệ rừng, dự án sẽ đồng tài trợ việc tái trồng rừng này, để
1800 hộ dân còn lại trong khu vực Nhưng Miên cũng có thể đạt chứng nhận.
Theo quy định pháp luật, để được chứng nhận tôm sinh thái, ít nhất 50% diện tích ao nuôi phải được phủ rừng và ao
nuôi phải được thanh kiểm tra thường xuyên bởi một tổ chức thứ 3 để đảm bảo tuân thủ các chỉ tiêu chứng nhận. Mỗi
năm IMO sẽ thanh tra các hộ dân được chứng nhận, và ICS sẽ chịu trách nhiệm giám sát việc tuân thủ tại địa bàn.
Việc thanh tra tại địa bàn sẽ được hỗ trợ bởi các đánh giá dựa trên ảnh vệ tinh. Một phân tích ảnh vệ tinh được chụp
vào tháng Hai năm 2013 đã chỉ ra rằng tỷ lệ che phủ rừng ngập mặn tại Nhưng Miên đạt 40%, số liệu này rất gần với
các báo cáo của Ban quản lý.

Cách tiếp cận này đối với việc bảo tồn rừng ngập mặn, cung cấp trực tiếp cho người dân các hỗ trợ tài chính để
trồng và bảo vệ rừng ngập mặn, có một số khác biệt cơ bản với các chương trình Chi trả phí dịch vụ môi trường (PES)
khác ở Việt Nam. Các chương trình này nằm dẫn đến Quyết định 99 của Thủ tướng Chính Phủ, được ban hành năm
2010 và thiết lập 1 cơ chế pháp lý cho PES bao gồm “cung cấp bãi đẻ, nguồn thức ăn và con giống tự nhiên, sử dụng
nước từ rừng trong nuôi tôm”. Quyết định này đã cho phép thành lập Quỹ bảo vệ và phát triển rừng tại trung ương và
từng tỉnh, quỹ này sẽ là kênh chi trả Phí dịch vụ môi trường rừng từ người mua cho người bán, và giữ lại 10% tại địa
phương như một khoản phí.
Tại Lâm Đồng và Sơn La, nơi chương trình này được áp dụng, việc bảo vệ nguồn nước cho đến nay là quan trọng nhất.
Tại Lâm Đồng, 2 người mua chính là nhà máy thủy điện Đa Nhim và Đại Ninh, với phí phải trả là 20VND cho 1 Kwh
điện, và nhà máy nước SAWACO tại Thành phố Hồ Chí Minh, phải trả 40VND cho 1 m3 nước cung cấp đến người tiêu
dùng. Các chi phí này được trả cho Quỹ bảo vệ phát triển rừng, người chịu trách nhiệm chi trả cho chủ rừng.
Trong năm 2013, một báo cáo của CIFOR về kinh nghiệm PES tại Việt Nam đã đặt ra một số câu hỏi về sự hiệu quả
của phương thức này.
Các lo ngại gồm:



Việc thiếu sẵn sàng chi trả của người mua: hầu như người mua tại đây đều là các công ty nhà nước, được chỉ
đạo phải chi trả PES, sau đó tính chi phí này lên khách hàng. Tuy vậy, các công trình thủy điện tư nhân đã đàm
phán giá bán điện cho EVN – đơn vị độc quyền cung cấp điện, lại không chuyển chi phí này lên khách hàng được,




do đó họ từ chối chi trả.
Khả năng thiếu tuân thủ vì không có bên giám sát độc lập: việc kiểm tra độ che phủ rừng đều do các đơn vị
tự báo cáo, gây nên các hoài nghi về xung đột lợi ích. Mặc dù hiện tại đã có các ảnh vệ tinh chất lượng tốt của khu
vực này, nhưng hiện chưa có báo cáo nào về hiện trang thay đổi độ che phủ rừng trong khu vực.
Sự hoài nghi về tính bền vững của việc bảo tồn: PES sẽ chi trả cho việc người dân không đốn hạ cây, nhưng
khi trên thị trường nảy sinh cơ hội (vd trồng sắn, trồng cà phê), chi phí cơ hội của việc bảo tồn rừng tăng cao, sẽ


có lúc phí chi trả cho việc bảo tồn rừng tăng đến mức người mua không trả nổi.
Dự án của IUCN và SNV tại Ngọc Hiển giải quyết các vấn đề này bằng cách:



Đối với sự sẵn sàng chi trả: người mua cuối cùng là các khách hàng quốc tế, Minh Phú chỉ là đơn vị trung
gian. Minh Phú đã xác định tôm sinh thái được chứng nhận là sản phẩm chiến lược trên các thị trường chính của
họ tại Châu Âu, Nhật Bản, Hàn Quốc và Mỹ. Do vậy sự sẵn lòng trong chi trả được đánh giá cao.




Đối với sự tuân thủ việc chi trả, có nhiều lớp giám sát: IMO sẽ thanh tra ngẫu nhiên hàng năm để đảm bảo
độ che phủ rừng tối thiểu 50% tại ao tôm; ICS sẽ đảm bảo không có tôm thường lẫn với tôm được chứng nhận
trong chuỗi cung cấp; và thanh tra trên thực tế sẽ được hỗ trợ bởi các báo cáo thống kê sử dụng ảnh vệ tinh vào



đầu và cuối dự án. Do vậy việc tuân thủ được đánh giá cao.
Đối với tính bền vững: Việc chứng nhận tôm sinh thái đòi hỏi chi phí ban đầu lớn cho lập hồ sơ và cơ sở hạ
tầng (vd trồng mới rừng và xây dựng toilet hợp vệ sinh). Khi các điều kiện này hoàn tất, chi phí duy trì sẽ rất nhỏ.
Giả sử rằng người dân có thể bán toàn bộ tôm của mình (với giá cao hơn hoặc không), đây vẫn là các khuyến
khích để người dân duy trì chứng nhận. Tính bền vững do vậy được đánh giá là trung bình, vì sự không ổn định

vốn có của nhu cầu thị trường quốc tế.
Vì vậy, việc chứng nhận tôm sinh thái có thể sử dụng để kết nối trực tiếp việc nuôi tôm và bảo vệ rừng ngập mặn. Việc
cấp giấy chứng nhận tập trung vào việc định hướng mối quan hệ giữa việc mất rừng và thiệt hại trong sản xuất tôm,
hơn là bảo tồn rừng một cách thuần túy. Bằng việc nâng cao giá trị thu được từ mô hình nuôi tôm kết hợp trồng rừng,
với cơ chế dựa vào thị trường kết hợp với việc giám sát chặt chẽ của bên thứ 3, mục tiêu của dự án là làm giảm áp lực

đối với rừng ngập mặn một cách lâu dài.
Cho dù các lợi ích lâu dài về kinh tế và môi trường của việc nuôi tôm sinh thái có được nhìn nhận hay
không, đã nảy sinh một số trở ngại. Ví dụ như để trở được chứng nhận, người dân phải lắp đặt và sử dung toilet hợp
vệ sinh (giá khoảng 4.000.000VND), dự án sẽ đóng góp một phần vào việc lắp đặt này. Tuy nhiên, với sự hộ trợ mạnh
mẽ từ chính quyền và doanh nghiệp, có cơ sở để tin dự án sẽ đem lại các lợi ích về kinh tế cũng như môi trường, và vì
dự án đã thay đổi một số mô hình kinh doanh cở bản, các kết quả này sẽ được duy trì sau khi dự án kết thúc.
Qua các thảo luận của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, các quan chức đều nhận thức được lợi ích tiềm tàng
đối với bảo tồn rừng của việc cấp giấy chứng nhận, họ vẫn e ngại trong việc coi đó là một biện pháp Chi trả dịch vụ
môi trường rừng thực sự vì nguồn tài chính không được thông qua Quỹ bảo vệ và phát triển rừng (trong khi đó Quyết
định 99 không bắt buộc nguồn phí này phải thông qua Quỹ, đây chỉ là một lựa chọn được khuyến khích). Tuy vậy ở
Ngọc Hiển, thêm vào việc trả giá cao hơn cho người dân, Minh Phú còn đồng ý trả thêm cho Ban quản lý rừng 1.500
VND với mỗi kg tôm họ thu được. Chi phí này sẽ đóng góp trực tiếp cho công tác quản lý. Thách thức lớn hơn là
phương thức này sẽ chuyển vai trò của chính quyền từ vận hành PES sang tạo điều kiện cho PES hoạt động với sự
cộng tác của doanh nghiệp và đảm bảo quyền lợi của nông dân sản xuất nhỏ. Việc này thể hiện một sự thay đổi đáng
kể và có khả năng khó đạt được, ít nhất là trong ngắn hạn.
Trong tương lai, việc chứng nhận có thể trở thành điều kiện bắt buộc để thâm nhập các thị trường quốc tế,
giống như việc EU ban hành quy định vào năm 2012 bắt buộc tất cả các sản phẩm gỗ bán trong EU phải được làm từ
gỗ hợp pháp (đạo luật Lacy sửa đổi quy định việc tương tự với sản phẩm gỗ bán tại Mỹ). Tuy nhiên vẫn còn có các tín
hiệu lạc quan. Mô hình kinh tế của việc nuôi tôm trong rừng ngập mặn khá mạnh. Nói rộng hơn, Việt Nam đang trải
qua một cuộc cách mạng về kinh tế thứ 2 sau cải cách Đổi mới vào những năm 1980. Các mô hình mới nhấn mạnh
hiệu quả kinh tế, bảo tồn tài nguyên thiên nhiên, các hàng hóa có giá trị thặng dư cao. Trong khi nhà nước đang
hướng tới một nền kinh tế xanh, họ cần có các công cụ, như chứng nhận quốc tế, để thực hiện nó.
Tham khảo:






Nghị định 99/2010/ND-CP về Chính sách chi trả dịch vụ môi trường rừng, 2010.

Thực trạng của việc nuôi tôm thân thiện với môi trường trên quy mô nhỏ tại Cà Mau, GIZ, tháng 6/2013.
Phạm TT, Bennet K, Vu TP, Brunner J, Le ND and Nguyen DT (2013): Chi trả dịch vụ môi trường rừng tại Việt
Nam, từ chính sách đến thực tiễn. Báo Occasional trang 93. Bogor, Indonesia: CIFOR.
Tran Thi Phung Ha, Han van Dijk, and Leontine Visser (2013).Tác động của sự thay đổi trong quản lý rừng
ngập mặn đến sinh kế: Nghiên cứu về hệ thống nuôi tôm trong rừng ngập mặn tại Cà Mau, Đồng bằng sông
Mekong, Việt Nam. Land Use Policy 36 (2014) 89-101.


Thử nghiệm mô hình trồng cây ngập mặn ở khu vực các ao nuôi thủy sản thích ứng với
Biến đổi khí hậu
Qua khảo sát 54 hộ dân tại các xã Hương Phong và Hải Dương (Hương Trà) của Trung tâm
CORENARM trong năm 2011 cho thấy, có 89% số ý kiến cho rằng trồng rừng/ cây ngập
mặn giúp bảo vệ đê điều, đê bao, 91% số ý kiến cho rằng trồng rừng ngập mặn đem lại lợi
ích về môi trường và kinh tế cho cộng đồng và...
Rừng ngập mặn (RNM) được coi là hệ sinh thái có năng suất sinh học rất cao, đặc biệt là
nguồn lợi thủy sản góp phần cải thiện sinh kế cho người dân và phát triển địa phương. Vai tro
của RNM đối với thủy hải sản đã được chứng minh qua nhiều nghiên cứu từ những năm 1969
bởi Odum. Rừng ngập mặn vừa là nơi cung cấp thức ăn cho các loài thủy hải sản, vừa là nơi
nuôi dưỡng ấu trùng, ấu thể của các loài.
Trước đây, nhiều người nuôi trồng thủy sản (NTTS) cho rằng cây ngập mặn gây hại cho các
đầm nuôi tôm, cá vì lá cây làm thối nước, rễ cây tạo ra các khí không tốt cho ao nuôi (trong
khi nguyên nhân thực là do ít cống thoát, không thay được nước triều đều đặn) nên họ đã chặt
phá cây ngập mặn không thương tiếc. Hậu quả là nhiều bờ đê ven các ao nuôi bị vỡ khi có
sóng biển và gió bão, ảnh hưởng đến năng suất thủy hải sản; tốn kém chi phí tu sửa đê bờ.
Sau khi một diện tích lớn RNM bị phá, ảnh hưởng lớn đến sinh thái, năng suất và dịch bệnh
ao tôm cũng như những thiệt hại sau các cơn bão và lũ lụt, một điều mà không ai phủ nhận
được là RNM đã bảo vệ rất có hiệu quả các đầm nuôi thủy sản (tôm, cua, cá, v.v).

Rừng ngập mặn Rú Chá , Hương Phong - Ảnh:CORENARM
Sức khoẻ của các loài thủy sản nuôi ở những đầm quảng canh gần RNM hoặc trồng cây ngập

mặn ở xung quanh bờ tốt hơn các đầm trống trải vì cây ngập mặn che bóng cho một phần
đầm nên khi trời nắng nóng nhiệt độ nước không quá cao, lượng nước bốc hơi cũng ít hơn
đầm không có cây. Nhờ đó mà độ mặn không tăng nhiều gây sốc cho thủy sản. [1]
Một số nơi, nguồn tôm giống bố mẹ con được nuôi từ RNM, các bãi giống được tạo trong
ngay các kênh rạch có RNM. Ngoài ra, RNM con có tác dụng để xử lý các chất phế thải từ
các đầm tôm, cá. Các chất phế thải do thức ăn thừa, phân, vỏ tôm, cua, cá từ các đầm đối với
môi trường trong và ngoài đầm tạo điều kiện cho các loài vi sinh vật gây bệnh thủy sản phát


triển mạnh. Kết quả nghiên cứu của Ban Nuôi trồng Thuỷ sản (AQD) thuộc Trung tâm Phát
triển Nghề cá Đông Nam Á (SEAFDEC) (2004) cho thấy khả năng xử lý các phế thải từ các
đầm tôm của RNM là rất lớn. 90% nitrogen được vi khuẩn chế biến trong RNM, trong lúc đó
các rễ cây vận chuyển đến 90% lượng ôxy do vi sinh vật khoáng hoá.
Các hoạt động NTTS truyền thống như độc canh, quảng canh sau một thời gian dài thể hiện
những hạn chế lớn như: năng suất không cao, dịch bệnh tràn lan, chất lượng ao nuôi suy giảm
qua mỗi vụ nuôi, đê bờ sạt lở sau bão, và các vấn đề khác. Đây là khó khăn của hầu hết các
vùng NTTS trên cả nước. Trước tình hình đó, các địa phương đã tìm nhiều giải pháp khắc
phục như nuôi thâm canh, nuôi quảng canh cải tiến, cải thiện ao hồ theo chu kỳ nuôi. Bên
cạnh đó, giải pháp sinh thái được chú ý hướng đến trong tương lai là nuôi trồng thủy sản theo
mô hình sinh thái, kết hợp trong các RNM sẵn có hoặc trồng thêm các loài cây ngập mặn
trong mô hình nuôi sinh thái.
Hiệu quả của hình thức này đã được chứng minh qua nhiều mô hình nuôi sinh thái, đặc biệt là
mô hình ở rừng Đước Năm Căn – của Lâm trường 184 (Cà Mau) - đây là khu rừng Đước
nuôi tôm sinh thái đạt tiêu chuẩn châu Âu duy nhất trên cả nước. Hướng phát triển này vừa
đáp ứng được sự cân bằng về kinh tế và môi trường, vừa tạo ra các sản phẩm sạch theo thị
hiếu của thị trường, đặc biệt là thị trường Châu Âu.
Với vai tro to lớn đó của RNM, Thủ tướng chính phủ cũng đã phê duyệt Đề án phục hồi và
phát triển RNM giai đoạn 2008 – 2015 (số 405/TTg – KTN ngày 16/3/2009) với nguồn kinh
phí khá lớn, gần 2.500 tỷ đồng. Tuy nhiên, từ văn bản đến việc thực hiện có hiệu quả trong
thực tiễn là cả một quá trình, cần có sự phối hợp chặt chẽ của các ngành, các cấp từ trung

ương đến địa phương, cần có sự tham gia tích cực của ngành thủy văn, rất tiếc là trong đề án
không hề đề cập đến vai tro của ngành thủy sản và sự đồng thuận cũng như tham gia tích cực
của cộng đồng cư dân ven biển.
Hương Phong và Hải Dương là hai xã nằm dọc phá Tam Giang – tỉnh Thừa Thiên Huế. Nghề
NTTS đã được phát triển khá lâu. Cụ thể xã Hương Phong có diện tích NTTS gần 210ha [2]
và NTTS đóng vai tro quan trọng trong ngành ngư nghiệp cũng như phát triển kinh tế cho địa
phương. Cũng như các địa phương khác, hoạt động NTTS ở Hương Phong đã làm mất đi một
diện tích RNM đáng kể của vùng – khu vực có diện tích RNM hiếm hoi trong hệ đầm phá
Tam Giang với tầm quan trọng về sinh thái cũng như đa dạng sinh học.
Nhờ vào sự hỗ trợ của các chương trình, dự án, các đơn vị nghiên cứu, tổ chức phi chính phủ
(NGOs) về vốn cũng như khoa học kỹ thuật (KHKT), nghề NTTS ở Hương Phong và Hải
Dương nói riêng cũng như các vùng thuộc hệ phá Tam Giang – Cầu Hai nhìn chung đang
phát triển thông qua các mô hình nuôi xen canh và quảng canh cải tiến nhằm hạn chế các rủi
ro trong quá trình nuôi trồng góp phần giúp cho nghề này phát triển ở địa phương. Tuy nhiên,
bên cạnh đó dịch bệnh và sạt lở bờ đê ao nuôi sau mùa mưa lũ vẫn con ảnh hưởng lớn đến
nghề NTTS của địa phương.
Trước đây, vì muốn mở rộng diện tích NTTS và nghĩ rằng RNM ảnh hưởng xấu đến NTTS,
nên một diện tích không nhỏ của rừng Rú Chá đã bị tàn phá. Nhưng hiện nay, nhận thức của
người dân về vai tro của RNM đã thay đổi. Họ đã hiểu được tầm quan trọng của RNM đối
với môi trường sinh thái, đa dạng sinh học và mối quan hệ giữa RNM với NTTS nên hầu hết
các chủ ao nuôi thủy sản đều có ý muốn trồng các loài cây ngập mặn rễ chống ven các ao


nuôi để bảo vệ đê bờ và giúp thông thoáng ao nuôi, giảm rủi ro dịch bệnh.
Qua các nghiên cứu và mô hình của Dự án IMOLA trên địa bàn tỉnh Thừa Thiên Huế [3] cho
thấy, việc nuôi thủy sản thâm canh, đặc biệt là nuôi tôm, gặp rất nhiều rủi ro do dịch bệnh,
ảnh hưởng của thời tiết đến sự phát triển của vật nuôi trong khi các mô hình nuôi xen ghép,
quảng canh rất hiệu quả, giảm rủi ro và có lợi nhuận. CORENARM, thông qua dự án
CBA/GEF Hương Phong (Mã số: CBA/VN/SPA/09/004) đã tiến hành thử nghiệm nuôi xen
ghép các loài tôm sú, cá dìa, cá đối mục, cua với diện tích 2 ha cho các hộ nuôi ở thôn Thuận

Hoa, xã Hương Phong [4]. Kết quả thử nghiệm nuôi năm 2010 cho thấy, các hộ đều có lãi
trung bình 50 triệu đồng/ ha ao nuôi. Trong khi đó, trong năm 2010 các hộ nuôi thâm canh
tôm ở các ao liền kề thì do ảnh hưởng của nắng nóng và biến đổi thời tiết, số lượng tôm trong
các ao nuôi chết hơn 50%, thậm chí có ao tôm chết đến 80%, dẫn đến thua lỗ. Năm 2011,
thông qua Dự án CBA/GEF hương Phong, CORENARM tiếp tục thử nghiệm và nhân rộng
thêm 3 hộ nuôi nữa với tổng diện tích ao nuôi là 2 ha. Kết quả thu được năm 2011 rất khả
quan, tổng thu nhập của các hộ nuôi của mô hình đạt 230 triệu đồng, lợi nhuận rong sau khi
trừ chi phí đạt 35 triệu đồng/ ha ao nuôi [5].

Cua trong
ao nuôi phát
Cán bộ theo dõi
triển tốt và kiểm tra sự
Ảnh:
sinh trưởng của
CORENAR
các loài thủy
M
sản trong ao
nuôi - Ảnh:
CORENARM
Trong quá trình nuôi, các thông số về nhiệt độ, độ mặn và PH của ao nuôi cũng được theo


dõi. Bước đầu sau 2 năm nghiên cứu cũng như thông qua các thí nghiệm của Dự án IMOLA
[3] cho thấy, nhiệt độ nước ở ao nuôi và nhiệt độ không khí có ảnh hưởng rất lớn đến sự phát
triển của vật nuôi. Qua kinh nghiệm của những người NTTS và kinh nghiệm thu nhận được
sau chuyến tham quan học tập các mô hình nuôi thủy sản kết hợp trồng cây ngập mặn ở Hậu
Lộc – Thanh Hóa do CORENARM tổ chức năm 2010, các hộ nuôi thí điểm cho rằng, giải
phải tốt nhất để giảm ảnh hưởng của nhiệt độ là trồng một số loài cây ngập mặn có lợi xung

quanh khu vực ao nuôi. Đồng thời việc này cũng giúp giảm sạt lở các đê bao các ao tôm.
Qua khảo sát 54 hộ dân tại các xã Hương Phong và Hải Dương (Hương Trà) của Trung tâm
Nghiên cứu và Tư vấn quản lý Tài nguyên (CORENARM) trong năm 2011 cho thấy, có 89%
số ý kiến cho rằng trồng rừng/ cây ngập mặn giúp bảo vệ đê điều, đê bao (hồ nuôi, đê ngăn
mặn), 91% số ý kiến cho rằng trồng rừng ngập mặn đem lại lợi ích về môi trường và kinh tế
cho cộng đồng và 70% số ý kiến cho rằng rừng và cây ngập mặn giúp giảm những tổn thất về
vật chất do thảm họa gây ra (công trình công cộng, nhà cửa, mùa màng, ao hồ nuôi thủy sản).
Tuy nhiên, một số ý kiến của người nuôi trồng thủy sản được phỏng vấn cho rằng trồng
cây/rừng ngập mặn làm giảm năng suất các loài nuôi ở hồ nuôi thủy sản chiếm gần 30%, gây
chết một số loài thủy hải sản ở khu vực trồng chiếm 16% (và không biết chiếm 9%.) [6]. Đặc
biệt, vẫn con 60% số người được phỏng vấn sẵn sàng chuyển đổi diện tích diện tích rừng
ngập mặn sang hình thức có hiệu quả kinh tế cao hơn như ao hồ nuôi thủy sản và canh tác
nông nghiệp. Điều này cũng dễ hiểu ở khu vực các xã nghiên cứu người dân được phỏng vấn
chủ yếu làm nghề ngư nghiệp, thiếu đất sản xuất thủy sản và nông nghiệp, và quan trọng hơn
họ ít được tiếp cận các thông tin tuyên truyền và giáo dục về rừng ngập mặn cũng như ảnh
hưởng của biến đổi khí hậu đến sinh kế của người dân, đặc biệt là những người sống ven biển
và đầm phá. Kết quả khảo sát cũng cho biết, người dân biết thông tin về Biến đổi khí hậu
thông qua Tivi (chiếm 89%), báo chí và radio (chiếm 68%) và UBND xã và lãnh đạo thôn
(chiếm 57%). Riêng với xã Hương Phong, có 88% số người phỏng vấn biết thông qua
CORENARM. Đây cũng là kết quả của các buổi tuyên truyền và đối thoại về Biến đổi khí
hậu và ảnh hưởng của nó đến môi trường, kinh tế và xã hội ở khu vực đầm phá do
CORENARM thực hiện.
Mặt khác, để giúp người nuôi trồng thủy sản ở xã Hương Phong có thêm nhận thức về vai tro
tích cực của cây và rừng ngập mặn, CORENARM cũng đã tổ chức tập huấn về gieo ươm cây
ngập mặn cho gần 25 hộ dân ở thôn Thuận Hoa, xã Hương Phong. Sau tập huấn các hộ dân
đã thực hành và xây dựng được một vườn ươm cho các loài như Sú, Vẹt, Trang và Đước với
số lượng gần 5000 cây. Đây là thử nghiệm bước đầu và chuẩn bị cây giống cho mùa trồng
rừng ngập mặn vào năm 2011.



Các giống cây ngập mặn phát triển tốt tại
vườm ươm Ảnh:CORENARM

Chuyên gia đánh giá giữa kỳ dự án
CBA Hương Phong của UNDP
viếng thăm vườn ươm (Tháng
7/2011) - Ảnh:CORENARM

Đồng thời với hoạt động này, CORENARM đã tiến hành thử nghiệm trồng các cây ngập mặn
ở khu vực ao nuôi thủy sản nhằm giúp người dân tự đánh giá sự ảnh hưởng của cây ngập mặn
đến sự phát triển của các loài thủy hải sản và môi trường sinh thái ở khu vực nuôi cũng như
giúp nâng cao nhận thức của người NTTS đối với cây và rừng ngập mặnVới nhu cầu đó và
định hướng phát triển của địa phương trong giai đoạn này, trong quý III/ 2011 vừa qua
CORENARM đã phối hợp với các chủ ao nuôi ở Hương Phong tiến hành trồng thử nghiệm
trực tiếp gần 2000 trụ mầm Đước có nguồn gốc từ Bình Định ven các hồ nuôi thủy sản (trong
và ngoài ao) ở khu vực Cồn Tè.

Thử nghiệm trồng Đước tại khu vực ao nuôi - Ảnh: CORENARM
Đầu quý I/2012, CORENARM sẽ tiếp tục trồng các loài khác (Sú, Vẹt và Trang) ở khu vực
này. Hoạt động này nhằm thử nghiệm sự thích nghi của giống Đước di nhập từ Bình Định,


giống Trang từ Thanh Hóa và để có cơ sở đối chứng với các giống được trồng ở khu vực
không có ao nuôi.. Kết quả sau 2 tháng trồng thử nghiệm, có hơn 90% số trụ Đước nẩy mầm
và phát triển từ 3 lá trở lên. Với mục tiêu xây dựng các mô hình ao nuôi sinh thái (nuôi thủy
sản kết hợp trồng cây ngập mặn), CORENARM mong muốn xây dựng một số mô hình điểm
về các ao nuôi sinh thái trong bối cảnh biến đổi khí hậu và tạo điều kiện nhân rộng cho địa
phương và các vùng lân cận liên quan.
Tài
liệu

tham
khảo:
[1] GS, TSKH Phan Nguyên Hồng, Th.S Vũ Thục Hiền. Quản lý hệ sinh thái rừng ngập mặn
để
bảo
vệ

phát
triển
nguồn
lợi
thủy
sản.
[2]

Hương
Phong,
Kết
quả
thống

đất
năm
2010.
[3] Dự án IMOLA, 2010. Các báo cáo mô hình thí điểm nuôi xen ghép ở khu vực đầm phá
Tam Giang- Cầu Hai. Tài liệu kỹ thuật dự án. Truy cập tại < >
[4] CORENARM, bản tin Kết quả bước đầu của
các

hình

nuôi
xen
ghép
tôm
sú,
cua


đối.
[5] CORENARM, 2011. Báo cáo đánh giá mô hình nuôi xen ghép năm 2011, Dự án
CBA/GEF
Hương
Phong,
tài
liệu
kỹ
thuật
dự
án.
[6] CORENARM, 2011. Đánh giá nhận thức của người dân về vai tro của rừng và cây ngập
mặn.
Tin và ảnh: Trung tâm CORENARM: Bùi Phước Chương, Nguyễn Thị Bích Ngọc


Vườn quốc gia (VQG) ngập mặn Mũi Cà Mau với thảm thực vật cây đước chiếm ưu thế và hàng trăm loài
động vật, thủy hải sản sinh sống; nhiều loài đã có tên trong sách Đỏ Việt Nam và thế giới, đang bị con
người và thiên nhiên tàn phá. Để giữ rừng, tỉnh Cà Mau đang triển khai dự án “Đồng quản lý” tại rừng
phòng hộ (RPH) Nhưng Miên với sự hỗ trợ của Tổ chức Bảo tồn thiên nhiên quốc tế (IUCN) và bước đầu
đã ngăn chặn và làm giảm được nạn phá rừng.


Ô
ng Quốc Văn hạnh phúc với mô hình nuôi tôm dưới tán cây rừng của gia đình.
Chảy máu khu Ramsar
VQG ngập mặn Mũi Cà Mau được công nhận là khu dự trữ sinh quyển thế giới Mũi Cà Mau với tổng diện tích tự nhiên
khoảng 41,8.000 ha, khu bảo tồn (vùng lõi) trên 15.000 ha, riêng thảm cây rừng trên 8.000ha.
Mới đây vườn được công nhận là một trong những điểm quan trọng thuộc chương trình quốc gia về bảo tồn đa dạng những
loài sinh học, động thực vật. Ở đây có nhiều loài động thực vật được công nhận trong danh mục sách Đỏ của Việt Nam và
IUCN.
Trong năm 2013, VQG Mũi Cà Mau đã chính thức được quốc tế công nhận là khu Ramsar của thế giới và là khu Ramsar thứ
5 của Việt Nam (khu Ramsar là khu vực đất ngập nước có tầm quan trọng quốc tế - Công ước Ramsar 2.2.1971).
Theo Tổ chức sáng kiến rừng ngập mặn cho tương lai (MFF), rừng nước mặn ven biển rất đa dạng hệ sinh thái, nhiều loại
thủy hải sản có giá trị cao như: Tôm, cua... Rừng hấp thụ cacbon, hình thành tính chất đất, quá trình quang hợp và chu trình
biến đổi vật chất, dinh dưỡng, chu trình nitơ, phốtpho... giảm tác động của biến động nhiệt độ và điều hoa nước mưa, giảm
tốc độ tuần hoàn của nước, tăng thêm các hoạt động ngưng tụ trong khí quyển vượt trội so với rừng khác rất nhiều lần.


Ông Bá Truyền chăm sóc những cây đước mới trồng.

Theo ông Tô Quốc Nam - Phó Giám đốc Sở NNPTNT tỉnh Cà Mau - từ năm 2009 – 2013 đã có gần 20ha rừng nước mặn
của tỉnh bị mất đi. Con theo ông Đặng Minh Lâm - Trưởng phong Lâm sinh - thủy sản VQG Mũi Cà Mau - hiện trong vùng
lõi của rừng vẫn con khoảng 2.000 hộ dân đang sinh sống và tình trạng chặt phá rừng vẫn thường xuyên xảy ra, khiến cho
công tác giữ rừng thêm khó khăn.
Theo thống kê thì mỗi năm mất khoảng 0,2% cây rừng trên tổng số 8.000ha thảm rừng trong khu bảo tồn rừng ngập mặn.
Nuôi tôm cua dưới tán rừng
Ông Lê Văn Sử - Giám đốc Sở NNPTNT tỉnh Cà Mau - cho biết, để bảo vệ rừng ngập mặn, tỉnh Cà Mau đang áp dụng nuôi
tôm sinh thái dưới tán rừng ngập mặn, khoán rừng cho các hộ gia đình trồng mới thêm rừng và kết hợp kinh doanh.
Mới đây, hơn 780 hộ dân trong tổng số gần 2.000 hộ gia đình đang sinh sống trong rừng ngập mặn Nhưng Miên đã được dự
án nuôi tôm sinh thái có chứng nhận quốc tế, thực hiện bởi Tổ chức phát triển Hà Lan (SNV) và IUCN (viết tắt M&M) tư
vấn, hướng dẫn kỹ thuật nuôi tôm sú sinh thái kết hợp việc bảo vệ và trồng mới cây rừng.
Ông Lương Bá Truyền - ấp Kinh Ráng (xã Viễn An Đông, huyện Ngọc Hiển) - cho biết gia đình ông có hơn 2ha đất rừng,

vừa được dự án M&M hỗ trợ gần 20 triệu đồng để cải tạo, đầu tư thêm để xây mới ao nuôi tôm. Chỉ với 2ha đất rừng nhưng
do được tập huấn kỹ về kỹ thuật nuôi tôm nên vụ thu hoạch cuối tháng 5 vừa rồi, trừ hết các chi phí, gia đình ông Truyền
vẫn thu về được hơn 270 triệu đồng tiền lãi.
Khác với những hộ dân sống trong khu vực rừng được làm kinh tế, diện tích 9,5ha rừng của hộ ông Nguyễn Văn Nhuần ở ấp
Cồn Mũi (xã Đất Mũi, huyện Ngọc Hiển) nằm trong khu vực rừng bảo tồn nên không được khai thác cây rừng mà chỉ được
khai thác mặt nước.
Đông con, cuộc sống gia đình ông Nhuần trước kia luôn thuộc diện khó khăn. Từ khi có mô hình nuôi tôm sinh thái được tự
nuôi thả tôm, cua trên 40% diện tích mặt nước của hơn 9ha đất rừng đã cho thu nhập ổn định, hộ gia đình ông Nhuần đã


thoát nghèo.

Khách du lịch hạnh phúc khi tự câu được một chú cua gạch tại khu du lịch của hộ ông Nhuần.

Đầu năm 2013 gia đình ông Nhuần và 4 hộ gia đình khác trong khu vực này đã được Tổ chức Sidas (Thụy Điển) đầu tư kỹ
thuật và hướng dẫn làm du lịch kết hợp với nuôi tôm, cua sinh thái trên chính diện tích đất rừng được giao.
Ông Nhuần cho biết: “Tháng đầu tiên khi khu du lịch hộ nhà ông chỉ có chưa đến 10 du khách/tháng, sau đó tăng đều ở
những tháng kế tiếp. Đặc biệt, trong tháng 11.2013 đã có hơn 300 lượt du khách tới thăm và nghỉ lại khu du lịch”. Với tiền
lãi tính nhanh 50.000 đồng/ du khách, mỗi tháng gia đình ông Nhuần cũng có thu nhập trên 15 triệu đồng từ tiền làm du lịch.
Ông Tạ Minh Mẫn - Phó Giám đốc Ban quản lý RPH Nhưng Miên cho biết, trước kia các hộ dân chủ yếu sinh sống bằng
việc chặt cây phá rừng đốt lấy than rồi bán. Nay, nhiều gia đình đã mua được tivi, xuồng máy lớn và cất nhà to hoàn toàn từ
tiền bán tôm, cua và sản vật từ nguồn cung cấp của rừng ngập mặn. Bước đầu con tôm, con cua nuôi thả sinh thái thông qua
sự tư vấn, đầu tư khởi xướng của M&M đã làm thay đổi cách suy nghĩ, hành động của người dân về bảo vệ môi trường và
bảo vệ rừng.



×