Tải bản đầy đủ (.pdf) (214 trang)

Mối quan hệ giữa an ninh kinh tế với đầu tư trực tiếp nước ngoài ở vùng kinh tế trọng điểm phía nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.91 MB, 214 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA TP.HCM
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ - LUẬT



PHẠM VĂN HÙNG

MỐI QUAN HỆ GIỮA AN NINH KINH TẾ
VỚI ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP NƯỚC NGỒI Ở VÙNG KINH TẾ
TRỌNG ĐIỂM PHÍA NAM

LUẬN ÁN TIẾN SỸ KINH TẾ

Tp. Hồ Chí Minh, năm 2016


ĐẠI HỌC QUỐC GIA TP.HCM
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ - LUẬT



PHẠM VĂN HÙNG

MỐI QUAN HỆ GIỮA AN NINH KINH TẾ
VỚI ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP NƯỚC NGOÀI Ở VÙNG KINH TẾ
TRỌNG ĐIỂM PHÍA NAM
Chuyên ngành: Kinh tế chính trị
Mã số chuyên ngành: 62.31.01.02

Phản biện 1: PGS. TS Nguyễn Văn Luân
Phản biện 2: PGS. TS Nguyễn Duy Dũng


Phản biện 3: PGS. TS Nguyễn Minh Tuấn
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC
1. PGS. TS Trương Thị Hiền
2. TS Nguyễn Văn Bảng

Phản biện độc lập 1: TS Đặng Danh Lợi
Phản biện độc lập 2: PGS. TS Nguyễn Duy Dũng

Thành phố Hồ Chí Minh, năm 2016


i

LỜI CAM ĐOAN

Tôi tên: Phạm Văn Hùng
Nghiên cứu sinh khóa: 10
Chuyên ngành: Kinh tế chính trị
Trường Đại học Kinh tế-Luật, Đại học Quốc gia TP. Hồ Chí Minh.
Xin cam đoan luận án là công trình nghiên cứu của tôi, các số liệu trong
luận án là trung thực. Tôi xin hoàn toàn chịu trách nhiệm về tính độc lập và
trung thực của luận án.
NGƯỜI CAM ĐOAN

Phạm Văn Hùng


ii

MỤC LỤC


Trang
Lời cam đoan…………………………………………………………………...

i

Mục lục…………………………………………………………………………

ii

Danh mục các chữ viết tắt……………………………………………………...

iv

Danh mục các bảng, biểu, hình vẽ……………………………………………..

v

MỞ ĐẦU……………………………………………………………………….

1

Chương 1: Cơ sở lý luận về mối quan hệ giữa an ninh kinh tế với đầu tư
trực tiếp nước ngoài …………………………………………………………..

15

1.1. Quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin và Đảng Cộng sản Việt Nam về
mối quan hệ giữa an ninh kinh tế với đầu tư trực tiếp nước ngoài……………..


15

1.2. Cơ sở lý luận có liên quan đến mối quan hệ giữa an ninh kinh tế với
đầu tư trực tiếp nước ngoài……………………………………………………..

21

1.2.1. Đầu tư trực tiếp nước ngoài và các nhân tố ảnh hưởng đến đầu tư
trực tiếp nước ngoài…………………………………………………………..............

21

1.2.2. An ninh kinh tế và các nhân tố ảnh hưởng đến an ninh kinh tế…….

33

1.2.3. Vùng kinh tế trọng điểm…………………………………………………..

41

1.3. Mối quan hệ giữa an ninh kinh tế với đầu tư trực tiếp nước ngoài và
những vấn đề nảy sinh về an ninh kinh tế từ hoạt động đầu tư trực tiếp nước
ngoài ở Việt Nam……………………………………………………………….

48

1.3.1. Mối quan hệ giữa an ninh kinh tế với đầu tư trực tiếp nước ngoài
tại Việt Nam …………………………………………………………………………….

48


1.3.2. Những vấn đề nảy sinh về an ninh kinh tế từ hoạt động đầu tư trực
tiếp nước ngoài tại Việt Nam………………………………………………………….

52

1.3.3. Mối quan hệ giữa an ninh kinh tế với đầu tư trực tiếp nước ngoài ở
một số quốc gia trên thế giới và bài học đối với Việt Nam……………………….

63

Chương 2: Thực trạng mối quan hệ giữa an ninh kinh tế với đầu tư trực
tiếp nước ngoài ở vùng kinh tế trọng điểm phía Nam giai đoạn 2009-2014

70

2.1. Khái quát một số đặc điểm vùng kinh tế trọng điểm phía Nam………..

70


iii

2.2. Thực trạng về mối quan hệ giữa an ninh kinh tế với đầu tư trực tiếp
nước ngoài ở vùng kinh tế trọng điểm phía Nam giai đoạn 2009-2014…........

73

2.2.1. Những kết quả đạt được và tác động của đầu tư trực tiếp nước
ngoài trong mối quan hệ giữa an ninh kinh tế với đầu tư trực tiếp nước ngoài

ở vùng kinh tế trọng điểm phía Nam giai đoạn 2009-2014……………………….

73

2.2.2. Những vấn đề nảy sinh về an ninh kinh tế từ hoạt động đầu tư trực
tiếp nước ngoài ở vùng kinh tế trọng điểm phía Nam giai đoạn 2009-2014……

82

2.3. Đánh giá về hạn chế và nguyên nhân trong giải quyết mối quan hệ
giữa an ninh kinh tế với đầu tư trực tiếp nước ngoài ở vùng kinh tế trọng điểm
phía Nam………………………………………………………………………..

114

2.3.1. Về hạn chế………………………………………………………………….

114

2.3.2. Nguyên nhân cơ bản của nhưng hạn chế………………………………

118

Chương 3: Giải pháp giải quyết mối quan hệ giữa an ninh kinh tế với đầu
tư trực tiếp nước ngoài ở vùng kinh tế trọng điểm phía Nam……………...

127

3.1. Dự báo tình hình đầu tư trực tiếp nước ngoài và an ninh kinh tế ở vùng
kinh tế trọng điểm phía Nam…………………………………………………...


127

3.2. Một số quan điểm, giải pháp giải quyết mối quan hệ giữa an ninh kinh
tế với thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài ở vùng kinh tế trọng điểm phía Nam

131

3.2.1. Quan điểm về giải quyết mối quan hệ giữa an ninh kinh tế với thu
hút đầu tư trực tiếp nước ngoài………………………………………………………

131

3.2.2. Một số giải pháp giải quyết mối quan hệ giữa an ninh kinh tế với
thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài ở vùng kinh tế trọng điểm phía Nam……...

139

3.3. Một số kiến nghị………………………………………………………..

163

KẾT LUẬN…………………………………………………………………….

167

DANH MỤC CÔNG TRÌNH ĐÃ CÔNG BỐ CỦA TÁC GIẢ
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHẦN PHỤ LỤC



iv
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT

ANKT

An ninh kinh tế

ANQG

An ninh quốc gia

ANTT

An ninh trật tự

CNH, HĐH

Công nghiệp hoá, hiện đại hoá

DN

Doanh nghiệp

FDI

Đầu tư trực tiếp nước ngoài

KCN


Khu công nghiệp

KTTĐPN

Kinh tế trọng điểm phía Nam

KT - XH

Kinh tế-xã hội

PA 81

Phòng An ninh kinh tế

PC 45

Phòng CSĐT tội phạm về trật tự xã hội
và Chức vụ

PC46

Phòng CSĐT tội phạm về trật tự QLKT
và Chức vụ

PC 47

Phòng CSĐT tội phạm về ma túy

PC 49


Phòng Cảnh sát phòng chống tội phạm về
môi trường

PC64

Phòng Cảnh sát quản lý hành chính về trật
tự an toàn xã hội

PX15

Phòng công tác chính trị

TP.HCM

Thành phố Hồ Chí Minh

TTATXH

Trật tự an toàn xã hội


v

DANH MỤC CÁC BẢNG, BIỂU

BẢNG
1.1
1.2
1.3
2.1

2.2
2.3
2.4
2.5
2.6
2.7

TÊN BẢNG
Số tỉnh được xếp vào vùng kinh tế trọng điểm đến
1998
Số tỉnh được xếp vào các vùng kinh tế trọng điểm
từ 2004
Số tỉnh được xếp vào các vùng kinh tế trọng điểm
cho đến nay
Diện tích và dân số vùng KTTĐPN so với cả
nước
Vốn đầu tư trực tiếp nước ngồi ở vùng
KTTĐPN/ cả nước (lũy kế các dự án còn hiệu lực
đến hết ngày 31/12/2014)
Tình hình lao động tại các doanh nghiệp FDI ở
vùng KTTĐPN giai đoạn 2009 - 2014
Bình qn vốn đầu tư mới trên một dự án đầu tư
trực tiếp nước ngồi ở vùng KTTĐPN 2009-2014
Số vụ án trốn thuế có liên quan đến các doanh
nghiệp FDI ở vùng KTTĐPN 2009-2014 (số vụ
án đã được điều tra, phát hiện)
Số vụ án trộm cắp có liên quan đến các DN FDI ở
vùng KTTĐPN 2009-2014
Tranh chấp, khiếu kiện, đình cơng có liên quan
đến các DN FDI trong vùng KTTĐPN 2009-2014


TRANG
42
45
47
71
74
77
79
108
109
110

GHI CHÚ


1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của luận án
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng CSVN đã nhấn mạnh
quan điểm kết hợp chặt chẽ phát triển KT-XH với quốc phòng - an ninh: “Sự
ổn định và phát triển mọi mặt của đời sống KT-XH là nền tảng phát triển
vững chắc của quốc phòng - an ninh. Phát triển KT-XH đi đôi với tăng cường
sức mạnh quốc phòng - an ninh. Kết hợp chặt chẽ kinh tế với quốc phòng - an
ninh, quốc phòng - an ninh với kinh tế trong từng chiến lược, quy hoạch, kế
hoạch, chính sách phát triển KT-XH và trên từng địa bàn” [33; tr.82].
Như vậy, cùng với sự phát triển KT-XH Đảng đã đề ra mục tiêu phải giữ
vững sự ổn định chính trị và trật tự, an toàn xã hội. Phát triển KT-XH phải có
sự kết hợp chặt chẽ với quốc phòng, an ninh. Phát triển kinh tế là nền tảng để
bảo vệ tổ quốc; ổn định chính trị, củng cố quốc phòng, an ninh là điều kiện để

phát triển KT-XH, để bảo vệ vững chắc và xây dựng thành công CNXH. Gắn
nhiệm vụ phát triển KT-XH với giữ gìn an ninh chính trị, trật tự an toàn xã
hội là quan điểm xuyên suốt của Đảng và Nhà nước.
Dưới góc độ kinh tế chính trị, nghiên cứu vấn đề “Mối quan hệ giữa an
ninh kinh tế với đầu tư trực tiếp nước ngoài” chính là một trong những cơ sở
để giải quyết mối quan hệ giữa phát triển KT-XH và quốc phòng, an ninh,
nhằm thực hiện mục tiêu phát triển KT-XH.
Quán triệt nội dung trên, trong thời kỳ tích cực, chủ động hội nhập kinh
tế quốc tế và phát triển đất nước theo nền kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa đã đặt ra vấn đề nghiên cứu là cần phải giải quyết tốt mối quan hệ
giữa ANKT với đầu tư trực tiếp nước ngoài. Vì thu hút đầu tư trực tiếp nước
ngoài, thúc đẩy phát triển kinh tế, tạo cơ sở vật chất-kỹ thuật cho ANKT, là
tiền đề quan trọng đầu tiên để đảm bảo ANKT. Và ngược lại, môi trường
chính trị ổn định, ANKT được giữ vững là một trong những yếu tố cực kỳ
quan trọng tạo môi trường thu hút đầu tư nước ngoài tạo điều kiện thúc đẩy


2
tăng trưởng và phát triển kinh tế. Hai mặt này có mối quan hệ chặt chẽ tác
động lẫn nhau, trong quá trình phát triển cần phải có giải pháp giải quyết tốt
cả hai mặt này.
Vùng KTTĐPN gồm TP.HCM, Đồng Nai, Bà Rịa-Vũng Tàu, Bình
Dương, Bình Phước, Tây Ninh, Long An và Tiền Giang. Đây là vùng kinh tế
trọng điểm lớn nhất, là trung tâm công nghiệp, thương mại, tài chính hàng đầu
của cả nước.
GDP tính theo đầu người của vùng KTTĐPN cao gấp gần 2,2 lần mức
bình quân cả nước; hơn 2,5 lần so với đồng bằng sông Hồng. Vùng kinh tế
trọng điểm phía Nam còn là vùng có hạ tầng tốt nhất, có tỷ lệ đô thị hóa cao
nhất nước. Đây là những chỉ số xác định trình độ và lợi thế phát triển quan
trọng bậc nhất của vùng này so với cả nước [13].

Trong những năm qua, vùng KTTĐPN là nơi dẫn đầu cả nước về thu hút
đầu tư trực tiếp nước ngoài. Hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài tại đây
ngày càng có hiệu quả, là một trong những động lực kích thích quá trình phát
triển KT-XH của vùng nói riêng và cả nước nói chung. Đầu tư trực tiếp nước
ngoài là một trong những nhân tố góp phần tạo ra cơ sở vật chất cho sự đảm
bảo ANKT. Hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài bên cạnh những yếu tố tích
cực cũng đã và đang xuất hiện những vấn đề phức tạp tác động xấu đến tình
hình ANKT như: làm cản trở sự thu hút đầu tư hoặc lợi dụng đầu tư để tiến
hành các hoạt động can thiệp, phá hoại nền kinh tế; vấn đề ô nhiễm môi
trường sinh thái; vấn đề các đối tác nước ngoài đưa công nghệ, thiết bị lạc hậu
vào đầu tư; vấn đề quản lý người nước ngoài; tình trạng chảy máu chất xám;
làm lộ bí mật nhà nước; vấn đề đình công, biểu tình trong doanh nghiệp có
vốn đầu tư nước ngoài… Đây chính là tính hai mặt của đầu tư trực tiếp nước
ngoài trong mối quan hệ với ANKT. Vấn đề đặt ra là cần phải có giải pháp
giải quyết có hiệu quả, đúng định hướng mối quan hệ giữa thu hút đầu tư trực
tiếp nước ngoài với đảm bảo ANKT trong quá trình phát triển. Do đó, nhằm
để phát huy mặt tích cực và hạn chế mặt tiêu cực, góp phần quan trọng cho


3
việc thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài một cách tích cực, có hiệu quả và
phục vụ yêu cầu đấu tranh phòng chống tội phạm nảy sinh từ hoạt động đầu
tư trực tiếp nước ngoài, tạo môi trường đầu tư thuận lợi, môi trường ANKT
đảm bảo cho các hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài, thu hút mạnh mẽ đầu
tư trực tiếp nước ngoài thúc đẩy tăng trưởng và phát triển kinh tế của vùng.
Nghiên cứu luận án “Mối quan hệ giữa an ninh kinh tế với đầu tư trực tiếp
nước ngoài ở vùng kinh tế trọng điểm phía Nam” là vấn đề cần thiết cả về mặt
lý luận và thực tiễn, nhất là trong thời điểm Việt Nam đang chú trọng việc thu
hút đầu tư trực tiếp nước ngoài và đảm bảo ANKT trong quá trình phát triển.
2. Tổng quan tình hình nghiên cứu có liên quan đến luận án

ANKT với đầu tư tiếp nước ngoài có mối quan hệ chặt chẽ, tác động lẫn
nhau là sự gắn kết giữa phát triển KT-XH với quốc phòng, an ninh trong một
thể thống nhất nhằm bổ sung, tạo điều kiện thúc đẩy cùng nhau phát triển đạt
hiệu quả KT-XH cao. Thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài thúc đẩy phát triển
KT-XH, tạo cơ sở vật chất cho đảm bảo ANKT, và ngược lại, môi trường an
ninh chính trị, ANKT cũng có tác động tích cực trở lại đối với thu hút đầu tư
trực tiếp nước ngoài, ANKT ổn định là điều kiện quan trọng để thu hút đầu tư
trực tiếp nước ngoài. Kết hợp giữa thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài với
đảm bảo ANKT là hoạt động cơ bản của mỗi quốc gia, dân tộc góp phần tạo
nên sức mạnh tổng hợp để thực hiện thắng lợi nhiệm vụ chiến lược xây dựng
và bảo vệ Tổ quốc. Song thực hiện mối quan hệ này, vẫn là vấn đề còn mới
mẻ, đến nay vẫn chưa có những nghiên cứu mang tính hệ thống lý luận chặt
chẽ và giải pháp đồng bộ, có hiệu quả. Liên quan đến vấn đề này hiện nay
cũng đã có nhiều công trình khoa học đã đề cập đến như: các đề tài khoa học,
sách chuyên khảo, các bài báo khoa học được đăng tải trên các tạp chí chuyên
ngành… Qua nghiên cứu, tìm hiểu có thể kể đến các công trình nghiên cứu
sau:
Chủ biên Phùng Thiên Tân, An ninh kinh tế và nền kinh tế thị trường Việt
Nam, NXB CAND, Hà Nội, 2011 [78]. Các tác giả chủ yếu đề cập đến những


4
những vấn đề an ninh kinh tế trong bối cảnh toàn cầu hóa: an ninh năng
lượng, an ninh lương thực, an ninh văn hóa và phòng chống một loại tội phạm
công nghệ cao trong quá trình hội nhập. Trên cơ sở làm rõ cơ hội và thách
thức; thực trạng và nguyên nhân của những sơ hở, thiếu sót có thể gây mất
ANKT, các tác giả nêu ra một số nhiệm vụ và giải pháp nhằm đảm bảo
ANKT, ổn định kinh tế vĩ mô, đảm bảo an sinh xã hội.
ThS Phạm Văn Thừa, Những tác động của đầu tư trực tiếp nước ngoài
và vấn đề đặt ra đối với công tác an ninh kinh tế ở Việt Nam, Đề tài khoa học

cấp cơ sở, năm 2012 [80]. Tác giả chủ yếu đề cập đến vấn đề đầu tư trực tiếp
nước ngoài và nêu lên những mặt trái của đầu tư trực tiếp nước ngoài tác động
đến an ninh kinh tế ở Việt Nam, từ đó nêu lên những giải pháp khắc phục
những mặt trái, nhằm đảm bảo an ninh kinh tế trong lĩnh vực đầu tư trực tiếp
nước ngoài ở Việt Nam. Đề tài cơ sở của tác giả chủ yếu đề cập những vấn đề
mang tính chất chung, chưa đề cập đến từng khía cạnh, từng vấn đề mang tính
cụ thể.
TS Lê Xuân Trường, Chống chuyển giá ở Việt Nam - Tiếp tục hoàn thiện
khung pháp lý và các điều kiện thực hiện, Tạp chí Tài chính số tháng 05/2011
[87]. Tác giả đã đề cập đến một số mặt tiêu cực tác động đến ANKT của các
doanh nghiệp FDI khi đầu tư vào Việt Nam. Đó là tình trạng nâng giá hàng
hóa, nguyên vật liệu đầu vào cao, hạ giá xuất khẩu xuống thấp để từ đó báo
cáo lỗ hoặc giảm lợi nhuận trên sổ sách (chuyển giá) nhằm trốn nộp thuế ở
một số doanh nghiệp FDI. Chuyển giá không chỉ làm thất thu ngân sách mà
còn tạo môi trường kinh doanh không lành mạnh giữa các doanh nghiệp. Từ
việc phân tích nguyên nhân và thực trạng, tác giả cũng đã nêu ra một số giải
pháp nhằm hoàn thiện pháp luật chống chuyển giá.
ThS. Phan Quang Thịnh, Một số hoạt động vi phạm pháp luật Việt Nam
của phía chủ đầu tư nước ngoài trong các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước
ngoài tại TPHCM – Thực trạng và giải pháp, Đề tài khoa học cấp cơ sở, năm
2000 [80]. Nội dung chủ yếu đề cập đến một số hoạt động vi phạm pháp luật


5
của các DN FDI tại TPHCM, đề tài chỉ ra những mặt hạn chế và đề xuất một
số giải pháp nhằm khắc phục những hạn chế đó.
Nguyễn Đức Bình-Nguyễn Thường Lạng, Những vấn đề kinh tế-xã hội
nảy sinh trong hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài - Kinh nghiệm của
Trung Quốc và thực tiễn của Việt Nam, NXB Lý luận Chính trị, Hà Nội, 2006
[3]. Nội dung đề cập về hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài và những vấn

đề KT-XH nảy sinh trong hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài ở Việt Nam;
kinh nghiệm của Trung Quốc trong thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài và
những mặt trái của hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài; thực tiễn và giải
pháp của Việt Nam trong thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài để phát triển
KT-XH.
TS Nguyễn Văn Ngừng, Tác động của kinh tế thị trường và hội nhập
kinh tế quốc tế đối với quốc phòng, an ninh ở Việt Nam, NXB CTQG, Hà
Nội, 2009 [69]. Nội dung chủ yếu về phát triển kinh tế thị trường ở Việt Nam;
Những mặt tích cực, hạn chế của kinh tế thị trường và hội nhập kinh tế quốc
tế đối với quốc phòng, an ninh của Việt Nam; Quan điểm và giải pháp đẩy
mạnh phát triển kinh tế với tăng cường tiềm lực quốc phòng, an ninh ở Việt
Nam.
TS Nguyễn Văn Ngừng, Xu hướng phát triển kinh tế thế giới hiện nay và
tác động đối với an ninh trật tự ở Việt Nam, NXB CTQG, Hà Nội, 2010 [70].
Tác giả tập trung nghiên cứu, tìm hiểu đặc điểm chủ yếu của nền kinh tế thế
giới và xu hướng vận động của nó trong thời gian tới, từ đó đánh giá những
tác động của nó đối với nền kinh tế Việt Nam, những ảnh hưởng cả về mặt
tích cực và tiêu cực đối với vấn đề an ninh trật tự. Trên cơ sở đó, tác giả đề
xuất một số giải pháp nhằm đẩy mạnh phát triển kinh tế, bảo vệ an ninh quốc
gia và giữ gìn trật tự an toàn xã hội trong xu hướng toàn cầu hóa hiện nay.
GS.TS. Nguyễn Xuân Yêm, Tội phạm kinh tế thời mở cửa, NXB. Công
an nhân dân, Hà Nội, 2003 [95]. Nội dung chủ yếu đề cập đến các loại tội
phạm kinh tế và công tác đấu phòng, chống tội phạm kinh tế trong thời kỳ mở


6
cửa và hội nhập ở Việt Nam, tạo điều kiện cho mọi công dân, các DN có nắm
rõ hơn và tham gia vào đấu tranh phòng, chống các loại tội phạm kinh tế.
PGS. TS Mai Ngọc Cường, Hoàn thiện chính sách và tổ chức thu hút
đầu tư trực tiếp nước ngoài ở Việt Nam, NXB CTQG, Hà Nội, 2000 [18].

Trong nghiên cứu này tác giả đã phân tích những chính sách trong nước có
tác động mạnh đến quá trình thu hút FDI, trong đó cũng có đề cập đến yếu tố
môi trường an ninh chính trị và đề xuất các biện pháp tổ chức thu hút FDI.
Theo tác giả cần tiếp tục nghiên cứu và triển khai thực hiện giải quyết môi
trường đầu tư như: vấn đề sở hữu, sử dụng đất đai; những ưu đãi và khuyến
khích về tài chính; về chính sách tiền lương và quyền lợi của người lao động
làm việc trong các doanh nghiệp FDI. Tuy nhiên, nghiên cứu của tác giả chỉ
đề cập chủ yếu ở khía cạnh thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài trên phạm vi
cả nước và giải pháp vào việc thu hút FDI, chưa có sự đề cập đến khía cạnh
mối quan hệ giữa ANKT với đầu tư triếp nước ngoài mang tính chất cụ thể.
PGS. TS Trần Quang Lâm, Kinh tế có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài
trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa – thực trạng và
triển vọng, đề tài cấp Bộ năm 2005 [41]. Đề tài này là công trình nghiên cứu
trình nghiên cứu toàn diện đánh giá về tầm quan trọng của FDI đối với nền
kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam và chỉ đề cập sơ
lược đến tác động về mặt an ninh kinh tế mang tính chất chung.
Nguyễn Trọng Xuân, Đầu tư trực tiếp nước ngoài với công cuộc công
nghiệp hóa, hiện đại hóa ở Việt Nam, NXB KHXH, Hà Nội, 2000 [96]. Tác
giả đã đề cập đến đầu tư trực tiếp nước ngoài, những tác động tích cực của
đầu tư trực tiếp nước ngoài đối với công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở Việt Nam.
Bên cạnh mặt tích cực là chính, FDI cũng gây tác động tiêu cực nhiều mặt
trong có có vấn đề ANKT như gây ô nhiễm môi trường. Trên cơ sở đó, tác giả
đề xuất một số giải pháp thu hút FDI vào Việt Nam để thực hiện công cuộc
công nghiệp hóa, hiện đại hóa.


7
TS Phùng Xuân Nhạ, Đầu tư trực tiếp nước ngoài phục vụ công nghiệp
hóa ở Malaixia - Kinh nghiệm đối với Việt Nam, NXB Thế giới, Hà Nội, 2000
[72]; Đỗ Đức Định, Đầu tư nước ngoài ở các nước đang phát triển, NXB

KHXH, Hà Nội, 2001 [35]; Võ Đại Lược (chủ biên), Trung Quốc sau khi gia
nhập WTO - Thành công và thách thức, NXB Thế giới, Hà Nội, 2006 [48];
Đặng Thu Hương, Thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài ở Trung Quốc –
Những bài học thành công và chưa thành công, Tạp chí nghiên cứu Trung
Quốc, số 6 (70), 2006… Các công trình này chủ yếu nghiên cứu về thu hút
FDI ở một số quốc gia trên thế giới, nêu lên một mặt tích cực và tiêu cực của
FDI (trong đó có đề cập đến vấn đề ANKT), từ đó rút ra một số bài học kinh
nghiệm và giải pháp thu hút FDI cho Việt Nam.
Richard S.Eckaus, A survey of the theory of direct foreign investment in
developing countries, Massachussets Institute of Technology, 1987; Kevin H.
Zhang, Why Does China Receive So Much Foreign Direct Investment?, China
& the World Economy, 3, 2002, pp.49-58; Peter Nunnenkamp, FDI in
Developing Countries: What Economists Don’t Know anh What Policymakers
Should (not) Do, 2002; Sajid Anwar and Lan Phi Nguyen, Foreign direct
investment and economic growth in Vietnam, Asia Pacific Business Review,
Vol. 16, No. 1-2, January-April 2010, 183-202. Đây là một số tài liệu nước
ngoài nói về đầu tư trực tiếp nước ngoài ở Trung Quốc, các nước đang phát
triển và một số quốc gia trên thế giới. Đánh giá những mặt tích cực và hạn
chế, đặc biệt chú ý đến sự phân tích, đánh giá sự thành công của lĩnh vực này.
Các tác giả đã khẳng định các nước đang phát triển muốn phát triển KT-XH,
ngoài việc sử dụng nội lực, cần phải sử dụng ngoại lực như đầu tư trực tiếp
nước ngoài. Những thành công trên còn là bài học cho Việt Nam.
Ya, Boqiong, Chen, Jianguo, An empirical model of the environmental
effect of FDI in host countries: Analysis based on Chinese panel data, IAMO
Forum 2011, No. 3. Các tác giả đã cung cấp những tác động về môi trường
trong lĩnh vực đầu tư trực tiếp nước ngoài, đối với những nước nhận đầu tư từ


8
việc phân tích những số liệu của Trung Quốc. Bên cạnh những mặt tích cực,

tác động về mặt tiêu cực ảnh hưởng đến môi trường sinh thái ở các quốc gia
tiếp nhận đầu tư là rất lớn. Trên cơ sở đó, các tác giả đã khẳng định các quốc
gia muốn phát triển bền vững không chỉ thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài
mà cần phải chú ý đến các biện pháp bảo vệ môi trường.
Các công trình nghiên cứu, bài viết trên chủ yếu đề cập đến đầu tư trực
tiếp nước ngoài; những tác động của đầu tư trực tiếp nước ngoài đối với sự
phát triển KT-XH; công tác thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài, đảm bảo
ANTT mang tính chất chung; một số khía cạnh vi phạm pháp luật của những
chủ đầu tư trực tiếp nước ngoài; hoặc chỉ tập trung vào hoạt động thu hút đầu
tư trực tiếp nước ngoài, giữ gìn an ninh trật tự ở một số địa phương và đưa ra
các giải pháp cho vấn đề này … chưa có một nhà khoa học nào đề cập tương
đối, khái quát một cách cụ thể về “Mối quan hệ giữa ANKT với đầu tư trực
tiếp nước ngoài ở vùng kinh tế trọng điểm phía Nam”. Qua tìm hiểu đã cho
thấy, các nghiên cứu về mối quan hệ giữa ANKT với đầu tư trực tiếp nước
ngoài ở một số công trình nghiên cứu trong và ngoài nước còn rất ít. Chỉ có
một vài công trình nghiên cứu có đề cập đến một khía cạch nào đó về mối
quan hệ này nên đây chính là vấn đề cần phải làm rõ cả về mặt lý luận và thức
tiễn.
Trên cơ sở kế thừa và tiếp thu những kết quả nghiên cứu của các nhà
khoa học đi trước, việc bổ sung về mặt lý luận và thực tiễn về mối quan hệ
giữa ANKT với đầu tư trực tiếp nước ngoài được luận án xác định là hướng
phát triển nghiên cứu. Dưới góc độ kinh tế chính trị đây là hướng và đối
tượng nghiên cứu mới, không trùng lặp với các công trình khoa học đã công
bố mà nghiên cứu sinh được biết cho đến nay. Với đối tượng nghiên cứu này,
tác giả mong muốn góp đóng góp vào việc hoàn thiện cơ sở lý luận và thực
tiễn về mối quan hệ giữa ANKT với thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài ở
vùng KTTĐPN.


9

3. Mục tiêu và nhiệm vụ của luận án
3.1. Mục tiêu
Mục tiêu chung:
Giải quyết mối quan hệ giữa ANKT với đầu tư trực tiếp nước ngoài
nhằm phục vụ cho sự phát triển KT - XH.
Mục tiêu cụ thể:
Luận án đi sâu nghiên cứu, làm rõ cơ sở lý luận về mối quan hệ giữa
ANKT với đầu tư trực tiếp nước ngoài; phân tích thực trạng mối quan hệ giữa
ANKT với đầu tư trực tiếp nước ngoài ở vùng KTTĐPN; đưa ra giải pháp
đảm bảo ANKT gắn với thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài, tạo môi trường
thu hút đầu tư thuận lợi, môi trường an ninh kinh tế đảm bảo cho các hoạt
động đầu tư trực tiếp nước ngoài, phù hợp với thể chế kinh tế thị trường định
hướng XHCN thu hút ngày càng mạnh mẽ hơn đầu tư trực tiếp nước ngoài
vào việc phát triển KT - XH ở vùng KTTĐPN.
3.2. Nhiệm vụ
- Làm rõ cơ sở lý luận về mối quan hệ giữa ANKT với đầu tư trực tiếp
nước ngoài.
- Phân tích làm rõ thực trạng mối quan hệ giữa ANKT với đầu trực tiếp
nước ngoài ở vùng KTTĐPN.
- Đề xuất giải pháp đảm bảo ANKT gắn với thu hút đầu tư nước ngoài,
nhằm tạo môi trường an ninh chính trị ổn định, môi trường kinh doanh thuận
lợi, thu hút ngày càng mạnh mẽ hơn đầu tư trực tiếp nước ngoài vào việc tăng
trưởng và phát triển kinh tế bền vững ở vùng KTTĐPN.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu của luận án
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Xuất phát từ mục tiêu nhiệm vụ trên, đối tượng nghiên cứu của luận án
là mối quan hệ giữa ANKT với đầu trực tiếp nước ngoài ở vùng KTTĐPN.


10

4.2. Phạm vi nghiên cứu
- Về không gian: địa bàn vùng KTTĐPN, có tập trung vào một số vụ án
và vụ việc mang tính chất điển hình ở những khu vực trọng điểm của vùng
như: TP.HCM, Đồng Nai, Bình Dương để minh họa cho luận án.
- Về thời gian: luận án chỉ tập trung nghiên cứu từ năm 2009 - 2014.
- Về nội dung: luận án chỉ tập trung vào những vấn đề bản chất nhất của
mối quan hệ giữa ANKT với đầu tư trực tiếp nước ngoài ở vùng KTTĐPN.
5. Cơ sở lý luận và phƣơng pháp nghiên cứu của luận án
5.1. Cơ sở lý luận của luận án
Trong quá trình nghiên cứu luận án, tác giả dựa trên cơ sở lý luận của
chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm của Đảng Cộng
sản Việt Nam về mối quan hệ giữa kinh tế với quốc phòng, an ninh làm định
hướng nghiên cứu. Từ đó đi vào nghiên cứu dưới góc độ cụ thể hơn đó là mối
quan hệ giữa ANKT với đầu tư trực tiếp nước ngoài.
Ngoài ra, luận án còn kế thừa một cách có chọn lọc về cơ sở lý luận
trong các công trình nghiên cứu của các nhà khoa học trong và ngoài nước có
liên quan đến lĩnh vực ANKT; đầu tư trực tiếp nước ngoài; hoặc mối quan hệ
giữa ANKT với đầu tư trực tiếp nước ngoài.
5.2. Phương pháp nghiên cứu của luận án
Phương pháp chung:
Phương pháp biện chứng duy vật và duy vật lịch sử:
Căn cứ vào đối tượng nghiên cứu của luận án thuộc chuyên ngành kinh
tế chính trị, tác giả sử dụng phương pháp này để làm rõ mối quan hệ giữa
ANKT và đầu tư trực tiếp nước ngoài ở vùng KTTĐPN.
Luận án nghiên cứu mối quan hệ này tại vùng kinh tế trọng điểm phía
Nam trong mối quan hệ tương quan với quá trình phát triển kinh tế của Việt
Nam và hội nhập kinh tế quốc tế.


11

Luận án tập trung chủ yếu vào giai đoạn 2009-2014, trong đó có liên hệ
với mối số giai đoạn khác trong quá trình phát triển KT-XH của vùng
KTTĐPN.
Phương pháp trừu tượng hóa khoa học:
Trừu tượng hóa khoa học là phương pháp đặc thù của chuyên ngành kinh
tế chính trị. Muốn hiểu được bản chất của mối quan hệ giữa ANKT với đầu tư
trực tiếp nước ngoài ở vùng KTTĐPN phải sử dụng trừu tượng hóa khoa học.
Vì phân tích các vấn đề kinh tế, phân tích mối quan hệ giữa ANKT với đầu tư
trực tiếp nước ngoài, đây là vấn đề rất rộng với nhiều khía cạnh khác nhau,
luận án chỉ có thể tập trung vào những vấn đề cơ bản nhất của mối quan hệ
này để nghiên cứu.
Nghiên cứu vấn đề này tác giả chỉ có lựa chọn những nhân tố cơ bản tác
động mối quan hệ giữa ANKT với đầu tư trực tiếp nước ngoài; mối quan hệ
này nảy sinh những vấn đề phức tạp nào về ANKT, và ngược lại, những khía
cạnh nào về mặt ANKT gây tác động cản trở đối với thu hút đầu tư trực tiếp
nước ngoài, từ đó luận án tập trung vào giải quyết những vấn đề hạn chế, tiêu
cực đó nhằm mục tiêu tăng cường thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài gắn với
đảm bảo ANKT, thúc đẩy sự phát triển KT-XH vùng KTTĐPN.
Phương pháp nghiên cứu cụ thể:
Phương pháp nghiên cứu tài liệu:
Thu thập, nghiên cứu các Văn kiện, Cương lĩnh, Nghị quyết của Đảng;
Nghị định, Quyết định của Chính phủ có liên quan đến ANKT, đầu tư trực
tiếp nước ngoài, hoặc mối quan hệ giữa ANKT với đầu tư trực tiếp nước
ngoài. Nghiên cứu các điều ước quốc tế về lĩnh vực này mà Việt Nam đã
tham gia ký kết hoặc gia nhập, các văn bản liên quan đến phòng, chống tội
phạm có liên quan đến yếu tố nước ngoài hoặc đầu tư trực tiếp nước ngoài của
Bộ Công an và Công an các địa phương.
Nghiên cứu các số liệu trong các niêm giám thống kê; số liệu trong các
báo cáo tổng kết năm của UBND, Công an các tỉnh, thành phố trong vùng



12
KTTĐPN; số liệu thống kê về công tác đấu tranh phòng, chống tội phạm có
yếu tố nước ngoài của các cục nghiệp vụ và các phòng nghiệp vụ của công an
các tỉnh, thành phố trong vùng cũng như tài liệu của các đơn vị có liên quan
đến luận án.
Nghiên cứu các loại sách, báo, giáo trình, chuyên khảo và các công trình
khoa học khác có nội dung liên quan.
Phương pháp phân tích và tổng hợp:
Mối quan hệ giữa ANKT với đầu tư trực tiếp nước ngoài được tác giả
phân tích, tổng hợp số liệu, đánh giá, nhìn nhận dưới nhiều góc độ khác nhau.
Thông qua đó làm rõ thực trạng mối quan hệ này trên cơ sở thực tiễn của
vùng KTTĐPN, từ đó tổng hợp và rút ra những thuận lợi, khó khăn, hạn chế
và nguyên nhân, làm cơ sở cho việc xây dựng hệ thống các giải pháp nhằm
giải quyết tốt mối quan hệ này, để thực hiện mục tiêu cao nhất thu hút đầu tư
trực tiếp nước ngoài, đảm bảo ANKT và phát triển KT-XH.
Phương pháp tổng kết từ thực tiễn: luận án tổng kết, đánh giá những kết
quả, tài liệu thu thập được từ thực tiễn có liên quan đến ANKT; đầu tư trực
tiếp nước ngoài; hoặc mối quan hệ giữa ANKT với đầu tư trực tiếp nước
ngoài ở vùng KTTĐPN.
Phương pháp chuyên gia: tác giả gặp gỡ phỏng vấn và hỏi ý kiến trực
tiếp của một số nhà khoa học; các cán bộ trực tiếp làm công tác quản lý; cán
bộ, chiến sỹ công an trực tiếp làm công tác có liên quan đến vấn đề nghiên
cứu.
Phương pháp điều tra xã hội học: tác giả đã sử dụng phiếu điều tra để
thu thập ý kiến chuyên gia và ý kiến của những cán bộ, chiến sỹ trực tiếp có
liên quan đến giải quyết mối quan hệ giữa ANKT với đầu tư trực tiếp nước
ngoài ở vùng KTTĐPN. Qua phân tích, đánh giá kết quả điều tra chính là cơ
sở để góp phần đánh giá chính xác thực trạng và rút ra giải pháp sát với thực
tiễn.



13
Phương pháp đối chiếu, so sánh: trong quá trình thực hiện luận án tác
giả thực hiện đối chiếu, so sánh về số liệu của vùng so với cả nước để có thể
đánh được những thuận lợi, khó khăn của vùng KTTĐPN trong giải quyết
mối quan hệ giữa ANKT với đầu tư trực tiếp nước ngoài, rút ra những hạn
chế và nguyên nhân của những hạn chế.
Phương pháp lấy điển hình: do đây là địa bàn khảo sát phạm vi rộng lớn,
trong quá trình nghiên cứu, phân tích, đánh giá thực trạng tác giả có lấy một
số vụ việc, vụ án có tính chất điển hình ở một số địa phương trong vùng
KTTĐPN, trên cơ sở đó rút ra những nhận xét, đánh giá chung và rút ra
những kết luận về vấn đề nghiên cứu.
Hệ thống thông tin, dữ liệu nghiên cứu
Thông tin thứ cấp:
Thu thập số liệu có liên đến ANKT và đầu tư trực tiếp nước ngoài từ các
niêm giám thống kê của Tổng cục thống kê, niêm giám thống kê của Cục
thống kê các tỉnh, thành phố vùng KTTĐPN; Báo cáo tổng kết năm của
UBND, Ban quản lý khu công nghiệp các tỉnh, thành phố vùng KTTĐPN;
Báo cáo tình hình và kết quả công tác hàng năm của phòng, ban, đơn vị
nghiệp vụ trong lực lượng CAND các tỉnh, thành phố vùng KTTĐPN; Số
liệu, báo cáo từ các Bộ, ngành, các bài báo và các công trình khoa học uy tín
có liên quan.
Thông tin sơ cấp:
- Nghiên cứu thông qua kết quả điều tra xã hội học ở vùng KTTĐPN.
Đối tượng nghiên cứu là các nhà làm công tác quản lý các doanh nghiệp có
vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài; các cán bộ, chiến sỹ CAND trực tiếp thực
hiện công tác có liên quan đến các doanh nghiệp FDI.
- Về mẫu nghiên cứu: kết quả 527 bảng hỏi thu được từ 600 bảng hỏi
phát ra. Sau khi đã loại bỏ một số bảng hỏi không hợp lệ, đã sử dụng 521

bảng hỏi để phân tích, tổng hợp và rút ra kết quả.


14
6. Đóng góp mới về khoa học của luận án
Về lý luận:
Trên cơ sở nhận thức về mối quan hệ giữa ANKT với đầu tư trực tiếp
nước ngoài, từ thực tiễn giải quyết mối quan hệ này ở vùng KTTĐPN, luận án
đưa ra những giải pháp làm cơ sở cho việc tổng kết kinh nghiệm và phát triển
lý luận. Luận án đã xác định và chứng minh rằng giữa ANKT với đầu tư trực
tiếp nước ngoài có mối quan hệ chặt chẽ, tác động lẫn nhau. Do đó, về mặt lý
luận cần phải giải quyết tốt cả hai mặt này, thực hiện thu hút đầu tư trực tiếp
nước ngoài cần phải có những biện pháp đảm bảo ANKT trong quá trình phát
triển KT-XH.
Về thực tiễn:
- Trên cơ sở phân tích thực trạng, luận án chỉ ra những hạn chế, yếu kém
và nguyên nhân trong giải quyết mối quan hệ giữa ANKT với đầu tư trực tiếp
nước ngoài ở vùng KTTĐPN, đây là cơ sở đề ra giải pháp góp phần giải quyết
tốt mối quan hệ này, nhằm mục tiêu cao nhất phục vụ cho sự phát triển KTXH.
- Sử dụng làm tài liệu tham khảo cho hoạt động nghiên cứu, giảng dạy,
học tập, đặc biệt là ở các trường Công an nhân dân.
- Kết quả nghiên cứu tham khảo cho việc hoạch định chính sách nhằm
nâng cao hiệu quả thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài đồng thời phục vụ cho
công tác đấu tranh phòng, chống tội phạm đảm bảo ANKT ở một số địa
phương trong vùng KTTĐPN và cả nước.
7. Kết cấu của luận án
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục,
luận án được trình bày trong 03 chương:
Chương 1: Cơ sở lý luận về mối quan hệ giữa an ninh kinh tế với đầu tư
trực tiếp nước ngoài.

Chương 2: Thực trạng mối quan hệ giữa an ninh kinh tế với đầu tư trực
tiếp nước ngoài ở vùng kinh tế trọng điểm phía Nam giai đoạn 2009-2014.
Chương 3: Giải pháp đảm bảo giải quyết mối quan hệ giữa an ninh kinh
tế với đầu tư trực tiếp nước ngoài ở vùng kinh tế trọng điểm phía Nam.


15
CHƢƠNG 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ MỐI QUAN HỆ GIỮA AN NINH KINH TẾ VỚI
ĐẦU TƢ TRỰC TIẾP NƢỚC NGOÀI

1.1. Quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin và Đảng Cộng sản Việt
Nam về mối quan hệ giữa an ninh kinh tế với đầu tƣ trực tiếp nƣớc ngoài
Mối quan hệ giữa ANKT với đầu tư trực tiếp nước ngoài, nếu hiểu rộng
hơn đây chính là mối quan hệ giữa phát triển KT-XH với quốc phòng, an
ninh. Phát triển KT-XH đi đôi với tăng cường củng cố quốc phòng, an ninh là
nhiệm vụ chính trị quan trọng luôn đồng hành với nhau trong mọi thời kỳ của
lịch sử.
Kinh tế với quốc phòng, an ninh là những lĩnh vực khác nhau song giữa
chúng có mối quan hệ biện chứng tác động lẫn nhau. Trong đó, kinh tế là yếu
tố suy cho đến cùng quyết định đến quốc phòng an ninh, quốc phòng an ninh
tác động trở lại kinh tế. Ph. Ăngghen đã khẳng định: “Không có gì phụ thuộc
vào kinh tế tiên quyết hơn là chính quân đội và hạm đội”; và “Thắng lợi hay
thất bại của chiến tranh đều phụ thuộc vào điều kiện kinh tế” [49; tr. 235].
Chế độ KT-XH quyết định đến nguồn gốc, bản chất của quốc phòng, an
ninh; đến khả năng huy động các nguồn lực cho quốc phòng, an ninh. Trình
độ, quy mô của nền kinh tế sẽ quyết định đến số lượng, chất lượng của quốc
phòng, an ninh. Kinh tế là yếu tố quan trọng quyết định đến chiến lược, chiến
thuật, khoa học kỹ thuật quân sự, phương thức xây dựng và đảm bảo quốc
phòng, an ninh.

Ngược lại, hoạt động đảm bảo quốc phòng, an ninh không chỉ phụ thuộc
vào kinh tế mà còn tác động trở lại kinh tế trên cả góc độ tích cực và tiêu cực.
Ở góc độ tích cực quốc phòng-an ninh tạo môi trường hòa bình, ổn định để
phát triển KT-XH; bảo vệ thành quả KT-XH. Ở góc độ tiêu cực, hoạt động
quốc phòng, an ninh về cơ bản hầu như ít tạo ra của cải vật chất cho xã hội và
tiêu tốn một số lực lượng vật chất kỹ thuật do nền kinh tế tạo ra.


16
Vận dụng và phát triển quan điểm của Ph. Ăng-ghen về mối quan hệ
giữa kinh tế với quốc phòng, an ninh V.I. Lê-nin luôn coi trọng kết hợp chặt
chẽ những vấn đề chiến lược về quốc phòng, an ninh và đối ngoại, dựa trên cơ
sở xây dựng và phát triển KT-XH của đất nước [43; tr.480]. Trong học thuyết
bảo vệ tổ quốc xã hội chủ nghĩa, V.I. Lê-nin đặc biệt coi trọng việc phát huy
sức mạnh chính trị - tinh thần của chế độ xã hội chủ nghĩa ưu việt và những
thành tựu về phát triển KT-XH, coi đó là cơ sở trực tiếp quyết định việc nâng
cao khả năng phòng thủ đất nước, bảo vệ vững chắc tổ quốc xã hội chủ nghĩa.
V.I. Lênin chỉ rõ: “Một cuộc cách mạng chỉ có giá trị khi nào nó biết tự vệ”
[44, tr.145].
Về mối quan hệ giữa kinh tế với quốc phòng, an ninh theo Chủ tịch Hồ
Chí Minh: Bảo vệ Tổ quốc không chỉ là tư tưởng quân sự, quốc phòng, an
ninh, kháng chiến, mà kháng chiến bao giờ cũng đi liền với kiến quốc. Kiến
quốc là xây dựng, phát triển nền kinh tế bền vững, làm cơ sở vật chất cho việc
củng cố an ninh, quốc phòng [50; tr. 271].
Đối với Việt Nam, kết hợp giữa kinh tế với quốc phòng, an ninh luôn
được Đảng Cộng sản Việt Nam nhận thức, quán triệt sâu sắc và thực hiện có
hiệu quả trong mọi thời kỳ cách mạng. Trong Cương lĩnh xây dựng đất nước
trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung phát triển năm 2011),
Đảng Cộng sản Việt Nam đã khẳng định kết hợp giữa kinh tế với quốc phòng,
an ninh có mối quan hệ hữu cơ, biện chứng, tạo thành một thể thống nhất,

“tuy hai mà một, tuy một mà hai”. Đảng ta đặt lên hàng đầu “sự ổn định và
phát triển bền vững mọi mặt đời sống KT-XH là nền tảng vững chắc của quốc
phòng - an ninh”, đồng thời “tăng cường quốc phòng, giữ vững an ninh quốc
gia, trật tự, an toàn xã hội là nhiệm vụ trọng yếu, thường xuyên của Đảng,
Nhà nước và toàn dân” [33, tr. 82]. Đây là mối quan hệ biện chứng khách
quan. Giải quyết tốt mối quan hệ này toàn Đảng, toàn dân, toàn quân phải
thực hiện tốt việc kết hợp chặt chẽ giữa kinh tế với quốc phòng-an ninh, quốc
phòng-an ninh với kinh tế. Sự kết hợp đó sẽ góp phần đưa chủ trương của


17
Đảng vào trong cuộc sống, bảo đảm sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc
đạt nhiều thành tựu to lớn hơn nữa. Sự gắn kết mối quan hệ giữa quốc phòngan ninh với phát triển KT-XH là phù hợp với mối quan hệ biện chứng duy vật
lịch sử, là quy luật khách quan của sự phát triển bền vững của mọi quốc gia
dân tộc. Sự kết hợp này chính là sự tổng hòa, toàn diện trên cả hai phương
diện lý luận và thực tiễn.
Về lý luận có thể xem xét ở hai khía cạnh:
Thứ nhất, KT-XH, quốc phòng-an ninh là những mặt hoạt động cơ bản
của mỗi quốc gia, dân tộc có độc lập, chủ quyền. Trên mỗi lĩnh vực có mục
đích, cách thức hoạt động và quy luật riêng, song giữa chúng có mối quan hệ,
tác động qua lại lẫn nhau. Trong đó, kinh tế là yếu tố nền tảng tác động đến sự
vững mạnh của quốc phòng-an ninh; ngược lại, quốc phòng-an ninh cũng có
tác động tích cực trở lại với kinh tế, bảo vệ và tạo điều kiện thúc đẩy kinh tế
phát triển. Kinh tế quyết định đến nguồn gốc ra đời, sức mạnh của quốc
phòng, an ninh. Lợi ích kinh tế suy cho cùng là nguyên nhân làm nảy sinh các
mâu thuẫn và xung đột xã hội. Để giải quyết mâu thuẫn đó, phải có các hoạt
động quốc phòng an ninh đi kèm.
Thứ hai, kinh tế quyết định đến việc cung cấp cơ sở vật chất kỹ thuật,
nhân lực cho hoạt động quốc phòng-an ninh. Để xây dựng quốc phòng-an
ninh vững mạnh phải xây dựng, phát triển kinh tế. Mặt khác, kinh tế còn

quyết định đến việc cung cấp số lượng, chất lượng nguồn nhân lực cho quốc
phòng, an ninh, qua đó quyết định đến tổ chức biên chế của lực lượng vũ
trang; quyết định đến đường lối chiến lược quốc phòng-an ninh. Tuy nhiên
quốc phòng-an ninh không chỉ phụ thuộc vào kinh tế mà còn tác động ngược
trở lại với KT-XH trên cả góc độ tích cực và tiêu cực, ở một số khía cạnh:
Một là, quốc phòng-an ninh vững mạnh sẽ tạo môi trường thuận lợi, ổn
định lâu dài cho phát triển KT-XH. Hoạt động quốc phòng-an ninh tiêu tốn
đáng kể một phần nhân lực, vật lực, tài chính của xã hội. Nhưng tiêu dùng này
theo Lênin là những tiêu dùng “mất đi”, không quay vào tái sản xuất xã hội.


18
Do đó, sẽ ảnh hưởng đến tiêu dùng của xã hội, ảnh hưởng đến sự phát triển
của nền kinh tế.
Hai là, hoạt động quốc phòng-an ninh có thể dẫn đến hủy hoại môi
trường sinh thái, để lại hậu quả nặng nề cho kinh tế, nhất là khi chiến tranh
xảy ra (có sử dụng vũ khí hạt nhân, vũ khí hóa học, vũ khí sinh học…). Để
hạn chế những tác động tiêu cực này, phải kết hợp chặt chẽ giữa tăng cường
củng cố quốc phòng-an ninh với phát triển kinh tế xã hội thành một chỉnh thể
thống nhất.
Như vậy, về lý luận mối quan hệ giữa phát triển KT-XH với tăng cường
củng cố quốc phòng-an ninh là một tất yếu khách quan. Mỗi lĩnh vực hoạt
động có nội dung, phương thức riêng nhưng lại có sự thống nhất ở mục đích
chung, cái này là điều kiện tồn tại của cái kia và ngược lại. Tuy nhiên, việc
kết hợp cần phải được thực hiện một cách khoa học, hợp lý, cân đối và hài
hòa.
Về thực tiễn:
Lịch sử phát triển của các quốc gia trên thế giới đã chứng minh, dù nước
lớn hay nước nhỏ; kinh tế phát triển hay chưa phát triển; dù chế độ chính trị
như thế nào thì mỗi quốc gia cũng đều chăm lo thực hiện kết hợp phát triển

kinh tế với tăng cường củng cố quốc phòng, an ninh, kể cả những nước mà
hàng trăm năm nay chưa có chiến tranh. Tuy nhiên, các nước khác nhau, với
chế độ chính trị xã hội khác nhau, điều kiện hoàn cảnh khác nhau thì sự kết
hợp cũng có sự khác nhau về mục đích, nội dung, phương thức và kết quả.
Ở Việt Nam, sự kết hợp đó đã có lịch sử lâu dài. Dựng nước đi đôi với
giữ nước là qui luật tồn tại, phát triển của dân tộc ta. Trước kia, để xây dựng
và phát triển đất nước, ông cha ta đã có những chủ trương, kế sách thực hiện
sự phát triển KT-XH với tăng cường củng cố quốc phòng-an ninh trong quá
trình dựng nước và giữ nước, những kế sách giữ nước đó có thể là tư tưởng:
“nước lấy dân làm gốc”, “dân giàu nước mạnh”, “quốc phú binh cường”;


×