Tải bản đầy đủ (.docx) (40 trang)

Xây dựng đô thị tăng trưởng xanh ở việt nam – chính sách, thực trạng và một số kinh nghiệm từ các nước châu á

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (337.56 KB, 40 trang )

MỤC LỤC
Trang

1


LỜI MỞ ĐẦU
Trong những năm gần đây, nền kinh tế thế giới phát triển nhanh chóng, đặc biệt
là sự tăng tưởng ấn tượng của hàng loạt các quốc gia khu vực châu Á – Thái Bình
Dương. Tuy nhiên đi cùng sự phát triển nhanh chóng này là một loạt các vấn đề về
môi trường nảy sinh như ô nhiễm môi trường sống, biến đổi khí hậu, cạn kiệt tài
nguyên, suy giảm hệ sinh thái tự nhiên…
Các vấn đề môi trường không chỉ ảnh hưởng đến sức khỏe, cuộc sống của
người dân mà còn ảnh hưởng đến quá trình tăng trưởng và phát triển của các quốc
gia trên thế giới. Đứng trước thực trạng này, việc chuyển đổi mô hình tăng trưởng
là điều tất yếu và tăng trưởng xanh đã được coi như một con đường phù hợp nhất
để phát triển bền vững mà nhiều quốc gia trên thế giới đang theo đuổi, trong có
Việt Nam.
Việt Nam là quốc gia đang phát triển, cũng đang gặp nhiều vấn đề về môi
trường trong quá trình tăng trưởng, hơn nữa Việt Nam cũng được dự báo là một
trong mười quốc gia chịu ảnh hưởng nặng nề nhất của biến đổi khí hậu. Chính vì
vậy, tăng trưởng xanh được Nhà nước coi là nhiệm vụ trọng tâm nhằm hướng tới
tăng trưởng bền vững.
Mặt khác, ở Việt Nam, tỷ lệ và tốc độ đô thị hóa khá cao, việc xây dựng đô thị
tăng trưởng xanh sẽ góp phần không nhỏ vào chiến lược tăng trưởng xanh của cả
nước.
Vì ý nghĩa đó, nhóm nghiên cứu đã quyết định nghiên cứu đề tài “Xây dựng đô
thị tăng trưởng xanh ở Việt Nam – chính sách, thực trạng và một số kinh
nghiệm từ các nước châu Á” nhằm làm rõ hơn vai trò của việc xây dựng đô thị
tăng trưởng xanh, những chính sách của nhà nước và thực trạng tăng trưởng xanh ở
các đô thị hiện nay, đồng thời tổng kết một số kinh nghiệm từ các nước châu Á mà


Việt Nam có thể tham khảo trong quá trình chuyển đổi mô hình tăng trưởng của
mình.
2


NỘI DUNG
1. Tổng quan về tăng trưởng xanh tại đô thị
1.1. Các khái niệm
1.1.1. Khái niệm tăng trưởng xanh
“Tăng trưởng xanh” (Green Growth) lần đầu được thảo luận tại Hội thảo về
phát triển môi trường năm 2005 tại Seoul, Hàn Quốc.
Cho đến nay, “Tăng trưởng xanh” đã không còn là thuật ngữ xa lạ với các quốc
gia trên thế giới, đặc biệt là những nước đang phải đối mặt với những thách thức về
môi trường, sự ô nhiễm, sự cạn kiệt tài nguyên và biến đổi khí hậu. Tuy nhiên, cho
tới bây giờ vẫn chưa có một định nghĩa thống nhất về tăng trưởng xanh trong các
cuộc bàn luận chính sách và trong công chúng.
Theo Tổ chức Hợp tác và Phát triển Kinh tế OECD (Organization for
Economic Co-operation and Development): “Tăng trưởng xanh là thúc đẩy tăng
trưởng và phát triển kinh tế đồng thời đảm bảo rằng các nguồn tài sản tự nhiên tiếp
tục cung cấp các tài nguyên và dịch vụ môi trường thiết yếu cho cuộc sống của
chúng ta. Để thực hiện điều này, tăng trưởng xanh phải là nhân tố xúc tác trong việc
đầu tư và đổi mới, là cơ sở cho sự tăng trưởng bền vững và tăng cường tạo ra các
cơ hội kinh tế mới”.
Còn Uỷ ban kinh tế xã hội khu vực Châu Á – Thái Bình Dương của Liên Hợp
Quốc (NESCAP) lại nhận định rằng : “Tăng trưởng xanh là chiến lược tìm kiếm sự
tối đa hoá trong sản lượng kinh tế và tối thiểu hoá gánh nặng sinh thái. Cách tiếp
cận mới tìm kiếm sự hài hoà giữa tăng trưởng kinh tế và tính bền vững môi trường
bằng việc thúc đẩy những thay đổi cơ bản trong sản xuất và tiêu dùng xã hội”.
Đối với Việt Nam, khái niệm “ Tăng trưởng xanh” được hiểu là là sự tăng
trưởng dựa trên quá trình thay đổi mô hình tăng trưởng, tái cơ cấu nền kinh tế nhằm

tận dụng lợi thế so sánh, nâng cao hiệu quả và sức cạnh tranh thông qua việc
nghiên cứu và áp dụng công nghệ tiên tiến, phát triển hệ thống cơ sở hạ tầng hiện
3


đại để sử dụng hiệu quả tài nguyên thiên nhiên, giảm phát thải khí nhà kính, ứng
phó với biến đổi khí hậu, góp phần xóa đói giảm nghèo và tạo động lực thúc đẩy
tăng trưởng kinh tế một cách bền vững.
Như vậy có thể hiểu,“Tăng trưởng xanh” là hướng tiếp cận mới trong tăng
trưởng kinh tế. Cách tiếp cận này không chỉ mang lại lợi ích kinh tế, mà còn hướng
tới phục hồi và bảo tồn hệ sinh thái tự nhiên, nuôi dưỡng cuộc sống con người,
giảm tác động của biến đổi khí hậu. “Tăng trưởng xanh” là việc làm cho các quá
trình tăng trưởng trở nên hiệu quả về mặt tài nguyên, sạch hơn và chóng phục hồi
hơn.
Tóm lại, nội hàm then chốt của tăng trưởng xanh là vừa đảm bảo tăng trưởng
kinh tế, vừa bảo tồn được thiên nhiên cho các thế hệ mai sau, bảo vệ môi trường,
phát triển các loại công nghệ sạch, sử dụng nguồn năng lượng sạch, giảm phụ thuộc
vào nhiên liệu hoá thạch.
1.1.2. Khái niệm tăng trưởng xanh tại đô thị
Đô thị và tăng trưởng xanh tại đô thị luôn được xem là nội dung quan trọng
trong chiến lược tăng trưởng xanh ở các quốc gia.
Theo định nghĩa của OECD: “Đô thị tăng trưởng xanh có nghĩa là thúc đẩy
tăng trưởng và phát triển kinh tế thông qua các hoạt động đô thị làm giảm yếu tố
môi trường tiêu cực bên ngoài cũng như làm giảm tác động đến nguồn tài nguyên
thiên nhiên và áp lực lên hệ sinh thái. Sự xanh hóa nền kinh tế đô thị truyền thống
và mở rộng khu vực đô thị xanh có thể tạo ra sự tăng trưởng (thông qua sự gia tăng
cung, cầu), tạo việc làm và gia tăng sức hấp dẫn của thành phố. Các hiệu ứng này là
một phần kết quả của sự tương tác mạnh hơn ở cấp độ đô thị giữa hiệu quả kinh tế,
công bằng xã hội và các mục tiêu về môi trường”.
Như vậy tương tự như khái niệm Tăng trưởng xanh, tăng trưởng xanh tại đô thị

là việc giải quyết hài hòa các thách thức về kinh tế, môi trường, từ đó tạo ra sự tăng
trưởng bền vững cho đô thị.

4


1.2. Sự cần thiết của tăng trưởng xanh tại đô thi ở Việt Nam
1.2.1. Sự cần thiết của tăng trưởng xanh tại Việt Nam


Tăng trưởng xanh là nội dung quan trọng của phát triển bền vững góp
phần tăng chất lượng tăng trưởng, hiệu suất, hiệu quả sản xuất và cải thiện
tính cạnh tranh

Kinh tế Việt Nam đã đạt được những thành tựu quan trọng trong vài thập kỷ
qua vơi tốc độ tăng trưởng kinh tế bình quân mỗi năm đạt trên 7%, đời sống nhân
dân được cải thiện đáng kể. Thu nhập bình quân đầu người tính đến năm 2014 đã
đạt hơn 2.000 USD, đã ra khỏi nhóm nước thu thập thấp để trở thành quốc gia có
thu nhập trung bình. Quy mô kinh tế năm 2014 gấp khoảng 23 lần năm 1955, gấp
khoảng 6,5 lần năm 1985 và gấp trên 5 lần năm 1990, gấp trên 2,5 lần năm 2000
(bình quân 1 năm thời kỳ 2001 - 2011 đạt 7,14%).
Tuy nhiên, tăng trưởng kinh tế của Việt Nam chưa bền vững, điều này thể hiện
qua chất lượng tăng trưởng, năng suất, hiệu quả, sức cạnh tranh của nền kinh tế còn
thấp, các cân đối kinh tế vĩ mô chưa thật vững chắc và ảnh hưởng từ cuộc khủng
hoảng tài chính, suy thoái kinh tế toàn cầu càng cho thấy rõ điều này.
Nếu phát triển theo hướng tăng trưởng xanh, thay vì bị coi như là nơi hấp thụ
chất thải tạo ra bởi các hoạt động kinh tế một cách thụ động, môi trường được xem
là nhân tố có tính quyết định đến tăng trưởng kinh tế; nâng cao hiệu quả sử dụng
năng lượng trong sản xuất giúp cải thiện chuỗi giá trị, đem lại sự ổn định và thịnh
vượng lâu dài.



Giải quyết tình trạng khai thác tài nguyên với cường độ cao nhưng hiệu
quả thấp gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến môi trường

Những năm gần đây, Việt Nam đang phải hứng chịu hậu quả nặng nền do tài
nguyên bị khai thác cạn kiệt dẫn đến môi trường bị ô nhiễm nặng. Trong khi đó các
ngành kinh tế thân thiện với môi trường chưa được phát triển, nhiều ngành còn phụ
thuộc vào nguồn năng lượng hóa thạch nhập khẩu do công nghệ chậm được đổi
mới với mức độ tiêu tốn năng lượng, tài nguyên thiên nhiên cao.
5


Tăng trưởng xanh sẽ làm cho nền kinh tế giảm thiểu phát thải Cacbon, giảm
thiểu ô nhiễm môi trường, sử dụng hiệu quả năng lượng và tài nguyên, ngăn chặn
sự suy giảm đa dạng sinh học và dịch vụ của hệ sinh thái nhằm bảo đảm một sự
phát triển ổn định, hiệu quả, liên tục và bền vững trên cơ sở bảo vệ môi trường và
lấy con người làm trung tâm.


Góp phần trong nỗ lực toàn cầu chống biến đổi khí hậu

Trong quá trình tiến hoá của nhân loại, có lẽ loài người chưa bao giờ đứng
trước một thách thức nghiêm trọng và phức tạp như hiện nay đó là hiện tượng biến
đổi khí hậu và những hệ lụy của nó.
Trước những hậu quả mà biến đổi khí hậu có thể mang lại mà Việt Nam là một
trong những quốc gia bị ảnh hưởng nặng nề nhất, thế giới nói chung và nước ta nói
riêng đang đặt ưu tiên cho việc giảm phát thải khí nhà kính. Từ đó xây dựng mô
hình tăng trưởng mới – tăng trưởng xanh hay tăng trưởng ít Cacbon chú trọng tới
sử dụng hiệu quả tài nguyên thiên nhiên, tăng cường sử dụng năng lượng tái tạo và

công nghệ thân thiện với môi trường đã trở thành yêu cầu cấp thiết.


Một số lợi ích khác của tăng trưởng xanh như xóa đói giảm nghèo, tạo
thêm nhiều việc làm…

Tăng trưởng xanh tạo ra việc làm trong một loạt các lĩnh vực mới nổi và nhiều
tiềm năng, chẳng hạn như du lịch sinh thái, nông nghiệp hữu cơ, năng lượng tái tạo,
giao thông công cộng, công nghiệp xanh, công nghiệp và dịch vụ môi trường… Đi
kèm với đó sẽ là sự gia tăng thu nhập cho người dân, đặc biệt là người dân ở khu
vực nông thôn, giúp xóa đỏi giảm nghèo, phát triển kinh tế nhanh và bền vững
1.2.2. Tầm quan trọng của việc xây dựng đô thị tăng trưởng xanh đối với
chiến lược tăng trưởng xanh của Việt Nam


Đô thị là trung tâm công nghiệp, dịch vụ đóng vai trò quan trọng trong
tăng trưởng kinh tế của nước ta

Các đô thị thường là các trung tâm kinh tế, chính trị lớn có sức chi phối mạnh
mẽ đến sự tăng trưởng và phát triển kinh tế - xã hội của đất nước.
6


Ở Việt Nam, số liệu thống kê năm 2005 cho thấy khu vực đô thị đóng góp tới
70,4% GDP cả nước, 84% GDP trong ngành công nghiệp – xây dựng, 87% GDP
trong ngành dịch vụ và 80% trong ngân sách Nhà nước. Nước ta nhiều đô thị lớn có
vai trò là đầu tầu kinh tế, như thành phố Hồ Chí Minh, thủ đô Hà Nội …Tại đây, thị
trường lao động dồi dào giúp các doanh nghiệp dễ dàng để tìm kiếm nhân lực phù
hợp có kĩ năng tay nghề cao. Ngoài ra, là trung tâm công nghệ, sáng tạo và sự đổi
mới, đô thị còn đóng vai trò quan trọng chủ đạo trong việc tạo nên một thế hệ tri

thức mới, vạch ra các hoạch định chính sách quan trọng trong dài hạn về các vấn đề
nóng hổi hiện nay như biến đổi khí hậu, hay khan hiếm tài nguyên…


Đô thị là nơi tiêu thụ nhiều hàng hóa, năng lượng, tạo ra nhiều chất thải,
khí thải có tác động tiêu cực đến môi trường

Đô thị là nơi tập trung đông dân cư, đồng thời người dân thành thị cũng có nhu
cầu và khả năng tiêu dùng cao hơn khu vực nông thôn, do đó đây là nơi tiêu thụ
nhiều năng lượng, hàng hóa và cũng là nơi thải ra một lượng lớn chất thải, khí thải,
khí nhà kính.
Theo niên giám thống kê năm 2012 và Các Báo cáo hiện trạng môi trường 5
năm (2006 – 2010) của các tỉnh/thành phố, năm 2010, dân cư thành thị chiếm
30,5% nhưng chiếm tới 76,4% khối lượng chất thải rắn được xử lý tại các bãi chôn
lấp. Dự kiến đến năm 2030, khu vực đô thị sẽ chiếm tới 95,3% lượng chất thải rắn
được xử lý tại các bãi chôn lấp.
Đô thị cũng là nơi tập trung nhiều khu công nghiệp, giao thông vận tải đông
đúc, hoạt động thương mại, dịch vụ sầm uốt. Đây chính là những hoạt động tạo ra
rất nhiều khí nhà kính như CO2, CH4, N2O. Năm 2010, hoạt động giao thông vận tải
thải ra 31817,9 nghìn tần khí nhà kính, các hoạt động công nghiệp năng lượng,
công nghiệp sản xuất và xây dựng thậm chí phát thải tới 79135,5 nghìn tấn khí nhà
kính.
Các đô thị cũng chính là nhân tố dễ bị tác động nhất bới biển đổi khí hậu. Nhiệt
độ toàn cầu tăng gây áp lực cho ngành công nghiệp năng lương và làm đột biến nhu
cầu năng lượng, ảnh hưởng mạnh tới kinh tế và các dịch vụ liên quan như y tế, giao
7


thông. Nước biển dâng cao cũng ảnh hưởng lớn tới các hoạt động kinh tế của các
đô thị ven biển. Vì vậy việc phối hợp giữa các mục tiêu môi trường và kinh tế là

đích đến đầu tiên trong tăng trưởng xanh. So với các tiêu chí đánh giá cấp quốc gia
thì ở cấp đô thị, các chính sách có phần dễ dàng và dễ thực hiện, phối hợp hơn. Các
nhà hoạch định chính sách đô thị hoàn toàn có khả năng xác định và kết hợp các
chính sách khí hậu, môi trường với các lĩnh vực chính sách đô thị như giao thông,
quy hoạch sử dụng đất, phát triển kinh tế. Việc thống nhất giữa các gói chính sách
là điều cốt lõi để cân bằng môi trường, phát triển kinh tế bền vững theo hướng tăng
trưởng xanh. Ví dụ cụ thể như việc tắc nghẽn giao thông, ô nhiễm môi trường, dịch
vụ công cộng bị hạn chế sẽ không chỉ ảnh hưởng tới môi trường sống mà còn tới
hiệu quả hoạt động của kinh tế địa phương và khả năng thu hút các doanh nghiệp,
lực lượng lao động tới tham gia, cho chúng ta thấy tầm quan trọng của các gói
chính sách tơi cả môi trường và kinh tế trong khu vực đô thị. Xây dựng đô thị tăng
trưởng xanh vừa đảm bảo điều kiện cho sự phát triển công nghiệp vừa giảm thiểu
tối đa ô nhiễm môi trường, mất cân bằng sinh thái. Con người sẽ không phải gánh
chịu hoặc ít ra sẽ giảm được phần nào những hậu quả to lớn do chính chúng ta gây
nên.
Như vậy, từ những phân tích kể trên, có thể thấy rằng đô thị vừa là trung tâm
kinh tế, đóng góp lớn vào tăng trưởng, vừa là nơi sử dụng nhiều năng lượng, phát
thải nhiều chất thải, khí nhà kính. Do đó xây dựng đô thị tăng trưởng xanh là nền
tảng và động lực cho chiến lược tăng trưởng xanh của cả nước, góp phần giải quyết
triệt để những ảnh hưởng tiêu cực trong quá trình xây dựng và phát triển đất nước
và là một nhiệm vụ quan trọng cần được ưu tiên hàng đầu.

1.3. Các nội dung đánh giá tăng trưởng xanh của OECD
Mặc dù tăng trưởng xanh nói chung và tăng trưởng xanh tại các đô thị nói riêng
được coi là con đường phù hợp nhất để phát triển bền vững mà nhiều nước trên thế
giới đang theo đuổi, trong đó có Việt Nam. Xong, việc đo đạc, đánh giá tăng trưởng
xanh vẫn còn là một vấn đề khá đa dạng và phức tạp, đặc biệt là tiến trình đánh giá
tăng trưởng xanh tại đô thị.

8



Đứng trước yêu cầu này, Tổ chức Hợp tác và Phát triển Kinh tế - OECD
(Organization for Economic Co-operation and Development) đã đề xuất một hệ
thống các nội dung đánh giá tăng trưởng xanh tại đô thị để các nước trên toàn thế giới
có thể so sánh, nhìn nhận và xem xét về tiến độ của mình trong quá trình phát triển
theo hướng tăng trưởng xanh.
Trước tiên, để nắm bắt được các nội dung này một cách toàn diện, chúng ta cần
hiểu rõ các nội dung đánh giá tăng trưởng xanh cấp độ quốc gia của OECD.
Các nội dung đánh giá cấp độ quốc gia này được lựa chọn và phân loại dựa trên
5 nhóm chỉ tiêu chính: Hiệu suất tài nguyên và môi trường, Nền tảng tài sản thiên
nhiên, Chất lượng cuộc sống và môi trường, Cơ hội kinh tế và các chính sách nhà
nước, Bối cảnh kinh tế xã hội và đặc trưng của tăng trưởng, được thể hiện cụ thể
qua bảng sau:
Bảng 1. Các nội dung đánh giá tăng trưởng xanh cấp độ quốc gia của OECD
Nguồn: OECD

Nhóm chỉ tiêu
-

Hiệu suất tài nguyên và
môi trường

-

Nền tảng tài sản thiên
nhiên

-


Chất lượng cuộc sống về
môi trường

-

Cơ hội kinh tế và phản
hồi chính sách

-

Hoàn cảnh kinh tế - xã
hội và đặc điểm tăng
trưởng

-

Nội dung
Hiệu suất các bon và hiệu quả sử dụng năng
lượng
Hiệu quả sử dụng tài nguyên
Năng suất các yêu tố tổng hợp (MFP)
Nguồn dự trữ tài nguyên tái tạo: đất, nước, thủy
sản
Nguồn dữ trữ tài nguyên không tái tạo: khoáng
sản
Đa dạng sinh học và hệ sinh thái
Sức khỏe và rủi ro môi trường
Dịch vụ và tiên nghi liên quan đến môi trường
Nghiên cứu và phát triển
Phát minh công nghệ xanh

Hỗ trợ phát triển
Sử dụng công cụ thuế hỗ trợ tăng trưởng xanh
Cơ cấu và tăng trưởng kinh tế
Năng suất và thương mại
Thị trường lao động, giáo dục và thu nhập
Mô hình nhân khẩu học xã hội
9


OECD đã thay đổi và chuyển biến các tiêu chí cấp độ quốc gia này để phù hợp
trong việc áp dụng đánh giá tăng trưởng xanh với cấp độ đô thị, cụ thể:
-

-

-

-

Nhóm chỉ tiêu hiệu suất tài nguyên và môi trường được chuyển đổi thành
hiệu quả tài nguyên và năng lượng.
Các chỉ tiêu về nền tảng tài sản thiên nhiên được chuyển thành các tiêu chí
đánh giá áp lực môi trường, ví dụ như việc tiêu thụ năng lượng, sử dụng đất
hoang và nước.
Nhóm chỉ tiêu về chất lượng cuộc sống về môi trường, OECD chuyển thành
các chỉ tiêu về sức khỏe và tiếp cận với các dịch vụ cơ bản của người dân đô
thị.
Nhóm Cơ hội kinh tế và phản hồi chính sách ở cấp độ đô thị được đánh giá
bằng việc đo lường khả năng sản xuất hàng hoá và dịch vụ xanh tại khu vực
thành thị và việc áp dụng các loại phí và lệ phí tài nguyên nhằm tạo các ưu

đãi cho tăng trưởng xanh.
Các chỉ tiêu về bối cảnh kinh tế xã hội và đặc điểm tăng trưởng được áp
dụng tại cấp độ đô thị tương tự như áp dụng tại cấp độ quốc gia.

Như vậy, nội dung đánh giá tăng trưởng xanh của OECD tại các đô thị dựa trên
các tiêu chí sau:
-

Hiệu quả tài nguyên và năng lượng
Áp lực môi trường
Sức khỏe và tiếp cận với các dịch vụ cơ bản của người dân đô thị
Khả năng sản xuất hàng hoá và dịch vụ xanh tại khu vực thành thị
và việc áp dụng các loại phí và lệ phí tài nguyên
Cơ hội kinh tế và các chính sách ứng phó của nhà nước

2. Xây dựng đô thị tăng trưởng xanh ở Việt Nam hiện nay
2.1 Chủ trương chính sách của VN về tăng trưởng xanh và tăng
trưởng xanh tại các đô thị


Chiến lược tăng trưởng bền vững ở Việt Nam giai đoạn 2011-2020

Khái niệm “tăng trưởng xanh” chính thức được thể chế hóa và đưa vào các chủ
trương, chính sách của nước ta từ Quyết định số 432/QĐ- TTg ngày 12 tháng 4
10


năm 2012 của chính phủ về phê duyệt “Chiến lược phát triên bền vững Việt Nam
gia đoạn 2011-2020”. Chiến lược này đã xác định một trong những định hướng ưu
tiên nhằm phát triển bền vững năm 2011-2020 là: “Duy trì tăng trưởng kinh tế bền

vững, từng bước thực hiện tăng trưởng xanh, phát triển năng lượng sạch, năng
lượng tái tạo”. Chiến lược cũng đưa ra chỉ tiêu giám sát, trong đó có chỉ tiêu tổng
hợp GDP xanh.


Chiến lược quốc gia về tăng trưởng xanh thời kỳ 2011 – 2020 và tầm nhìn
đến năm 2050

Tiếp theo Chiến lược phát triển bền vững, ngày 25/9/2012 Thủ tướng Chính
phủ đã ký Quyết định số 1393/QĐ-TTg về phê duyệt “Chiến lược quốc gia về tăng
trưởng xanh”. Mục tiêu của chiên lược là: “Tăng trưởng xanh, tiến tới nền kinh tế
các-bon thấp, làm giàu vốn tự nhiên trở thành xu hướng chủ đạo trong phát triển
kinh tế bền vững: giảm phát thải và tăng khả năng hấp thụ khí nhà kính dần trở
thành chỉ tiêu bắt buộc và quan trọng trong phát triển kinh tế - xã hội”. Để thực
hiện được mục tiêu trên, Chính phủ đã đề ra 3 nhiệm vụ chiến lược đó là:
Giảm cường độ phát thải khí nhà kính và thúc đẩy sử dụng năng lượng sạch
năng lượng tái tạo: Giai đoạn 2011 - 2020, nhiệm vụ Chiến lược đề ra là giảm
cường độ phát thải khí nhà kính 8 - 10% so với mức 2010, giảm tiêu hao năng
lượng tính trên GDP 1 - 1,5% mỗi năm. Giảm lượng phát thải khí nhà kính trong
các hoạt động năng lượng từ 10 - 20% so với phương án phát triển bình thường.
Trong đó, mức tự nguyện khoảng 10%, 10% còn lại mức phấn đấu khi có thêm hỗ
trợ quốc tế. Vào các giai đoạn tiếp theo cam kết giảm mạnh hơn.
Xanh hóa sản xuất: Thực hiện một chiến lược "công nghiệp hóa sạch" thông
qua rà soát, điều chỉnh những quy hoạch ngành hiện có, sử dụng tiết kiệm và hiệu
quả tài nguyên, khuyến khích phát triển công nghiệp xanh, nông nghiệp xanh với
cơ cấu ngành nghề, công nghệ, thiết bị bảo đảm nguyên tắc thân thiện với môi
trường, đầu tư phát triển vốn tự nhiên; tích cực ngăn ngừa và xử lý ô nhiễm.
Xanh hóa lối sống và thúc đẩy tiêu dùng bền vững: Nhằm xanh hóa lối sống và
thúc đẩy tiêu dùng bền vững, Chiến lược đặt nhiệm vụ kết hợp nếp sống đẹp truyền
11



thống với những phương tiện văn minh hiện đại để tạo nên đời sống tiện nghi, chất
lượng cao mang đậm bản sắc dân tộc cho xã hội Việt Nam hiện đại. Thực hiện đô
thị hóa nhanh, bền vững, duy trì lối sống hòa hợp với thiên nhiên ở nông thôn và
tạo lập thói quen tiêu dùng bền vững trong bối cảnh hội nhập với thế giới toàn cầu.
Cùng với ba nhiệm vụ chiến lược là 17 nhóm giải pháp:
(1)
(2)
(3)
(4)
(5)
(6)

(7)
(8)
(9)
(10)
(11)
(12)
(13)
(14)
(15)
(16)
(17)

Tuyển truyền, nâng cao nhận thức, khuyến khích hỗ trợ thực hiện;
Nâng cao hiệu quả sảng xuấtvà hiệu quả sử dụng năng lượng, giảm mức
tiêu hao năng lượng trong hoạt động sản xuất, vận tải, thương mại;
Thay đổi cơ cấu nhiên liệu trong công nghiệp và giao thông vận tải;

Đẩy mạnh khái thác có hiệu quả và tăng tỷ trọng các nguồn năng lượng tái
tạo, năng lượng mới trong sản xuất và tiêu thụ năng lượng của quốc gia;
Giảm phát thải khí nhà kính thông qua phát triển nông nghiệp hữu cơ bền
vững, nâng cao tính cạnh tranh của sản xuất nông nghiệp;
Rà soát, diều chỉnh quy hoạch các ngành sản xuất, dần hạn chế những
ngành kinh tế phát sinh khí thải lớn, gây ô nhiễm, suy thoái mỗi trường,
tạo điều kiện phát triển các ngành sản xuất xanh mới;
Sử dụng tiết kiệm và hiệu quả năng lương;
Thúc đẩy các ngành kinh tế xanh phát triển nhanh để tạo thêm việc làm,
nâng thu nhập, làm giàu thêm nguồn vốn tự nhiên;
Phát triển kết cấu hạ tầng bền vững chủ yếu bao gồm: hạ tầng giao thông,
tăng lượng, thủy lợi và các công trình xây dựng đô thị;
Đổi mới công nghệ, áp dụng phổ biến sản xuất sạch hơn;
Đô thị hóa bền vững;
Xây dựng nông thôn mới với lối sống hòa hợp với môi trường;
Thúc đẩy tiêu dùng bền vững và xây dựng lối sống xanh;
Huy động nguồn lực thực hiện chiến lược tăng trưởng xanh;
Đào tạo và phát triển nguồn nhân lực;
Nghiên cứu phát triên khoa học và công nghệ, ban hành hệ thống tiêu chẩn
kinh tế, kĩ thuật và thông tin dữ liệu về tăng trưởng xanh;
Hợp tác quốc tế.

Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương đảng lần thứ 7, khóa XI cũng đã ban hành
Nghị quyết số 24-NQ/TW ngày 03/6/2013 về “Chủ động ứng phó với biến đổi khí
hậu, tăng cường quản lý tài nguyên và bảo vệ môi trường, trong đó đã khẳng định
12


một trong những nhiệm vụ trong tâm là Thúc đẩy chuyển đổi mô hình tăng trưởng
gắn với cơ cấu lại nền kinh tế theo hướng tăng trưởng xanh và phát triển bền vững.

Kế hoạch hành động quốc gia về tăng trưởng xanh giai đoạn 2014 – 2020



Gần đây nhất Chính phủ đã ban hành Kế hoạch hành động quốc gia về tăng
trưởng xanh giai đoạn 2014-2020 (tại Quyết định số 403/QĐ-TTg ngày 20/03/2014
của Thủ Tướng chính phủ). Trong kế hoạch hành động quốc về tăng trưởng xanh,
chính phủ đã đưa cac hoạt động tương đối cụ thể, thể hiện tầm nhìn cũng như quyết
tâm đưa tăng trưởng xanh thành động lực giúp kinh tế đất nước tăng trưởng bền
vững. Kế hoạch gồm 4 chủ đề, bao quát các vấn đề về tăng trưởng hiện nay.
-

Chủ đề 1: Xây dựng thể chế và kế hoạch tăng trưởng xanh tại địa phương
Chủ đề 2: Giảm cường độ phát thải khí nhà kính và tăng cường sử dụng năng
lượng sạch, năng lượng tái tạo.
Chủ đề 3: Thực hiện xanh hóa sản xuất
Chủ đề 4: Thực hiện xanh hóa lối sống tiêu dùng bền vững.

Theo đó, các hành động của lĩnh vực đô thị là một trong những hành động được
ưu tiên cao trong Kế hoạch hành động quốc gia, và được đề cập một cách cụ thể,
tách biệt so với những nội dung khác, bao gồm 7 hoạt động (từ hoạt động 54 đến 60
trong kế hoạch) rất cụ thể được trình bày chi tiết qua bảng sau:
Bảng 2. Bảy hoạt động phát triển đô thị xanh và bền vững trong Kế hoạch hành
động quốc gia về tăng trưởng xanh giai đoạn 2014 – 2020
Nguồn: Văn phòng Chính phủ
STT

54

Tên hoạt động/

Nội dung hoạt động
Cơ quan chủ trì/ Nguồn lực tài chính
Lĩnh vực/ Thời
Cơ quan phối
gian thực hiện/
hợp
Mức độ ưu tiên
Rà soát, kiến nghị - Rà soát, kiến nghị điều chỉnh Bộ Xây dựng/
Ngân sách địa
điều chỉnh quy
quy hoạch tổng thể các đô thị từ UBND các tỉnh, phương, nguồn lực
hoạch và lập kế
cách tiếp cận đô thị bền vững. thành phố.
của doanh nghiệp và
hoạch cải tạo đô thị - Xây dựng chương trình cải tạo
cộng đồng: R
theo tiêu chuẩn đô để đến năm 2020 các đô thị đạt
thị bền vững/ Hoàn mức trung bình trở lên của hệ
thiện thể chế/ 2013 thống chỉ số đô thị xanh.
- 2020.
- Hướng dẫn xây dựng thí điểm
13


55

56

57


58

kế hoạch hành động xây dựng
đô thị xanh ở một số đô thị du
lịch (Sapa, Huế, Hội An, Vũng
Tàu, Đà Lạt). Tổng kết kinh
nghiệm và phổ biến.
Cải thiện hạ tầng - Lựa chọn và xây dựng kế
UBND các tỉnh,
kỹ thuật theo
hoạch đầu tư cải thiện hạ tầng thành phố/ Bộ
hướng bền vững ở kỹ thuật của một số đầu mối
Xây dựng, Bộ Kế
một số đô thị chọn giao thương quốc tế, trung
hoạch và Đầu tư,
lọc/ Đổi mới công tâm du lịch, đô thị cũ xuống cấp Bộ Tài chính.
nghệ/ 2013 -2020. nghiêm trọng nhằm nâng cao
chất lượng nhà ở, cung cấp
năng lượng, giao thông, cấp
thoát nước và cảnh quan môi
trường.
Đổi mới công nghệ - Nghiên cứu và ban hành hệ Bộ Xây dựng/ Bộ
và kỹ thuật
thống tiêu chuẩn về quy hoạch, Tài chính, UBND
xây dựng theo
kiến trúc đô thị, thiết kế,
các tỉnh, thành
hướng xanh hóa/ sử dụng vật liệu, giải pháp xây phố.
Đổi mới công nghệ,dựng xanh thân thiện với môi
Hoàn thiện thể chế/ trường, tiết kiệm năng lượng,

2013 - 2020.
giảm thiểu khí gây hiệu ứng nhà
kính, giải pháp công nghệ thích
hợp xử lý chất thải đô thị.
- Ban hanh quy định bắt buộc
thực hiện các giải pháp xây
dựng xanh phổ biến vào các
công trình đầu tư bằng vốn nhà
nước, các tòa nhà thương mại
mới và cải tạo các khu chung cư
hiện có ở đô thị.
Khuyến khích
- Ban hành các chính sách, côngBộ Xây dựng/ Bộ
phát triển công
cụ kinh tế và kỹ thuật về
Kế hoạch và Đầu
nghiệp vật liệu xây khuyến khích và hỗ trợ các
tư, Bộ Tài chính
dựng và xâydựng doanh nghiệp sản xuất vật liệu,
xanh/ Hoàn thiện trang thiết bị phục vụ xây dựng
thể chế, Thay đổi và sử dụng các công trình xây
cơ cấu, Đổi mới
dựng theo công nghệ xanh.
công nghệ/ 2013
-2020.
Sử dụng năng
- Thực hiện việc quản lý bắt
Bộ Xây dựng/ Bộ
lượng tiết kiệm và buộc theo Quy chuẩn xây dựng Kế hoạch và Đầu


Ngân sách nhà nước
và Ngân sách địa
phương: R.
Nguồn lực của doanh
nghiệp và cộng đồng:
R

Ngân sách nhà nước
và Ngân sách địa
phương: R.
Nguồn lực của doanh
nghiệp và cộng đồng:
R.

Nguồn lực của doanh
nghiệp vàcộng đồng:
R.

Ngân sách nhà nước:
R.
14


hiệu quả trong xây
dựng và sử dụng
các tòa nhà/ Hoàn
thiện thể chế, Đổi
mới công nghệ/
2013 -2020.


59

60

Việt Nam "Các công trình sử tư, Bộ Tài chính, Kinh phí cho
dụng năng lượng tiết kiệm và Bộ Khoa học và CTMTQG sử dụng
hiệu quả" đối với 100% các tòa Công nghệ, Bộ
tiết kiệm và hiệu quả
nhà xây dựng mới hoặc cải tạo Tài nguyên và
năng lượng,
có quy mô thuộc phạm vi điều Môi trường,
Nguồn lực của doanh
chỉnh của Quy chuẩn.
UBND các tỉnh, nghiệp, người tiêu
- Đưa vào hoạt động có nề nếp thành phố.
dùng: R.
công tác quản lý sử dụng năng
lượng tiết kiệm và hiệu quả
trong các tòa nhà.
- Triển khai cuộc vận động thực
hiện "Công trình xanh" tiết
kiệm năng lượng tại các cơ
quan và doanh nghiệp trong cả
nước.
Cải thiện giao
- Đầu tư cải tạo và phát triển hệ UBND các thành Ngân sách nhà nước:
thông ở các đô thị thống hạ tầng giao thông nội đô phố trực thuộc
R.
lớn theo hướng bền ở các thành phố trực thuộc
trung ương/ Bộ Nguồn lực của doanh

vững/ Thay đổi cơ trung ương đạt mức trung bình Giao thông vận nghiệp và cộng đồng:
cấu/ 2013 -2020. của các nước tiên tiến trong khu tải, Bộ Kế hoạch R
vực.
và Đầu tư, Bộ Tài
- Sử dụng công cụ kinh tế và chính.
kỹ thuật kiểm soát sự phát triển
số lượng phương tiện giao
thông cơ giới cá nhân.
- Bố trí các tuyến đườngdành
riêng cho phương tiện giao
thông phi cơ giới.
Xanh hóa cảnh
- Ưu tiên phân bổ đất công
UBND các tỉnh, Ngân sách địa
quan đô thị/ Thay để nhanh chóng nâng cao diện thành phố/ Bộ Tài phương: R
đổi cơ cấu, Nâng tích không gian xanh và mặt
nguyên và Môi
Nguồn lực của doanh
cao nhận thức/
nước ở các đô thị, đạt tiêu
trường, Đài tiếng nghiệp và cộng đồng:
2013 -2020.
chuẩn diện tích cây xanh đô thị nói Việt Nam, Đài R
tính theo đầu người đã quy định truyền hình
cho từng loại đô thị.
ViệtNam, Đoàn
- Tăng cường đầu tư và cải
thanh niên cộng
thiện thể chế để bảo vệ và phát sản Việt Nam, Hội
triển các khoảng không gian

liên hiệp phụ nữ
xanh công cộng và khuyến
Việt Nam, Tổng
khích cộng đồng, doanh nghiệp Liên đoàn lao
và các hộ gia đình thực hiện các động Việt Nam,
giải pháp xanh hóa cảnh quan Hội người cao tuổi
15


đô thị.

và các tổ chức
đoàn thể xã hội
khác.

2.2. Thực trạng thực hiện tăng trưởng xanh tại các đô thị
Hiện nay, Chính phủ, các nhà đầu tư, các cơ quan nghiên cứu khoa học nước ta
đều đã quan tâm đến kiến trúc xanh. Cụ thể, Chính phủ đã cho thành lập Trung tâm
Tiết kiệm năng lượng (ECC) để hỗ trợ, tư vấn về tiết kiệm năng lượng cho các công
trình hiện hữu cũng như xây mới. Bộ Xây dựng đã ban hành các quy chuẩn xây
dựng sử dụng năng lượng hiệu quả, giảm phát thải ra môi trường. Việt Nam đang
tận dụng sự phong phú của các nguồn năng lượng tái tạo bằng những trong cam kết
phát triển công nghệ xanh. Năm 2011, Việt Nam đã hợp tác với Đan Mạch nâng
cao kiến thức và phát triển công nghệ xanh để đối phó với biến đổi khí hậu.
Do xu hướng “tăng trưởng xanh” mới xuất hiện vài năm trở lại đây, và các
chính sách cũng chỉ mới đưa vào thực hiện, nên chúng ta chưa thấy được một sự
thay đổi rõ rệt hay một sự tăng trưởng vượt bậc nào. Điều lớn nhất mà chúng ta đạt
được đến bây giờ có thể coi là việc thay đổi nhận thức của các cấp, các ngành, các
doanh nghiệp cũng như người dân về vấn đề tăng trưởng kinh tế không chỉ theo
chiều rộng mà còn theo chiều sâu, thân thiện với môi trường, đó mới là sự phát

triển bền vững có lợi cho toàn xã hội về lâu dài.
Tuy nhiên bên cạnh những thành quả ban đầu đã đạt được, tăng trưởng xanh ở
nước ta vẫn còn vô vàn thách thức phía trước. Vẫn còn rất nhiều nhà máy xả trực
tiếp chất thải chưa qua xử lí ra môi trường, làm ô nhiễm nghiêm trọng khu vực
xung quanh và ảnh hưởng rất tiêu cực đến đời sống và sức khỏe người dân. Bên
cạnh đó chế tài xử lí vi phạm còn lỏng lẻo nên các chính sách, quy định được Nhà
nước đưa ra dù đùng đắn nhưng chưa thực sự hiệu quả. Ngoài ra, công nghệ được
là chìa khóa cho nền kinh tế xanh, tăng trưởng xanh, tuy vậy lại là thách thức đối
với Việt Nam do trình độ công nghệ của hầu hết các doanh nghiệp còn lạc hậu, sử
dụng nhiên liệu kém hiệu quả. Theo số liệu điều tra của Tổng cục Thống kê, trên
95% doanh nghiệp Việt Nam thuộc loại nhỏ và siêu nhỏ, vốn ít, nguồn nhân lực
nghiên cứu phát triển thiếu về số lượng, yếu về chất lượng nên không đủ khả năng
16


tự tiến hành nghiên cứu triển khai hoặc đổi mới công nghệ. Cũng theo số liệu điều
tra năm 2013 của Bộ khoa học & Công nghệ, khoảng 80 – 90% máy móc và công
nghệ sử dụng trong các doanh nghiệp Việt Nam là nhập khẩu và 76% từ thập niên
80 -90 của thế kỉ trước; 75% máy móc và trang thiết bị đã hết khấu hao. Điều này
cho thấy, các doanh nghiệp Việt Nam sẽ gặp phải nhiều thách thức nếu chuyển đổi
theo hướng tăng trưởng xanh. Theo tính toán ban đầu của Bộ Kế hoạch & Đầu tư,
để đạt được mục tiêu đề ra của chiến lược tăng trưởng xanh về giảm cường độ phát
thải đến năm 2020, Việt Nam cần tới 30 tỷ đô la. Đây quả thực là một thách thức
lớn khi nguồn lực ngân sách nhà nước rất hạn chế, lại phải chi cho nhiều mục tiêu
khác nhau.
Chính vì vậy, thực hiện chiến lược tăng trưởng xanh do đó không thể chỉ dựa
vào nguồn lực ngân sách hạn hẹp mà phải huy động nguồn vốn của hệ thống ngân
hàng, khu vực tư nhân, đặc biệt là nguồn đầu tư nước ngoài cùng với sự hỗ trợ của
các tổ chức quốc tế.
Các đô thị lớn đã bước đầu bắt tay thực hiện những kế hoạch tăng trưởng xanh,

xong do chính sách còn mới, chưa đi vào hoạt động đủ dài, nhiều vấn đề mới nảy
sinh, nên chưa thực sự có sự biến chuyển rõ ràng, nhiều vấn đề bất cấp còn tồn tại.


Hiệu quả tài nguyên và năng lượng

Nhằm khuyến khích sử dụng hiệu quả năng lượng, đặc biệt là điện năng, nhiều
đô thị đã và đang tích cực tuyên truyền tuyết kiệm điện thông qua các phương tiện
truyền thông, các chiến dịch xanh, và bước đầu đã đạt được nhiều kết quả đáng tốt.
Trong giai đoạn 2011-2015, Hà Nội đã tiết kiệm ước tính được 6.7% so với dự báo
nhu cầu năng lượng, hệ số đàn hồi năng lượng (tốc độ tăng nhu cầu sử dụng năng
lượng khi GDP tăng 1%) của chương trình sử dụng tiết kiệm và hiệu quả trên địa
bàn giảm từ 2% (2006) xuống 1.48%(2015) (năng lượng/GDP). Việc sử dụng các
thiết bị có hiệu suất cao, hiện đại cũng được đẩy mạnh giúp giảm được khoảng
10% cường độ năng lượng ở những nơi sử dụng nhiều. Với Quảng Ninh, 6 tháng
đầu năm 2015, toàn tỉnh đã tiết kiệm được tổng số 22 triệu kWh điện, đạt 1,84% so
với sản lượng điện thương phẩm. Ở TP.Hồ Chí Minh sau phát động chương trình
“Gia đình tiết kiệm điện” năm 2015, toàn thành phố đã có 594.946 hộ gia đình có
17


điện năng tiêu thụ giảm so với cùng kỳ, sản lượng điện tiết kiệm là 134,21 triệu
kWh, sản lượng tiết kiệm chung của EVN HCMC là 238,36 triệu kWh.
Tuy nhiên, bên cạnh đó, nhiều nhà máy xí nghiệp mà tập trung chủ yếu ở các
khu vực đô thị vẫn sử dụng các công nghệ cũ lạc hậu, gây hao phí điện năng, sử
dụng thiếu hiệu quả các nguồn khoảng sản, không tận dụng được hết lợi thế tự
nhiên của khu vực. Hơn thế nữa máy móc đa phần được nhập khẩu với công nghệ
cũ, đội ngũ công nhân chưa đủ chuyên môn dẫn đến chúng ta chưa thực sự đạt
được hiệu quả tốt về tài nguyên và năng lượng. Điều đó dẫn tới hiệu suất các bon
(GDP trên 1 kg CO2 thải ra) có xu hướng giảm qua các năm. Biểu đồ sau đây cho

chúng ta cái nhìn trực quan hơn về điều này:

Nguồn: Green Growth Knowledge Platform

Hình 1. Hiệu suất cac – bon của Việt Nam giai đoạn 2003 – 2010
(đơn vị: GDP/1 kg CO2)
Vấn đề quản lý và sử dụng tài nguyên ở các đô thị vẫn còn nhiều bất cập. Ở
Quảng Ninh, tình trạng khai thác than trái phép ngày càng nhiều và diễn biến rất
phức tạp, đây đã trở thành vấn đề nổi cộm, gây lãng phí tài nguyên và ảnh hưởng
nghiêm trọng đến môi trường. Một ví dụ khác như Phan Thiết, là thành phố du lịch
nổi tiếng, xong việc xây dựng bảo vệ cảnh quan du lịch ở đây còn gặp nhiều khó
khăn do vấn nạn xả rác trộm, ngay tại các khu du lịch, rác thải ở các bãi biển, công
viên cũng rất nhiều gây bức xúc cho nhân dân và du khách.
18




Áp lực môi trường

Xử lý các vấn đề môi trường chính là vấn đề mà các đô thị trên khắp nước ta
vẫn còn yếu kém trong giai đoạn phát triển hiện nay. Nồng độ khói bụi trong không
khí cao, lượng khí nhà kính phát thải lớn, nguồn nước ô nhiễm do chất thải sinh
hoạt cũng như việc xả thải chưa qua xử lý của các xí nghiệp. Chúng ta hãy cũng
xem qua số liệu của một số đô thị để hiểu rõ hơn vấn đề này.
Thủ đô Hà Nội chịu ô nhiễm nước rất nặng nề, cả nước trên bề mặt lẫn nước
ngầm đều bị nhiễm bẩn. Hiện nay nước thải sinh hoạt, sản xuất, làng nghề, khu
công nghiệp đều không hề được qua xử lý. Hà Nội có hàng nghìn doanh nghiệp và
cơ sở sản xuất xả chất thải công nghiệp nhưng chỉ có 200 đơn vị thực hiện đúng
quy trình xử lý chất thải, khiến hệ thống nước ở Hà Nội toàn bộ đều bị ô nhiễm

nặng. Ngoài ra, hiện nay tình trạng ô nhiễm không khí ở hà Nội cũng đang ở mức
báo động. Nồng độ bụi lơ lửng ở các quận nội thành đều vượt quá tiêu chuẩn cho
phép 5-6 lần, có nơi còn gấp 10 lần. Lượng khí thải độc hại như CO2, SO2, CO3,
NO, CO… ngày càng gia tăng và tác động tiêu cực tới môi trường và con người.
Vào giờ cao điểm, nồng độ bụi tính trung bình của riêng thành phố Hà Nội gấp 4
lần tiêu chuẩn cho phép, nồng độ khí CO cao hơn 2,5 lần, hơi xăng cao hơn 12,1 2000 lần tiêu chuẩn cho phép.
Ở vùng mỏ Quảng Ninh dù đã thay đổi từ tăng trưởng nâu sang tăng trưởng
xanh vẫn tồn tại nhiều bất cập trước áp lực từ môi trường. Do đặc thù của kinh tế
Quảng Ninh là khai thác khoáng sản, đặc biệt là than, mà lại có lịch sử rất lâu đời,
nên việc thay đổi cách khai thác theo hướng “tăng trưởng xanh” cần nhiều thời
gian. Những năm gần đây, môi trường tại các phường Quang Hanh, Mông Dương
và xã Dương Huy (TP.Cẩm Phả) ô nhiễm một cách trầm trọng. Ở đây, cây cối được
"nhuộm" nhiều lớp bụi trắng xóa, không khí ô nhiễm, suối nước đen kịt quanh năm.
Lượng chất thải nguy hại khoảng 3.300 tấn phát sinh hàng năm từ hoạt động sản
xuất kinh doanh, dịch vụ cùng với gần 220.000 tấn rác thải công nghiệp chưa được
xử lý theo đúng quy trình; hàng trăm tấn lưu huỳnh thải ra liên tục... Ngoài ra thì tại
các khu du lịch, bãi biển, ngành “công nghiệp không khói” cũng để lại dấu vết

19


không mấy “xanh” khi rác thải đầy trên bãi bát, hoặc trôi nồi lềnh bềnh trên mặt
nước, hoặc chìm xuống đáy biển, …
Số liệu năm 2009 ở TP. Hồ Chí Minh cho thấy, 89% mẫu thử không khí ở tram
quan trắc không đạt chuẩn, luôn ở mức nguy hại cao cho sức khỏe con người, trong
đó lượng bụi lơ lửng sinh ra từ khói, bụi đang là nhân tố gây ô nhiễm nghiêm trọng
hàng đầu trên địa bàn. Nguyên nhân được xác định là do lưu luợng các loại xe, nhất
là xe tải lưu thông qua khu vực này lên đến hàng chục ngàn lượt xe mỗi ngày và
tình trạng kẹt xe xảy ra liên tục. Bên cạnh đó, hoạt động sản xuất của các nhà máy
công nghiệp cũng góp phần gia tăng lượng khói bụi đáng kể. Có tới 81/170 nhà

máy, cơ sở sản xuất có phát sinh khí thải ra môi trường nhưng chưa trang bị hệ
thống xử lý khí thải, gây ảnh huởng trực tiếp đến đến sức khỏe của người dân sinh
sống xung quanh. Ngoài ra, tình trạng ô nhiễm không khí do chì cũng gia tăng
nhanh chóng, nồng độ chì đo được tại các trạm quan trắc từ đầu năm 2009 đến nay
thường dao động ở ngưỡng 0,22 - 0,38g/m³, khu vực có nồng độ chì cao nhất là
xung quanh ngã sáu Gò Vấp. Nồng độ NO2 tại các trạm quan trắc cũng vượt tiêu
chuẩn (thường dao động ở mức 0,19 - 0,34mg/m³ ) và đang có biểu hiện ngày càng
gia tăng.


Sức khỏe và tiếp cận với các dịch vụ cơ bản của người dân đô thị

Dân số đô thị ngày càng tăng nhanh, tình trạng ô nhiễm ở đô thị, đặc biệt là ô
nhiễm không khí chưa được cải thiện đã tạo ra những áp lực lớn cho hệ thống y tế ở
các đô thị nước ta hiện nay. Tình trạng quá tải bệnh viện, bệnh nhân phải nằm ghép
diễn ra tương đối phổ biến đặc biệt là ở các bệnh viện tuyến đầu mà nguyên nhân là
do cơ sở vật chất khám chữa bệnh không theo kịp nhu cầu. Biểu đồ sau sẽ cho
chúng ta thấy rõ hơn điều này.

20


Nguồn: Tổng cục thống kê

Hình 2. Biểu đồ số giường bệnh trên một vạn dân ở một số thành phố
tại Việt Nam năm 2013 (đơn vị: giường bệnh/10000 dân)
Từ biểu đồ có thế thấy, nhiều thành phố lớn như Hà Nội, Bình Dương, Cần Thơ
có số giường bệnh trên một vạn dân thấp hơn khá nhiều so với trung bình cả nước.
Thậm chí thành phố mới Bình Dương với rất nhiều khu công nghiệp, khu công viên
công kỹ thuật cao, trung tâm hành chính nhưng chỉ có 16,47 giường bệnh trên một

vạn dân. Trung tâm y tế của cả nước là Hà Nội cũng chỉ có xấp xỉ 20 giường bệnh
trên một vạn dân. Trong khi đó tình trạng khám chữa bệnh vượt tuyến đang rất phổ
biến tại nước ta hiện nay. Như vậy, khả năng được tiếp cận với các dịch vụ y tế của
người dân thành thị vẫn còn nhiều hạn chế.
Đối với những dịch vụ cơ bản, tỉ lệ trẻ em được đến trường ở các đô thị mức
cao, trên 95%. Phần lớn dân cư thành thị đã được sử dụng nước sạch, ở TP. Hồ Chí
Minh, 83% dân cư đã được sử dụng nước máy hợp vệ sinh, còn lại khoảng 400
nghìn hộ vẫn chưa được tiếp cận nguồn nước sạch đảm bảo. Hà Nội có tỷ lệ người
dân được dùng nước sạch là gần 100% ở thành thị và xấp xỉ 40% với nông thôn.
Con số này ở Đà Nẵng còn ấn tượng hơn với số lượng các hộ được sử dụng nước
đạt tiêu chuẩn lớn hơn 90% ở cả khu vực nông thôn, thành phố và đang hướng tới
đạt 98% vào cuối năm 2015.

21


Những người có hoàn cảnh khó khăn đều nhận được các trợ cấp từ Chính Phủ
dù vẫn còn ở mức thấp, lương cơ bản cũng được gia tăng theo các năm qua đó đời
sống của người dân cũng tốt hơn từng ngày. Cơ sở hạ tầng giao thông cũng được
xây mới và nâng cấp để đảm bảo phục vụ cho mọi người.
Tuy nhiên, tình trạng ngập úng khi mưa to vẫn còn rất phổ biến, đặc biệt ở Hà
Nội và TP. Hồ Chí Minh mặc dù đã được đầu tư rất nhiều. Nguồn nước máy còn
thiếu ổn định, tiêu biểu ở Hà Nội với sự cố vỡ đường ống nước sông Đà tới 13 lần
trong 3 năm (kể từ cuối năm 2012 – 2015) đã gây thất thoát gần 1,3 triệu m3 nước,
phải mất hơn 9,3 tỷ đồng để khắc phục sửa chữa và làm ảnh hưởng tới cuộc sống
của hàng chục nghìn hộ dân. Tình trạng mất điện luôn phiên vào những ngày cao
điểm vẫn chưa thể giải quyết triệt để.

3. Một số kinh nghiệm tăng trưởng xanh ở các nước châu Á
3.1. Hàn Quốc: phát triển năng lượng sạch, năng lượng tái tạo; xây

dựng hệ thống bảo hiểm y tế toàn dân
Bị chiến tranh chia cắt, Hàn Quốc đã từng là một trong những nước nghèo nhất
trên thế giới cách đây hơn 6 thập kỷ. Mặc dù bắt đầu công nghiệp hóa muộn nhưng
Hàn Quốc hiện nay là nền kinh tế lớn thứ 12 trên thế giới và là một nước đi đầu thế
giới trong một số ngành công nghiệp như chất bán dẫn, chế tạo tàu…Tuy nhiên
Hàn Quốc cần phải tìm một con đường phát triển mới và bền vững hơn. Sự phụ
thuộc lớn vào nước ngoài (97%) về nguồn năng lượng và tính hiệu quả trong sử
dụng năng lượng, tính hiệu quả trong sử dụng năng lượng thấp tại các ngành công
nghiệp là những lý do buộc Hàn Quốc phải cải cách kiểu sản xuất và tiêu dùng.
Tăng trưởng xanh là nhân tố chính tạo ra sự thay đổi ở Hàn Quốc, từ chính sách
kinh tế đến lối sống của người dân. Năm 2009, Hàn Quốc bắt đầu triển khai thực
hiện Chiến lược quốc gia về tăng trưởng xanh hướng tới các mục tiêu như sau:
-

Thúc đẩy tính tương trợ giữa tăng trưởng kinh tế và bảo vệ môi trường
Nâng cao chất lượng cuộc sống và cách mạng xanh trong lối sống của người
Hàn Quốc

22


-

Đóng góp cho nỗ lực quốc tế đối với những đe dọa của biến đổi khí hậu và
môi trường

Năm 2007, thành phố Seoul đã tiên phong triển khai Quy hoạch tổng thể tăng
trưởng xanh đến năm 2030. Ước tính quy mô vốn đầu tư thực hiện quy hoạch
khoảng 45 tỷ đôla Mỹ. Những mục tiêu chiến lược cũng như thành tựu bước đầu
đạt được của thành phố Seoul là những bài học cho tăng trưởng xanh ở các đô thị ở

Việt Nam.


Thúc đẩy sử dụng năng lượng sạch, năng lượng tái tạo

Kế hoạch Năng lượng quốc gia của Hàn Quốc được thông qua ngày 20/8/2008,
đề ra mục tiêu tăng năng lượng tái lên 11% vào năm 2030 và hướng tới mục tiếu
đến năm 2050, Hàn Quốc sẽ hoàn toàn không bị phụ thuộc vào nhiên liệu hóa
thạch.
Để hiện thực hóa mục tiêu này, Chính phủ Hàn Quốc đã đẩy mạnh việc phát
triển những ngành công nghiệp và công nghệ xanh bao gồm năng lượng mặt trời,
năng lượng gió, thông qua việc hỗ trợ các doanh nghiệp vừa và nhỏ hoạt động
trong ngành công nghiệp xanh. Đồng thời Hàn Quốc cũng thông qua các đạo luật
nhằm hạn chế khí thải nhà kính và phát triển quản lý năng lượng nhằm chuyển giao
cơ cấu kinh tế xã hội theo hướng khí thải các-bon thấp.
Với khẩu hiệu “Tất cả vì một cộng đồng giàu có”, Chính phủ Hàn Quốc đã
thành công đáng kể trong việc khuyến khích sự tham gia tích cực của người dân vì
sự phát triển của cộng đồng. Sự thành công này được ghi nhận qua các dự án như:
“Ngôi nhà xanh trị giá 2 triệu”, “Thành phố và dòng sông xanh hơn”, “Thành phố
mặt trời”... Nhờ có việc nâng cao nhận thức về cuộc sống xanh, số lượng gia đình
tham gia vào hệ thống giảm thiểu khí thải carbon tăng tới 2 triệu vào tháng 2/2011.
Các doanh nghiệp cũng góp phần không nhỏ để hướng tới tăng trưởng xanh.
Các chính sách của Chính phủ Hàn Quốc luôn hướng tới mục tiêu các doanh
nghiệp phải tích cực hơn trong việc khai thác nguồn năng lượng tái tạo và biến chất
thải thành nguồn năng lượng mới. Với sự hỗ trợ mở rộng của Chính phủ, số lượng
dự án của các doanh nghiệp vừa và nhỏ trong ngành công nghiệp xanh được hiện
23


thực hóa đã tăng hơn 40% kể từ năm 2009. Hệ thống chứng chỉ xanh của Chính

phủ được đưa ra vào tháng 4/2010 đã chứng nhận hơn 400 trường hợp doanh
nghiệp, dự án và công nghệ xanh.
Những nguồn năng lượng dồi dào trên đất nước Hàn Quốc không chỉ là năng
lượng gió, năng lượng mặt trời mà còn là năng lượng xanh từ phân bò và rác thải.
Số liệu thống kê cho thấy Hàn Quốc đã đạt tăng trưởng kinh tế với tốc độ đáng
ngạc nhiên trong 50 năm qua. Tốc độ tăng trưởng này đã khuyến khích nhiều người
chi tiêu nhiều hơn và rác thải trong sinh hoạt, sản xuất cũng tăng. Cách đây hai thập
niên, đã có 90% rác thải ở Hàn Quốc được đưa đến các bãi chôn lấp tập thể. Vì thế,
Hàn Quốc đã bắt tay vào tìm kiếm các giải pháp để xử lý lượng chất thải khổng lồ
này. Đến nay, hơn 76% năng lượng mới và tái tạo được ở nước này được tạo ra từ
chất thải.
Trung tâm Tài nguyên Môi trường Đongaemun ở Seoul là một trong những cơ
sở chế biến chất thải thành năng lượng với chi phí khoảng 57 triệu USD, bắt đầu
vận hành từ năm 2010 và có thể tạo ra 20,4 MW điện mỗi ngày, đủ để cung cấp cho
2500 hộ gia đình.
Năng lượng sinh học cũng đang được tích cực nghiên cứu, phát triển ở Hàn
Quốc. Ngoài các công nghệ chế tạo biogas thông thường từ sinh khối, chất thải
chăn nuôi, Hàn Quốc đang tích cực phát triển bioga từ bùn thải.
Khi so sánh về những tiềm năng phát triển năng lượng tái tạo, Việt Nam có rất
nhiều nguồn tài nguyên dồi dào, vượt trội hơn hẳn so với Hàn Quốc. Xuất phát từ
một đất nước có nền nông nghiệp là chủ lực, những phụ phẩm nông nghiệp như
rơm, trấu, vỏ đậu phộng, vỏ cà phê, vỏ hạt điều, phế thải sau thu hoạch mía, bắp…
có thể cung cấp hàng nghìn MW điện trên cả nước (9 triệu tấn trấu trên toàn quốc
sẽ cung cấp 4.800 MW điện). Bên cạnh đó, nguồn bức xạ, thời gian nắng dài tại
miền Trung và miền Nam, năng lượng gió trên đất liền, năng lượng sinh học..vẫn là
những tiềm năng tuyệt vời mà chúng ta đã nhìn thấy được, nhưng chưa có chính
sách hiệu quả để thúc đẩy hoạt động một cách hiệu quả. Để những tiềm năng ấy
được khai thác một cách tốt hơn, chúng ta cần có nhiều hành động tích cực, ví dụ
như:
24



-

-

-



Đề ra những chiến lược và quy hoạch phát triển xanh rõ ràng đối với từng
khu vực, từng tỉnh thành. Ví dụ xây dựng nông thôn mới trên cơ sở quy
hoạch lại cho nông thôn thân thiện với môi trường, cung cấp nước sạch, sử
dụng năng lượng tái tạo trong sinh hoạt.
Quản lý chặt chẽ hoạt động xử lý rác thải và đầu tư vào việc sản xuất điện từ
rác thải. Bài học rút ra từ nhà máy xử lý rác thải ở Lý Sơn, Quảng Ngãi, dù
được đầu tư hàng chục tỷ đồng nhưng chỉ đáp ứng được 1/10 nhu cầu của
người dân.
Quy định khung giá về phí xử lý rác thải sinh hoạt để trở thành một nguồn
thu khác cho các dự án đốt rác phát điện.
Chính sách khuyến khích đầu tư, hỗ trợ các doanh nghiệp trong việc tìm ra
những giải pháp về cải thiện và đổi mới công nghệ, cũng như xây dựng và
tạo lập thị trường dịch vụ năng lượng để thu hút nguồn vốn đầu tư bên ngoài.
Bảo hiểm y tế (BHYT) ở Hàn Quốc: Cơ sở tạo dịch vụ chăm sóc sức khỏe
tiên tiến và đáng tin cậy hàng đầu thế giới

Để người dân được hưởng những dịch vụ y tế tốt nhất việc không thể thiếu là
thực hiện được BHYT toàn dân. Quyền lợi của người tham gia BHYT ở Hàn Quốc
khá toàn diện và được áp dụng như nhau với mọi thành viên, không phụ thuộc vào
mức đóng, bao gồm 02 gói quyền lợi: chi trả bằng hiện vật (chi trả cho chăm sóc

sức khỏe như khám, điều trị, xét nghiệm, thuốc, vật tư y tế, nằm viện…) và chi trả
bằng tiền mặt (chi phí y tế, chế độ giảm tối đa chi phí nộp bảo hiểm…). Tỷ lệ cùng
chi trả của Hàn Quốc không xác định theo đối tượng như ở Việt Nam mà xác định
theo hình thức điều trị, với điều trị nội trú, người tham gia BHYT cùng chi trả 20%
chi phí khám, chữa bệnh; với điều trị ngoại trú, cùng chi trả từ 30 đến 60% chi phí
tùy theo từng cơ sở y tế. Khác với Việt Nam đưa ra giới hạn trần thanh toán, Hàn
Quốc đưa ra giới hạn trần cùng chi trả, những bệnh nhân có chi phí khám, chữa
bệnh một năm lên tới 04 triệu won thì không phải cùng chi trả, điều này đã góp
phần giảm gánh nặng chi phí y tế cho những người mắc bệnh nan y, điều trị chi phí
lớn.
Hệ thống bệnh viện cung cấp dịch vụ đến 70% là y tế tư nhân và chia làm 02
tuyến khám chữa bệnh. Ờ Hàn Quốc có 4 loại cơ sở y tế là: trạm xá (clinic), bệnh
viện (hospital), bệnh viện đa khoa (general hospital), và bệnh viện trường đại học
25


×