Tải bản đầy đủ (.pdf) (127 trang)

Nghiên Cứu Khả Năng Sinh Trưởng, Phát Triển Một Số Dòng Đậu Tương Nhập Nội Từ Australia Năm 2005 -2006 Tại Thái Nguyên

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.64 MB, 127 trang )

ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN

TRƯỜNG ĐẠI HỌC NÔNG LÂM

NGUYỄN THỊ LAN ANH

NGHIÊN CỨU KHẢ NĂNG SINH TRƯỞNG, PHÁT TRIỂN
MỘT SỐ DÒNG ĐẬU TƯƠNG NHẬP NỘI TỪ AUSTRALIA
NĂM 2005 -2006 TẠI THÁI NGUYÊN

LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC NÔNG NGHIỆP

Chuyên ngành: Trồng trọt
Mã số: 60.62.01

Người hướng dẫn khoa học: 1. PGS.TS Luân Thị Đẹp

2. Th.s Trần Văn Điền

Thái nguyên 2007
1


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan, số liệu và kết quả nghiên cứu trình bày trong luận
văn này là trung thực và chưa được sử dụng để bảo vệ một học vị nào.
Tôi xin cam đoan, mọi sự giúp đỡ cho việc thực hiện luận văn này đã
được cám ơn và các thông tin trích dẫn trong luận văn đều đã được chỉ rõ
nguồn gốc.
Tác giả luận văn


Nguyễn Thị Lan Anh


LỜI CẢM ƠN
Để hoàn thành luận văn tốt nghiệp, trong suốt quá trình thực
hiện đề tài nghiên cứu, tôi luôn nhận được sự quan tâm giúp đỡ của
cô giáo PGS.TS Luân Thị Đẹp và thầy giáo TH.S Trần Văn Điền đã
chỉ bảo tận tình về phương hướng và phương pháp nghiên cứu cũng
như trong quá trình hoàn chỉnh luận văn tốt nghiệp.
Tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới cô giáo PGS.TS Luân
Thị Đẹp và thầy giáo TH.S Trần Văn Điền người đã tận tình giúp
đỡ, hướng dẫn tôi trong quá trình hoàn chỉnh luận văn tốt nghiệp.
Tôi xin chân thành cảm ơn các thầy cô giáo khoa Sau Đại học,
Khoa Nông học đã tạo điều kiện trong quá trình học tập và nghiên
cứu, các bạn bè, đồng nghiệp và người thân đã nhiệt tình giúp đỡ tôi
trong thời gian thực hiện đề tài.

Tác giả luận văn

Nguyễn Thị Lan Anh


MỤC LỤC

Trang

MỞ ĐẦU.................................................................................................

01


1. Đặt vấn đề............................................................................................

01

2. Mục đích yêu cầu.................................................................................

02

2.1. Mục đích...........................................................................................

02

2.2.Yêu cầu..............................................................................................

02

Chương 1:TỔNG QUAN TÀI LIỆU.......................................................
04

1.1. Cơ sở khoa học của đề tài.................................................................

04

1.2. Tình hình sản xuất, chọn tạo giống cây đậu tương trên thế giới và
trong nước........................................................................................

04

1.2.1. Tình hình sản xuất và nghiên cứu đậu tương trên thế giới............


04

1.2.1.1. Tình hình sản xuất đậu tương trên thế giới.................................

04

1.2.1.2. Tình hình nghiên cứu chọn tạo giống đậu tương trên thế giới....

10

1.2.2. Tình hình sản xuất và chọn tạo giống đậu tương ở Việt Nam ......

19

1.2.2.1. Tình hình sản xuất đậu tương ở Việt Nam..................................

19

1.2.2.2. Tình hình nghiên cứu chọn tạo giống đậu tương ở Việt Nam....

21

1.3. Tình hình sản xuất đậu tương ở Thái Nguyên..................................

28

Chương 2:VẬT LIỆU, NỘI DUNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN
CỨU

30


2.1. Vật liệu nghiên cứu..........................................................................

30

2.2. Nội dung nghiên cứu........................................................................

30

2.3. Địa điểm nghiên cứu ........................................................................

31

2.4. Phương pháp nghiên cứu..................................................................

31

2.4.1. Phương pháp bố trí thí nghiệm.......................................................

31

2.4.2. Các chỉ tiêu và phương pháp theo dõi............................................

32

Chương 3: KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ THẢO LUẬN.....................

36

3.1. Đặc điểm thời tiết khí hậu của Thái Nguyên...................................


36

3.2. Kết quả khảo sát một số 28 dòng đậu tương nhập nội năm 2005 tại
Thái Nguyên..............................................................................

38
38


3.2.1. Giai đoạn sinh trưởng và phát triển của một số dòng đậu tương
thí nghiệm.....................................................................................
3.2.2. Khả năng chống chịu của các dòng đậu tương..............................

43

3.2.3. Một số đặc điểm hình thái của các dòng đậu tương tham gia thí nghiệm

46

3.2.4. Đặc điểm thực vật học của các dòng đậu tương tham gia thí nghiệm

50

3.2.5. Các yếu tố cấu thành năng suất của các dòng đậu tương tham gia
thí nghiệm.....................................................................................

53

3.3. Kết quả so sánh một số dòng đậu tương nhập nội có triển vọng vụ

Xuân 2006.......................................................................................

59

3.3.1. Các giai đoạn sinh trưởng và phát triển của các dòng đậu tương
thí nghiệm.....................................................................................

59

3.3.2. Một số đặc điểm hình thái cuả các dòng đậu tương.....................................

64

3.3.3. Khả năng chống chịu sâu bệnh và điều kiện ngoại cảnh của các dòng đậu
tương tham gia thí nghiệm...............................................................................

67

3.3.4. Một số chỉ tiêu sinh lý của các dòng đậu tương tham gia thí nghiệm
vụ Xuân 2006 ...............................................................................

69

3.3.5. Khả năng hình thành nốt sần hữu hiệu của các dòng đậu tương thí nghiệm
vụ Xuân 2006 ...................................................................................

72

3.3.6. Các yếu tố cấu thành năng suất và năng suất của các dòng đậu
tương tham gia thí nghiệm.............................................................


74

3.3.6.1. Khả năng hình thành quả và hạt của các dòng đậu tương.........

74

3.3.6.2. Năng suất của các dòng đậu tương tham gia thí nghiệm............

76

KẾT LUẬN VÀ ĐỀ NGHỊ............................................................

78

1. Kết luận...............................................................................................

78

1.1. Kết quả khảo sát một số dòng đậu tương tham gia thí nghiệm.....

78

1.2. Kết quả so sánh một số dòng đậu tương có triển vọng...................

78

2. Đề nghị................................................................................................

78


Tài liệu tham khảo................................................................................

79


DANH MỤC CÁC BẢNG
Trang
Bảng 1.1: Diện tích, năng suất, sản lượng đậu tương trên thế giới
5 năm gần đây 2001-2005...................................................

05

Bảng 1.2: Tình hình sản xuất đậu tương ở Mỹ năm 2001-2005 ..........

07

Bảng 1.3: Tình hình sản xuất đậu tương ở Brazil năm 2001-2005......

08

Bảng 1.4: Tình hình sản xuất đậu tương ở Achentina năm 2001-2004

09

Bảng 1.5: Tình hình sản xuất đậu tương ở Trung Quốc năm 2001-2005

09

Bảng 1.6: Tình hình sản xuất đậu tương ở Việt nam năm 2001-2005.


20

Bảng 1.7: Tình hình sản xuất đậu tương ở Thái nguyên năm 2001-2005

29

Bảng 3.1: Tình hình thời tiết khí hậu năm 2005-2006 tại Thái nguyên

37

Bảng 3.2: Các giai đoạn sinh trưởng phát triển của các dòng đậu
tương thí nghiệm năm 2005 ..............................................

40

Bảng 3.3: Khả năng chống chịu của các dòng đậu tương tham gia thí
nghiệm năm 2005...............................................................

44

Bảng 3.4: Một số đặc điểm hình thái của các dòng đậu tương tham
gia thí nghiệm năm 2005 ...................................................

47

Bảng 3.5: Đặc điểm thực vật học của các dòng đậu tương tham gia
thí nghiệm năm 2005..........................................................

51


Bảng 3.6: Các yếu tố cấu thành năng suất và năng suất của các dòng
đậu tương tham gia thí nghiệm năm 2005 .............................

54

Bảng 3.7 Các giai đoạn sinh trưởng, phát triển của các dòng đậu
tương có triển vọng vụ Xuân 2006...........................

60


Bảng 3.8 Một số đặc điểm hình thái của các dòng đậu tương có triển
vọng vụ Xuân 2006 ..............................................

65

Bảng 3.9: Một số sâu hại chính và khả năng chống đổ của các dòng
đậu tương có triển vọng vụ Xuân 2006....................

68

Bảng 3.10: Một số chỉ tiêu sinh lý của các dòng đậu tương có triển
vọng vụ Xuân 2006 .................................................

70

Bảng 3.11: Khả năng hình thành nốt sần hữu hiệu của các dòng đậu
tương có triển vọng vụ Xuân 2006..........................


73

Bảng 3.12: Các yếu tố cấu thành năng suất và năng suất của các dòng
đậu tương có triển vọng vụ Xuân 2006........................

75


DANH MỤC CÁC BIỂU ĐỒ
Trang
Biểu đồ 3.1:

Chiều cao cây của các dòng đậu tương thí nghiệm vụ
Xuân và vụ Đông 2005.......................................................

49

Biểu đồ 3.2: Năng suất cá thể của các dòng đậu tương tham gia thí
nghiệm vụ Xuân và vụ Đông 2005.....................................

58

Biểu đồ 3.3: Chiều cao cây của các dòng đâu tương có triển vọng vụ
Xuân 2006........................................................................

66

Biểu đồ 3.4: Chỉ số diện tích lá của các dòng đâu tương có triển vọng vụ
Xuân 2006............................................................


71

Biểu đồ 3.5: Số lượng nốt sần của các dòng đâu tương có triển vọng vụ
Xuân 2006............................................................

74

Biểu đồ 3.6: Năng suất thực thu của các dòng đâu tương có triển vọng
vụ Xuân 2006............................................................

77


1

MỞ ĐẦU
1. Đặt vấn đề
Đậu tương có tên khoa học là Glycine Max.(L) Merrill, thuộc họ đậu
(Fabaceae), còn gọi là đậu nành, là một trong những cây trồng cổ nhất của
nhân loại, nó được xem là loại “cây kỳ lạ”, “vàng mọc từ đất”, “ cây thần
diệu”... Sở dĩ được đánh giá như vậy là do giá trị kinh tế của nó.
Khó có thể tìm ra loại cây trồng nào có tác dụng nhiều mặt như cây đậu
tương, vừa cung cấp thực phẩm cho người, nguyên liệu cho công nghiệp, thức
ăn gia súc và cây làm tốt đất. Từ 5000 năm lại đây, Châu Á đã coi cây Đậu
tương là “ cây vào hàng cốc ngọc thực nuôi sống con người” và là nguồn
cung cấp Protein quan trọng nhất (Ngô Thế Dân và CS,1999) [5].
Các phân tích sinh hoá cho thấy rằng hạt đậu tương chứa từ 38% - 45%
Protein, 18 %– 22% lipit, nhiều vitamin và khoáng chất. Hiện nay đậu tương
đang cung cấp 10 – 20% nhu cầu dinh dưỡng đạm cho người và 50% thức ăn
cho gia súc trên toàn thế giới với sản lượng 245 triệu tấn/năm (năm 2002)

(Hội thảo đậu tương quốc gia, 2003)[13]. Ngoài giá trị làm thực phẩm, đậu
tương còn là nguyên liệu trong công nghiệp như chế biến mỹ phẩm, cao su
nhân tạo, thuốc trừ sâu, chất dẻo, mực in, xà phòng...đến chế biến dầu bôi
trơn động cơ (Đoàn Thị Thanh Nhàn và CS,1996) [26]. Hơn nữa đậu tương
còn chứa những axit amin cần thiết như Xixtin, Metionin, Lyzin và nhiều loại
Vitamin B1, B2, C, A, D, E, K. Khi thiếu Protein trong thành phần thức ăn sẽ
hạn chế sự sinh trưởng và phát triển trí tuệ của trẻ em và giảm mức độ đề
kháng với bệnh truyền nhiễm.Việc phát triển cây đậu tương là một trong
những biện pháp nhanh chóng để khắc phục nạn đói Protein ở các nước nghèo
và là biện pháp làm tốt đất. Vì các nốt sần trên cây Đậu tương là các “ nhà
máy phân đạm tí hon”, những vi khuẩn Rhizobium Japonicum trong các nốt
sần sống cộng sinh với cây họ đậu lao động cần mẫn để tổng hợp đạm khí
trời, làm giàu đạm cho đất mà không hề gây ô nhiễm môi trường, hơn thế nữa


2

nó còn làm sạch bầu khí quyển giúp không khí trong lành hơn. Chính vì vậy
mà diện tích, sản lượng đậu tương trên thế giới tăng lên rất nhanh, chỉ trong
vòng 10 năm, từ 1970 - 1980 sản lượng đậu tương tăng gấp 2 lần, từ 46,7
triệu tấn lên 94 triệu tấn (Ngô Thế Dân và CS,1999)[5]. Trong điều kiện nhiệt
đới ẩm của nước ta, Đậu tương là cây trồng ngắn ngày dễ đưa vào hệ thống
luân canh, xen canh, gối vụ với cây trồng khác, góp phần nâng cao năng suất
cho cây trồng , cũng như nâng cao hệ số sử dụng đất. Điều này có ý nghĩa
quan trọng trong chuyển đổi cơ cấu và đa dạng hoá cây trồng ở nước ta hiện
nay, đặc biệt trong chiến lược thâm canh tăng vụ.
Trước những nguồn lợi to lớn do cây đậu tương đem lại, cũng như để
đáp ứng nhu cầu ngày càng tăng về sản phẩm đậu tương ở nước ta, đồng thời
góp phần đưa chăn nuôi thành ngành sản xuất chính, chúng ta cần quan tâm
phát triển đậu tương theo 2 hướng vừa tăng năng suất, vừa tăng diện tích.

Trong đó, năng suất là yếu tố quan trọng, bởi tăng năng suất sẽ làm giảm giá
thành sản phẩm trên một đơn vị diện tích. Do đó, cần nhanh chóng nghiên
cứu và ứng dụng những tiến bộ khoa học kỹ thuật vào sản xuất, nhằm tạo ra
những giống có năng suất cao, phẩm chất tốt có khả năng thích ứng rộng.
Để đáp ứng được đòi hỏi cấp bách của thực tiễn sản xuất chúng tôi đã tiến
hành nghiên cứu đề tài “Nghiên cứu khả năng sinh trưởng, phát triển của một
số dòng đậu tương nhập nội từ Australia năm 2005 -2006 tại Thái Nguyên”.
2 Mục đích yêu cầu
2.1 Mục đích
Xác định những dòng Đậu tương có khả năng sinh trưởng, phát triển tốt phù
hợp với điều kiện sinh thái của Thái Nguyên để đưa vào thí nghiệm so sánh.
2.2 Yêu cầu
- Đánh giá khả năng sinh trưởng phát triển của một số dòng đậu tương
tham gia thí nghiệm.
- Đánh giá khả năng chống chịu và một số chỉ tiêu sinh lý của các dòng
đậu tương tham gia thí nghiệm.


3

- Đánh giá các yếu tố cấu thành năng suất và năng suất của các dòng đậu
tương tham gia thí nghiệm.
- So sánh một số dòng đậu tương có triển vọng trong vụ Xuân 2006.


4

Chương 1
TỔNG QUAN TÀI LIỆU
1.1 Cơ sở khoa học của đề tài

Để có đủ nguồn lương thực, thực phẩm chất lượng nuôi sống toàn cầu trong
bối cảnh khí hậu, môi trường sinh thái có nhiều biến đổi, con người phải tiến
hành một nền thâm canh hiện đại. Nền sản xuất này dựa trên việc áp dụng một
cách khoa học các yếu tố giống, nước phân bón và kỹ thuật chăm sóc…, đồng
thời phải bảo vệ được nguồn tài nguyên thiên nhiên, tránh ô nhiễm môi trường.
Trong những yếu tố trên, giống giữ vai trò quan trọng hàng đầu, sử dụng
giống tốt năng suất chất lượng được tăng lên, phẩm chất cây trồng được cải
thiện. Muốn phát huy được hiệu quả của giống cần phải sử dụng chúng phù
hợp với điều kiện đất đai và kinh tế xã hội của từng vùng. Bằng con đường
nhập nội hoặc tạo ra các giống có tiềm năng năng suất cao, chất lượng tốt,
phối hợp với khả năng chống chịu với các yếu tố ngoại cảnh bất lợi và chống
chịu các loại sâu bệnh hại, đồng thời có khả năng cải tạo và bảo vệ đất. Đó
chính là quá trình phát triển một nền nông nghiệp hiện đại, bền vững.
1.2 Tình hình sản xuất, chọn tạo giống đậu tương trên thế giới và trong nước
1.2.1. Tình hình sản xuất và nghiên cứu đậu tương trên thế giới
1.2.1.1. Tình hình sản xuất đậu tương trên thế giới
Trong cơ cấu cây trồng, cây đậu tương xuất hiện sớm nhưng chỉ phát triển
mạnh từ sau chiến tranh thế giới thứ hai cả về diện tích, năng suất và sản lượng.
Cây đậu tương được phân bố từ vùng ôn đới đến vùng nhiệt đới, từ độ
cao thấp hơn mặt biển đến độ cao gần 2.000 m và được phân bố rộng rãi từ
550 vĩ độ Bắc đến 550 vĩ độ Nam.
Đậu tương có nguồn dầu và Protein quan trọng. Trên thế giới khoảng 80%
sản lượng đậu tương được sản xuất ở 4 nước là: Mỹ (52%); Brazil (17%);
Achentina (10%) và Trung Quốc (10%).


5

Mặc dù cây đậu tương có nguồn gốc từ Viễn Đông nhưng hiện nay sản
xuất đậu tương ở Bắc Mỹ đã vượt xa vùng Viễn Đông. Trong tất cả các loại

cây đậu đỗ thì đậu tương có năng suất, sản lượng lớn nhất.
Tình hình sản xuất đậu tương trên thế giới trong những năm gần đây
được thể hiện qua bảng 1.1
Bảng 1.1: Diện tích, sản lượng, năng suất đậu tương trên thế giới
5 năm gần đây (2001 - 2005)
Năm

Diện tích (ha)

Năng suất (tạ/ha)

Sản lượng ( tấn)

2001

76.833.406

23,006

176.761.491

2002

78.852.995

22,943

180.909.511

2003


83.460.899

22,671

189.213.383

2004

91.610.834

22,531

206.409.525

2005

91.386.621

22,928

209.531.558

(Nguồn: Thống kê của FAOSTAT Database 2006)
Qua bảng 1.1 cho ta thấy: Tình hình sản xuất đậu tương trên thế giới có
xu hướng tăng cả về diện tích, năng suất và sản lượng.Về năng suất đậu tương
đạt 23,006 tạ/ha (năm 2001) và giữ mức ổn định qua các năm 2002, 2003,
2004, 2005 khoảng trên 22 tạ/ha.
Năm 2001, diện tích trồng đậu tương trên thế giới đạt 76.833.406 ha,
đến năm 2005 đạt 91.386.621 ha. Chính vì diện tích và năng suất ổn định, do

vậy sản lượng đậu tương đã tăng qua các năm từ 2002 đến 2005.
Từ những năm 1980 đến nay, Mỹ luôn là nước đứng đầu về sản xuất
đậu tương trên thế giới, thị trường xuất khẩu chủ yếu ở dạng nguyên hạt, vì
nhiều nước nhập khẩu dùng làm thức ăn cho người và chế biến thành bột hoặc
ép dầu. Điều đó chứng tỏ các sản phẩm được chế biến từ đậu tương rất đa
dạng và phong phú.


6

Các nước nhập khẩu lớn gồm: Cộng đồng kinh tế châu Âu, Đức, Anh,
Pháp, Hà Lan, Bỉ....Đến sau chiến tranh thế giới thứ hai 2, quốc gia vẫn đứng
đầu trong danh sách xuất khẩu lớn nhất là Mỹ và Trung Quốc, tuy nhiên do có
sự gia tăng về dân số cho nên việc xuất khẩu của Trung Quốc có chiều hướng
giảm và bắt đầu chuyển sang xu thế nhập khẩu thêm đậu tương để đáp ứng
nhu cầu tiêu dùng trong nước.
Đậu tương đối với nước Mỹ được coi là một mặt hàng có giá trị chiến
lược trong xuất khẩu và thu đổi ngoại tệ. Một trong bốn nguyên nhân thúc đẩy
nền sản xuất đậu tương ở Mỹ lớn mạnh là do việc tăng năng suất đậu tương
(Nguyễn Thị Thanh Thanh, 1974 [29]). Việc tăng năng suất đậu tương có ý
nghĩa lớn đối với ngành sản xuất đậu tương ở Mỹ, vì năng suất tăng sẽ làm
giảm giá thành của một đơn vị sản phẩm. Nhiệm vụ chủ yếu đặt ra cho các
nhà chọn giống ở Mỹ là:
1. Khai thác những giống có năng suất hạt cao.
2. Nâng cao tỷ lệ dầu và Protein trong hạt.
3. Cải tiến chất lượng hạt.
4. Nâng cao tính chống chịu sâu bệnh.
5. Tạo nên hàng loạt các giống có thời gian sinh trưởng khác nhau.
6. Nâng cao khả năng chống hạt bị tách khi chín.
7. Tạo nên chiều cao cây thích hợp.

8. Nâng cao tính chống đổ của cây.
Ở Mỹ hiện nay, diện tích trồng đậu tương đứng thứ 3 sau lúa mỳ, ngô
và được coi là mặt hàng có giá trị chiến lược trong xuất khẩu và thu đổi ngoại
tệ. Nguyên nhân thúc đẩy sản xuất đậu tương ở Mỹ phát triển là do áp dụng
các biện pháp kỹ thuật, tăng năng suất trong đó yếu tố giống được chú ý hơn
cả. Chính vì vậy diện tích, năng suất, sản lượng của cây đậu tương ở nước này
không ngừng tăng lên trong những năm gần đây.


7

Qua bảng 1.2 cho thấy: Năng suất đậu tương của Mỹ ổn định đạt trung
bình khoảng 25,836 tạ/ha, do diện tích tăng dần từ năm 2001 là 29.532.250 ha
đến năm 2004 lên tới 29.943.010 ha. Về sản lượng đạt 78.671.472 tấn (năm
2001) và 85.740.952 tấn (năm 2004). Do năng suất tăng từ 26,639 tạ/ha (năm
2001) lên 28,635 tạ/ha (năm 2004).
Bảng 1.2. Tình hình sản xuất đậu tương ở Mỹ năm 2001 - 2005
Năm

Diện tích (ha)

Năng suất (tạ/ha)

Sản lượng ( tấn)

2001

29.532.25

26,639


78.671.472

2002

29.314.53

25,525

74.824.768

2003

29.330.31

22,768

66.777.820

2004

29.943.01

28,635

85.740.952

2005

29.952.00


28,391

85.035.000

(Nguồn: Thống kê của FAOSTAT Database - 2006)
Ở Mỹ cây đậu tương là một trong những loại cây trồng được coi là mặt
hàng có giá trị chiến lược trong xuất khẩu và đặc biệt việc tăng năng suất là
nguyên nhân thúc đẩy nền sản xuất đậu tương ở Mỹ ngày càng phát triển
mạnh. Việc tăng năng suất có ý nghĩa rất lớn tới việc hạ giá thành sản phẩm,
do vậy họ rất chú trọng tới khâu chọn tạo các loại giống mới cho năng suất
cao và tìm các giống thích nghi với từng điều kiện sinh thái.
Tiếp sau Mỹ phải kể đến Brazil nước đứng thứ 2 trên thế giới về tổng
diện tích và sản lượng. Về diện tích chiếm 18,5%, sản lượng 20,12% so với
sản lượng đậu tương thế giới


8

Bảng 1.3. Tình hình sản xuất đậu tương ở Brazil năm 2001 - 2005
Năm

Diện tích (ha)

Năng suất (tạ/ha)

Sản lượng ( tấn)

2001


13.985.100

27,105

37.907.300

2002

16.345.200

25,712

42.026.500

2003

18.436.500

27,959

51.547.300

2004

21.474.870

22,913

49.205.268


2005

22.948.870

22,303

51.182.000

(Nguồn: Thống kê của FAOSTAT Database - 2006)
Qua số liệu bảng 1.3 cho thấy: Diện tích trồng đậu tương tăng dần
trong 5 năm qua. Năm 2001 diện tích trồng đậu tương của Brazil là 13.985.100
ha tăng dần đến năm 2004 đạt 21.474.870 ha, năng suất bình quân biến động
từ 22,913 tạ/ha đến 27,959 tạ/ha. Sản lượng tăng mạnh từ 37.907.300 tấn (năm
2001) đến 51.547.300 tấn (năm 2003), Còn năm 2004 năng suất và sản lượng
có phần giảm so với năm 2003.
Đậu tương ở Braxil hầu hết được dùng làm bột và ép dầu. Chính phủ
Braxil khuyến khích đẩy mạnh công nghiệp chế biến trong nước và xuất khẩu
khô dầu, bột đậu...
Achentina là nước sản xuất đậu tương lớn thứ ba sau Mỹ và Braxil. Ở
Achentina, đậu tương thường được luân canh với lúa mỳ. Đậu tương bắt đầu
phát triển tương đối mạnh từ 1961 – 1962 do chính sách hỗ trợ của chính phủ.
Sau đó diện tích và sản lượng hàng năm đều tăng. Hiện nay để mở rộng
diện tích sản xuất đậu tương Achentina đang tiếp tục tìm kiếm thêm diện
tích đất cho trồng đậu tương. Đất mới để trồng đậu tương sẽ được lấy từ
đất trồng ngũ cốc, đặc biệt là các vùng Zona Nuclêo, trung tâm Achentina
(WAP, Tune 2005).


9


Bảng 1.4. Tình hình sản xuất đậu tương ở Achentina năm 2001 - 2004
Năm

Diện tích (ha)

Năng suất (tạ/ha)

Sản lượng ( tấn)

2001

10.400.778

25,829

26.864.000

2002

11.414.000

26,441

30.180.000

2003

12.421.000

28,017


34.800.000

2004

13.954.000

22,932

32.000.000

(Nguồn: Thống kê của FAOSTAT Database- 2005 )
Qua số liệu bảng 1.4: ta thấy diện tích, năng suất và sản lượng đậu
tương ở Achentina trong 4 năm qua ( 2001-2004) tương đối ổn định và tăng
tương đối đều giữa các năm. Năm 2001 có diện tích là 10.400.778 ha, năng
suất đạt 25,829 tạ/ha và sản lượng đạt 26.864.000 tấn, thấp nhất trong 4
năm.Còn năm 2004 diện tích trồng đậu tương cao nhất 12.421.000 ha, nhưng
năng suất và sản lượng cao nhất vào năm 2003 với năng suất đạt 28,017 tạ/ha
và sản lượng đạt 34.800.000 tấn.
Ở Châu á Trung Quốc có diện tích gieo trồng và sản lượng đậu tương
lớn nhất. Hiện nay Trung Quốc có diện tích trồng đậu tương chiếm 11,6%
diện tích trồng đậu tương với sản lượng 17.750.340 triệu tấn, chiếm 8,59%
sản lượng đậu tương trên thế giới.
Bảng 1.5. Tình hình sản xuất đậu tương ở Trung quốc năm 2001 - 2005
Năm

Diện tích (ha)

Năng suất (tạ/ha)


Sản lượng ( tấn)

2001

9.481.968

16,249

15.407.328

2002

8.719.669

18,931

16.507.368

2003

9.312.655

16,814

15.658.341

2004

10.580.150


16,777

17.750.340

2005

9.593.140

17,513

16.800.000

(Nguồn: Thống kê của FAOSTAT Database- 2006 )


10

Qua số liệu bảng 1.5 cho thấy: Trong 4 năm gần đây nhìn chung diện
tích, năng suất và sản lượng đậu tương của Trung Quốc tăng dần. Năm 2002
diện tích gieo trồng đạt 9.306.913 ha, năm 2004 là 10.580.150 ha. Còn về
năng suất thấp nhất là năm 2001 với 16.249 tạ/ha, cao nhất là năm 2003 đạt
18.931 tạ/ha. Sản lượng thấp nhất là năm 2001 là 15.407.328 tấn, cao nhất là
năm 2004 với 17.750.340 tấn.
Như vậy, năm 2003 mặc dù diện tích trồng đậu tương của Trung Quốc
ít nhất trong 4 năm, song do năng suất đạt cao nhất dẫn đến sản lượng cao
nhất. Như vậy năng suất là yếu tố vô cùng quan trọng. Cho nên Trung Quốc
đã áp dụng khoa học kỹ thuật lai tạo và nhập nội giống. Ngoài ra Trung Quốc
còn tổ chức hàng loạt các chương trình cải tiến giống từ dạng cũ sang dạng
mới có khả năng chống chịu với sâu bệnh tốt, phù hợp với điều kiện tự nhiên
của từng vùng, nhằm tạo ra những giống tốt có năng suất cao trên 20 tạ/ha.

1.2.1.2. Tình hình nghiên cứu chọn tạo giống đậu tương trên thế giới
Nhận thức được vai trò vô cùng quan trọng của đậu tương, cũng như nhu
cầu của con người mà nhiều nước đã đầu tư lớn cho việc tăng năng suất và diện
tích gieo trồng cây đậu tương. Do diện tích đất gieo trồng có hạn, đòi hỏi các nhà
khoa học nghiên cứu chọn tạo để tìm ra giống mới có năng suất cao, ổn định.
Để thực hiện được điều đó thì cần phải đẩy mạnh phát triển nền khoa
học kỹ thuật chọn tạo giống nhờ các phương pháp chọn lọc, nhập nội, lai tạo,
gây đột biến để tạo ra nhiều giống mới có năng suất cao, phẩm chất tốt thích
nghi với điều kiện ngoại cảnh của các vùng sinh thái khác nhau.
Hiện nay nguồn gen đậu tương trên thế giới được lưu giữ chủ yếu ở 15
nước: Đài loan, Australia, Trung quốc, Pháp, Nigienia, Ấn độ, Inđonesia,
Nhật Bản, Triều Tiên, Nam Phi, Thụy điển, Thái Lan, Mỹ và Liên xô với tổng
số 45.038 mẫu giống (Trần Đình Long, 1991)[22].
Mỹ là nước đứng đầu trên thế giới về diện tích và sản lượng đậu tương.
Nhờ các phương pháp chọn lọc và nhập nội, gây đột biến và lai tạo họ đã tạo


11

ra được những giống đậu tương mới. Những dòng nhập nội có năng suất cao
đều được sử dụng làm giống gốc trong các chương trình lai tạo và chọn lọc.
Từ thí nghiệm đầu tiên ở Mỹ được tiến hành vào năm 1804 tại bang
Pelecibuahina, đến năm 1893 ở Mỹ có trên 10.000 mẫu giống đậu tương thu
thập từ các nơi trên thế giới. Giai đoạn 1928 – 1932, trung bình mỗi năm
nước Mỹ nhập nội trên 1190 dòng từ các nước khác nhau. Hiện nay Mỹ đã
đưa vào sản xuất trên 100 dòng giống đậu tương, đã tạo ra một số giống có
khả năng chống chịu tốt với bệnh Phytopthora và thích ứng rộng như Amsoy
71, Lec 36, Clark 63, Harkey 63. Hướng chủ yếu của công tác nghiên cứu
chọn giống là sử dụng các tổ hợp lai cũng như nhập nội, thuần hóa trở thành
giống thích nghi với từng vùng sinh thái, đặc biệt là nhập nội để bổ sung vào

nguồn quỹ gen. Mục tiêu của công tác chọn giống ở Mỹ là chọn ra những
giống có khả năng thâm canh cao, phản ứng yếu với quang chu kỳ, chống
chịu tốt với điều kiện bất thuận, hàm lượng Protein cao, dễ bảo quản và chế
biến (Johnson H.W, Bernard, 1967)[39].
Nghiên cứu chọn tạo giống đậu tương bằng phương pháp đột biến ở Mỹ
cũng đạt nhiều kết quả. Các giống đậu tương năng suất cao, chất lượng tốt lần
lượt được đua ra bởi Williams L.F 1950, Williams,1961. Đặc biệt những năm
1988 -1990 Tulman - netto, Nazim đã tạo được giống đột biến chống chịu bệnh
gỉ sắt và bệnh virut (Cơ cấu mùa vụ đậu tương đồng bằng trung du bắc bộ)[3].
Đặc biệt sau nhiều năm dầy công kiểm tra hàng nghìn giống đậu tương,
cuối cùng thì các chuyên gia Mỹ đã tìm ra giống không gây dị ứng. Nhà di
truyền thực vật Ted Hymowitz và cộng sự Leina Mary thuộc Đaị học Linois
đã bắt đầu nghiên cứu hạt của 15.000 giống trong bộ sưu tập của bộ nông
nghiệp Mỹ. Họ phải mất chừng 8 tháng mới tìm thấy một loại hạt thiếu P34 –
protein gây phần lớn trong các phản ứng dị ứng. Các nhà khoa học đã sử dụng
kỹ thuật chuyển gen để ức chế gen tạo P34 ở phần lớn đậu tương. Cuối cùng
sau khi đã kiểm tra gần 15.000 giống và tìm thấy giống không có P34
(Vietnamad.com )[33].


12

Trung Quốc là nước gần Việt Nam và có tập quán canh tác tương tự,
hiện nay Trung quốc là nước đứng thứ 4 trên thế giới về sản xuất đậu tương.
Diện tích đậu tương năm 2004 là 10.580.150 ha. Sản lượng 17.750.340 tấn
(Trần Đình Long và CS, 1991)[21] ). Sở dĩ đạt được kết quả trên là do Trung
Quốc đã mạnh dạn ứng dụng các tiến bộ khoa học trong lai tạo và nhập nội
giống. Ngoài ra họ còn tổ chức hàng loạt các chương trình cải tiến giống từ
dạng cũ ra dạng mới có khả năng chống chịu tốt với sâu bệnh và cỏ dại, phù
hợp với khí hậu tiểu vùng các giống điển hình là CN001, CN002, YAT12,

HTF 18 đều cho năng suất bình quân 34 - 42 tạ/ha trên diện tích sản xuất rộng
tại nhiều tỉnh (FAO, 2003).
Trong những năm gần đây Trung quốc đã tạo được nhiều giống mới
băng phương pháp đột biến thực nghiệm như giống Tiefeng 18 do sử lý bằng
tia gamma, chịu được phèn cao, không đổ, năng suất cao, phẩm chất tốt.
Giống Heinou No16 sau khi sử lý bằng tia gamma đã cho hệ rễ tốt, lóng thân
ngắn, nhiều cành, chịu hạn, khả năng thích ứng rộng (Trần Đình
Đông,1994)[8]. Giống Trung chi số 8, năng suất 30 - 40 tạ/ha, thích hợp với
vùng Hồ Bắc; giống Trung Đậu số 20 được chọn từ tổ hợp lai 87-141/ Merit
kết hợp bằng tác nhân vật lý có tỷ lệ quả 4 hạt cao, năng suất 26-37 tạ/ha (Hội
thảo đậu tương quốc gia, 2003)[13].
Vùng Đông Nam Á ngày nay cũng là một vùng trọng điểm của công
tác phát triển giống đậu tương và được coi là quan trọng được ưu tiên hàng
đầu trong hệ thống nông nghiệp.
Tại Indonesia, các nhà nghiên cứu nhằm mục đích cải tiến giống có
năng suất cao trồng ở đất thấp sau vụ lúa và thời gian sinh trưởng ngắn 70-80
ngày, chống chịu bệnh gỉ sắt và có hạt dài. 15 giống có năng suất cao đã được
tạo ra và khuyến cáo trồng trong đó có giống Wilis được trồng phổ biến nhất,
giống này có thời gian sinh trưởng 85 ngày, đạt năng suất 2,5 tấn/ha. Một số
giống ngắn ngày như giống Tidar, Petek, Lawu... đạt 1,7 tấn/ha. Những đóng
góp từ viêc cải tiến giống là đưa năng suất đạt 2,5 tạ/ha, thời gian sinh trưởng


13

ngắn (75 ngày), thích ứng với điều kiện môi trường không thuận lợi ( không
cày đất, đất tiêu nước khó khăn), cải tiến chất lượng hạt, tăng chống
đổ...(Sumarno and T.Adisan wanto, 1991)[51]. Họ đã tạo ra được một số
giống: Kerinci, Rinjani, Lompobatang, B 3341 trồng trên đất ướt sau vụ lúa với
việc làm đất hoặc không làm đất trong mùa khô vẫn cho năng suất cao 1,471,68 tấn/ha. (Buitrago G, L.A; Orzcos, S.H. and Camacho M. L.H,1971)[35].

Để đáp ứng nhu cầu dùng đậu tương, đồng thời nhằm giảm nhập khẩu,
nhiều nước ở Châu âu đã quan tâm tới viêc nghiên cứu và phát triển cây đậu
tương. ở Liên xô (cũ) từ năm 1945 A. Kosenco đã xác định được hiệu quả đột
biến cao nhất của các liều lượng chiếu xạ đối với hạt đậu tương khô là 5 kr,
với mầm non và cây đang nở hoa là 2 kr. Enken (1957) bằng đột biến phóng
xạ đã thu được các dạng chín sớm, năng suất cao, hàm lượng protein cao, chịu
rét khá. Các nghiên cứu của Masenco (1955-1956) khi sử lý tia gamma và hóa
chất Ethylenimin ( EI ), Diethylsunphat ( DES ) tạo các giống chín sớm hơn
giống khởi đầu từ 8 -12 ngày, một số giống có năng suất vượt giống khởi đầu
từ 23- 24%.(Cơ cấu mùa vụ đậu tương ở đồng bằng trung du bắc bộ)[3]
Ở Bungari ( 1984 - 1986) C.Nikolov sử lý tia gamma liều 5 -30 kv và
hóa chất EMS nồng độ 0,1 - 0,4% lên các giống đậu tương đã thu các dạng
đột biến chín sớm 10 -20 ngày so với giống gốc, số nốt sần nhiều hơn.
Goranova lai tạo được các dòng có hàm lượng dầu vượt giống gốc từ 6 - 13%.
(Cơ cấu mùa vụ đậu tương ở đồng bằng trung du bắc bộ)[3].
Hiện nay công tác nghiên cứu về giống đậu tương trên thế giới đã được
tiến hành với qui mô rộng lớn. Nhiều một số giống đậu tương đã được tổ chức
quốc tế khảo nghiệm ở rất nhiều vùng sinh thái khác nhau nhằm thực hiện
một số nội dung chính sau: thử nghiệm tính thích nghi của giống ở từng điều
kiện, môi trường khác nhau tạo điều kiện so sánh giống địa phương với giống
nhập nội, đánh giá phản ứng của các giống trong những điều kiện môi trường
khác nhau.


14

Đã có nhiều thành công trong việc xác định các dòng giống tốt, có tính
ổn định và khả năng thích ứng khác nhau với các điều kiện môi trường khác
nhau. Sanbuichi và Gotoh (1969)[46] đã xác định từ số liệu thu được ở 7 địa
điểm trong 6 năm và cho thấy: một số giống có tính thích ứng rộng về không

gian nhưng lại nhạy cảm về thời gian, một số giống được xác định và thích
ứng rộng cho năm trồng và thích ứng hẹp cho nơi trồng. Một số kết quả của
Silva và CS (1970)[48] tại Braxin cho thấy: có những giống chỉ cho năng suất
cao ở môi trường thuận lợi, còn ở những môi trường không thuận lợi, những
giống khác lại cho năng suất cao hơn. Khi nghiên cứu 14 dòng, giống qua 4
vụ, Buitrago và CS (1971)[35] đã xác định được một số giống có khả năng
thích ứng rộng với tất cả các môi trường nghiên cứu, nhưng một số giống
khác lại chỉ thích ứng với từng môi trường riêng rẽ. Khi nghiên cứu 6 giống
đậu tương, Rohewal (1970)[45] đã xác định giống Bragg và giống Lee thích
hợp cho vùng có năng suất cao, giống Punjabl và giống Pelican thích hợp cho
vùng có năng suất thấp ở Ấn độ. Tác giả không xác định được giống lý tưởng
phù hợp với mọi môi trường. Singh và Chaudhary (1985)[49] đã xác định
được có 6 trong 32 giống đậu tương triển vọng có năng suất cao, nhạy cảm
trên trung bình và ổn định: HM 93, PK 73-92, PK 73-94, PK 321, Bragg và
SH1. Weber (1992)[52] cho rằng ở cây đậu tương sự thích ứng về năng suất
chủ yếu là do yêu cầu của quang chu kỳ. Còn Leng (1968)[42] lại cho rằng sự
thích ứng về năng suất là do cảm ôn.
Santos và Vieira (1975)[47] nghiên cứu sự thích ứng của các giống đậu
tương ở các nơi trồng khác nhau đã xác định được 4 giống có năng suất cao
và yếu nhạy cảm nhất với sự thay đổi của điều kiện môi trường, 3 giống có
tính ổn định trung bình ở tất cả các môi trường nhưng có năng suất thấp hơn
năng suất trung bình.
Kết quả thí nghiệm ở một số nước cho thấy tính ổn định kiểu hình về
năng suất của những giống đậu tương chịu lạnh - ở một thí nghiệm, giống
Fiskeby - V cho năng suất cao hơn các giống khác cả ở điều kiện lạnh hơn và


15

nóng hơn nhiệt độ trung bình. Ở thí nghiệm khác, giống Fiskeby - V cho năng

suất cao hơn các giống khác ở điều kiện lạnh, nhưng ở vụ ấm nhất nó chỉ vượt
năng suất một giống.
Như vậy việc nghiên cứu nhằm đánh giá sự ổn định và khả năng thích
ứng có ý nghĩa to lớn trong công tác chọn tạo giống đậu tương, cho phép chọn
ra những dòng, giống đậu tương có năng suất cao, ổn định, thích hợp với các
vùng sinh thái khác nhau.
Bên cạnh việc cải tiến năng suất, phẩm chất thì việc nghiên cứu để tạo
ra các giống có sức đề kháng đa hiệu, kháng được nhiều loại sâu bệnh hại và
các điều kiện ngoại cảnh bất thuận cũng đang được các nhà chọn giống trên
thế giới quan tâm. Đặc biệt là vấn đề tạo giống chống bệnh...Một số nước có
nền nông nghiệp phát triển như Mỹ, Úc đã sử dụng công nghệ tế bào phân tử
để xác định các gen kiểm tra về sâu bệnh hại, tuyến trùng, phản ứng thuốc, vi
khuẩn nốt sần và quá trình phát triển cây đậu tương, mặt khác còn chuyển
ghép gen tạo ra vật liệu khởi đầu mới, áp dụng công nghệ tế bào để phân lập
được gen chịu hạn thành công.(Hội thảo đậu tương quốc gia)[13]
Đậu tương vốn là cây trồng tự thụ phấn nên phương pháp tạo giống và
chọn lọc giống như những cây tự thụ khác, nhưng cũng có đặc thù riêng của
nó. Song song với việc chọn lọc các giống theo phương pháp thông thường thì
công tác chọn lọc các giống theo chỉ số cũng đã được áp dụng đối với nhiều
cây trồng khác nhau, trong đó có cây đậu tương. Tuy nhiên những kết quả
thông báo về việc nghiên cứu và áp dụng chỉ số chọn lọc ở đậu tương còn hạn
chế và chưa thống nhất.
Để tạo được giống đậu tương có chất lượng hạt cao người ta thường
dùng hai phương pháp chính là đột biến và lai tạo. Hoặc dùng các tia phóng
xạ với liều lượng khác nhau, xử lý hạt rồi đem gieo. Quá trình gây đột biến
thường cho kết quả mong muốn nhanh, rút ngắn thời gian lai tạo. Nhưng tạo


16


giống bằng phương pháp gây đột biến thường tốn kém và các thế hệ sau biến
dị ngày càng lớn hơn, do đó chất lượng giống giảm dần.
Lai hữu tính để tạo giống có chất lượng cao người ta thường dùng
phương pháp lai trở lại. Con lai trở lại với bố mẹ đã thích ứng để hoà nhập
các gen mong muốn từ gen nhập. Mức độ trở lại phụ thuộc vào độ khác biệt
giữa hai bố mẹ. Phương pháp này cho ra giống ổn định, lâu bền nhưng đòi hỏi
mất nhiều thời gian lai tạo.
Johnson và cộng tác viên, (1955b) [40] khi nghiên cứu hiệu quả chọn
lọc theo chỉ số gồm một hoặc nhiều tính trạng cho thấy chọn lọc theo các tính
trạng gián tiếp như thời gian đậu quả, tính chín muộn, hạt to, tính chống tách
hạt, chống đổ, hàm lượng Protein thấp có thể cải lương về năng suất hạt,
nhưng mức độ hiệu quả có khác nhau giữa các tính trạng. Trong đó các tính
trạng như thời gian sinh trưởng ở quần thể 1 và khối lượng 1000 hạt ở quần
thể 2 có thể thực sự là các tính trạng khác nhau, các kết quả cho thấy chọn lọc
chỉ dựa trên chỉ số gồm thời gian đậu quả và khối lượng hạt cho hiệu quả
tương đương như là chọn lọc trực tiếp. Khi đưa thêm tính trạng chống đổ,
hàm lượng dầu và đạm vào chỉ số trên thì hiệu quả chọn lọc tăng lên tương
đối rõ rệt. Hiệu quả chọn lọc tương đối theo chỉ số gồm năng suất, thời gian
đậu quả, khối lượng hạt, tính chống đổ, hàm lượng dầu và hàm lượng đạm đạt
140,8% ở quần thể 1 và 126,1% ở quần thể 2.
Khi nghiên cứu chọn lọc các giống theo chỉ số bao gồm các dạng kết
hợp khác nhau của 6 tính trạng là: Chiều cao cây, số qủa/ cây, số cành cấp 1,
khối lượng 100 hạt, số ngày gieo từ khi gieo đến khi chín và năng suất hạt.
Singh và Dalal, (1979) đã cho thấy chọn lọc theo chỉ số cho hiệu quả
trực tiếp về năng suất hạt. Trong đó hiệu quả tương đối cao nhất là 106,4%,
được xác định khi chọn lọc dựa theo chỉ số gồm: Số quả/cây, số ngày đến khi
chín và số cành cấp I. Chọn lọc theo chỉ số gồm các tính trạng gián tiếp và khối
lượng 100 hạt, số quả/cây và số cành cấp I cho hiệu quả tương đối là 104%.



17

Pritchard và cộng tác viên, (1973) [44] cho thấy chọn lọc theo chỉ số
dựa trên 7 tính trạng cho hiệu quả cao hơn so với chọn lọc trực tiếp về năng
suất hạt. Ở các tổ hợp lai khác nhau về vai trò tương đối của các yếu tố năng
suất trong chỉ số chọn lọc.
Sự tương tác giữa các giống và môi trường có vai trò quan trọng trong
qúa trình cải lương các giống cây trồng trong nông nghiệp. Đối với cây đậu
tương đã có một số kết quả nghiên cứu về sự tương tác giữa các giống với
điều kiện môi trường khác nhau.
Johnson và cộng tác viên, (1955 a) [41]; Byth và Weber, (1968) [36]
cho thấy có sự tương tác cao giữa các giống với môi trường cho năng suất hạt
và sự tương tác rất thấp có chiều cao cây và tương tác trung bình cho kích
thước hạt, sự đổ sớm, hàm lượng đạm và hàm lượng dầu.
Sự tương tác giữa giống và môi trường còn được một số tác giả phân
tích thành các thành phần tương tác tuyến tính và phi tuyến tính. Rohewal,
(1970) [45]; Gopani và cộng tác viên, (1972) [37] đã xác định sự tương tác
phi tuyến tính có ý nghĩa đối với hầu hết các tính trạng nghiên cứu và điều đó
có thể là nguyên nhân của sự thích ứng có giới hạn của cây đậu tương.
Qua phân tích ổn định kiểu hình dựa theo mẫu hình khác nhau, đã có nhiều
công trình thông báo về việc xác định các dòng giống đậu tương tốt, có tính ổn
định và khả năng thích ứng khác nhau đối với điều kiện môi trường khác nhau.
Sanbuichi và Gotok, (1969) [46] đã xác định được hệ số hồi qui cho 5
giống đậu tương ở Hohkaido (Nhật Bản) từ số liệu lấy ở 7 nơi trong 6 năm.
Các kết quả cho thấy giống có thích ứng rộng về không gian nhưng nhậy cảm
về thời gian. Một số giống được xác định là thích ứng rộng cho năm trồng và
thích ứng hẹp (nhạy cảm) cho nơi trồng. Nghiên cứu về mối quan hệ giữa tính
ổn định của các thành phần khác nhau, một số kết quả cho thấy sự thích ứng
hạn chế của cây đậu tương về năng suất chủ yếu là do yêu cầu về quang chu
kỳ và có thể là do cảm ôn (Leng, 1968 [42]). Còn Smith và cộng tác viên,



×